Tôi gặp anh Lê Đức Anh lần đầu tiên tại Campuchia năm 1979. Lúc bấy giờ tôi là Phó Thủ tướng được Trung ương cử sang giúp bạn về kinh tế. Anh Lê Đức Anh là Phó tổng Tham mưu trưởng phụ trách Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Nhiệm vụ rất nặng nề, đời sống của Quân tình nguyện cực kỳ gian khổ. Anh Lê Đức Anh đã lăn lộn và chịu đựng ở chiến trường này gần mười năm.
Đến nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, sau khi anh Phạm Hùng mất, tôi thay anh Phạm Hùng làm Thủ tướng Chính phủ. Anh Lê Đức Anh giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng. Từ đây giữa tôi và anh Lê Đức Anh có điều kiện làm việc gần nhau.
Tình hình đất nước lúc đó hết sức khó khăn:
- Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đối với nước ta tuy đã chấm dứt nhưng còn để lại hậu quả nghiêm trọng, tuy toàn Đảng, toàn dân ta đã cố gắng rất cao cùng với sự giúp đỡ của bạn bè các nước và các tổ chức nhân đạo quốc tế,
nhưng việc giải quyết hậu quả chiến tranh vẫn còn hết sức nặng nề, vì ta vốn là nước nghèo, lại bị chiến tranh tàn phá suốt mấy chục năm.
Chiến tranh biên giới Tây Nam tuycũng đã kết thúc, ta đã giúp bạn và cùng bạn làm tan rã đội quân diệt chủng của bọn Pôn Pốt, nhưng nhiệm vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia làm cuộc cách mạng "Hồi sinh đất nước" vẫn còn phải tiếp tục một thời gian nữa.
- Cuộc xung đột vũ trang trên tuyến biên giới Trung-Việt (từ tháng 2-1979), tuy đã có dấu hiệu chững lại nhưng vẫn dai dẳng chưa chấm dứt; tình hình thế giới và trong nước đòi hỏi hai Đảng, hai Nhà nước phải nỗ lực để tiến tối chấm dứt xung đột và lập lại quan hệ hữu nghị bình thường.
- Về nhiệm vụ công tác quốc phòng và quân sự có những việc lớn cần phải giải quyết: hoàn tất việc rút Quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia về nước sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Anh Lê Đức Anh đã trao đổi với tôi kế hoạch điều chỉnh chiến lược bố trí phòng thủ đất nước trong tình hình mới, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của đất nước mà vẫn bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kế hoạch đó đã được Bộ Chính trị thông qua, từ đó thế trận phòng thủ đất nước được bố trí lại chặt chẽ, hiệu quả hơn. Thế trận "chiến tranh nhân dân" và sức mạnh của "nền quốc phòng toàn dân" được phát huy cao độ, nhất là ở các vùng biên giới, hải đảo của Tổ quốc. Ta đã thực hiện xây dựng đường biên giới hòa bình hữu nghị với các nước bạn; lực lượng phòng thủ trên biển, trên đảo xa được tăng cường. Với thế bố trí chiến lược mới, một lực lượng quân đội được đưa trở lại địa bàn Tây Nguyên, kịp thời đẩy lùi mọi hoạt động của lực lượng phản động, tạo môi trường xã hội ổn định cho Tây Nguyên phát triển kinh tế xây dựng quốc phòng - an ninh trong thời kỳ mới. Quân số thường trực giảm nhiều, đỡ được gánh nặng về kinh phí quốc phòng cho đất nước đang trong thời kỳ vừa phải tập trung mọi nguồn lực hàn gắn vết thương chiến tranh; vừa phải đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế theo đường lối đổi mới để sớm thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Mặt khác, tôi và anh Lê Đức Anh đã đề nghị và được Bộ Chính trị đồng ý chủ trương là khó gì thì khó nhưng vẫn phải quan tâm đến trang bị cho quân đội, xây dựng công nghiệp quốc phòng và chăm lo cải thiện đời sống của lực lượng vũ trang.
Nhiều vấn đề quốc phòng có liên quan đến Nhà nước như ngân sách quốc phòng, công nghiệp quốc phòng, v.v. anh Lê Đức Anh thường xuyên trao đổi với tôi trước khi trình Quân ủy Trung ương và báo cáo với Bộ Chính trị, Ban Bí thư để quyết định.
Đến nhiệm kỳ Đại hội Đảng lần thứ VII, tôi được Đại hội bầu làm Tổng Bí thư, anh Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước, anh Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng Chính phủ, anh Nông Đức Mạnh làm Chủ tịch Quốc hội.
Đầu nhiệm kỳ này (1991-1992), đất nước đang đứng trước những khó khăn, thử thách hết sức gay gắt. Tình hình kinh tế-xã hội tiếp tục diễn biến phức tạp. Lạm phát còn ở mức cao. Sản xuất công nghiệp chưa ổn định, hiệu quả thấp; tích luỹ của nền kinh tế còn rất nhỏ bé. Số người không có việc làm nhiều, đời sống bộ đội và nhân dân lao động rất khó khăn, v.v.
Sự tan vỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu làm cho các hiệp định về kinh tế bị mất hiệu lực, gây nhiều khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu của ta.
Cục diện mới ở Campuchia đặt đất nước ta trước những vấn đề phức tạp mới trong quan hệ với Campuchia và trong việc bảo vệ an ninh- quốc phòng.
Chính phủ Mỹ vẫn duy trì chính sách cấm vận, ngăn cản các nước và các tổ chức quốc tế quan hệ kinh tế với Việt Nam. Các thế lực phản động thì đang ra sức chống phá ta...
Trong bối cảnh đầy thử thách của nhiệm kỳ Đại hội này, việc giữ vững ổn định về chính trị và bảo đảm cho nền kinh tế không bị xáo trộn lớn có ý nghĩa rất quan trọng. .
Để góp phần ổn định và phát triển kinh tế, vai trò Chủ tịch nước của anh Lê Đức Anh lúc này rất quan trọng. Anh đã dành nhiều thời gian để cùng Trung ương Đảng, Quốc hội xây dựng hệ thống luật pháp, bổ sung sửa đổi Hiến pháp cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới của cách mạng, của đất nước. Anh đã đi thăm một số nước trên thế giới để tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế cho Việt Nam về chính trị và kinh tế, như: Trung Quốc, Lào, Campuchia, Inđônêxia, Philíppin; các nước châu Âu; châu Phi, Mỹ Latinh, đặc biệt là chuyến thăm Cộng hoà Pháp và dự Lễ kỷ niệm 50 năm Chiến thắng phát xít và sang Mỹ dự Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Liên hợp quốc.
Ngoài việc chăm lo củng cố hệ thống chính trị, xây dựng chương trình pháp luật, anh cũng chăm lo xây dựng quốc phòng, tăng cường quan hệ đối ngoại.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ - ba chúng tôi về quan điểm, đường lối đốỉ nội, đốỉ ngoại trên các lĩnh vực nói chung đều nhất trí với nhau, có việc gì chưa thật thống nhất thì đưa ra tập thể Bộ Chính trị bàn để đi đến thống nhất. Anh Lê Đức Anh vốn là cán bộ chỉ huy quân đội, đã trải qua thực tế chiến đấu gian khổ của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược và mười năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp nước bạn ở Campuchia nên ở anh quan điểm giai cấp rất vững vàng và rõ ràng. Anh nắm chắc tình hình trong, ngoài nước và tình hình quân đội liên giải quyết chắc chắn. Sinh hoạt và lối sống thì giản dị, mẫu mực. Tôi cho rằng anh Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta.
Đỗ Mười
Nguyên Tổng Bí thư BCH trung ương Đảng.
Tên khai sinh của ông là Lê Văn Giác. Năm đầu tiên đi học, thấy ông thấp bé phải ngồi ở phía sau, thầy giáo nói với ba má ông: "Tên em là Giác, vần G thì phải ngồi ở phía sau. Muốn được ngồi lên phía trước để nhìn bảng rõ hơn, phải đổi tên sang vần A". Ba má ông liền nhất trí với thầy, và ông mang tên Lê Đức Anh từ đó.
Quê ông là tỉnh Thừa Thiên - Huế. Quê gốc ở làng Truồi tức Bàn Môn, huyện Phú Lộc, nhưng vì theo sự sắp xếp của gia đình nội tộc, cha ruột của ông - cụ Lê Đức Túy sang làm con nuôi bà cô ruột. Bà cô từ Phú Lộc sang lấy chồng bên làng Trường Hà, Phú Vang, chồng bà họ Lý, là thầy dạy chữ Nho và làm thuốc Đông y nổi tiếng cả vùng vừa giỏi vừa đức độ; nhưng hai người không có con, nên đón người cháu sang làm con nuôi. Ông bà quý như con đẻ, dạy cho học chữ Nho và học làm thầy thuốc, rồi cưới cho một người con gái làng Truồi thật dễ
thương. Các anh chị em ông lần lượt sinh ra và lớn lên ở đây (chín anh chị em ruột, chưa kể bốn người bị chết yểu từ nhỏ vì đau ốm và dịch đậu mùa). Bởi vậy nói rằng quê ông ỏ Phú Lộc hay Phú Vang đều đúng. Ông Lê Đức Anh đều coi cả hai nơi là quê gốc của mình.
Trường Hà là một làng quê nghèo, nằm sát bên phá Tam Giang. Ruộng canh tác rất ít lại toàn là cát pha sét nên rất khó cấy trồng. Người dân nơi đây đời này qua đời khác cứ phải thường xuyên lội xuống phá Tam Giang mò vớt cây rong mang lên phủ trên luống cát đặng giữ lấy một chút độ ẩm cho cây sống nổi dưới cái nắng gay gắt như thiêu suốt cả ngày; rồi phải độn thêm phân chuồng vào luống cát thì khoai mới có củ. Bên luống khoai có trồng thêm bầu, bí và ớt. Ruộng để cấy lúa càng ít, chỉ những nhà giàu thì mới có, mà năng suất cũng rất thấp. Bởi yậy người dân quê ông quanh năm ăn khoai, sắn với bí bầu. Thóc gạo ít lắm, bữa ăn một hạt cơm cõng vài lát khoai sắn. Vùng Thừa Thiên - Huế từ lâu có câu ca:
"Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon"
Ông bảo "Câu này có lẽ bắt nguồn từ Phú Vang quê tôi". Ruộng nương đã ít lại khó làm, nên người dân Trường Hà quanh năm đi làm thuê, lao động cực nhọc từ lúc gà gáy sáng đến nhọ mặt người mà tiền công chỉ được một hào mỗi ngày; vậy mà thuế
thân mỗi suất đinh là một đồng mỗi năm. Ai không có tiền nộp thì bị bắt ra đình làng. Họ lấy cây đóng hẹp dưới nền đất kẹp hai chân và trói người vô đó. Người nhà phải mang khoai sắn ra nuôi, rồi chạy cầm cố ruộng nương, vườn tược để lấy tiền đóng sưu nộp thuế. Thừa cơ địa chủ xùy tiền, xùy thóc ra cho vay nặng lãi. Nhà thiếu sưu thuế phải đến vay, nhà có người đau ốm phải đến vay để thuốc thang chữa chạy. Vay đến hạn không trả nổi thì nó xiết ruộng đất, nhà cửa. Cảnh bần hàn, cảnh bắt người, trói người, cảnh xiết nợ cứ diễn đi diễn lại trong làng quê nghèo mà tuổi thơ ông đã phải chứng kiến suốt năm này qua năm khác. Người dân đã nghèo đói lại hay đau ốm, mà đau ốm thì không có thuốc. Những trận dịch đậu mùa, rồi dịch thổ tả, đường ruột... như những cơn bão đen gió độc đã quét đi hàng loạt mạng sống của người dân. Chỉ một trận dịch đậu mùa khi ông khoảng 5, 6 tuổi đã cưốp đi sinh mạng của ba người anh, chị ruột của ông; ông là người bị nặng nhất nhưng lại được "Trời cứu". Nhưng khi qua khỏi tử thần thì bên mắt trái ông bị mờ thành vảy cá, đậu mùa để lại những nốt rỗ trên gương mặt, còn đôi chân thì yếu đến nỗi người cha phải chôn bốn cái cột trong nhà và buộc hai sào tre để ông bám vào tập đi từng bước một. Và kể từ đó cho đến tận hôm nay, bên chân trái của ông bị yếu hẳn đi, những ngày trở trời nó lại tê nhức. Một bên mắt bị mờ, một bên chân bị yếu, vậy mà ông đã đi suốt ba cuộc chiến tranh, từ ngày đầu tiên đến ngày cuối cùng: Kháng chiến chống thực dân Pháp, ông có mặt từ ngày đầu Nam Bộ nổ súng 23 tháng 9 năm 1945 cho đến ngày tập kết ra Bắc sau Hiệp định Giơ-ne-vơ. Kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông trở về Nam chiến đấu sau khi Trung ương Đảng ra Nghị quyết 15 - quyết định đường lối đấu tranh bằng bạo lực cho cách mạng miền Nam, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 Sài Gòn giải phóng. Và, tiếp theo ngay sau đó là "Chiến tranh biên giới Tây Nam" và nhiệm vụ Quốc tế bên đất bạn Cam-pu-chia từ tháng 4 năm 1977, tổng cộng hơn 10 năm, dài hơn cả cuộc "Kháng chiến trường kỳ" chống Pháp. Trong đội ngũ tướng lĩnh của quân đội ta, ông là người có mặt từ phút đầu đến phút cuối suốt ba cuộc chiến tranh.
Miền quê nghèo đói thì đi liền với thất học và u dốt. Hầu hết người dân quê ông không biết chữ, chỉ một vài người gọi là "có học", nhưng cũng chỉ được một nhúm chữ Hán, lúc đó vẫn quen gọi là "chữ Nho" và đôi ba phép tính cộng trừ nhân chia. Cha ông vừa làm ruộng vừa có thêm nghề thầy thuốc, cuộc sống tuy đỡ cực hơn, nhưng phần lớn là chữa bệnh làm phúc, nhà lại đông con nên cũng chẳng dư dật gì. Ba má thấy ông "sáng dạ" nên cho đi học từ nhỏ. Giai đoạn "vỡ lòng" học một thầy ở làng rồi học trường tiểu học trên thành Huế. Hàng ngày chân trần cuốc bộ, mỗi lần phải qua trảng cát nóng bỏng như rang, đám trò nhỏ phải lượm những cái bẹ
nang cây tre rồi lấy dây chuối cột dưới bàn chân để trượt qua trảng cát. Ông bảo hồi đó thành Huế sạch sẽ và thoáng mát lắm. Các quan Tây thì đi lại bằng xe ô tô "đít vịt" sang trọng. Còn "quan ta" và công chức cao cấp, kể cả việc đưa đón con đi học thì đi bằng xe tay. Hình ảnh ông quan hoặc vợ con dận gót giày xuống sàn xe giục "nhanh lên", còn người kéo xe thì chạy gằn, mồ hôi đầm đìa đã hằn sâu vào trí nhớ tuổi thơ của ông, đến nỗi hễ có ai nhắc tối "Huế ngày xưa" là cảnh kéo xe tay lại hiện về.
Khoảng 11 tuổi, ba má gửi ông ra thành Vinh tỉnh Nghệ An để chị gái và anh rể nuôi ăn học, vì anh rể dạy học ở trường thành Vinh. Người xứ Nghệ cũng nghèo, đến bữa cũng khoai, sắn ăn với canh chua và món "nhút" cổ truyền, tức là dưa muối bằng xơ mít với dọc mùng, khi ăn chấm với muối vừng. Được vài năm ông lại trở về quê vì không muốn thêm gánh nặng cho chị gái và anh rể vốn chỉ là một thầy giáo nghèo.
Trở về quê, nghiễm nhiên ông đứng nhất nhì về đọc thông viết thạo trong đám choai choai cùng trang lứa. Cha ông, dân làng thường gọi là "Thầy khóa Tuý", tính tình cởi mở hiền hoà, bà con chòm xóm thường đến nhà trò chuyện ở các buổi tốỉ bên ấm nước chè xanh và điếu thuốc rê. Người dân quê nghèo lại bị o ép nên cùng với chuyện mùa màng, chuyện làng, họ thích nói nhiều đến "chuyện nước". Trong đám người lui tới có hai ông cậu ruột là Lê Bá Giản và Lê Bá Dị. Ông Lê Bá Dị thì hay ca ngợi một người có tên là Nguyễn Ái Quốc. Ông bảo Nguyễn Ái Quốc sẽ cứu được nước ta. Và ông đã tranh thủ cái "Câu lạc bộ tự phát" này để tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho những người dân quê. Các ông bà rất thích nghe ông Dị nói chuyện, và cũng thích nghe "cậu Đức Anh" đọc báo chí, đọc truyện về Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Ngô Quyền rồi Tam quốc diễn nghĩa, Đông Chu liệt quốc, v.v... Đến 1935 thì ông Dị đưa các tài liệu nói về Nga Xô, về công nông và cách mạng vô sản để "cậu Anh" đọc cho mọi người nghe.
Năm 1936, ông được giác ngộ, năm 1937 chính thức tham gia hoạt động cách mạng. Đến dịp kỷ niệm Quốc tế Lao động 1 tháng 5 năm 1938 thì hai người bạn cùng làng của ông là anh Viết (tức Hoàng Viễn) và anh Hồ Nguyên chính thức giới thiệu ông vào Đảng. Anh Viết chính là người thiếu niên ngày 1 tháng 5 năm 1930 đã trèo lên ngọn cây dương liễu giữa chợ Trường Hà treo lá cò đỏ
búa liềm theo sự chỉ đạo của ông Đỗ Tram. Còn anh Hồ Nguyên vừa là bạn vừa là anh rể của ông, nhà anh là láng giềng thân thiện với ông Đỗ Tram. Hai anh Viễn và Nguyên hơn ông ba tuổi, đã vào Đảng trước ông, là người dìu dắt và giới thiệu ông vào Đảng (thực chất lúc đó chưa dùng từ "giới thiệu" mà thường nói là "rủ"- rủ ông vào Đảng). Còn người chuẩn y kết nạp ông là ông Đỗ Tram, lãnh đạo Huyện ủy và ông Lê Bá Dị là Tỉnh ủy viên. Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga năm đó ông được trở thành đảng viên chính thức (hồi đó cứ lấy ngày 7 tháng 10 dương lịch, sau 1954 miền Bắc giải phóng, thì mới biết "Cách mạng tháng Mười" là ngày 7 tháng 11).
Phải nhận rõ bối cảnh xã hội những năm 30, 40, khi mà người vào Đảng Cộng sản tức là tự nguyện đón nhận sự bắt bớ, tra tấn, tù đày, đón nhận cái chết bất cứ lúc nào, thì mới hiểu lúc đó người cán bộ đảng viên muốn giác ngộ quần chúng để phát triển lực lượng cách mạng thì phải chọn những nơi tin cậy, mà nơi tin cậy đầu tiên là những người thân trong gia đình. Bởi vậy ông Dị và ông Đỗ Tram nhằm vào ba anh: Hoàng Viễn, Hồ Nguyên và Lê Đức Anh là điều dễ hiểu. Còn ba đảng viên trẻ cùng làng này thì quý nhau đến mức có củ khoai nướng cũng bẻ làm ba.
Năm 1939, ở bên Pháp có biến động chính trị, phái hữu lên nắm quyền, bộ máy cai trị của Pháp ở Đông Dương lập tức đàn áp phong trào cách mạng. Một cuộc khủng bố, bắt bớ đã diễn ra quyết liệt. Tổ chức Đảng chủ trương rút vào bí mật và chỉ thị cho các cán bộ đảng viên tạm lánh đi để bảo toàn lực lượng. Trong nhóm đảng viên trẻ ba người làng Trường Hà thì hai người là Hồ Nguyên và Hoàng Viễn đã bị chúng bắt. Ông Anh lánh vào nhà chị gái và anh rể làm ở ga xe lửa Đà Nẵng. Thấy đây cũng không an toàn, chị Búp đã sắm cho ông một chiếc ô
đen và bộ quần áo dài đen giống như một "tu sĩ trường dòng" để ông lên tàu hoả vào tận xứ cao nguyên Đà Lạt.
Tháng đầu tiên ông tá túc ở nhà chị gái đầu, tên Lê Thị Chí. Thấy anh rể là Trần Mạnh Kiệp chỉ làm chân loong toong chạy giấy với mức lương bèo bọt 25 đồng một tháng, nên ông quyết định xin đi làm lao công (hồi đó chủ Tây gọi là cu ly) tại khu nhà nghỉ mát của sở Nam Kỳ. Chị Chí và anh Kiệp sau này là cơ sở của ta, trong kháng chiến, anh Kiệp là liệt sĩ.
Công việc hàng ngày của nhóm cu ly là quét dọn trong nhà, ngoài sân và quét lá thông ở cả một vùng đồi xung quanh khu biệt thự. Quét cật lực đến vã mồ hôi và mỏi nhừ đôi tay mà họ chỉ trả lương 15 đồng một tháng, chi ăn đã hết 12 đồng. Làm được hai tháng, ông thấy mình phải cố gắng học lấy một nghề, có nghề vững mới kiếm được tiền đủ sống và tiếp tục hoạt động cách mạng. Quan sát xung quanh, ông thấy gần đó có hai vợ chồng thằng Tây tên là Bê-gảng, là lính đã mãn nhiệm, làm quản gia mấy cái biệt thự, vẫn làm thêm thức ăn nguội (pa tê, xúc xích, dăm bông) vừa để dùng, vừa để bán cho những thằng Tây khác ở xung quanh, còn cô vợ thì kiêm luôn kế toán đánh máy chữ, ông xin vào làm ngoài giờ, đứng xay thịt cho nó. Rồi ông đi thuê một cái máy chữ về tập đánh. Thấy ông chịu khó, nó đồng ý trả thêm cho ba đồng một tháng, về sau nó hướng dẫn cho ông làm pa tê, xúc xích, dăm bông. Thấy đồ ăn nguội ông làm ra rất ngon, một vị chủ Tây khác đã đến thuê ông xuống đồn điền của nó làm đồ ăn nguội. Do đó, đầu năm 1942 ông rời Đà Lạt xuống đồn điền cao su Lộc Ninh.
Tại đồn điền cao su Lộc Ninh, sống ở đây một thời gian rồi ông mới biết họ gọi nơi đây là "Công ty trồng cao su vùng nhiệt đới Lộc Ninh "(Usine centrale de plantioti de LocNinh) do mấy thằng chủ Tây hùn vốn đầu tư làm đồn điền. Thằng chủ Tây đích thực của Sở cao su này khi thì ở thành phố Sài Gòn, khi thì về sống ở thủ đô Paris, mọi việc điều hành của đồn điền nó giao cho Giám đốc điều hành đồn điền tên là Đờ La-lan, phó là Man-đông. Man-đông là người Do Thái tuy làm cho chủ Pháp nhưng trong bụng rất ghét bọn Pháp. Như vậy cả hai thằng Đờ La-lan và Man-đông cũng đều là những thằng làm thuê. Man-đông thoả thuận trả lương tháng cho ông 30 đồng. Thấy pa tê, xúc xích ông làm ra ăn ngon nên nó yêu cầu ông làm thêm giờ và cho thêm người giúp việc để nó bán cho các đồn điền kế cận và mang về Sài Gòn làm quà. Ông đồng ý, nó trả thêm cho ông mỗi tháng 15 đồng. Như vậy mỗi tháng ông có thu nhập đều đặn 45 đồng. Có tiền dư dật, công việc lại không bị quản thúc như phu cạo mủ nên ông bắt đầu hoạt động cách mạng, tiến hành giác ngộ, vận động và xây dựng phong trào của phu cao su; cũng bắt đầu nghĩ đến việc tìm và bắt liên lạc với tổ chức. Trong hàng trăm phu cao su Lộc Ninh mà ông trực tiếp giác ngộ, ông tuyển chọn và kết nạp được bốn người: Ông Ba Đèn (thợ phụ trách nhà đèn của sở cao su), đồng chí Cứng (làm phu lái xe), anh Lộc (bưu điện) và anh Hai Lực (thợ nguội) hình thành chi bộ cộng sản đầu tiên tại vùng đồn điền cao su rộng lớn. Dưới sự dẫn dắt của ông, những đảng viên đầu tiên này đã đằm mình vào phong trào công nhân, hoạt động rất hiệu quả.
Những năm trước Cách mạng tháng Tám, nạn đói ở Bắc Bộ đã làm chết hàng triệu người. Hàng triệu người phải di cư vào phía Nam để kiếm sống. Bởi vậy, vô hình trung, từ chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và phát xít Nhật, những người nông dân bị bần cùng hoá đã trở thành những lao công bán sức lao động một cách rẻ mạt và cơ cực, trở thành những người vô sản. Phần lớn dân cao su ở Lộc Ninh là người từ các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Hà Đông, Thái Bình... vô đây. Mỗi đồn điền cao su là một công ty lớn với nhiều lô cao su, có đường ngang lối dọc, có trạm biến thế điện mà hồi đó quen gọi là "nhà máy đèn", có xưởng sửa chữa, có trại chăn nuôi heo, bò với hàng trăm con...
Phu cao su thường ký hợp đồng làm thuê mười năm một. Vì có ký hợp đồng lao động làm thuê nên gọi là "phu" hay gọi là "công ta" đều đúng. Nó tổ chức ra thành từng đội, mỗi đội từ 15 đến 20 người phu, và chọn ra một anh phu làm "đội trưởng". Lúc đó bọn Tây nó gọi là Ca-pô-ral, tức là "cặp rằng", thực chất là anh đội trưởng. Hàng tháng thằng Tây chuyển lương của họ đưa về cho vợ con lĩnh, còn tại đồn điền thì đội trưởng sống bằng phụ cấp. Từ 5 đến 7 đội thì tổ chức thành một "làng"; người phụ trách làng này thì gọi là "thầy xu". Cặp rằng và thầy xu cũng là người làm thuê, lương thấp hơn lương công chức. Ở các đồn điền miền Đông Nam Bộ, thầy xu thường do dân Nam Bộ làm. Phía trên trực tiếp của thầy xu là chánh, phó giám đốc điều hành mà những người phu quen gọi là "cai".
Người phu cao su phải thức dậy từ trước lúc trời sáng ra lô làm cho đến lúc nhọ mặt người. Có thể nói đây là thứ lao động kiệt xác. Chủ Tây đi kiểm tra, thấy người lơ là nó đánh liền, nên cứ phải cặm cụi làm. Lao động cực nhọc nhưng thường phải ăn bằng thứ gạo đã để lâu, thịt cũng có nhưng rất ít, chủ yếu là đậu phụ và cá biển khô đã mục. Ai đau ốm nó kiểm tra rất kỹ, ốm thật thì nó chữa, vì không chữa thì mất lao động. Nhưng ốm giả vờ thì nó đánh. Nó cho xây nhà thờ Cơ Đốc giáo và khuyến khích phu cao su đi lễ nhà thờ và cho đánh bạc. Người phu cao su lao động cực nhọc nhưng giờ nghỉ, ngày nghỉ chỉ có hai thứ giải khuây là ai không thích đi nhà thờ thì chỉ còn biết đánh bạc. Rồi dẫn đến đánh chửi, ẩu đả nhau vì bài bạc. Đồn điền thì rộng lớn, người cai quản của nó không nhiều nhưng nó cai quản rất chặt. Người được làm trong nhà xưởng thì khá hơn, ngày làm 8 giờ, còn số đông phu cao su thì rất khổ. Người dân Bắc Kỳ dạt vào đây để tránh nạn đói, nhưng dọc đường đi nhiều người đã gục vì chết đói. Vào đây người phu cao su còn bị những tên cai, những thằng chủ đánh chết. Tuy nhiên nó không muốn cho họ chết để còn bóc lột sức lao động của họ. Nhưng nếu bỏ trốn, nó bắt được nó sẽ đánh cho chết. Những hình ảnh này đã ghi ấn tượng khá sâu trong ông suốt từ hồi trẻ đến bây giờ.
Bình quân ở sở cao su Lộc Ninh, mỗi người phu cao su mỗi ngày được hưởng 800 gam gạo, thịt 100 gam, nếu là cá tươi thay thịt thì được 200 gam, nếu cá khô là 100 gam, ngoài ra còn có rau, đậu. Nói chung nó cố cho người lao động có đủ ca lo, đủ sức để làm lao động cho nó. Nằm ngủ thì cũng có màn để chống muỗi. Cái mà họ thiếu thốn nhất là tinh thần. Ngày này qua tháng khác, lúc nào cũng làm việc quần quật, suốt tháng quanh năm dầu dãi và cắm mặt với những lô cao su, không hề quan hệ tiếp xúc với xã hội bên ngoài, không báo chí, sách vở, thể thao và nghe nhạc cũng không nốt. Ngoài giờ làm ra chỉ có đánh bạc là thứ giải trí duy nhất. Mà đã ngồi vào đánh bạc thì trăm người như cả trăm, lập tức nhiễm ngay cái máu ăn thua cờ bạc. Người thua thì muốn đánh nữa để gỡ lại, người được càng muôn đánh nữa để được nhiều hơn. Thế là cứ đánh từ chiều muộn cho tới khuya. Khi ngủ thì nằm vật ra, chẳng thèm cả mắc màn, cứ kệ cho muỗi đốt. Thiếu ngủ người lúc nào cũng xanh xao mệt mỏi, sức yếu đi liền với chứng chây lười, làm việc uể oải, cạo mủ làm hỏng cây của họ. Thằng quản lý đồn điền đi kiểm tra thấy thì mắng chửi và cúp lương, thậm chí quyết định thay luôn thầy xu. Bị mắng chửi, thầy xu quay xuống quát nạt và phạt phu dưới quyền. Bởi vậy thường xuyên đẻ ra mâu thuẫn giữa công nhân và đội trưỏng. Có người bị mắng chửi thậm tệ quá đã đánh lại, thậm chí có khi đánh chết đội trưởng. Còn chuyện đánh nhau què chân, đổ máu, thương tích là chuyện bình thường, chuyện diễn ra như cơm bữa trong không khí tù túng, cơ cực và tăm tối của phu đồn điền.
Ông Lê Đức Anh có điều kiện đi lại, tìm hiểu tình hình và biết rõ thực trạng cuộc sống của những con người trong từng lô cao su. Ông lựa lời bàn với họ làm sao giúp nhau để bảo đảm cho đời sống của người phu cao su không tàn tạ như vậy. Ông cũng gặp và chuyện trò với những ngưòi Việt gọi là "thầy xu". Những người này lương tháng của họ thường là 40 đồng. Họ có vợ, có con. Ông bảo họ phải làm sao để chủ Tây nó không chửi mắng, không khinh người Việt mình quá thể. Họ nói, chừ không biết làm thế nào. Số phu này họ không lười, còn thằng Tây nó chửi mình thì cũng thấy nhục lắm, nhưng không biết phải làm sao đây. Ông nhủ họ - Nó quy định cho các anh mỗi người phụ trách mấy chục, mấy trăm mét vuông và bao nhiêu cây cao su. Tới kỳ cạo mủ, bón phân, làm cỏ... anh cứ phân ra cho từng tốp mười người một, rồi trong từng tốp lại phân ra cho từng người, cứ khoán cho họ làm, làm xong thì nghỉ. Anh thầy xu nói "được". Đầu tiên làm thử ở một làng, sau đó phổ biến ra các nơi. Kết quả, trước kia thường làm không dưới 12 giờ một ngày, sau một tháng rút xuống còn 10 giờ, rồi rút xuống 9 giờ lại đúng quy trình kỹ thuật. Phu phấn khởi lắm. Ngày nào thằng Tây cũng ngồi ô tô đi kiểm tra cả mười làng. Tới làng này nó khen thằng thầy xu này tốt. Cứ thế loang một, hai rồi cả mười làng. Lao động có hiệu quả, chủ Tây không chê, không chửi mắng nữa mà phu chỉ làm 10 rồi 9 tiếng một ngày. Ông lại bảo với các thầy xu làm sao những thứ nó cấp cho công nhân đưa xuống đủ cho họ để họ có đủ sức làm việc. Thịt cá đưa nhanh cho nó tươi ngon. Trước hết người Việt ta làm và đối xử với nhau cho tốt và cũng đỡ dần chuyện cãi lộn. Dứt khoát vận động phu nằm ngủ mắc màn để chống muỗi đốt, ngừa ngã nước (sốt rét), biết rằng việc này làm rất khó và vận động rất lâu mới được. Rồi nói với họ hạn chế dần, đi đến thôi chuyện đánh bạc, chỉ cho đánh vui ngày chủ nhật thôi. Nhà cửa giữ cho nó sạch sẽ để Tây nó không khinh mình. Bằng cách đó, ông đã nối được quan hệ giữa anh thầy xu vối anh cai đội trưởng. Từ đó trong những người lao động Việt đã có lòng tự tôn.
Nhớ về thời đó, ông Lê Đức Anh nói: "Thực chất định mức lương thực, thực phẩm như vậy thì người công nhân cao su cũng đủ sống, mà họ chỉ khổ ở chỗ khi con người không có tổ chức, không người lãnh đạo thì nhanh chóng tha hoá; đã tha hoá thì lao động chây lười, mà chây lười thì bị nó trừng trị. Bởi vậy cứ đổ tại thằng cai, thằng chủ nô tha hoá công nhân thì chưa đúng. Mà từ lối sống vô tổ chức nên họ tự tha hoá mình. Nói đúng ra mức khoán của nó không phải là nặng, nếu ta làm, thật tích cực, hợp lý hoá động tác thao tác thì chỉ 5 hoặc 6 tiếng đồng hồ là xong mức khoán cho một ngày lao động. Nó bóc lột công nhân là bóc lột ở cái khác chứ không phải nó chỉ bóc sức anh cho kiệt quệ, nó phải cho mình đủ sống thì tư bản nó mới tồn tại, mình sống để nó tiếp tục bóc lột giá trị thặng dư. Chế độ ưu việt của ta thì dùng giá trị đó để tái sản xuất, còn với thằng tư bản thì nó tước đoạt và nó bỏ túi. Chỉ đến lãnh tụ thiên tài Các Mác mới khám phá ra điều này. Thằng chủ tư bản nó làm, cho người công nhân chỉ đủ sống để tiếp tục bán sức lao động, tức là luôn ở vị trí người làm thuê và luôn an bài với thân phận làm thuê của mình. Bởi vậy chúng tôi làm công tác vận động quần chúng lúc đó không phải là đưa họ lên làm chủ, mà cả tôi, cả họ vẫn ở vị trí người làm thuê nhưng là người làm thuê có ý thức và được tổ chức lại để không tự tha hoá. Mà tổ chức lại thì phải có cả các thầy xu. Rồi lập thành thói quen đi ngủ phải mắc màn, thức chơi đến 9, 10 giờ tối thôi, nhất định phải đi ngủ để có sức khoẻ. Làm như vậy thằng chủ tuy nó không khuyến khích nhưng nó thấy cũng có lợi cho nó nên nó cũng lờ đi...".
Hồi đó rau tươi hiếm, trong bữa ăn của phu cao su chỉ có bầu bí. Ông thấy xung quanh chỗ ở của những người phu có nhiều đất, ông bảo họ trồng rau muống cạn, nơi ao chuôm có nước thì trồng rau muống nước. Có rau muống luộc chấm tương bữa ăn ngon miệng hơn hẳn, họ phấn khỏi lắm. Ăn không hết họ cắt bán cho sở. Các lô khác họ thấy hay thì bắt chước làm theo. Sự căng thẳng giữa công nhân và thầy xu, giữa thầy xu và cai đội không còn nữa. Thằng Tây đi kiểm tra thấy nó khen ngay. Ông bảo mỗi lô chọn lấy một người phu có uy tín lo việc ăn uống và nhận lương cho anh em.
Đọc báo chí thấy bên "chính quốc" có tổ chức nghiệp đoàn, ông bèn xin chủ Tây cho phu cao su tổ chức nghiệp đoàn, thằng chủ Tây buộc phải đồng ý. Thế là, dưới con mắt của chủ Tây thì "Nghiệp đoàn phu cao su" chỉ là tổ chức nghề nghiệp ái hữu, chẳng có hại gì, nhưng bên trong thực chất là tổ chức của phong trào công nhân do những người đảng viên cộng sản lãnh đạo. Khi phong trào phát triển nhanh và vững ở đồn điền Lộc Ninh, ông cùng chi bộ cộng sản đưa phong trào phát triển rộng ra các đồn điền lân cận: Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch... Đến khi ông tìm về Sài Gòn để bắt liên lạc với tổ chức của Đảng thì ở đồn điền cao su nơi ông hoạt động đã có một phong trào công nhân đang phát triển và những "Nghiệp đoàn phu cao su". Khi các đảng viên cộng sản: Nguyễn Văn Trấn, Văn Công Khai, Nguyễn Văn Trung, Lê Đức Anh... gặp được nhau (tại nhà in Phú Hữu đường Galêri Sài Gòn) thì tất cả đều vui mừng vì phong trào vận động cách mạng của những người cộng sản không những không bị dập tắt vì cuộc khủng bố tàn bạo sau khởi nghĩa Nam Kỳ vừa qua, mà nó còn tồn tại và đang có triển vọng khả quan.
Sang năm 1943, ba đảng viên cộng sản hoạt động ở địa bàn Thủ Dầu Một đã tổ chức cuộc họp đầu tiên ở nhà ông Sáu Trạng thị trấn Bến Cát. Họ bàn bạc và phân công: Văn Công Khai vẫn trong vỏ bọc "thợ cắt tóc dạo" đi về trên tuyến đường bộ Sài Gòn - Thủ Dầu Một - Dầu Tiếng. Nguyễn Văn Trung hoạt động trên tuyến đường sắt Sài Gòn - Chơn Thành - Lộc Ninh. Lê Đức Anh tiếp tục nhân rộng phong trào công nhân ở vùng đồn điền cao su để sẵn sàng chờ đón thời cơ của cách mạng.
Đêm mùng 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, giành quyền cai trị Đông Dương; ở các đồn điền cao su, bọn chủ Tây thì bị bắt giam, bọn Nhật chỉ dùng lại đôi người Pháp có kỹ thuật để cai quản đồn điền, chính sự quản lý lỏng lẻo là thời cơ xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng. Cùng với các hội Cứu quốc người Kinh, Lê Đức Anh tổ chức "Hội người Việt Nam mới" đồng thời là đội bán vũ trang ở hai quận Hớn Quản và Bù Đốp, trong đó có hơn 40 người dân tộc Stiêng để chuẩn bị khởi nghĩa.
Thực tế ở tỉnh Thủ Dầu Một và khá nhiều tỉnh khác trong Nam Bộ không nhận được văn bản chính thức chỉ thị của Trung ương "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", mà họ chỉ được nghe qua truyền miệng. Đến khi đồng chí Văn Công Khai ra họp ở Nha Trang trở vào, khoảng một tuần sau ngày Nhật đảo chính, đã triệu tập cuộc họp Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh ở nhà ông Sáu Trạng, có phái viên của Xứ ủy là đồng chí Bảy Trấn xuống dự và chỉ đạo việc tổ chức khởi nghĩa. Ba đồng chí: Bảy Trấn, Năm Khương và Nguyễn Hữu Đang là những cán bộ Đảng trốn thoát được lên đồn điền cao su sau khi cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại. Cả ba anh đã cùng với Tỉnh ủy Thủ Dầu Một lãnh đạo giành chính quyền.
Ngay sau thời điểm phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một triệu tập cuộc họp ở xã Phú Cường, quận Châu Thành có đại diện Xứ ủy Nam Kỳ là đồng chí Tư Chùa để bàn chủ trương lãnh đạo Đảng bộ và quần chúng nhân dân tỉnh Thủ Dầu Một đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền; phân công ông Nguyễn Văn Tiết làm Bí thư, Văn Công Khai làm Phó bí thư và làm Chủ tịch ủy ban Khởi nghĩa, đồng chí Lê Đức Anh là ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách tổ chức và quân sự.
Ngày 23 tháng 8 năm 1945, được Tỉnh ủy và ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Thủ Dầu Một phân công, ông Lê Đức Anh đã lãnh đạo công nhân cao su và đồng bào dân tộc ở Hớn Quản và Bù Đốp khỏi nghĩa thành công; sau đó kéo quân về hợp điểm giành chính quyền ở tỉnh lị đêm 24 rạng 25 tháng 8 năm 1945.
Quận Hớn Quản mà ông được giao phụ trách là một vùng rộng lớn, cả vùng Lộc Ninh và Quản Lợi đều nằm trong quận Hớn Quản. Giành chính quyền xong, ông đề xuất bác sĩ Hồ Văn Huê làm Chủ tịch Công ty Cao su Quản Lợi đồng thời làm Chủ tịch Ủy ban Hớn Quản. Mặc đù trước sự đề xuất của ông khiến một số người băn khoăn nhưng sự thật đã chứng minh là ông đúng, vì về sau bác sĩ Hồ Văn Huê làm rất tốt, tham gia kháng chiến chống Pháp rất tích cực, gương mẫu, trở thành đảng viên cộng sản, sau này ông hy sinh anh dũng, hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh có một đường phố mang tên Hồ Văn Huê. Đội võ trang của quận Hớn Quản do Lê Đức Anh thành lập và chỉ huy tuy gọi là trung đội nhưng quân số lên đến hơn một trăm người, trong đó có hơn 40 anh em là người dân tộc Stiêng với cung nỏ khoác vai, bao tên tẩm độc đeo ngang hông nên nhân dân trong vùng quen gọi là "Đội quân áo nâu". Trong dịp Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 năm 1945, các địa phương đều tổ chức ra đội võ trang của mình. Ở miền Đông Nam Bộ thì "Đội quân áo nâu" của ông là đơn vị mạnh, quy củ và nhiều súng đạn nhất. Ông kể: "Hồi đó súng đạn của chúng tôi có từ ba nguồn. Một số thu được của lính Ba-ti-giăng, một số lấy trong kho của Nhật, Pháp ở đồn điền và một nguồn chúng tôi tự mua sắm. Lúc đó Nam Vang với Nam Bộ thông thương, tôi trực tiếp sang tỉnh Ca-ra- chê của Cam-pu-chia để mua súng đạn. Lúc đầu tay tỉnh trưởng cho người chặn đường thu súng. Chúng tôi đấu tranh, bà con Việt kiều thì biếu quà nên tay tỉnh trưởng bảo "Các anh đã bỏ tiền ra mua thì tôi cho mang về". Việt kiều yêu nước ở Cam-pu-chia cũng tự động mua súng gửi về cho chúng tôi làm cách mạng ở nước nhà, số súng tôi sang mua anh em Việt kiều cũng trả tiền, khoảng trên dưới 100 khẩu. Tôi còn nhớ người trực tiếp giúp có tên là Vượng, sau này về nước công tác ở ngành Bưu điện".
Bởi vậy đến 23 tháng 9 năm 1945, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Nam Kỳ lần thứ hai, mọi người càng thấy sự "lo xa" của ông là quý giá biết bao. Ông Nguyễn Văn Thi đã chạy đến nói: "Anh em chỗ tôi hăng hái nhưng không có súng, anh còn cho tôi mượn đỡ ít khẩu"; ông đã xẻ cho ông Thi chục khẩu. Và ngay lúc đó ông lấy hai chiếc xe cam nhông của sở cao su, chọn trong "Đội quân áo nâu" của mình một tiểu đội có súng và chừng ba tiểu đội cung nỏ từ Lộc Ninh-Hớn Quản về tham gia bao vây và đánh quân Pháp gây hấn ở Sài Gòn, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch ủy ban Kháng chiến Trần Văn Giàu.
Ngày đầu Nam Bộ kháng chiến, lực lượng vũ trang ở Nam Bộ khá phức tạp:
Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ cải tổ ba lữ đoàn bảo an binh ở Sài Gòn thành "Đệ nhất sư đoàn", sau đổi là "Cộng hòa vệ binh" nhưng vẫn sử dụng phần lớn các sĩ quan cũ của Pháp, Nhật để chỉ huy nên đã phát sinh ra nhiều điều phiền toái. Ngoài ra, một số đơn vị ngụy quân do Nhật tổ chức từ trước đã tuyển thêm người và tự phong là "Đệ nhị sư đoàn", "Đệ tam sư đoàn", "Đệ tứ sư đoàn", Bốn "sư đoàn" toàn những người ngoài Đảng. Ông Trần Văn Giàu định tập trung lại nhưng không nắm được. Đến khi quân Pháp đánh mạnh, thì những "sư đoàn" này tự tan rã. Một số anh em xuất thân từ công nông, được giác ngộ thì đi theo cách mạng, còn nhiều toán trở thành thổ phỉ, quay lại sách nhiễu, cướp bóc nhân dân, một số chạy về Sài Gòn đầu hàng quân Pháp. Rồi lực lượng vũ trang tự phát của Bình Xuyên. Một số đạo giáo như Cao Đài, Hòa Hảo lại có lực lượng vũ trang riêng nên bọn cầm đầu các tổ chức tôn gỉáo này khống chế được số đông quần chúng theo đạo, nhất là nông dân. Giai cấp địa chủ, tư sản cố thế lực tương đối mạnh, kể cả Đảng Dân chủ, tìm mọi cách tranh quyền lãnh đạo với Đảng Cộng sản, chống lại chương trình Việt Minh.
Thực chất lực lượng vũ trang cách mạng lúc đó ở Sài Gòn chỉ có 300 đội xung phong với 6.000 đoàn viên công đoàn được huấn luyện quân sự, trong đó có khoảng 600 tự vệ tập trung. Còn ở các tỉnh, chính quyền cách mạng lần lượt tổ chức các đơn vị võ trang tập trung với quy mô từ một trung đội tới một đại đội. Đội võ trang của Lê Đức Anh vẫn đứng chân hoạt động ở vùng Bến Cát, Châu Thành thuộc tỉnh Thủ Dầu Một, ngày đêm đánh với quân Pháp, khi tập kích, khi phục kích đánh các-tốp xe nhà binh của chúng từ Sài Gòn đi lên và ngược lại. Khi ông Vũ Đức từ miền Bắc vào lập căn cứ ở vùng cao su Thuận Lợi, mời ông Lê Đức Anh sang đề nghị cho quân ra chặn trước ở cầu Phước Hoà, còn bản doanh của ông Đức thì ở phía sau, chỗ đường 14.
Gần đây, người viết có dịp được gặp ông Nguyễn Văn Hội, nhà ở số 33 Phạm Ngũ Lão, Hà Nội. Ông Hội, ngày đầu Nam Bộ kháng chiến có trong đoàn quân Nam tiến, sau đó ông sung vào đơn vị của ông Lê Đức Anh ở Chiến khu Thuận Lợi. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, ông Nguyễn Văn Hội là Chỉ huy trưởng đoàn tên lửa phòng không mang tên Hạ Long, tức Trung đoàn Tên lửa 238, Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ông Hội đã từng chỉ huy đơn vị kéo tên lửa SAM-2 vào xây dựng trận địa phục kích ở vùng tuyến lửa Vĩnh Linh để thử nghiệm bắn rơi máy bay chiến lược "Pháo đài bay B52" của không quân Mỹ.
Khi kể về Chiến khu Thuận Lợi, ông Hội cho biết: - Hồi đó, Chiến khu Thuận Lợi là do ông Vũ Đức, người của Trung ương phái vào, thiết lập; lúc đó nó chưa phải của Khu 7. Khi ông Vũ Đức yêu cầu, thì ông Lê Đức Anh liền đồng ý đưa quân ra khu vực cầu Phước Hoà để bảo vệ chiến khu. Vì ông Anh cho rằng ông Vũ Đức là người của Trung ương phái vào thì phải bảo vệ. Những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến, tương quan lực lượng giữa ta và địch quá chênh lệch. Binh đoàn Lơ-cơ-léc của bọn Pháp rất mạnh bởi vậy hễ thấy có động tĩnh quân Việt Minh ở đâu là lập tức chúng tổ chức càn quét, truy đuổi, bao vây hòng chộp bắt và tiêu diệt. Nó mạnh như vậy mà đã phải chùn lại khi đụng đầu với đơn vị của ông Lê Đức Anh và tôi tại Chiến khu Thuận Lợi. Đơn vị đã tổ chức trận địa vừa phòng ngự vừa linh hoạt tiến công. Chúng tôi đã quần nhau với chúng suốt một ngày trời, với cách đánh táo bạo và khôn ngoan. Có anh đã leo lên ngọn cây để liệng lựu đạn xuống giữa đội hình quân địch. Đơn vị đã bẻ gẫy, làm thất bại tất cả các đợt tiến công của quân địch. Chúng buộc phải rút lui để củng cố lực lượng, ba ngày sau địch mới tổ chức tiến công tiếp. Ba ngày lúc đó là thời gian quý giá để cho toàn bộ sở chỉ huy của ông Vũ Đức rút về địa bàn miền Tây Nam Bộ an toàn; đơn vị Nam tiến rút ra Tây Nguyên, còn đơn vị của ông Lê Đức Anh về Làng An, dân tại chỗ tiến hành đốt, phá hoại, quyết không để lại một thứ gì cho quân giặc cả. Sau này một vài người không hiểu rõ bối cảnh và tình hình lúc đó nên cứ nói rằng giặc Pháp nó tiến vào đốt phá hết kho tàng của Khu 7 là hoàn toàn sai. Lúc đó làm gì đã có Khu 7 ở đó, mà mãi sau này mới chia Nam Bộ ra làm 3 khu 7, 8 và 9. Hơn nữa lúc đó dân và bộ đội miền Đông Nam Bộ còn đói lắm, cơm không có, ăn toàn khoai mỳ, lấy đâu lương thực chất vào kho; bộ đội đi tới đâu thì dân nuôi tới đó; chỉ cố gắng để có đủ sức mà đánh giặc, mà chống càn...".
Đến cuối năm 1945, Bác Hồ phái ông Nguyễn Bình vào để dần thống nhất các lực lượng vũ trang Nam Bộ lại.
Ngày đầu mới vào, ông Nguyễn Bình lập tổng hành dinh ở Làng An (Biên Hoà), ông nhắn các ông Văn Công Khai, Nguyễn Văn Tiết và Lê Đức Anh cho bộ đội sang bảo vệ tổng hành dinh. Ông Anh rất tin và thấy cần phải bảo vệ người của Hồ Chủ tịch phái vào, liền giao cho Trần Quang San đưa một trung đội có đầy đủ súng đạn sang đứng chân ở Thường Lan, cùng với cánh quân của Huỳnh Văn Nghệ ở phía Biên Hòa để bảo vệ tổng hành dinh. Nhớ lại thời đó, ông Lê Đức Anh kể rằng: "Ông Bình là người hăng hái, dũng cảm, kiên quyết. Công bằng mà nói thì lúc đó cái chất "giang hồ tài tử" và câu nói "Còn Nguyễn Bình thì Nam Bộ còn" của ông lại phù hợp với phong cách của một số người dân Nam Bộ. Giữa đơn vị của tôi với chiến khu của ông Vũ Đức; giữa đơn vị tôi với tổng hành dinh của ông Nguyễn Bình có khá nhiều sự tích, nhiều trận lắm không nhớ hết, nhưng có hai trận thì không thể quên. Trận thứ nhất, đánh chống càn ở gần cầu Phước Hoà. Cuộc chiến đấu ở đây diễn ra suốt từ sớm tới chiều, chúng tôi đã đánh lui nhiều đợt tiến công của địch, buộc chúng phải rút lui, bỏ lại nhiều xác chết. Ba ngày sau chúng mới dám, tiến công trở lại, trong lúc đó quân và dân ta ở cả vùng Thuận Lợi đã thực hiện được chủ trương không để lại cái gì cho giặc Pháp, còn chúng tôi thì có đủ thời gian rút quân về Làng An, theo chỉ đạo của hai anh Nguyễn Văn Tiết và Văn Công Khai để bảo vệ tổng hành dinh. Trận thứ hai, khi binh đoàn Lơ-cơ-léc dùng cả hải-lục-không quân, trên trời thì máy bay, trên bờ thì bộ binh, dưới sông thì tàu chiến, chúng tiến hành bao vây càn quét dọc theo sông Đồng Nai và truy đuổi "Bộ chỉ huy" của ông Bình. Chúng tôi đã đánh quyết liệt một ngày ở Thường Lan để chặn chúng lại cho ông Bình rút. Hôm sau chúng đánh tới Làng An, chúng tôi giao tranh và chặn chúng một ngày nữa tại đây để ông Bình rút đi. Chúng tôi đánh chặn tiếp một ngày nữa để cho công binh xưởng chuyển đi. Khoảng gần mười ngày sau, khi ông Bình chuyển về tới An Phú Xã (thuộc Gia Định), quân địch tới bao vây khóa chặt các hướng. Chiều tối hôm đó, tôi và anh Nguyễn Văn Hội bụng đói, vừa mua được hai bát phở, chưa kịp ăn thì đã nghe tiếng súng nổ gần; chúng tôi chỉ huy quân ra đánh chặn chúng lại ở cầu Ông Cộ sát Phú An Thôn, để ông Bình rút qua xã An Thành, nam Bến Cát, bên kia sông Sài Gòn an toàn... Sau trận này ông Bình thưởng cho đơn vị tôi hai tờ giấy bạc 500 đồng tiền Đông Dương.
Một lần, ông Bình đã cử hai ông Phạm Thiều và Huỳnh Văn Nghệ lên chiếc tàu chiến của Pháp đậu trên sông Đồng Nai để đàm phán. Tôi đã gặp ông và có ý kiến rằng không nên làm như vậy, chỉ có cấp Chính phủ mới đủ tư cách đàm phán với quân Pháp. Mà nước ta hiện nay chỉ có một chính phủ duy nhất là Chính phủ Hồ Chí Minh. Giờ ta tự ý đàm phán, bọn người xấu sẽ lu loa rằng Việt Minh có hai chính phủ. Không được! Có lẽ vì tôi phản ứng khá gay gắt nên ông giận và nảy ra ý định bắt và "trị" tôi. Khi anh Nguyễn Văn Hội hớt hải đến báo cho tôi tin đó, tôi liền mượn chiếc xe có hai bò kéo của một ông già, vượt đoạn đường rừng lên thắng chỗ ông Bình ở Làng An, nói - Có phải anh giận tôi vì tôi gàn anh về chuyện đàm phán với quân Pháp? Ông không nói gì về việc này mà chỉ mời tôi ở lại ăn cơm rồi trở về đơn vị".
Sau ngày Nam Bộ nổ súng kháng Pháp, từ cuối 1945 đến đầu 1947, ở các tỉnh Nam Bộ, tuy nơi trước nơi sau, nhưng lần lượt ra đời các chi đội võ trang mà nòng cốt là các đội võ trang tập trung của chính quyền cách mạng phát triển lên. Toàn Nam Bộ lần lượt có 25 chi đội, trong đó Chi đội 1 của tỉnh Thủ Dầu Một ra đời sớm nhất và cũng là chi đội mạnh nhất vì vừa đông quân, tổ chức quy củ, lại có nhiều súng đạn nhất. Tổ chức chi đội có 4 cấp: Tiểu đội, phân đội, đại đội, chi đội; chi đội tương đương cấp trung đoàn sau này, còn đại đội tương đương cấp tiểu đoàn. Trước khi Chi đội 1 ra đời, đội võ trang do Lê Đức Anh tổ chức đã phát triển tương đương 3 đại đội. Ngày 25-11-1945, Chi đội 1 Vệ quốc đoàn của tỉnh Thủ Dầu Một chính thức thành lập, nòng cốt là 3 đại đội võ trang Hớn Quản của Lê Đức Anh hợp nhất với các lực lượng: Đội tự vệ xung kích do Nguyễn Văn Thi (Năm Thi) chỉ huy, lực lượng thanh niên chiến đấu của bốn xã do Đoàn Hữu Hòa chỉ huy, lực lượng bảo an binh theo cách mạng do Bùi Khánh Ngươn và Nguyễn Sơn Xuyên chỉ huy, lực lượng công chức và cảnh sát cũ yêu nưóc đo Kiều Đắc Thắng và Huỳnh Kim Trương chỉ huy, cùng một số đơn vị võ trang của công nhân và trí thức từ Sài Gòn lên. Ngày đầu thành lập, Huỳnh Kim Trương làm Chi đội trưởng, Nguyễn Khắc Cần làm Chính trị viên, Nguyễn Văn Thi làm Chi đội phó. Chi đội có 3 đại đội, trong đó Đại đội 3 do Nguyễn Văn Ngọ (tức Quỳ) làm Đại đội trưởng, Lê Đức Anh làm Chính trị viên; đơn vị vẫn đảm nhiệm vùng Lộc Ninh - Hớn Quản - Bến Cát. Sau đó, do yêu cầu của Xứ ủy cần tăng cường người cho Đài phát thanh Nam Bộ và xuất phát từ chủ trương của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, ông Lê Đức Anh lên làm Chính trị viên Chi đội 1 thay cho Nguyễn Khắc Cần về làm việc ở Đài phát thanh.
Việc thành lập các chi đội Vệ quốc đoàn đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng trên con đưòng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của các cấp bộ đảng ở Nam Bộ.
Những tháng cuối năm 1945, trong tình thế thù trong, giặc ngoài, vận nước "Ngàn cân treo sợi tóc", Bác Hồ và Trung ương Đảng chủ trương tuyên bố "giải tán Đảng" để rút vào hoạt động bí mật; thì ở Nam Bộ một số nơi hiểu không thấu đáo lại giải tán thật sự luôn, rã luôn. Lúc này vai trò "tập thể lãnh đạo" bị mờ nhạt, chủ yếu phát huy vai trò cá nhân. Giặc khủng bố" ráo riết. Cán bộ đảng viên có người vào tù, có ngưòi bị xử bắn, có người chạy trốn và không ít người nằm im. Trong nội bộ nhiều nơi xuất hiện tâm lý hoài nghi, không tin nhau, thậm chí
muốn phủ định nhau. Còn quần chúng yêu nước thì đòi hỏi tổ chức Đảng phải hoạt động để lãnh đạo cách mạng vượt qua những ngày sóng gió này.
Đến đầu năm 1947, khi đồng chí Lê Duẩn triệu tập Hội nghị Xứ ủy mở rộng, họp 10 ngày tại Đồng Tháp Mười thì sau đó tình hình công tác lãnh đạo của Đảng đối với kháng chiến mới thật sự được ổn định và đi dần vào quỹ đạo. Nhớ lại cuộc họp, ông Trần Bạch Đằng cho biết: "Hội nghị đó, mỗi tỉnh cử một người đi dự. Tôi nhớ rất rõ là khi họp thì tôi, ông Nguyễn Văn Linh và ông Lê Đức Anh ngồi kề nhau như ba ông vua bếp trên một tấm nóp. Tôi đại diện cho "Lãnh đạo phong trào thanh niên", ông Linh đại diện cho Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, còn ông Anh đại diện cho Tỉnh ủy Thủ Dầu Một. Đây là một hội nghị vô cùng quan trọng vì không những nó củng cố, khẳng định lại sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, mà nó còn định hướng cho các tổ chức Đảng các cấp trong toàn bộ Xứ ủy Nam Bộ để lãnh đạo kháng chiến trước tình hình cấp bách đang diễn ra".
Trước đó, đầu tháng 3 năm 1946, tại Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, được sự ủy nhiệm của đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Nguyễn Đức Thuận, Bí thư Liên tỉnh ủy miền Đông Nam Bộ đã triệu tập cuộc họp bất thường và chỉ định danh sách Tỉnh ủy Thủ Dầu Một để lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp gồm 7 đồng chí, lấy bí danh theo 7 chữ: Chánh - Phủ - Cộng - Hoà - Dân - Chủ - Việt; cụ thể: Nguyễn Văn Tiết bí danh là Trần Minh Chánh. Văn Công Khai bí danh là Phủ. Hồ Văn Nâu bí danh là Hồ Cộng. Lê Đức Anh bí đanh là Lê Phú Hoà, v.v…
Hoàn cảnh chiến đấu của bộ đội và cán bộ các ngành dân, chính, đảng trong nửa đầu năm 1946 cực kỳ khó khăn. Tỉnh Thủ Dầu Một ruộng ít, rừng nhiều, lương thực tại chỗ không bao giờ đủ ăn cho dân địa phương lại bị địch càn quét, bắn giết, cướp của, phá hoại kinh tế nên đời sống càng khó khăn. Trang bị của bộ đội rất nghèo nàn, phần đông anh em không có nón che đầu, không có vải nhựa che mưa, đi chân trần. Đến đóng quân tại nhà dân, hầu hết chiến sĩ nằm đất ngày này qua tháng khác. Hành quân gặp trời mưa thì dầm mưa mà đi. Bệnh tật và bị thương do bom đạn thì thiếu thuốc và các phương tiện y tế, nhất là bệnh sốt rét ác tính. Có những trường hợp bác sĩ buộc phải cưa tay thương binh bằng cưa thợ mộc, lại không có thuốc gây mê và thuốc tê, rửa vết thương bằng nước muối chứ không có thuốc sát trùng. Hy sinh vì bom đạn, chết vì sốt rét và bệnh tật do thiếu thuốc, chết vì lũ cuốn, lại có người bị chết vì hổ vồ. Gian khổ tột cùng, hy sinh to lớn nhưng mọi người đều kiên gan chịu đựng, đồng lòng quyết chí chống giặc giữ làng mạc quê hương. Là Tỉnh ủy viên kiêm Bí thư Quận ủy Hớn Quản và Chính trị viên Chi đội 1, ông Lê Đức Anh đã bàn bạc, hợp đồng với cán bộ các ngành, với Ban chỉ huy. Chi đội 1 của ông nổi tiếng đánh giặc giỏi, đồng thời được tiếng về kỷ luật dân vận tốt. Khẩu hiệu "3 không" đã thành nếp sống của bộ đội Chi đội 1: - Không ra đi khi chưa trồng rau để lại cho người đến sau. Không được đi khi chưa múc đầy ang nước và không đi khi nhà cửa chưa quét dọn sạch sẽ!
Mùa hè nảm 2003, người viết có dịp gặp hai ông Lưu Vân Thổi, Đỗ Quang Minh (tức Bổ) và một số người trong Ban liên lạc truyền thống 5 trung đoàn Thiếu sinh quân của miền Đông Nam Bộ thời kỳ chống Pháp, cuộc gặp tại Câu lạc bộ Cựu chiến binh thành phố Biên Hoà. Hai ông Lưu Vân Thới và Đỗ Quang Minh nguyên là chiến sĩ liên lạc của ông Lê Đức Anh trong những năm 1948-1951, đặc biệt là trong những chiến dịch tiến công đầu tiên của bộ đội miền Đông Nam Bộ. Hai ông nhớ và kể lại: "Hồi đó ông Lê Đức Anh có đôi giày vải Bát kết. Đi một ít bữa vì dầm mưa dãi nắng nên giày rách mũi hở hoác các đầu ngón chân. Vì thế khi đi, có lúc phải chạy trên đường rừng nên cứ bị vấp vào rễ cây, đầu ngón chân bật máu. Tụi tôi băng cho ông, ông lại chạy, lại vấp, lại chảy máu. Ông gạt đi và bảo thôi cứ đi kẻo không kịp giờ họp. Chân bên trái bị yếu từ trận đậu mùa thủa nhỏ, giờ lại có dịp hành hạ ông. Tối về đến chỗ nghỉ, anh em, liên lạc cứ bóp cho ông đỡ đau nhức để hôm sau lại có thể đi được. Chúng tôi thi bóp chân cho ông mà thương ông lắm, còn ổng thì nằm thủ thỉ chuyện trò, dạy bảo và giác ngộ cách mạng cho tụi tôi; vì lúc đó tụi tôi đang ở tuổi thiếu nhi mà!. Khi tôi gợi lại chuyện này, ông Lê Đức Anh tâm sự: "Tôi không thể quên được tổ liên lạc của Chi đội 1, cùng với Lưu Vân Thới và cậu Bô, còn có bốn anh em nữa là: Bề, Quê, Hơn và Ron. Sau đó bốn anh em cũng hy sinh, cho đến giờ không ai tìm được họ đang nằm ở đâu. Chúng tôi cũng không quên được rằng, sau trận chúng tôi đánh vào quận lỵ Hớn Quản, đánh vào Xa Cam, Xa Cát, quân giặc đã lồng lộn quay lại đốt phá Tân Khai. Chính nơi đây chúng đã chặt đầu đồng chí Chín Thu. Cũng chính nơi đây chúng đã đổ hết gạo xuống giếng. Gạo ngâm nước sau mấy hôm vớt lên rất thối, nhưng anh em vẫn phải phơi và nấu ăn, không thì chết đói. Những ngày cam go đó, công nhân cao su Hớn Quản, Minh Trạch đã bớt phần gạo ăn của mình và gia đình để nuôi bộ đội. Thật cảm động khi có những chị đã giả đau để xin thuốc ký ninh, bị chủ buộc phải uống tại chỗ, chị em giả bộ uống, nhưng chỉ ngậm sau đó ra ngoài nhả ra, đem phơi khô gửi giúp cho các chiến sĩ của đơn vị tôi...".
Ngày 14 tháng 6 năm 1948, Chi đội 1 được quyết định đổi thành Trung đoàn 301 - phiên hiệu cấp trung đoàn đầu tiên của Nam Bộ; do Huỳnh Kim Trương làm Trung đoàn trưởng, Lê Đức Anh làm Chính trị viên, Lương Đường Minh và Nguyễn Văn Thi làm Trung đoàn phó, có đủ các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần. Các đại đội 1, 2, 3 trở thành các tiểu đoàn 901, 902, 903. Sau đó, 9 trung đoàn khác của Nam Bộ cũng lần lượt ra đời, đánh dấu bước trưởng thành của lực lượng vũ trang chủ lực tập trung ở Nam Bộ.
Ngày đó Nam Bộ có 3 khu quân sự-hành chính: Khu 7, Khu 8 và Khu 9, trong đó Khu 7 là quan trọng nhất vì đây là địa bàn trọng điểm của cuộc chiến tranh, nơi cọ xát quyết liệt giữa quân và dân ta với quân đội Pháp và ngụy tay sai. Cuối năm 1948, ông Lê Đức Anh được điều về làm Tham mưu trưởng Khu 7. Tư lệnh Khu 7 là tướng Nguyễn Bình, Nguyễn Văn Trí làm Chính trị bộ Chủ nhiệm. Có lẽ Xứ ủy đã thấy được những tố chất và khả năng tham mưu quân sự của ông nên kể từ đây đã chuyển ông từ một cán bộ chính trị sang làm cán bộ tham mưu quân sự, chuyên lo xây dựng lực lượng và nhất là lo tổ chức trận đánh, chiến dịch, xây dựng và phát triển chiến thuật cho bộ đội chủ lực và các lực lượng vũ trang địa phương.
Giai đoạn này ở Nam Bộ, thực dân Pháp áp dụng chiến thuật Đờ-la-tua một cách ráo riết, triệt để, đã gây không ít khó khăn cho ta. Bản chất của chiến
thuật này là dùng "hệ thống đồn bốt tháp canh" kết hợp với những đội lính cơ động (Com-măng-đô) để canh giữ khu vực chiếm đóng, canh giữ các tuyến đường giao thông huyết mạch, vừa dùng hệ thống tháp canh làm nơi xuất phát các cuộc càn quét và lấn chiếm vùng du kích và căn cứ kháng chiến.
Dưới sự chỉ đạo của Bộ tư lệnh và cơ quan Tham mưu Khu 7, ngày 28 tháng 10 năm 1948, Trung đoàn 901 tiến công đoàn xe địch gồm 2 xe thiết giáp và 3 xe cam nhông, địch chết tại chỗ 15, ta bắt 5 tên Pháp và Âu Phi, tiến hành giáo dục rồi thả. Ta thu 54 súng, trong đó có 3 súng máy. Cùng thời gian này, bộ đội và liên quân 17 Biên Hòa tổ chức trận đánh phục kích đã làm nên "trận thắng La Ngà" nổi tiếng. Trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên trên lộ 16 do tổ chiến đấu của Trần Công An (tức Hai Cà), trợ lý tác chiến Huyện đội Tân Uyên chỉ huy. Anh em đã bí mật bất ngờ, táo bạo dùng thang leo lên và dùng lựu đạn diệt gọn tổ địch 11 tên, thu 8 súng và 20 lựu đạn. Du kích Tân Uyên cùng Đại đội Bạch Đằng đánh sập tháp canh Vàm Giá trên lộ 14, diệt 1 trung đội lính lê dương. Hai trận đánh liên tiếp tuy không lớn nhưng đã mở ra cách tiêu diệt tháp canh Đờ-la-tua cho toàn chiến trường.
Cuối 1949 đầu 1950, quân Pháp liên tục mở nhiều cuộc hành quân càn quét uy hiếp vùng giải phóng phía đông và đông bắc Sài Gòn-Gia Định. Ông Lê Đức Anh đã đề xuất ý kiến: "Giặc Pháp nó phá mình thì mình cũng phải phá nó. Lúc đầu ta dùng lối đánh của Trần Công An kết hợp giữa bộ đội diệt tháp canh với dân quân phá đường, và đã phá được. Bây giờ nó dùng pháo lớn bắn ra, ta không phá đường được nữa. Tôi đề nghị ta sẽ mở một chiến dịch tiến công trên địa bàn Bến Cát nhằm tiêu hao sinh lực địch bằng cách đánh giao thông kết hợp với công đồn diệt tháp canh để đánh viện binh. Tác chiến kết hợp với phá hoại để mở rộng khu căn cứ của ta, nhất là vùng Long Nguyên, Thanh Tuyền". Bộ tư lệnh Nam Bộ đã đồng ý với đề xuất của ông và quyết định cử ông Tô Ký làm Chỉ huy trưỏng chiến dịch, ông Nguyễn Duy Hanh làm Chính trị viên và Lê Đức Anh làm Tham mưu trưởng chiến dịch. Lập tức ông Anh cùng một tổ đi điều tra tình hình địch, tình hình địa hình và lo công tác chuẩn bị chiến dịch. Lúc đó anh Đỗ Quang Minh (tức Bổ) làm liên lạc cho ông, khi chạy chân, khi cưỡi ngựa, như con thoi giữa Tham mưu trưởng Lê Đức Anh trụ ngay tại Bến Cát, giữa lòng địa bàn tác chiến và hai ông Tô Ký, Nguyễn Duy Hanh đang đứng chân ở căn cứ Thanh Tuyền. Sau một tháng chuẩn bị, Chiến dịch Bến Cát đã diễn ra từ 25 đến 27 tháng 1 năm 1950. Trong chiến dịch, ta đã tiêu diệt được 60 tên địch, làm bị thương 23 tên, thu 2 khẩu trung liên, 4 tiểu liên, phá hủy 1 xe vận tải, 1 khẩu pháo và đánh hỏng 1 cầu, làm gián đoạn giao thông đường bộ của địch từ Đến Cát đi Dầu Tiếng. Ta hy sinh 8 và bị thương 29 người.
Trước đó, tháng 12 năm 1949, miền Tây Nam Bộ đã mở Chiến dịch cầu Kè (Trà Vinh). Như vậy, cầu Kè và Bến Cát là hai chiến dịch tiến công đầu tiên của các lực lượng vũ trang Nam Bộ, đánh dấu cục diện chiến trường đã chuyển sang giai đoạn mới - Từ chỗ ta bị động đối phó với các cuộc hành quân càn quét của địch, nay ta đã bắt đầu chủ động tổ chức những trận tiến công có quy mô chiến dịch.
Trong Chiến dịch Bến Cát có một chuyện mà cho đến bây giờ, sau 55 năm, ông Lê Đức Anh vẫn còn nhớ: Ngày ấy, trong đồn Rạch Kiến địch bố trí một khẩu pháo lớn, rất lợi hại làm cho bộ đội và dân quân không thực hiện được nhiệm vụ phá đường giao thông. Ông chỉ đạo cho Tiểu đoàn trưởng Thuận tổ chức cho bộ đội thảo luận tìm ra cách nào để diệt được khẩu pháo đó. Anh em thấy rất khó vì muốn phá nó phải vào tận nơi. Nhưng nếu bí mật vượt được bức tường và hàng rào bao quanh đồn thì sẽ bị ngay chó dữ và đàn ngỗng của chúng phát hiện. Cuối cùng, có cậu Nguyễn Vãn Rỡ tìm ra được một cách. Cậu đi tắm xong cứ để người trần ra nằm trong rừng phơi sương một đêm cho bay hết "hơi người". Quả nhiên khi bò vào đồn, lũ chó và ngỗng không phát hiện được. Vào trong đồn, Rỡ đã phát hiện được khẩu pháo lớn 155 ly, cậu bốc cát, sỏi bỏ vào nòng rồi bí mật trở ra. Quân ta liền đốt đuốc ra phá đường để khiêu khích giặc. Quả nhiên chúng tức giận, hùng hổ nạp đạn vào pháo và giật cò, khẩu pháo lập tức bị vỡ toác nòng. Ngay sau trận đánh, Tiểu đoàn trưởng Thuận cho bộ đội Tiểu đoàn 302 học tập kinh nghiệm và huấn luyện cách phá pháo địch của Nguyễn Văn Rỡ để phổ biến rộng rãi. Nguyễn Văn Rỡ còn nghĩ ra cách ngụy trang và bơi không tiếng động để đưa lượng nổ vượt qua vọng gác địch vào nổ phá cầu... Cũng kể từ đó, không có đồn giặc nào mà anh em không vào được, không có tháp canh nào mà bộ đội và dân quân chịu bó tay. Tại hội nghị tổng kết Chiến dịch Bến Cát, Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn đã biểu dương: "Cách đánh của chiến sĩ Nguyễn Văn Rõ và Tiểu đoàn 302 trong chiến dịch này cần được phổ biến rộng rãi. Sự sáng tạo kỹ thuật bí mật tiềm nhập mục tiêu từ các trận Bến Cát, cầu Bà Kiên, Vàm Giá là quá trình hình thành và hoàn thiện một chiến thuật mới mẻ và độc đáo của lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ. Như vậy, chiến trường Đông Nam Bộ đã vinh dự là nơi khởi phát chiến thuật đặc công, nơi ra đời những chiến sĩ đặc công đầu tiên của cả nước".
Bởi vậy, đến cuối 1952, đầu 1953, đồng chí Lê Duẩn đã chỉ thị cho ông Lê Đức Anh tổ chức đoàn cán bộ đi cùng đồng chí Lê Duẩn ra Chiến khu Việt Bắc để báo cáo với Bác Hồ và Bộ Tổng Tham mưu về kinh nghiệm đánh đồn theo kiểu đặc công. Ông Anh đã chọn gần hai chục người, đoàn vượt Trưòng Sơn bằng hành quân bộ. Ra đến Khu 6, Tỉnh đội Bình Thuận, rồi Khu 5... cứ mỗi nơi để lại 3 người để phổ biến kinh nghiệm cách đánh đặc công. Dừng ở Khu 6, đoàn cán bộ đã gặp và bàn với ông Điềm, Tỉnh đội trưởng Bình Thuận tổ chức đánh đồn Tánh Linh thắng lợi... Ra đến Việt Bắc thì đoàn của ông còn 6 người, để lại 3 người công tác ở Bộ Tổng Tham mưu, còn lại 3 người: Nguyễn Văn Được quê Bà Rịa, Trần Công An (tức Hai Cà, con người rất khoẻ, gan dạ và sáng tạo, sau này được phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân) và đồng chí Tám Liên Thanh (tức Tám Dọn, sau này là Trung tưóng, Phó tư lệnh Bộ đội Biên phòng). Đồng chí Lê Đức Anh được lên gặp và báo cáo với Bác Hồ. Buổi đó nghe chuyện, Bác rất vui, Bác khen và còn bảo đồng chí Tố Hữu hãy làm bài thơ để ca ngợi bộ ctội và nhân dân Nam Bộ đánh giặc giỏi. Sau đó ông Lê Đức Anh được dự lớp học chính trị do Trung ương tổ chức tại Chiến khu Việt Bắc, do đồng chí Lê Văn Lương phụ trách chỉ đạo lớp học. Kết thúc lớp học, cùng với việc viết thu hoạch, các học viên đều làm bản tự khai báo về lý lịch của mình; đó là những ngày đầu năm 1953. Đây cũng là lần đầu tiên ông Lê Đức Anh được tự công khai lai lịch xuất thân và cuộc đời hoạt động cách mạng của mình với tổ chức bằng văn bản.
Trước khi trở về miền Nam, ba người còn được lên chào Bác, được Bác tặng Huy hiệu của Người và dặn dò ân cần việc hành quân trên đường trở về Nam.
Ba đồng chí: Nguyễn Văn Được, Trần Công An và Tám Liên Thanh được giao nhiệm vụ vừa bảo vệ đồng chí Lê Đức Anh trên dọc tuyến đường xuyên dãy Trường Sơn trở về miền Đông Nam Bộ, vừa mang theo mỗi người khoảng một ki-lô-gam gồm tài liệu mật, vàng và tiền do Trung ương gửi vào cho đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ để tiếp tục kháng chiến chống thực dân Pháp. Dọc đường đi, bốn người dừng lại ăn Tết Nguyên đán với Bộ tư lệnh Khu 5. Vào tới Bồng Sơn, Bình Định thì phải dừng lại 15 ngày vì vướng địch càn; sau đó đi mất 9 ngày nữa mới về tới Chiến khu Đ...
Trước ngày tập kết ra miền Bắc (sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954), theo chỉ đạo của ông Lê Duẩn, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, ông Lê Đức Anh cùng đồng đội chọn những khẩu súng tốt, những cỗ máy tốt của công binh xưởng mang bọc dầu, gói ni lon và chôn giấu xuống các khu vườn.
Ngày đầu ra Bắc, ông Lê Đức Anh được nhận nhiệm vụ làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 330, đóng quân ở Thanh Hoá. Sau đó chừng nửa năm thì Cấp trên lại điều ông ra nhận công tác tại cơ quan Bộ Tổng Tham mưu, làm Cục phó Cục Tác chiến và giao cho ông nghiên cứu xây dựng công trình phòng thủ bờ biển từ Quảng Ninh vào đến Quảng Bình. Ông được cử làm trưởng đoàn cán bộ sang nghiên cứu học tập công trình phòng thủ của Trung Quốc. Trong cuộc đời và sự nghiệp của ông, có đến năm, sáu lần sang đất nước Trung Quốc, mỗi lần ở một cương vị khác nhau, một nhiệm vụ khác nhau, đây là lần đầu tiên và cũng là nhiệm vụ "nhẹ nhàng" nhất. Đoàn đi gồm cán bộ của hai ngành Tác chiến và Công binh. Trong nhóm công binh có đồng chí Khang, cán bộ công binh công trình, với ông lại là người quen biết từ trước, nên bắt tay vào công việc rất hiểu ý nhau, thuận lợi và thoải mái (ông Khang là chồng của bà Nguyễn Thị Bình, sau này khi ông Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước thì bà Bình là Phó chủ tịch nước. Ông bố của bà Bình tên là Bính, một kỹ thuật công binh công trình từ thời Pháp thuộc; ông Bính là người được ông Anh giới thiệu kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương giai đoạn 1948- 1950, khi ông Anh làm Tham mưu trưởng khu Sài Gòn - Chợ Lớn).
Khi trở về nước, bắt tay vào việc, dưới sự chỉ đạo của Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng và sự phân công của Cục trưởng Tác chiến Trần Văn Quang, ông và các cán bộ tác chiến làm dự án và trình duyệt cấp trên, sau đó cùng với Công binh tổ chức triển khai xây dựng các công trình phòng thủ bờ biển.
Khoảng một năm sau, ông lại được điều sang làm Cục phó Cục Tác chiến. Đây là thời kỳ ông tìm hiểu, học hỏi được nhiều về các ngành, các công việc của công tác tham mưu chiến lược, nâng cao vốn hiểu biết thực tế và phương pháp luận khoa học khi tiến hành những nhiệm vụ của công tác tham mưu quân sự. Đồng thời, tiếp tục được bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị thông qua những đợt sinh hoạt, tập huấn chính trị do cơ quan Tổng cục Chính trị trực tiếp chỉ đạo và hướng dẫn. Trong đó ông cảm nhận rất rõ vai trò và phong cách làm việc của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Nguyễn Chí Thanh. Nhớ lại chuyện ngày ấy, ông nói: Hồi đó Cơ quan Bộ Tổng Tham mưu ít người nhưng làm việc "rất hiệu quả và sống với nhau rất thân mật và thẳng thắn. Ai có điều gì là tự bộc bạch, góp ý với nhau chân tình, nên cơ quan làm việc nhịp nhàng mà cuộc sống, sinh hoạt thật đầm ấm, vô tư và trong sáng.
Ngay sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam đã chỉ rõ cho toàn dân, toàn quân kẻ thù trực tiếp của cách mạng ở cuộc kháng chiến lần thứ hai này là đế quốc Mỹ. Do đó, quân đội ta được xác định rõ đối tượng tác chiến mới là quân đội xâm lược của đế quốc Mỹ. Xác định thì xác định như vậy, nhưng ở những ngày tháng đầu tiên sau đình chiến ấy, ta chưa hiểu về Mỹ, quân đội Mỹ như thế nào, quân đội ta sẽ vận dụng các hình thức tác chiến như thế nào để đánh thắng chúng. Hồi đó Quân ủy Trung ương có họp bàn, cân nhắc và thấy rằng trong phe xã hội chủ nghĩa mới chỉ có hai nước đã tiếp xúc ít nhiều với Mỹ, đó là Liên Xô và Trung Quốc. Trong Đại chiến thế giới II, cả Mỹ và Liên Xô đứng trong quân Đồng minh để chống lại trục phát xít Đức - Ý - Nhật, nên Liên Xô đã có điều kiện hiểu về Mỹ phần nào. Còn Trung Quốc thì đã va chạm với quân đội Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên. Được Trung ương đồng ý, Quân ủy đã quyết định cử các đoàn cán bộ của quân đội, trong đó chủ yếu là cán bộ của Bộ Tổng Tham mưu, sang hai nước bận này để học tập và tìm hiểu về Mỹ và quân đội Mỹ.
Đoàn đi Trung Quốc do hai ông Song Hào và Hoàng Văn Thái phụ trách. Đoàn đi Liên Xô tổ chức hai lớp, lớp thứ nhất do ông Võ Nguyên Giáp và ông Văn Tiến Dũng phụ trách; lớp thứ hai do ông Chu Huy Mân phụ trách. Ông Lê Đức Anh được cử đi học lớp thứ nhất. Tại đây, ông được hiểu về cách tác chiến của quân đội các nước Liên Xô, Đức, Pháp và Mỹ; hiểu về tác chiến điện tử trong điều kiện thông thường và trong điều kiện có vũ khí hạt nhân, những tính năng và tác dụng của nó. Về cách đánh, thì họ giảng chủ yếu là cách đánh của quân đội Liên Xô, phổ biến những kinh nghiệm của Liên Xô. Nghiên cứu tài liệu, ông thấy quân đội mỗi nước có nguyên tắc tác chiến riêng của mình. Đối với quân đội Đức, họ dùng hoả lực sát thương được 40% sinh lực của đối phương rồi mới dùng binh lực (của lục quân) đột phá; Pháp, Mỹ và Tây Ban Nha thì tỷ lệ đó là 25%. Hồi đó người ta đánh giá quân đội của Vương quốc Anh cao hơn quân đội Mỹ, nhưng quân đội Anh cũng áp dụng tỷ lệ 25%. Có một chuyện làm ông nhớ mãi, là vị giáo sư sau khi xem bài tập của ông làm thì tỏ lời khen, nhưng ông bảo, học ở đây thì tôi làm như vậy, nhưng đánh theo cách này với quân đội Mỹ thì có lẽ chưa phù hợp nên chưa chắc chắn lắm. Nói vậy mà ông giáo sư đã giận ông suốt cả khóa học. Mãi đến ngày cuối cùng vị giáo sư đó mới bắt tay ông và nói: "Đồng chí tốt, tôi cũng tốt, hai chúng ta bắt tay nhau!". Khi về nước, nghe chuyện này, ông Vũ Lăng bảo ông "Họ không đuổi anh là may đó!".
Làm việc ở miền Bắc, giữa thủ đô Hà Nội nhưng ông Lê Đức Anh và các cán bộ miền Nam tập kết trong lòng cứ nóng như lửa đốt khi hàng ngày nghe được tin ở trong Nam đế quốc Mỹ đang giật dây cho chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm khủng bố ráo riết và đẫm máu đồng bào yêu nước, cán bộ kháng chiến và những gia đình có người đi tập kết. Ngày đêm chúng xua quân đi càn quét bắt bớ, tù đày, bắn giết rất dã man; rồi chúng xua đuổi đồng bào ta bỏ nhà cửa làng mạc để vào các trại tập trung gọi là "Khu dinh điền, khu trù mật". Ông và anh em chỉ mong được trở về miền Nam chiến đấu.
Khoảng gần cuối năm 1957, Bác Hồ gọi đồng chí Lê Duẩn ra Hà Nội. Khi gặp đồng chí Lê Duẩn ỏ Bộ Quốc phòng, ông Lê Đức Anh đã hỏi là tại sao ta không đẩy nhanh, đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên, thì đồng chí Lê Duẩn nói rằng: "Ở trỏng, quân Mỹ-ngụy bắn giết, tàn sát dân mình quá thể, sau một vài trận đầu ta đánh thử nghiệm có hiệu quả, chừ khắp miền Nam đang rậm rịch chuẩn bị và nóng lòng chờ lệnh cho hoạt động võ trang. Nhưng từ hôm ra miền Bắc tới nay mới chỉ một vài tháng mà tôi đã thấy tình hình quốc tế, tình hình trong nước nó phức tạp quá, và càng thấy rõ một điều rằng, dù mình rất muốn nhưng không thể nôn nóng được. Làm cách mạng phải biết chờ đợi. Vì đây là việc quá lớn, phải là Bộ Chính trị và Trung ương quyết định nhiệm vụ của hai miền, của cả nước, thì mới làm được và làm mới có hiệu quả". Trước khi về, đồng chí Lê Duẩn còn nhắc lại: "Nhớ là phải biết chờ đợi. Nhưng lo được cái gì cho miền Nam thì phải tích cực và hết sức lo đi; còn chung thì phải biết chờ đợi. Với miền Nam thì Bác Hồ cũng sốt ruột như chúng ta thôi. Nhưng phải chờ đợi".
Nghe đồng chí Duẩn nói, ông Anh ý thức được rằng, như vầy thì mình không nên hỏi thêm gì nữa, mà chỉ cảm thấy trong lãnh đạo có cái gì đó còn đang cân nhắc để đi đến sự thống nhất. Mãi sau này ông mới biết được đôi điều, nhưng cũng chỉ là biết sơ sơ thôi: Trong lãnh đạo Trung ương có những ý kiến, những cách suy nghĩ chưa thật đồng nhất. Có người thấy Mỹ-ngụy trắng trợn vi phạm và phá hoại hiệp định, khủng bố và tàn sát đẫm máu nhân dân miền Nam thì nôn nóng muốn phát động đấu tranh vũ trang để đánh trả. Có người thì cho rằng cần kiên trì đấu tranh yêu cầu đối phương thi hành hiệp định để ta có thêm một thời gian hồi phục sức dân, tổ chức, củng cố lực lượng. Lại có người cho rằng lúc này cách đúng nhất là đấu tranh bằng phương pháp hòa bình, ta nghiêm chỉnh thi hành hiệp định thì sẽ buộc đối phương thi hành hiệp định, v.v...
Là người lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí trong Trung ương Đảng ngày đêm suy nghĩ để vạch ra chủ trương và phương pháp, bước đi cho cách mạng miền Nam sao cho giành thắng lợi mà ít bị tổn thất nhất, lại phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Đây là vấn đề cực kỳ khó khăn và phức tạp. Bởi vì, lúc này đường lối đối ngoại "cùng tồn tại hòa bình", giữ cách mạng trong thế thủ đang thắng thế trong phong trào cộng sản quốc tế. Mâu thuẫn Xô-Trung phát sinh và ngày càng gay gắt. Xuất phát từ chiến lược và lợi ích dân tộc của mỗi nước, Liên Xô, Trung Quốc đều giúp ta, nhưng đều muốn ta phải theo chiến lược của họ. Liên Xô thì khuyên ta "Thi đua hòa bình, hãy bảo vệ miền Bắc, còn ở miền Nam thì đấu tranh bằng hòa bình, thi hành hiệp định", còn Trung Quốc thì bảo ta hãy "Kiên trì mai phục, xây dựng làm cho miền Bắc mạnh lên sẽ phát huy tác dụng với miền Nam", cả hai người "bạn lớn" của ta đều không muốn ta phát động đấu tranh vũ trang. Rồi sau đó khi mà quân và dân miền Nam chúng ta không chịu nổi sự khủng bố dã man tàn bạo của Mỹ-ngụy đã đứng lên tổ chức đánh trả thì Trung Quốc nói với ta nên kiềm chế, chỉ tổ chức lực lượng đánh trả ở quy mô cấp đại đội, còn Liên Xô thì nói ta chỉ nên tổ chức chiến đấu bảo vệ miền Bắc. Cũng vì chủ trương đó mà họ không có ý định giúp ta súng, pháo lớn và vũ khí tiến công thông thường. Dịp đó, lần thứ hai ông Anh đi sang Trung Quốc trong đoàn cán bộ Bộ Tổng Tham mưu do ông Văn Tiến Dũng dẫn đầu. Sang đó, ông Dũng chủ động nói: Ở miền Nam Việt Nam, quân Mỹ-ngụy dùng xe bọc thép, máy bay trực thăng, tàu thủy, xả súng bắn giết đồng bào. Chúng tôi cần các đồng chí cho tàu chở trung liên, đại liên và súng ĐKZ để đưa vào Nam cho bộ đội và nhân dân chiến đấu đánh trả. Nhưng trưởng đoàn phía Trung Quốc, ông Hoàng Khắc Thành, là Tổng Tham mưu trưởng không nói gì. Và chuyến đi đó, họ chỉ cho ta toàn súng trường K44 bắn phát một, họ bảo để trang bị cho dân quân du kích miền Nam phòng chống càn.
Đến 1959, khi Trung ương ra được "Nghị quyết 15", gặp ông Lê Đức Anh, đồng chí Lê Duẩn rất phấn khởi nói: "Được rồi! Trung ương quyết rồi!". Trong Nam bắt đầu nổ ra các trận đánh Phước Vĩnh, Đồng Tháp Mười, Dầu Tiếng, nhất là trận Tua Hai thuộc tỉnh Tây Ninh đêm 26-1-1960 tiến công tiêu diệt căn cứ trung đoàn chủ lực ngụy số 32; ta diệt 500 tên địch, thu gần 150 súng các loại. Cùng với các trận đánh là các cuộc nổi dậy phá ấp chiến lược của nhân dân các huyện: Vĩnh Thạnh (Bình Định), Bác Ái (Ninh Thuận), Tà Boóc (huyện 40- Đăk Lăk), nhất là cuộc khởi nghĩa của huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi)... tiến tới cuộc đồng khởi của tỉnh Bến Tre đã nổ ra trước khi trận Tua Hai khai hoả ít ngày. Nghị quyết 15 đã nhanh chóng đi vào cuộc sống chiến đấu của quân và dân miền Nam-tuyến đầu Tổ quốc.
Sau khi có Nghị quyết 15, cơ quan Bộ Tổng Tham mưu dưới sự chỉ đạo của Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng triển khai rất tích cực việc chuẩn bị "Đoàn tàu Không số", đường vận tải trên biển và tiến hành xoi đường giao liên dọc Trường Sơn để chi viện cho miền Nam, do đồng chí Võ Bẩm phụ trách. Nhớ lại những ngày ấy, ông Lê Đức Anh nói rằng: - Ý kiến chỉ đạo của hai đồng chí Lê Duẩn và Lê Đức Thọ về việc chôn giấu súng đạn trước ngày tập kết ra Bắc là rất sáng suốt. Ta có vũ khí để thực hiện những trận đánh đầu tiên là từ số súng đạn chôn giấu để lại này. Năm 1959, khi đồng chí Võ Bấm nhận nhiệm vụ xoi đường từ Bắc vô Nam, thì ở Nam Bộ, đồng chí Nguyễn Văn Linh cũng giao nhiệm vụ cho đồng chí Tư Thược tiến hành xoi đường từ trong ra. Nhưng lúc đó "Đoàn công tác đặc biệt" của đồng chí Võ Bẩm mới xoi vô chớm tới đất của miền Tây Quảng Nam, mà cũng chỉ mới là đường giao liên cho người đi bộ, để đưa cán bộ và chuyển tài liệu vào cho miền Nam là chủ yếu. Thực chất số vũ khí ta có sẵn ở miền Bắc lúc đó là số vũ khí có được sau kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Số vũ khí này tuy không lớn và có phần đã lạc hậu nhưng lúc đó đưa vào tiếp sức cho bộ đội và nhân dân miền Nam là vô giá, mà chủ yếu ta vận chuyển bí mật bằng những con tàu Không số trên "Đường Hồ Chí Minh trên biển". Đây là nét rất độc đáo, rất sáng tạo của cách mạng Việt Nam. Cho nên tôi vẫn khẳng định "Chiến công đầu" của Hải quân nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm, lược chính là việc tổ chức thắng lợi Đoàn tàu Không số, vận chuyển tiếp sức kịp thời và rất có hiệu quả cho cách mạng miền Nam ở những năm tháng đánh Mỹ đầu tiên bằng con đường bí mật trên biển Đông, sau này được mang tên "Đường Hồ Chí Minh trên biển". Và sự hy sinh của các chiến sĩ hải quân cảm tử trên các con tàu này là sự hy sinh thầm lặng và vô cùng lớn lao. Đồng bào và chiến sĩ miền Nam mãi mãi ghi nhớ công lao và khắc sâu lòng biết ơn trước sự hy sinh đó".
Tháng 9 năm 1963, ông Lê Đức Anh được bổ nhiệm Phó Tổng Tham mưu trưởng cũng là lúc được cùng cơ quan Bộ Tổng Tham mưu tổ chức cho anh em cán bộ miền Nam tập kết tập huấn và bí mật rèn luyện hành quân đường dài có mang vác nặng để chuẩn bị vào Nam chiến đấu mà lúc đó thường gọi là "đi B".
Trước ngày ông tạm biệt miền Bắc, ông Văn Tiến Dũng căn dặn: "Vào đó, anh hãy nghĩ và làm cách nào để hạn chế tối đa việc Mỹ-ngụy nó giết hại nhân dân miền Nam. Vào tới nơi, anh báo cáo với hai anh Nguyễn Văn Linh và Trần Văn Trà, bàn với các anh thực hiện Nghị quyết 15. Việc thứ nhất, ra sức xây dựng lực lượng quân sự tại chỗ. Thứ hai, miền Đông Nam Bộ thì nên mở rộng ra hướng biển Đông (lúc đó ta mới đứng chân được ở địa bàn Thủ Dầu Một và Biên Hoà). Thứ ba, cố giành và khai thác nhân tài, vật lực để phát triển cách mạng. Kế đó, ông sang gặp ông Lê Duẩn tại số 6 Hoàng Diệu. Ông Duẩn bảo: "Ba ý kiến đó đúng. Nhưng thêm một điều quan trọng nữa, là chú trọng xây dựng lực lượng cách mạng và hoạt động vũ trang ở trong đô thị và vùng ven đô"...
Một ngày cuối đông năm 1963, ông lặng lẽ ra đi. Cùng đi với ông có anh Năm Tâm, quê gốc ở xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, tỉnh cần Thơ. Sau này anh làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 5, là một trong ba sư đoàn chủ lực của Nam Bộ. Tối hôm đó hai người xuống con tàu "Không số”, lặng lẽ rời bến Đồ Sơn - Hải Phòng, ra hải phận quốc tế rồi hướng thẳng về phương Nam. Trên tàu, ngoài hai cán bộ miền Nam và đội thủy thủ của Đoàn 759 (đến tháng 1 năm 1964 đổi thành Đoàn 125) Hải quân Việt Nam, còn có những hòm súng, đạn và hai tấn thuốc nổ TNT, để nếu gặp tình huống tàu địch phát hiện và vây bắt thì sẽ cho "nổ" tàu, kiên quyết không để người và vũ khí rơi vào tay giặc.
Đêm cuối năm, mây thấp, gió bấc thổi lạnh buốt. Trong khoang tàu, hai người khi ngồi, khi nằm, tâm sự và chuyện tào lao trên trời dưới bể để "giết" thời gian. Khi tàu cập Cà Mau thì rừng đước, rừng tràm đã che chở cho con tàu nên chuyến đi suôn sẻ và giữ được bí mật đến phút chót. Ông Thản, Phó bí thư Khu ủy Khu 9 cho xuồng ra tận mạn tàu đón hai người vào nơi đóng quân của Khu bộ. Rồi từ căn cứ của Khu 9, các đồng chí dẫn hai ông đi bằng phương tiện "cuốc bộ" sang biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia. Từ đây, đi đàng hoàng giữa ban ngày trên ô tô với giấy tò "hợp pháp" do tổ chức Việt kiều ở Cam-pu-chia bố trí. Cuộc hành trình của hai ông kết thúc thắng lợi tại Bộ chỉ huy Miền (lúc đó gọi mật danh là B2) đứng chân ở huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, giữa Chiến khu Dương Minh Châu.
Khi ông Lê Đức Anh báo cáo lại ý kiến của hai đồng chí Lê Duẩn và Văn Tiến Dũng với Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền, cả hai ông Nguyễn Văn Linh và Trần Văn Trà đều nói: "Thế thì chúng ta cứ làm theo ý của anh Ba Duẩn và anh Văn Tiến Dũng" và giao cho ông việc làm kế hoạch. Lúc đó, đồng chí Nguyễn Văn Linh là Bí thư Trung ương Cục, ông Trần Văn Trà là Tư lệnh B2, còn ông Lê Đức Anh được Trung ương và Bộ Quốc phòng cử vào Bộ chỉ huy Miền đảm trách Tham mưu trưởng.
Khi bắt tay vào làm kế hoạch quân sự, ông đề nghị, trong kế hoạch, phần xây dựng lực lượng ở vùng ven đô thì mời đồng chí Võ Văn Kiệt, lúc đó làm Bí thư Sài Gòn - Chợ Lớn, lên ít ngày để cùng bàn bạc và làm kế hoạch. Bộ chỉ huy tiến hành bàn về tổ chức xây dựng lực lượng trước, sau đó mới bàn kế hoạch mở địa bàn ra hướng đông. Không khí làm việc thật hào hứng, sôi nổi. Ông Trà nêu ý kiến: "Cả một vệt phía bờ biển Bà Rịa - Vũng Tàu, ta chưa có gì, phải xây dựng lực lượng ở đó. Hiện ta có hai trung đoàn chủ lực nên đưa cả xuống đó cả vùng Long Điền - Đất Đỏ dân cư đông đúc và giàu có nữa. Rồi mở vùng hoạt động ra Rừng Sác - sông Lòng Tàu thành một vệt, mà gắn với nó là việc xây đựng lực lượng tại chỗ để khi hai trung đoàn chủ lực rút đi thì bàn giao địa bàn và phong trào cho dân quân
du kích và tự vệ"... Những ý kiến đề xuất rất nhiệt tình hăng hái nhưng có cơ sở khoa học của ông Trà được Bộ chỉ huy Miền đồng tình. Họp bàn xong, ông Anh hoàn chỉnh bản kế hoạch, thông qua Bộ chỉ huy Miền rồi sang báo cáo với Trung ương Cục. Nghe ông báo cáo xong, hầu hết mọi người đều nhất trí, chỉ có đồng chí Hai Xô băn khoăn hỏi lại: "Gạo ở đâu? Có chạy được gạo không? Đưa hai trung đoàn chủ lực xuống, ngần ấy con người, lấy gạo đâu mà ăn?". Vậy nên trong Trung ương Cục còn băn khoăn giữa hai ý kiến cho chủ lực đi hay không cho chủ lực đi. Trước "câu hỏi về gạo", cả ông Anh, ông Trà đều lặng im vì chưa biết nên trả lời thế nào. Sau đó, khi xuống họp bàn với cơ quan Hậu cần Miền, ông Sáu Thịnh nói: "Nếu cứ ngồi đây mà bàn thì không ra gạo". Sáu Thịnh là người rất thông thạo vùng ven biển, ông bảo: "Để tôi xuống gặp anh Lạc, Tỉnh đội trưởng Long Khánh". Anh Lạc vốn là dân Công giáo miền Bắc di cư, người của công nhân cao su Long Khánh, anh có cơ sở trong đoàn ô tô vận tải chuyên chở thuê cho Sài Gòn. Khi ông Thịnh xuống trao đổi, anh Lạc nói "Được!". Ông Thịnh ngạc nhiên hỏi lại: "Gạo cho hàng ngàn người ăn trong ba tháng ròng, vậy mà anh nói "được" ngon trớn quá, liệu có chủ quan không?". Anh Lạc bảo: "Một tháng thì chắc rồi. Còn hai tháng nữa sẽ tính!". Sau đó ít ngày, khi đoàn xe cam nhông ầm ầm chạy tối,
anh Lạc mặc bộ đồ của cai kiểm lâm, đội mũ phốt, cầm cây ba toong ngoắc một cái ra hiệu cho xe tới chở gạo. Đoàn xe đi từ Sài Gòn, trở ra Phan Thiết theo quốc lộ ra đến Long Khánh tập kết rồi chở gạo vào rừng theo đường kiểm lâm, ngụy trang như xe chở gỗ. Phần lớn là gạo thơm mua từ Thái Lan về, một số do bà con các ấp mua giúp từ trong vùng địch kiểm soát đưa ra, một số do bà con tự nguyện ủng hộ...
Các đơn vị bộ binh lúc đó tại Nam Bộ hầu hết là tổ chức ở quy mô cấp tiểu đoàn. Ở quy mô cấp trung đoàn, Bộ chỉ huy B2 chỉ có hai đơn vị là Q761 và Q762 nên Bộ chỉ huy đã quyết định điều thêm Trung đoàn 3 ở Khu 9 lên; Khu 9 sẽ thành lập một trung đoàn mới thế chỗ cho Trung đoàn 3. Về bộ đội đặc công, ta đã xây dựng được một số đơn vị, anh em huấn luyện khá tốt. Chỉ còn lực lượng "Biệt động thành" thì Bộ chỉ huy thấy khó vì nhất thiết phải lấy người tại chỗ, tức là người ngay trong lòng đô thị và vùng ven đô, họ phải thông thạo địa hình, hiểu biết phong tục tập quán của địa phương và nắm chắc quy luật hoạt động của quân địch. Vậy mà ông Võ Văn Kiệt khẳng định là "được" và rồi được thật, tuy lúc đầu mới chỉ là những tổ quân báo nhỏ. Về pháo binh, có Đoàn 80 gồm 5 tiểu đoàn, đứng chân ở vùng căn cứ miền Đông Nam Bộ, được bổ sung quân số và trang bị tương đối khá, huấn luyện tập trung quy mô tiểu đoàn và trung đoàn. Các căn cứ hậu cần A, B, C, D đổi tên thành các Đoàn hậu cần: 81, 82, 83 và 84. Mỗi đoàn đều xây dựng kho dự trữ hàng, xưỏng quân giới, bệnh xá, đội vận tải, các đội sản xuất, thu mua, tiếp nhận, phấn đấu xây dựng theo hướng bảo đảm cho bộ đội trên một hướng của chiến dịch. Đầu mùa mưa 1964, Bộ chỉ huy Miền đã tăng cường cán bộ, bổ sung quân số cho các sư đoàn 340B và 445B, thành lập Trung đoàn tiếp vận mang phiên hiệu Đoàn KlO đặt căn cứ ở Hắc Dịch (Bà Rịa), đã tiếp nhận (từ các đoàn tàu Không số ngoài Bắc đưa vào) và vận chuyển hàng chục tấn vũ khí để cung cấp cho các hoạt động quân sự trên toàn Miền.
Cùng với việc xây dựng các đơn vị chủ lực, Bộ chỉ huy Miền rất chú trọng xây dựng lực lượng dân quân du kích và tự vệ. Miền Đông Nam Bộ từng bước được xây dựng thành một chiến trường tiến công diệt địch. Khối chủ lực Miền đã hình thành. Khối dân quân, du kích, tự vệ và biệt động thành cũng được gây dựng và đang trên đà phát triển sâu rộng. Đến cuối năm 1964, việc xây dựng lực lượng đã cơ bản làm xong. Nhiều "vùng trắng" trước đây quân ngụy thả sức tung hoành, hành quân càn quét bắn giết đồng bào ta, nay cơ sở và lực lượng vũ trang cách mạng đã "đỏ khắp nơi như sao sa trên tấm bản đồ miền Nam Việt Nam".
Khi ông Lê Đức Anh từ miền Bắc vào tới Bộ chỉ huy Miền cũng là lúc cơ quan Bộ chỉ huy bắt đầu rục rịch chuẩn bị mở chiến dịch tiến công Bình Giã. Ông đã cùng cơ quan Bộ Tham mưu một mặt bắt tay vào soạn thảo và triển khai kế hoạch xây dựng và phát triển lực lượng như đã nói ở trên, một mặt ráo riết làm mọi công tác chuẩn bị cho chiến dịch, mà trọng tâm là công tác tham mưu.
Phạm vi chiến dịch nằm trên một địa bàn khá rộng lớn thuộc ba tỉnh Bà Rịa, Bình Thuận và Biên Hoà, khu vực tác chiến chỉ cách thành phố Sài Gòn về phía Đông chừng 60km. Vùng địa bàn này nói riêng và miền Đông Nam Bộ nói chung, đối với ông Lê Đức Anh là những miền đất quen thuộc vì ông đã gắn bó, đã lăn lộn chiến đấu với nó gần suốt cả cuộc kháng chiến chống Pháp trước đây. Đường đi lối lại, những địa hình cơ bản ông còn nhớ rất rõ, có những vùng ông đã "thuộc như lòng bàn tay".
Lực lượng tiến công trên hướng chủ yếu là 2 trung đoàn chủ lực của Miền, 4 tiểu đoàn trợ chiến và bộ đội địa phương tỉnh Bà Rịa. Hướng tiến công thứ yếu do Quân khu 6 đảm trách. Hướng tiến công phối hợp do Quân khu 7 và bộ đội địa phương Biên Hòa đảm nhiệm. Phương thức tác chiến chủ yếu là đánh địch ngoài công sự, vận dụng linh hoạt các chiến thuật phục kích, tập kích, vận động tiến công để đánh bại chiến thuật "Thiết xa vận" và "Trực thăng vận" của quân địch trên quy mô chiến dịch.
Hơn một tháng chiến đấu tiến công, chiến dịch Bình Giã đã giành thắng lợi to lớn. Mục tiêu cơ bản của chiến dịch đặt ra đều thực hiện được. Bộ đội miền Đông đã đánh 5 trận cấp trung đoàn, 2 trận cấp tiểu đoàn; diệt gọn 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến và biệt động quân, một chi đoàn thiết giáp; đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn dù và 1 tiểu đoàn bộ binh (có cố vấn Mỹ đến cấp tiểu đoàn); loại khỏi vòng chiến đấu 7 đại đội bảo an; làm tan rã hầu hết lực lượng dân vệ trong khu vực... Phá tan nhiều ấp chiến lược, giải phóng gần 2 vạn dân thuộc huyện Hoài Đức. Vùng căn cứ được củng cố và mở rộng đảm bảo cho tuyến vận chuyển đường biển từ miền Bắc vào chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Từ thắng lợi của chiến dịch, lực lượng vũ trang gồm bộ đội địa phương, dân quân du kích tại vùng này đã phát triển mạnh mẽ, đây là cơ sồ vững chắc để sau đó hình thành Sư đoàn 5 (chủ lực cơ động) và Đoàn 10 (đặc công nước, sau này nhân dân trong vùng gọi là "Đặc công Rừng Sác") hoạt động và đánh địch trên sông Lòng Tàu; đồng thời tăng cường lực lượng đặc công, pháo binh địa phương ở khu vực tổng kho Long Bình, sân bay Biên Hòa và thị xã Biên Hoà.
Gần cuối năm 1964, Bộ Chính trị cử đồng chí Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị vào miền Nam trực tiếp phụ trách, chỉ đạo phong trào. Cùng đi có nhiều cán bộ cao cấp của quân đội, trong đó có các đồng chí Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hòa, Hoàng cầm và Trần Độ. Đến tháng 2-1965, Bộ chỉ huy Miền quyết định mở Chiến dịch Đồng Xoài nhằm đánh gục quân ngụy trước khi Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam.
Có thể nói, sau các chiến dịch: An Lão của Khu 5, Bình Giã và Đồng Xoài của Nam Bộ và hàng loạt trận "tiến công và nổi dậy" trên khắp miền Nam đã thật sự làm cho chiến lược "Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ hoàn toàn phá sản; buộc chúng phải quyết định đưa lực lượng chiến đấu Mỹ và quân một số nước chư hầu vào miền Nam trực tiếp tham chiến. Đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ" tuy rất độc ác, quyết liệt nhưng chuyển trong một tình thế hoàn toàn bị động. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta bước sang một giai đoạn mới.
Từ tháng 9 năm 1965, ba sư đoàn chủ lực cơ động của Nam Bộ lần lượt được thành lập: Sư đoàn 9 thành lập ngày 2 tháng 9 năm 1965 ở Chiến khu Đ. Sư đoàn 5 thành lập ngày 23 tháng 9 năm 1965 ở Bà Rịa. Sư đoàn 7 thành lập tháng 6 năm 1966. Sự ra đời của 3 sư đoàn bộ binh chủ lực cơ động đánh dấu bước phát triển vượt bậc của bộ đội Nam Bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của chiến trường khi cuộc chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ tại Nam Việt Nam đã lên đến đỉnh cao.
Có lẽ vì ông làm công tác tham mưu, hàng ngày cùng anh em cộng sự và cán bộ chỉ huy cấp dưới cọ xát với thực tế, điều tra nghiên cứu tình hình địch, bước đầu đã có những nhận biết thực tế về quân Mỹ từ buổi chúng đổ bộ vào miền Nam, nên cuối năm 1966, ông được Trung ương gọi ra miền Bắc báo cáo tình hình mọi mặt của chiến trường miền Nam. Sau đó, đồng chí Lê Duẩn cử ông là thành viên trong phái đoàn của Việt Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang Trung Quốc. Cùng đi trong đoàn có cả ông Lý Ban là Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Việt Nam. Đây là lần thứ ba ông sang đất Trung Quốc. Lúc đó không quân Mỹ đang đánh phá ác liệt miền Bắc, nên Tổng cục Chính trị đã đưa đoàn sang tận Quảng Châu. Từ Quảng Châu lại đi máy bay đến Tô Châu để gặp Chủ tịch Mao Trạch Đông. Cuộc tiếp kiến này có đại diện Bộ Quốc phòng, đại diện Chính phủ và đại diện của Bộ Ngoại thương Trung Quốc là Thứ trưởng Lý Gường. Khi gặp đoàn, Mao Chủ tịch hỏi không nhiều, rất ngắn gọn là đằng khác: "Quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam đông, tư tưởng của người dân và chiến sĩ thế nào?". "Hiện nay, cách mạng ở miền Nam của các đồng chí có khó khăn gì?". Khi đó Thủ tướng Phạm Văn Đồng bảo ông Lê Đức Anh mới ở miền Nam ra, hãy trả lời Mao Chủ tịch. Ông Anh cũng trả lời thẳng vào hai ý đó. Thứ nhất về tư tưởng, Mỹ vào đông vậy chứ đông hơn nữa thì bộ đội và nhân dân miền Nam cũng quyết đánh. Hai là, về khó khăn, vừa qua và hiện tại, tất cả là tự lực, súng đạn tự tạo, có gì đánh nấy. Nhưng hiện nay có khó khăn rất lớn là xe tăng và máy bay của Mỹ rất nhiều nhưng Việt Nam thiếu vũ khí chống tăng, bắn máy bay và đánh tàu thủy; thiếu đô-la để mua gạo, vì từ trước đến nay cách mạng ở miền Nam Việt Nam vẫn mua gạo ở Cam-pu-chia và Thái Lan là chủ yếu, mà mua bên đó phải mua bằng đồng đô-la. Nghe ông báo cáo vậy, ông Mao liền chỉ tay vào các quan chức, những người dưới quyền ông đang có mặt tại đó: "Hãy giải quyết cho các đồng chí Việt Nam súng đạn và tiền!". Nhớ dịp sang Trung Quốc lần trước nên ông Anh nghĩ rằng ông Mao chỉ tay và nói thế thôi, chứ cụ thể nếu có được thì chắc còn lâu. Nào ngờ, xong việc, khi đoàn về đến nơi thì
cũng được tin Đảng Cộng sản, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc đang tích cực thực hiện chỉ đạo của Mao Chủ tịch.
Khi trở về miền Nam, ông đã thấy vũ khí được chở từ Trung Quốc sang cảng Xi-ha-núc-vin, rồi từ đây ô tô chở thẳng tới kho hậu cần của Bộ chỉ huy Miền. Có vũ khí mới, có tiền, lúc đó lãnh đạo Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền rất khẩn trương và phấn khởi làm kế hoạch bổ sung cho các đơn vị và địa phương, kể cả lực lượng dân quân du kích.
Lúc này quân Mỹ đã vào đông, nó hung hăng đánh ra vùng ven Sài Gòn và càn quét rộng ra các vùng xung quanh. Lãnh đạo B2 dự đoán, thế nào nó cũng tổ chức càn quét lên vùng đứng chân của Trung ương Cục (căn cứ Chiến khu Dương Minh Châu). Bộ chỉ huy Miền họp bàn về sử dụng chủ lực thế nào để vừa bảo toàn được lực lượng lại vừa cơ động đánh tiêu hao, tiêu diệt địch, bẻ gãy gọng kìm hành quân "tìm diệt" của Mỹ-ngụy, tạo điều kiện cho bộ đội địa phương và dân quân du kích tại chỗ làm phá sản gọng kìm "bình định" của chúng. Nếu địch tập trung binh lực và hoả lực lớn, đánh phá quyết liệt thì cơ quan Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền nên đi hay ở... Khi bước vào họp bàn, Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đề xuất ý kiến: "Trước đây, khi quân Mỹ mới ồ ạt đổ bộ vào miền Nam, chúng đang hung hăng điên cuồng, còn ta vừa chưa hiểu quân Mỹ, vừa có nhiều khó khăn nội tại chưa khắc phục được, nên lúc đầu ta chủ trương sơ tán đê bảo toàn lực lượng. Nay ta đã có nhiều thuận lợi mới, nhất là về khâu tiếp tế hậu cần cho chiến đấu, hơn nữa ta đã có kinh nghiệm, chiến đấu đánh địch tại mùa khô năm ngoái khi chúng mở cuộc hành quân càn quét At-ten-bô-rơ, thì nay ta quyết tâm và có đủ cơ sở để tổ chức đánh bại cuộc hành quân Jan-xơn-ci-ti của chúng. Song, vì nó quyết "tìm và diệt" cơ quan đầu não kháng chiến, tìm và diệt chủ lực của ta thì cơ quan đầu não, cụ thể là Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền cần phải di chuyển ra khỏi tầm phi pháo của chúng để bảo đảm an toàn, nhưng cũng chỉ những người, những tổ chức thật cần thiết, và phải gọn nhẹ; còn cơ bản là ở tại chỗ, chúng ta sẽ tổ chức đánh địch bằng một phương thức mới. Còn chủ lực lúc này ta có Sư đoàn 9 gồm 3 trung đoàn bộ binh thì Trung đoàn 3 đã phân tán cùng các cơ quan dân-chính-đảng, còn hai trung đoàn 1 và 2 thì đứng chân ở bên ngoài làm lực lượng cơ động, sẵn sàng tập kích vào các cụm quân địch khi chúng sơ hở. Lực lượng tại chỗ của cơ quan Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền quyết bám trụ và bung ra đánh, không chạy! Mà muốn bám trụ trong hoàn cảnh rất đặc thù là trên địa bàn tác chiến không có dân, thì ta sẽ tổ chức bộ đội ở các cơ quan của Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền thành các "huyện căn cứ", các "xã căn cứ" để phát huy cao độ ưu thế của du kích chiến, thì nhất định ta bẻ gãy được tất cả các cuộc tiến công, nhất định đánh bại được cuộc hành quân quy mô lớn mà chúng hung hăng ỉ thế vào vũ khí và phương tiện hiện đại". Bộ tư lệnh Miền và Trung ương Cục nhất trí với đề xuất này và giao cho ông việc tể chức lực lượng đánh địch tại chỗ. Ông Anh đảm nhận cương vị '"Tỉnh đội trưởng".
Phương châm tác chiến được xác định là tổ chức các "ấp, xã chiến đấu", bám trụ đánh địch tại chỗ, bám sát địch mà diệt, nơi địch không đến thì bung ra tìm địch mà đánh; thực hiện tiêu hao địch rộng rãi. Vừa chiến đấu vừa bảo đảm phục vụ chiến đấu, bảo vệ an toàn cho cơ quan và kho tàng, duy trì được cuộc sống và sinh hoạt bình thường trong căn cứ để đánh lâu dài với địch. Bộ đội chủ lực thì tập trung và phân tán linh hoạt, sẵn sàng cơ động, tránh chỗ mạnh của địch, nhằm vào chỗ yếu, nơi sơ hở của chúng mà đánh. Phối hợp chặt chẽ với du kích, cơ quan, tổ chức các trận đánh nhỏ, đánh vừa, tạo thời cơ để đánh lớn, tiêu diệt hoặc loại khỏi vòng chiến tiểu đoàn, chiến đoàn địch bằng tập kích, phục kích, bẻ gãy các mũi hành quân càn quét của địch. Rồi ông trực tiếp giao nhiệm vụ cho các đầu ngành của Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền, mỗi ngành sẽ tổ chức thành một "Huyện đội" do đồng chí Chủ nhiệm ngành làm "Huyện đội trưởng", tổ chức triển khai đứng chân và xây dựng trận địa chiến đấu trên một địa bàn huyện (hành chính) với các "xã chiến đấu", "ấp chiến đấu" có chiều sâu và chiều rộng phòng ngự liên hoàn. Mỗi cơ quan từ 20 đến 30 người tổ chức thành một "ấp" chiến đấu và có một tiểu đội du kích. Từ hai đến ba "ấp" thành một "xã". Xã có 3 đội du kích; huyện có đại đội cơ động. Ngoài công sự chiến đấu và giao thông hào, các cơ quan và đơn vị phải đào hầm bí mật dự trữ 3 tháng lương thực, thực phẩm. Trên các khu vực được phân công, các cơ quan và đơn vị tiến hành kiểm tra, bổ sung phương án tác chiến, phương án hiệp đồng và hoàn thành mọi công tác chuẩn bị trước tháng 2 năm 1967.
Bộ chỉ huy Miền thì đứng chân ở sở chỉ huy cơ bản, giáp biên giới Cam-pu-chia, phía bắc lộ 7, nằm ngoài tầm pháo của địch. Còn "Sở chỉ huy tiền phương" do ông Anh phụ trách thì cơ động linh hoạt trong địa bàn tác chiến. Nói là "Sở chỉ huy" cho nó oai chứ thực chất khi chiến sự diễn ra chỉ có 6 ngưòi: Lê Đức Anh, Bảy Hùng (tức Võ Thanh Hùng phụ trách trang bị); Bình Minh (tức Hai Đấu - Huỳnh Ngọc Đấu), và ba chiến sĩ bảo vệ. Bảy Hùng đề nghị với ông mở kho phát vũ khí cho anh em, đánh xong thu lại. Lời đề nghị cũng trùng hợp với ý của ông, ông liền bảo đồng chí Bảy Hùng viết giấy, còn ông ký. Mỗi chiến đấu viên được trang bị một tiểu liên AK, mỗi tổ một súng chống tăng B40 và 3 quả đạn. Nhiều cậu sướng quá cứ vuốt ve ngắm nghía súng một chặp mới vác về.
Ông Anh cho biết: "Hồi đó, cách đánh của anh em là lập tổ 3 người, ngụy trang kín đáo, khi thằng Mỹ tiến vô, bị bắn một thằng, hai thằng sau lên lấy xác, đội thiện xạ tiêu nốt. Mà quân Mỹ to xác nên bắn dễ trúng, bởi vậy lính Mỹ chết nhiều. Nhưng một số nơi báo cáo là "diệt gọn đại đội, tiểu đoàn Mỹ" là không đúng. Cách đánh của ta là nhằm vào chỗ sơ hở của nó, tập kích nhanh, rút nhanh, làm sao đếm được xác, nên ta báo cáo không đúng. Tôi bảo anh em trinh sát kỹ thuật nắm tình hình cho thật sát để các đơn vị báo cáo đúng, không nên chạy theo chủ nghĩa thành tích. Đơn vị nào cũng nói tăng lên thì khi tới Bộ chỉ huy Miền tổng hợp lại sẽ có một con số rất lớn, như vậy thì không đúng sự thật. Hôm trước báo cáo "đã tiêu diệt", hôm sau lại thấy chính cái tiểu đoàn đó nó hành quân càn quét. Bởi vậy, số lượng địch bị diệt do các nơi báo cáo chỉ là con số tham khảo. Khi các đồng chí viết lịch sử, phải xác minh để viết cho đúng số liệu và sự kiện. Được tin về chiến dịch phản công Jan-xơn-ci-ti, hồi đó Bác Hồ có điện vào: "Các chú đánh giặc giỏi, Bác khen, nhưng giải quyết thương binh thế nào?". Cả 600 thương binh, kể cả số thương binh có trước chiến dịch, từ Củ Chi và các nơi đưa về bệnh viện Miền, do đồng chí Đào Sơn Tây tổ chức đưa được ra khỏi vùng tác chiến an toàn. Một tháng sau, Bộ chỉ huy Miền báo cáo với Bác là thương binh đã đưa được hết ra ngoài".
Hỏi về cuộc phản công đánh bại cuộc tiến công mang tên Jan-xơn-ci-ti của quân chiến đấu Mỹ- ngụy, tôi được các đồng chí Phòng Khoa học-Công nghệ Quân khu 7 và Hội Cựu chiến binh thành phố Hồ Chí Minh giới thiệu đến gặp đại tá Bạch Vân, nguyên là Trưởng phòng 2 của Bộ chỉ huy Miền những năm đánh Mỹ. Ông Bạch Vân còn lưu trữ khá đầy đủ và nhớ rõ những diễn biến của chiến dịch phản công nổi tiếng này của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Xin lược ghi lời kể của ông:
"Sau khi thất bại chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", từ giữa năm 1965, Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ" với nội dung chủ yếu là:
- Triển khai nhanh quân chiến đấu Mỹ ở miền Nam, bố trí ở các địa bàn trọng yếu, ngăn chặn quân giải phóng, ổn định và xây dựng quân ngụy Sài Gòn.
- Mở các cuộc hành quân, phản công chiến lược nhằm, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và chủ lực của ta và giành quyền kiểm soát nông thôn.
- Tiếp tục hành quân "tìm diệt" chủ lực ta, hỗ trợ cho quân ngụy "bình định" để tiến tới có thể rút dần quân Mỹ.
Từ khi đổ bộ ồ ạt vào miền Nam nước ta, quân Mỹ cùng với quân các nước chư hầu đã tiến hành hai cuộc phản công chiến lược vào hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, trong đó Đông Nam Bộ được coi là một trong hai hướng tiến công chủ yếu của chúng.
Cuộc phản công lần thứ nhất, mùa khô 1965 - 1966, chúng đánh vào vùng Hố Bò, An Nhơn Tây thuộc Củ Chi. Sau đó chúng đánh lên sát biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia nhưng bị thất bại, không đạt được ý đồ diệt hoặc đánh bật chủ lực ta và đầu não Quân khu Sài Gòn-Gia Định.
Cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, mùa khô 1966-1967, mà đỉnh cao là cuộc hành quân Jan-xơn-ci-ti. Đây là cuộc hành quân then chốt trong cuộc phản công mùa khô lần thứ hai, một cố gắng trên bộ lớn nhất của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam do Bộ tư lệnh dã chiến II của Mỹ trực tiếp vạch kế hoạch và chỉ đạo nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của Nam Bộ, đồng thời "đánh gẫy xương sống Việt Cộng", tức là nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng nhất của chủ lực B2; xoá căn cứ kháng chiến bắc Tây Ninh để giành thắng lợi, tạo ra bước ngoặt của cuộc chiến tranh. Địch đã huy động đến 45.000 quân, gồm: 22 tiểu đoàn Mỹ (thuộc các sư đoàn bộ binh số 1 và 25, lữ dù 173, lữ 1 sư đoàn 9 và lữ 3 sư đoàn 4); 3 tiểu đoàn quân ngụy Sài Gòn; 1.200 xe tăng và thiết giáp; 256 cỗ pháo các loại; 300 máy bay lên thẳng, 3 phi đoàn máy bay vận tải... do tướng ba sao Giôn-na-than Si- mân, Tư lệnh Dã chiến II trực tiếp chỉ huy. Thời gian của cuộc chiến kéo dài 53 ngày, từ 22 tháng 2 đến 15-4-1967.
Trên cơ sở đánh giá toàn diện tình hình địch, ta, Bộ chỉ huy Miền thấy ta có khả năng bám trụ và chiến đấu tự vệ vùng căn cứ nên đã quyết định mở chiến dịch phản công nhằm đánh bại cuộc hành quân Jan-xơn-ci-ti của Mỹ, bảo vệ căn cứ kháng chiến, bẻ gẫy gọng kìm "Tìm diệt" để hỗ trợ cho bộ đội địa phương, dân quân du kích và quần chúng yêu nước phá, làm thất bại gọng kìm "bình định", tạo thời cơ và điều kiện mới cho cuộc kháng chiến giành thắng lợi cho giai đoạn mới tiếp sau...
Lực lượng chúng của ta khoảng 5.000 "du kích cơ quan"; nếu tính cả chủ lực và "bộ đội địa phương" thì tổng quân số chiến đấu tại chỗ khoảng 10.000 người...
Tư tưởng chỉ đạo là - Bám trụ vững chắc, thực hành tiến công kiên quyết, phản công mạnh mẽ, kết hợp ba thứ quân tiến hành đánh nhỏ, đánh vừa và tạo điều kiện để đánh lớn; bảo đảm đánh dài ngày, mạnh bạo nhưng chắc thắng, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, bảo vệ được cơ quan, kho tàng và căn cứ kháng chiến...
Phòng Quân báo Miền của tôi cũng như các cơ quan khác phải vừa làm việc chuyên môn vừa sẵn sàng chiến đấu, thường xuyên theo dõi chiến đấu, nắm bắt mọi tin tức của địch trên chiến trường B2 nói chung và quân địch cụ thể trong cuộc hành quân Jari-xơn-ci-ti nói riêng...
Trước khi chính thức nổ súng mở màn cuộc hành quân càn quét Jan-xơn-ci-ti, chúng đã tổ chức 21 ngày hoạt động thăm dò, nghi binh, dọn bãi đổ quân rất ác liệt bằng 15 phi vụ ném bom chiến lược bằng máy bay B52 (từ 45 đến 60 lần I chiếc), 30 phi vụ đánh bom chiến thuật bằng máy bay phản lực cường kích (90 lần chiếc), 50 phi vụ máy bay rải chất độc hoá học.
Cuộc hành quân của chúng chia thành 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 từ 22-2 đến 15-3-1967, chúng đánh vào hướng tây bắc tỉnh Tây Ninh, đông và tây đường số 22 thuộc các huyện Tà Đạt, Sóc Ky nhằm vào cơ quan Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền. Ngay trong ngày đầu, các lực lượng tại chỗ của ta đã đánh trả quyết liệt, vừa diệt địch (19 tên, 16 xe tăng, 16 máy bay...) vừa chặn đứng các mũi đột kích, làm thất bại phương án "hợp điểm" của quân địch tại huyện Tà Đạt Những ngày sau, khí thế hùng hổ của quân địch đã giảm hẳn, tốc độ hành quân chậm lại, chúng vừa tiến vừa thăm, dò. Thất bại trong 8 ngày đầu tiên buộc quân địch phải co lại giữ chốt, bảo vệ hành lang vận chuyển, tạo thế cho bước kế tiếp. Sau 4 ngày Bộ chỉ huy quân Mỹ đã thừa nhận thất bại (ta thu được qua sóng điện đài)- Tướng 3 sao trực tiếp chỉ huy cuộc hành quân nói "Không lường được Lầu Năm Góc của Việt Cộng", còn tướng Oết-mo-len, Tổng chỉ huy quân Mỹ ở Nam Việt Nam thì thốt lên "Không thấy bóng dáng của Việt Cộng mà đến đâu quân Mỹ củng bị đánh". Kết thúc giai đoạn 1 phía ta vẫn chưa phải sử dụng chủ lực, còn phía Mỹ đã cách chức tướng chỉ huy cuộc hành binh Giôn-na-than Si-mân.
Giai đoạn 2 từ 16-3 đến 15-4-1967 - Quân địch tiến công đánh vào khu đông bắc của căn cứ kháng chiến, từ đông đường số 4 lên Ka Tum; thủ đoạn chiến thuật của chúng là kết hợp giữa các mũi đột kích của bộ binh với việc dùng máy bay trực thăng chở quân đổ bộ tập kích bất ngờ vào bên sườn và phía sau đội hình bố trí của ta để nhằm chụp bắt lực lượng ta. Lúc này Bộ chỉ huy chủ trương tung chủ lực vào thực hành đánh lớn, mục tiêu là tiêu diệt chiến đoàn trở lên, trong khi các lực lượng vũ trang địa phương vẫn giữ vững quyền chủ động, phản công đánh địch ngay từ đầu và suốt đợt chiến đấu. Trong giai đoạn này địch tổ chức một số chốt dã chiến tương đương cấp chiến đoàn, có xe tăng, thiết giáp, pháo binh và lô cốt bê tông đúc sẵn. Ta đã sử dụng Trung đoàn 2 và Trung đoàn 16 bộ binh chủ lực, thực hiện xuất sắc trận quyết chiến Đồng Rùm, đồng thời phát triển thế tiến công, phối hợp du kích bao vây quân địch ở cụm Sóc Con Trăng với việc bung ra đánh địch tăng viện và tạo bước ngoặt cho toàn chiến trường. Trong giai đoạn này lực lượng tại chỗ tiếp tục phát huy được vai trò của mình, lực lượng chủ lực về cơ bản đã thực hiện được ý định của Bộ chỉ huy chiến dịch.
Ngày 15-4-1967, bộ phận quân địch cuối cùng của cuộc hành quân Jan-xơn-ci-ti rút khỏi địa bàn tác chiến, kết thúc cuộc chiến một cách thảm bại...
Về ta: Dưới sự chỉ đạo của Bộ chỉ huy Miền mà trực tiếp là Bộ Tham mưu Miền do anh Sáu Nam làm Tham mưu trưởng, đã đánh bại cuộc hành quân Jan-xơn-ci-ti, một cuộc hành quân trên bộ lớn nhất của quân đội Mỹ ở Việt Nam. Bài học rút ra từ đây là quán triệt tư tưởng tiến công, thể hiện quyết tâm và phương châm tác chiến là tạo được thế trận chiến tranh nhân dân trên một vùng không có dân bằng cách sử dụng lực lượng các cơ quan, hình thành xã, ấp chiến đấu và lực lượng tại chỗ kết hợp với một bộ phận chủ lực, vừa kiên quyết bám trụ tại chỗ, vừa thực hành liên tục phản công và tiến công. Nói đến thắng lợi đánh bại cuộc hành quân Jan-xơn-ci-ti không thể không nói đến vai trò của anh Sáu Nam".
Cuộc hành quân Jan-xơn-ci-ti của quân Mỹ bắt, đầu sáng sớm ngày 22 tháng 2 và kết thúc ngày 15 tháng 4 năm 1967. Chúng không tìm và diệt được cơ quan đầu não kháng chiến của ta, không tìm và diệt được các đơn vị chủ lực của ta, không phá được căn cứ kháng chiến, không bịt được biên giới. Ngược lại, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 14 ngàn tên, chủ yếu là Mỹ; phá hủy hơn 992 xe quân sự, 112 khẩu pháo, bắn rơi và phá hủy 160 máy bay, hầu hết là máy bay trực thăng, đánh thiệt hại nặng nhiều đơĩi vị tinh nhuệ của Mỹ.
Nếu nói về nghệ thuật chiến dịch thì ở đây chúng ta đã tạo ra thế chiến tranh nhân dân trên một địa bàn không có dân để phân tán, căng kéo lực lượng địch, tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực tác chiến ở vòng ngoài tập trung đánh những đòn mạnh vào bên sườn và phía sau đội hình quân địch, và đã đánh tiêu diệt, đánh thiệt hại nặng các cụm quân Mỹ. Thế chiến tranh nhân dân do ta tạo nên ở một địa bàn không có dân là một bất ngờ lớn đối với địch. Quân địch đi tới đâu cũng bị đánh, bởi vậy chúng phải để một lực lượng tương đối lớn (11/26 tiểu đoàn) để bảo vệ căn cứ và trục đường giao thông, chính vì thế chúng tuy đông nhưng quân số trực tiếp chiến đấu lại bị hạn chế (trong đợt một chỉ có 8/26 tiểu đoàn). Lực lượng tại chỗ đánh tốt đã tạo điều kiện cho chủ lực ta rảnh tay để đánh những trận mang tính tiêu diệt các đơn vị quân Mỹ. Quân Mỹ tìm để diệt chủ lực ta thì không thấy, nhưng khi chúng trú quân hoặc đổ bộ để càn quét lại bị quân ta giáng cho nhũng đòn đau.
Tuy mở đầu chiến dịch, quân Mỹ chủ động tiến công, nhưng ta từ chỗ tạo được thế chủ động về chiến thuật, về cách đánh, đã chuyển thành sự chủ động về chiến dịch, kiên quyết và liên tục phản công đánh bại những cuộc tiến công của chúng.
Mùa hè năm 2003, tôi có dịp gặp gỡ những đồng chí cựu chiến binh đã tham gia cuộc phản công Jan-xơn-ci-ti, họ đều khẳng định: Chủ trương là của lãnh đạo Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền để đánh bại cuộc hành quân Jan-xơn-ci-ti, ông Lê Đức Anh là người được giao nhiệm vụ trực tiếp tổ chức và chỉ huy thực hiện chủ trương của lãnh đạo và cách đánh của Trung ương Cục, Bộ chỉ huy Miền để giành thắng lợi.
Tổng kết chiến dịch phản công Jan-xỢĩi-ci-ti xong thì Tết Mậu Thân đang đến gần. Ông Anh kể: "Trước ngày nổ súng Tổng tiến công Mậu Thân 1968, tinh thần cán bộ và bộ đội rất phấn khởi, tin tưởng, vì quân địch đang hoang mang, nên lúc nghe phổ biến nhiệm vụ, mọi người cũng giản đơn, nghe và triển khai làm, không hề hỏi lại, không dự kiến các tình huống. Nhưng khi làm kế hoạch (trước lúc đánh) thì làm rất kỹ, bàn lui bàn tới. Đến lúc bắt tay vào chuẩn bị cụ thể thì thời gian lại gấp quá, mà ta cũng đơn giản.
Việc phổ biến kế hoạch thì anh Nguyễn Văn Linh và anh Hoàng Văn Thái làm; tôi không thấy có các quân khu, riêng Sài Gòn có anh Võ Văn Kiệt và anh Hải Phụng. Ta đã giữ được bí mật đến tận giờ nổ súng mặc dù thời gian chuẩn bị có thể nói là gấp; ta phải nhanh chóng đưa được một khối lượng rất lớn vũ khí và phương tiện chiến đấu vào ém sát các mục tiêu dự định tiến công trong sự canh gác, kiểm soát rất gắt gao của quân địch, vượt qua các tuyến đóng quân và hoạt động dày đặc của chúng ở các thành phố, đô thị và căn cứ quân sự, nhất là thành phố Sài Gòn, sào huyệt, cơ quan đầu não của Mỹ-ngụy. Tất cả những cái gì lo trước được, ta đã tính toán chuẩn bị, nhất là việc xây dựng các cơ sở cách mạng quần chúng, hồi đó gọi là các "lõm" ngay trong lòng đô thị mà quân địch đang chiếm giữ. Cho đến bây giờ, nhiều nước, nhiều nhà nghiên cứu quân sự, kể cả bộ máy chiến tranh của Mỹ vẫn cố tìm hiểu bằng cách gì mà ta triển khai trên diện rộng toàn miền Nam, bằng cách gì mà ta đồng loạt nổ súng tiến công ở tất cả các đô thị, tỉnh lỵ mà vẫn giữ được tuyệt đối bí mật? Lúc đó, Trung ương Cục gọi riêng từng đồng chí Bí thư Tỉnh ủy lên giao nhiệm vụ, căn dặn, "hiệp đồng", và như vậy, mỗi tỉnh chỉ duy nhất một người biết rõ "Giờ G, ngày N"- Thời điểm nổ súng tiến công. Trong đó, biết bao nhiêu công tác phải triển khai, bao nhiêu việc phải chuẩn bị. Điều này nói lên sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh tài tình, sáng tạo của Trung ương Đảng ta và ý thức trách nhiệm rất cao, sự thống nhất ý chí, sự nghiêm minh của kỷ luật chiến trường đã quyện trong ý thức tự giác, lòng trung thành và phẩm chất mẫu mực của đội ngũ Bí thư Tỉnh ủy, những người đứng đầu và đại diện cho sự lãnh đạo của Đảng tại các địa phương, và toàn thể đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị lực lượng vũ trang ba thứ quân. Ngay sự thống nhất ý chí và hành động đã tạo nên sức mạnh tiến công đối với quân thù.
Cuộc tiến công táo bạo của ta đã làm cho bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ sững sờ, choáng váng. Chỉ trong 24 giờ đồng hồ, toàn bộ hậu phương an toàn nhất của kẻ địch, tất cả thành phố, tỉnh lỵ mà trước đó hầu như đứng ngoài cuộc chiến, nay đều bị tiến công đồng loạt. Các mục tiêu quan trọng nhất từ Bộ tổng tham mưu đến Biệt khu Thủ đô, từ dinh Tổng thống ngụy đến toà Đại sứ Mỹ đều bị đánh phá ác liệt. Cái thế của hai bên trong chiến tranh bỗng chốc bị đảo lộn, hậu phương yên ấm, của kẻ địch bỗng chốc trở thành tiền tuyến nóng bỏng. Trong lúc Mỹ-ngụy có hơn một triệu quân lại bố trí trong thế phòng thủ liên hoàn, chặt chẽ mà chúng hoàn toàn bất ngờ. Có thể nói là đợt đầu tiên chúng ta đánh thật là tuyệt vời. Ta đã ra đòn bất ngờ và đánh trúng vào hệ thần kinh trung ương của địch, đã làm cho tòa Bạch ốc Hoa Kỳ bàng hoàng...
Tôi được phân công chỉ huy bộ đội ở hướng tây nam Sài Gòn, từ Long An đánh vào khu vực quận 5 và Biệt khu Thủ đô, Tổng nha Cảnh sát, Cảnh sát đô thành. Sở chỉ huy của tôi đặt ở bên sông Vàm cỏ Đông. Trước Tổng tiến công, Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền tổ chức bố trí chiến trường, thành lập khu trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, anh Nguyễn Văn Linh làm Bí thư, có hai Bộ chỉ huy Tiền phương (tức Sài Gòn và vùng phụ cận). Anh Trần Văn Trà và Mai Chí Thọ phụ trách Tiền phương Bắc, còn gọi là Tiền phương I. Anh Võ Văn Kiệt phụ trách Tiền phương Nam, còn gọi là Tiền phương II. Tiền phương I phụ trách chủ lực hướng bắc, tây bắc và đông thành phố, bao gồm các phân khu 1, 4, 5 và một phần phân khu 2 (tức củ Chi, Hóc Môn, Dĩ An, Gò yấp, Lái Thiêu, Thủ Đức, một phần Bình Tân), mục tiêu là khu Quán Tre, một nửa sân bay Tân Sơn Nhất, các căn cứ quân sự Gò vấp, thị xã Gia Định, Bộ tổng tham mưu ngụy, đồng thời phụ trách các tiểu đoàn chiếm lĩnh nối tiếp biệt động nội thành. Tiền phương II phụ trách hướng nam và một phần tây nam, toàn bộ lực lượng biệt động và quần chúng vũ trang nội thành từ quận 1 đến quận 8, trừ quận 9. Dùng biệt động đánh các mục tiêu tòa Đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, Đài phát thanh, Bộ tổng tham mưu, Bộ tư lệnh Hải quân, Kho xăng Nhà Bè, Tổng nha cảnh sát và một nửa sân bay Tân Sơn Nhất; phát động quần chúng chiếm các khu lao động, chờ đón quân chủ lực vào nội thành...
Khi vào, tôi có gặp anh Trần Bạch Đằng (anh Trần Bạch Đằng cùng ở Tiền phương II với anh Võ Văn Kiệt), anh Linh cũng đang có mặt tại đây. Tôi đề xuất không nên mở đợt 2 đánh vào nội đô nữa vì không còn yếu tố bí mật bất ngờ; đợt 2 có mở thì nên đánh ra vùng ven đô và phụ cận. Lúc đó máy bay trực thăng vũ trang của Mỹ-ngụy nó bay trên đầu như đàn châu chấu. Anh Hoàng Văn Thái nói rằng hướng của tôi gặp sình lầy, khó khăn, nên sẽ tăng cường cho tôi một trung đoàn nữa. Tôi lấy một tiểu đoàn của Long An do anh Hai Hoàng làm Tiểu đoàn trưởng. Đưa Trung đoàn 3 vào áp sát quận 6, gần tới Phú Lâm, bắn cối xong thì đột kích vào trung tâm, Phú Lâm. Các đơn vị này đánh rất giỏi, thọc sâu vào tận quận 5, ở lại một ngày, quân nó bu tới đánh, sau đó tôi lệnh cho các anh rút ra. Đồng
bào Hoa kiều đã chỉ dẫn cho bộ đội ta đục xuyên các tường nhà để bí mật rút ra. Chỗ nào không đục được thì vận động trên mái nhà. Còn thương binh thì bà con người Việt và người Hoa mang giấu, cứu chữa và nuôi dưỡng, họ bảo chữa lành mới đưa anh em ra. Tôi được biết trong đợt 1, ở quận 3 có bà mẹ khi che giấu một chiến sĩ ta bị thương trong nhà mình, người con trai của bà mẹ là trung tá hải quân ngụy, nhưng anh ta không những không tố giác hoặc xử lý người chiến sĩ thương binh Quân giải phóng mà còn đi mua thuốc để chữa chạy cho anh thương binh này. Ở quận 5 cũng có một bà mẹ có hành vi nhân ái tương tự.
Sau đợt 2, tôi đề nghị dứt khoát thôi, rút ra. Dân chỉ giúp đỡ chứ không "nổi dậy" thì quân ta không ở nữa, rút ra! Riêng Biệt động thành ở lại thực hiện "điều lắng" (tan, hòa vào dân). Anh Linh lặng im và đồng ý. Hồi đó, làm việc ở R (rờ) "làm thinh là đồng ý". Trong những ngày chiến đấu căng thẳng và khẩn trương, thời gian thì gấp lại nhiều việc phải giải quyết nên chủ yếu là nghe lệnh trên và nắm chắc hướng của mình phụ trách, còn các hướng khác không thể biết. Nhưng tôi có nghe hướng của anh Trà không vào được vì nó phòng thủ rất rắn, chỉ vào được tới cầu Thị Nghè...".
Khi được tiếp kiến các cựu chiến binh đã trực tiếp tham gia Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, người viết đã được nghe đại tá Nguyễn Ngọc Lân, nguyên Phó trưởng phòng 2-Bộ chỉ huy Miền nói rằng:"... Sau đợt 1 Mậu Thân 1968, ở Sài Gòn - Gia Định và các đô thị trên chiến trường B2 ta giành thắng lợi lớn cả quân sự và chính trị. Nhưng tổn thất cũng rất nặng nề. Không kịp bổ sung, chấn chỉnh. Nhiều đơn vị cấp trung đoàn, tiểu đoàn không còn sức chiến đấu. Có đại đội mới được bổ sung buổi sáng, đến chiều tối đã hy sinh 2/3, cán bộ trung đội, đại đội chưa thuộc hết tên chiến sĩ đã hy sinh. Lực lượng biệt động Sài Gòn - Gia Định gần như tê liệt. Địch lúc đầu bị đánh bất ngờ, hoang mang, hỗn loạn. Nhưng lực lượng chủ lực của Mỹ- ngụy chưa bị thiệt hại nặng, còn sức gượng lại và tổ chức phản kích quyết liệt trên các địa bàn ven đô thị và khu trung tuyến. Hệ thống chỉ huy của ta từ Miền xuống các địa phương, đơn vị rất khó khăn, nhiều nơi gần như không có báo cáo.
Chấp hành nghị quyết của Trung ương Cục và Quân ủy - Bộ chỉ huy Miền, ta vẫn chủ trương tiếp tục tiến công đợt 2 vào đô thị theo tỉnh thần "Tổng công kích, tổng khởi nghĩa là một quá trình...".
Theo tôi biết, trong lãnh đạo chỉ huy các cấp lúc bấy giờ đã có những ý kiến khác nhau, nhất là các cấp dưới tuy trong tư tưởng chưa thật thông nhưng không dám công khai phát biểu. Cá biệt đã có cán bộ dao động, đầu hàng địch.
Vào đợt 2, ta cũng đánh được vào nhiều nơi trong nội đô, có gây tiếng vang nhưng tiếp tục bị tổn thất lớn hơn, khó khăn thêm. Trong đợt này, anh Sáu Nam - Phó tư lệnh Miền được cử chỉ huy trực tiếp cánh Tây-Nam, xuống đến vùng ven Bình Chánh. Tham gia chiến đấu trên hướng này có Sư đoàn 9 do anh Sáu Khâm làm Sư trưởng.
Sau đợt 2, chuẩn bị đánh tiếp đợt 3 vào đô thị. Nhưng tư tưởng và ý kiến của cán bộ, chiến sĩ càng phân tán. Tôi được biết chính Thủ trưởng Sáu Nam là một trong số ít người đầu tiên đề xuất ý kiến tạm thời ngừng tấn công vào đô thị vì không còn yếu tố bí mật bất ngờ, không còn thời cơ và không đủ lực. Lúc bấy giờ nhiều người trong chúng tôi cũng nghĩ như vậy nhưng không dám nói ra vì sợ bị quy chụp là "dao động, không chấp hành nghị quyết".
Đòn tiến công Mậu Thân - 1968 đã gây kinh hoàng cho cả nước Mỹ. Khắp các bang của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ rộ lên những cuộc biểu tình chống chiến tranh. Nhiều người trong chính giới Mỹ đòi xét lai chính sách của Mỹ với cuộc chiến này. Nội bộ các cố vấn thân cận của Tổng thống Mỹ diễn ra sự chia rẽ gay gắt. Tướng Oét-mo-len, Tổng chỉ huy quân Mỹ ở Nam Việt Nam bị cách chức, Bộ trưỏng Quốc phòng Mắc Na-ma-ra thôi việc. Ngày 25 và 26 tháng 3 năm 1968, Tổng thống Giôn-xơn và Bộ trưởng Quốc phòng Clíp-phớt (mới thay Mắc Na-ma-ra) phải triệu tập một cuộc họp gọi là "Những người am hiểu và khôn ngoan nhất", mà thực chất là 14 quan chức cấp cao diều hâu nhất trong phái diều hâu. Sau 3 ngày tranh cãi, 10/14 vị đã tán đồng chấm dứt leo thang chiến tranh và có biện pháp rút lui ra khỏi cuộc chiến. Ngày 31-3-1968, Giôn-xơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận ngồi vào bàn hội nghị đàm phán song phương với ta tại Paris và tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ thứ 2. Đây là sự công khai thừa nhận chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mỹ đã phá sản, ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ hiếu chiến đã thật sự bị lung lay. Tuy chúng ta có khuyết điểm là sau đợt 1 đã chậm chuyển hướng tiến công về vùng nông thôn nên tổn thất; nhưng thất bại của đế quốc Mỹ trong chiến tranh cục bộ đã không thể nào cứu vãn được.
Với tầm nhìn xa trông rộng, từ lâu Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị đã nhận thấy rằng ta không đủ sức để đánh bại cùng một lúc cả Mỹ và ngụy để giành thắng lợi hoàn toàn, nên đã chủ trương đánh cho "Mỹ cút" rồi tiến tới đánh cho "ngụy nhào". Và, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân cùng những cú "đánh bồi", tiếp theo đó (đợt 2, đợt 3) đã thật sự tạo nên một đòn đánh "đủ đô", đủ sức nặng làm nhụt ý chí của đế quốc Mỹ, nhất là những chính khách trong phái diều hâu, tạo ra bước ngoặt mới về chiến lược của cuộc chiến tranh, buộc chúng phải xuống thang, ngồi vào bàn đàm phán để dẫn tới ký kết Hiệp định Paris năm 1973, thừa nhận "Độc lập, chủ quyền, và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam", rút hết quân Mỹ và không điều kiện ra khỏi Nam Việt Nam. Trận tiến công Mậu Thân, quân và dân ta đã thực hiện được quyết tâm chiến lược "Đánh cho Mỹ cút" một cách vẻ vang.
Ông Lê Đức Anh nhớ lại: - Sau Mậu Thân 1968, tôi và hai anh Hoàng Văn Thái, Phạm, Hùng ra Bắc báo cáo. Đì bằng máy bay của Hoàng gia Cam-pu-chia từ sân bay Phnôm Pênh, hạ cánh sân bay Gia Lâm - Hà Nội. Cấp trên bố trí ở nhà khách của Trung ương đường Phan Đình Phùng chứ không về nghỉ bên Bộ Quốc phòng. Tôi thấy ở ngoài Bắc các anh cũng hiểu về Việt Nam hóa chiến tranh đơn giản
như chúng tôi. Tôi gặp anh Lê Duẩn, được phổ biến là tôi sẽ về phụ trách Quân khu 9, nhưng trước mắt phải đi chữa bệnh. Được Bác Hồ cho gọi nhưng vì tôi bị đau nên không đến được, chỉ có anh Thái và anh Phạm Hùng đến gặp Bác.
Đến đầu 1969 tôi khỏi bệnh. Được Bác gọi lên. Tôi báo cáo với Bác làm như thế... thắng như thế... và nói là "Việt Nam hóa" là nó thua rồi đó! Bác bảo ăn cơm với Bác. Cơm dọn ra, tôi nghĩ là sẽ ăn ngay nên ngồi vào, thì Bác bảo "Chú phải rửa tay để giữ vệ sinh chứ!". Tôi ra la bô rửa tay rồi vào ăn cơm với Bác. Bác ăn hết một bát cơm đầy và Bác bảo: "Chú thấy Bác còn khoẻ đấy! Chú hãy chuẩn bị để đưa Bác vào thăm đồng bào và chiến sĩ miền Nam". Tôi chỉ dạ vâng mà không nói gì thêm. Bác ăn cơm với nước mắm. Đĩa thịt gà chặt chéo bốn miếng, tôi chỉ ăn hai miếng, còn hai miếng Bác lấy đũa sửa lại như đĩa thịt có hai miếng. Khi chào và chia tay Bác, Bác nhắc lại "Chú về chuẩn bị cho Bác đi vô thăm đồng bào và chiến sĩ miền Nam!". Câu này, trong bữa cơm Bác nói hai lần, khi tôi chào Bác ra về, Bác nói lần thứ ba.
Khi về tôi thưa với anh Phạm Hùng chuyện đó và bảo anh rằng Bác nói chuyên đó kiên quyết lắm. Anh nói: "Không được! Bác cũng đã nói với tôi, nhưng tôi bảo khó lắm thưa Bác!". Tôi bảo anh Phạm Hùng, nếu anh đồng ý thì tôi tổ chức được vì Bác tha thiết lắm. Tôi nhẩm tính, lúc đó Cam-pu-chia vẫn bình thường, chưa có biến động đảo chính; ta sẽ đưa Bác đi bằng đường đó. Tới biên giới Tây Ninh rồi đi về chiến khu được. Và sự thật khi tôi trở về Nam cũng đi theo tuyến này. Trong lòng tôi cũng muốn được đưa Bác vô như thế. Về tới Khu 9, tôi ở rạch Kim Quy, cứ suy nghĩ mãi làm sao tổ chức để đưa Bác vào thăm miền Nam.
Đến ngày 3 tháng 9, Đài Tiếng nói Việt Nam, đưa tin Bác mất, trong tôi xúc động nghẹn ngào khó nói, nước mắt cứ trào ra. Trong lòng tôi vừa thương tiếc vừa ân hận là việc Bác tha thiết mà mình không làm được. Có lẽ lúc đó sức khoẻ của Bác đã giảm, Bác ý thức được điều gì đó nên Bác rất muốn vào với đồng bào và chiến sĩ miền Nam trước lúc đi xa...
Những ngày ở Hà Nội, tôi được đọc một số tài liệu mật, vừa đọc vừa đối chiếu với tình hình chiến trường thì thấy đúng. Càng đọc càng thấy rõ ý đồ chiến lược cả về quân sự, chính trị và kinh tế - xã hội của đối phương. Thực chất nó đã tập hợp toàn những người giỏi để soạn thảo văn bản này. Vậy mà rất tiếc, chúng ta không tìm hiểu kỹ nên chỉ quan niệm đơn giản "Việt Nam hóa là Mỹ cút, ngụy chủ trì". Chính vì nghiên cứu không sâu nên khi nó thực hiện kế hoạch "Tràn ngập lãnh thổ", đánh loang ra, lấn đất giành dân, thì mình bị hụt hẫng. Chỉ thị của trên thì cả cán bộ, chiến sĩ đều đọc và thuộc, nhưng vẫn cứ để nó lấn tới, quân ta đông mà nó vẫn lấn tới được. Vì không nghiên cứu nên một số người không thấy rõ lợi thế của cách mạng miền Nam là sau Hiệp định Paris lực lượng ta vẫn giữ được thế xen kẽ "da báo" với quân địch, không bị phân tuyến như thời kỳ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954; không nghiên cứu cho nên cứ muốn đưa hết chủ lực hoặc là sang hẳn bên kia biên giới, hoặc là lui vào khu vực u Minh để tập huấn và củng cố; như vậy vô hình trung mình đã tự "phân tuyến"; làm thế này thì vừa nguy hiểm cho ta, vừa rơi vào đúng ỷ đồ của quân địch; ta ở vùng không có dân còn nó ở vùng đông dân. Bởi vậy, nghiên cứu thật sâu để thấy rõ ý đồ của địch, thấy rõ chỗ mạnh chỗ yếu của nó là rất quan trọng. Ý đồ thật sự của nó ỉà tạo ra một ngụy quyền mạnh, mạnh cả về quân sự, chính trị và kinh tế, dưới nhãn hiệu "Quốc gia dân tộc"; và nó sẽ viện trợ đầy đủ cho quân ngụy cùng với những chính sách được nghiên cứu rất sát sao để thực hiện ý đồ này.
Như vậy, tháng 7 năm 1969, tôi trở vào miền Nam. Bộ chỉ huy Miền vẫn ở Tây Ninh. Anh Lê Trọng Tấn được điều ra ngoài Bắc. Vào tới chiến trường đi đâu cũng thấy rõ sự hụt hẫng về tư tưởng trong cán bộ chiến sĩ, vì nhiều người nghĩ đánh vào đô thị thì chiếm luôn, ở luôn, nay không ở mà rút ra thì thấy hẫng hụt. Rồi cảm giác như có một làn sóng ngầm lấy sự tổn thất của Mậu Thân làm cái cớ để công kích, chỉ trích lãnh đạo. Cái đó đã có ảnh hưởng không nhỏ và điều hiển nhiên dễ nhận thấy là một không khí buồn nản trong bộ đội, mà cán bộ lãnh đạo thì không hiểu nổi, cứ nghe rì rầm, thì thầm bàn tán, nhưng khi hỏi thì không ai nói gì. Có thể nói, khi nó phản công quyết liệt "sau Mậu Thân", ta đã co lại quá. Chủ lực thì đã thoát ly khỏi chiến trường, thực tế đã qua bên kia biên giới.
Khi vào, tôi được cấp trên giao nhiệm vụ đảm trách Tư lệnh Quân khu 9, anh Võ Văn Kiệt làm Chính ủy kiêm Bí thư Khu ủy, nhưng anh Kiệt xuống quân khu sau tôi mấy tháng. Xuống tới nơi thấy rõ một thực trạng là quân địch đã phản công lấn tới, còn ta thì mất đất, mất dân; bộ đội phần lớn thoát ly khỏi địa bàn, đảo ngũ có tới hàng trăm, hàng trăm, cộng lại có đến tương đương tiểu đoàn. Hỏi cán bộ lãnh đạo chỉ huy các cấp thì đều nói đủ về "Việt Nam hóa chiến tranh" nhưng không có ai đi sâu nghiên cứu gì hết.
Sau Mậu Thân, Mỹ thua đã rõ mà ta củng có những khó khăn tổn thất, nhìn ở góc độ nào đó là có "nguy cơ". Lúc đó nhớ lại và nghi rằng giữa lúc này
mà có hình ảnh và lời động viên cổ vũ của Bác ngay tại chiến trường thì hẳn tinh thần, tư tưởng, niềm tin và khí thế cách mạng của bộ đội và nhân dân sẽ trào dâng thành sức mạnh vô cùng lớn. Càng nhớ, càng nghĩ, tôi càng thấy ân hận vì đã không cùng với các đồng chí để tổ chức đưa Bác vào Nam, thỏa mãn mong muốn chính đáng và tha thiết của Người.
Xuống Quân khu 9, trước hết tôi tập trung nghiên cứu tình hình, khi nghiên cứu sâu vào âm mưu chiến lược "Phi Mỹ hóa cuộc chiến tranh" mới thấy bọn Mỹ-ngụy nó ghê gớm thật! Cả quân Mỹ, ngụy, rồi lính biệt động, bảo an, biệt kích, gián điệp, tâm lý chiến, Thiên nga, Phượng hoàng... từ thằng chỉ huy cao nhất đến thằng lính đều tập trung vào mỗi một việc là giành dân, tập trung dân, bắt lính, xây dựng ngụy quân ngụy quyền. Đánh phá, càn quét, chiêu hồi gì gì đó, tất cả đều nhằm một mục đích là giành dãn, tập trung dân, là kiểm soát chặt chẽ cuộc sống, đi lại, tiếp xúc của người dân và loại trừ một cách kiên quyết những người đấu tranh và ủng hộ đấu tranh. Còn biện pháp của chúng thì từ mỵ dân cao độ đến phát xít cao độ. Thấy cần bắn giết là bắn bỏ luôn, không cần toà án xét xử gì hết. Trước đây chúng đặt ra và thực hiện cái gọi là "Luật 10-59" rất quyết liệt và tàn ác, nhưng còn có chuyện lập toà án xét xử. Còn bây giờ thì không cần. Bắn là bắn luôn tức khắc".
Để bạn đọc thấy rõ thực trạng tình hình Quân khu 9 khi ông Lê Đức Anh nhận nhiệm vụ Tư lệnh Quân khu, người viết xin viện dẫn dưới đây một số đoạn trong sách lịch sử "Quân khu 9 - 30 năm kháng chiến" do Đảng ủy - Bộ tư lệnh Quân khu và Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản:
"Sau Mậu Thân 1968, Quân khu 9 cũng như toàn chiến trường miền Nam giành được thắng lợi lớn; song, do ta chuyển hướng không kịp, nhất là các tỉnh vùng trung tâm sông Hậu nên chủ lực và địa phương bị tổn thất nặng nề. Mọi tiểu đoàn khi xuất quân chiến đấu quân số đông tới bốn, năm trăm người, đến lúc rút ra củng cố, tổ chức lại chỉ còn không đầy một trăm: Có tiểu đoàn khi đi vào để tiến công đô thị trên hai trăm xuồng, khi đi ra chỉ lẻ tẻ vài chục xuồng, mỗi xuồng vài ba người. Địch còn đông quân, vũ khí và phương tiện chiến tranh vừa hiện đại vừa dồi dào, chúng đủ thời gian củng cố, tổ chức đánh phá, phản kích quyết liệt, không những chúng giành lại vùng nông thôn đã mất mà còn đánh lấn ra, dồn, bật quân ta ra khỏi các địa bàn có dân. Chúng dùng máy bay chiến lược B52 ném bom rải thảm. Máy bay phản lực và trực thăng vũ trang ném bom cháy, bom phá, bom phát quang làm cho nhà cửa làng mạc của dân bị tàn phá nặng nề đến xơ xác. Trên trời thì các loại máy bay phản lực F, A, trực thăng HU-1A, HU-1B, Cán gáo, Xi-núc..., mặt đất thì xe tăng, xe bọc thép lội nước, xe vận tải quân sự và các loại xe đặc chủng, ven biên và trên các sông rạch thì tàu chiến, xuồng máy, bo bo tuần tiễu bắn phá suốt ngày đêm. Rồi tung quân càn quét, dồn dân, bình định ráo riết suốt ngày đêm. Về phía ta thì lực lượng chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương đều mất sức chiến đấu nghiêm trọng. Giữa đồng chí Bí thư Khu ủy Mười Thơ và Tư lệnh Đồng Văn Công, cả hai đều là người tốt, rất trung kiên, nhưng từ chỗ không thông nhất về quan điểm, phương cách tổ chức và sử dụng lực lượng đã làm cho không khí nội bộ nặng nề và phức tạp. Bộ đội không phải vì sợ hy sinh ác liệt, không phải vì sợ gian khổ mà đào ngũ, mà chính vì họ chán nản, thiếu lòng tin.
Từ sau đợt 2 Mậu Thân 1968, khi ta không còn yếu tố bí mật bất ngờ, đã bộc lộ hết lực lượng, còn quân địch thì đã trấn tĩnh lại và nó đã chuyển hướng chiến lược, tiến hành phản kích và bình định trong lúc ta mắc phải nhiều sơ hở để địch lấn chiếm nhanh chóng vùng nông thôn rộng lớn. Đến tháng 9 năm 1969, khi Bác Hồ qua đời, ở Khu 9 quân địch nó tiến hành "thăm đòn tại chỗ"; ta mất dân, mất đất, lực lượng bị bật ra. Đến cuối năm 1969, địch đã bình định lấn chiếm gần hết vùng giải phóng trước đây, chỉ còn căn cứ u Minh và khu giải phóng nam Cà Mau.
Trung đoàn 1 (chủ lực của Khu) từ vùng ven lộ Vòng Cung qua đợt 2 (tháng 5 năm 1968) rút dần về Giồng Riềng thuộc Rạch Giá, sau đó rút về u Minh. Địch càn quét, đánh phá, bình định tới đâu, tình hình xáo trộn đến đấy. Lực lượng chính trị của ta sa sút nghiêm trọng. Trong vòng một năm, ở nhiều địa phương, cán bộ lực lượng vũ trang cơ sở tróc khỏi địa bàn hoạt động, buộc phải "ly hương". Có nơi buông trôi sự lãnh đạo, do đó nhiều quần chúng tự động né tránh bom đạn, chạy ra vùng địch kiểm soát, cả Khu 9 có 50 xã (trong số 250 xã) đảng viên bỏ chạy khỏi địa bàn xã; 40 xã mỗi xã chỉ có 1, 2 đảng viên, không có chi bộ. Đầu 1968, lực lượng du kích xã, ấp toàn khu có 45.000, đến cuối 1969 chỉ còn 6.200 người. Tỉnh Cà Mau lúc này còn được 13 xã giải phóng nhưng chỉ thu được 7 tân binh bổ sung cho bộ đội chủ lực Khu, 6 người bổ sung cho bộ đội huyện. Trong khi đó toàn khu (chưa tính Vĩnh-Trà) có 12.000 cán bộ chiến sĩ bỏ ngũ về nhà. Còn ở chiến trường Vĩnh-Trà (Vĩnh Long, Trà Vinh) tình hình cũng tương tự như vậy. Quân địch tập trung máy bay chiến lược B52, pháo binh và bộ binh đánh phá quyết liệt để bình định cho được vùng ruột Vĩnh-Trà. Trước tình hình khó khăn đó, chỉ huy Trung đoàn 3 không vững, giữa năm 1969 đã tự ý cho hai tiểu đoàn 306 và 308 rút lui. Thành ra ỏ Vĩnh Long và các huyện nam sông Măng Thít ta không còn chủ lực, địa bàn bỏ trống hoàn toàn; một số lực lượng huyện cũng chạy theo Trung đoàn 3 xuống duyên hải. Do đó quân địch bình định được vùng ruột Vĩnh-Trà, gây cho ta nhiều khó khăn. Quần chúng không còn chỗ dựa, phong trào cách mạng sa sút…
Có thể nói, khi bước xuống Quân khu 9 nhận nhiệm vụ trong bối cảnh như vậy, hai ông Lê Đức Anh và Võ Văn Kiệt ý thức được rằng đây là giai đoạn khó khăn nghiệt ngã nhất của Quân khu. Nhưng khó mấy cũng phải ráng để làm chuyển biến được tình hình, đặng xứng đáng vối lòng tin của lãnh đạo cấp trên và bao nhiêu quần chúng đang mong đợi. Trước mắt là củng cố về tổ chức, khâu trọng yếu nhất là tạo nên sự đoàn kết thống nhất trong lãnh đạo, từ đó thống nhất trong chỉ đạo phương châm tác chiến, phương thức đấu tranh cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, khôi phục lực lượng chính trị ở những vùng sa sút... từ đó khôi phục lại thế và lực của Khu, tạo nên một sự chuyển biến mạnh mẽ.
Ngày đầu mới xuống, ông Anh thay ông Công làm Tư lệnh, ông Ba Bường thay ông Mười Thơ làm Bí thư Khu ủy. Mấy tháng sau trên điều ông Võ Văn Kiệt xuống thay ông Ba Bường thì giữa hai người luôn luôn nhất trí. Trước tiên, vấn đề Đảng lãnh đạo với chỉ huy được xác định rõ ràng. Lãnh đạo là tập thể lãnh đạo, nhưng chỉ huy, ở tất cả các cấp, chỉ có một người cấp trưởng, cấp phó là giúp việc cho cấp trưởng, quyền hạn, trách nhiệm phân định rõ ràng. Một số đồng chí trong Bộ tư lệnh Quân khu được bổ sung vào Thường vụ và Khu ủy. Tất cả những công việc thuộc về quân sự như vũ khí, trang bị vật chất kỹ thuật... giao lại cho quân khu điều hành, Khu ủy không còn ôm đồm bao biện làm thay. Từ đây xác định rõ - Đảng lãnh đạo tập thể và bằng nghị quyết, chỉ huy quân sự do Bộ tư lệnh Quân khu, và chế độ lãnh đạo từ trên xuống dưới thực hiện theo quy định của Trung ương Cục. Tuy nhiên việc thực hiện điều này không phải một sớm một chiều mà còn phải đấu tranh một thời gian mới thật sự thông nhất được.
Ông Võ Văn Kiệt là một ngưòi cán bộ kiên cường, từng trải, lại nắm khá vững vùng Vĩnh Long, Trà Vinh, phía sông Tiền vì đây là vùng hoạt động của ông từ thời kháng chiến chống Pháp. Hôm đầu gặp nhau, hai người bắt chặt tay nhau, nguyện kề vai sát cánh hợp sức vượt qua giai đoạn khó khăn cao độ này.
Ông Võ Văn Kiệt cho biết: "Khi tôi xuống đến Quân khu 9, đáng mừng là nội bộ đã đoàn kết nhưng chiến dịch bình định của địch còn rất căng thẳng. Lực lượng ta rất khó khăn cả về trang bị và đời sống. Ở u Minh mà thiếu muối ăn, bộ đội đói và rách, ở lán và ở ngoài xóm với dân, ăn mặc thì tùy tiện tùm lum. Tôi đi từ u Minh Thượng xuống u Minh Hạ, tình trạng bộ đội uống rượu diễn ra ở cả cấp ủy, mặc dù Quân khu đã có lệnh cấm uống rượu. Có nơi khi trận đánh đã diễn ra nhưng bộ đội vẫn còn chuếnh choáng hơi men, nên đã dẫn đến tổn thất một phần. Trước tình hình đó, Khu ủy và Quân khu bàn làm sao để có đủ trang bị, ăn mặc, giữ cho bộ đội có tư thế. Cán bộ cấp trên phải làm gương cho cấp dưới, đặc biệt ai uống rượu phải tự nghiêm khắc kiểm điểm, có thông báo hẳn hoi. Sau đó đã cấm được thật sự. Họp Thường vụ Khu ủy năm ngày ở U Minh Hạ mà phải di chuyển ba lần vì địch đánh, đủ thấy tình hình còn căng thẳng khó khăn đến mức nào; nhưng Khu ủy đã thống nhất được chủ trương phải trụ lại và đánh mở ra. Chúng tôi đánh giá địch, đánh giá ta vừa thận trọng vừa kiên quyết. Anh Sáu (Lê Đức Anh) là người kiên nghị, cái gì đã cân nhắc và đã quyết thì làm bằng được. Anh có bản lĩnh và đám chịu trách nhiệm làm cho lòng tin của Đảng bộ và cán bộ chiến sĩ là tuyệt đối. Sự đóng góp của anh ở đây rất rõ. Thực tế chiến trường rất cần ở người chỉ huy phẩm chất này. Khu ủy lúc bấy giờ rất đồng tình với người chỉ huy trưởng - Anh Sáu Nam".
Từ đầu tháng 9 năm 1969 đến tháng 2 năm 1970, các lực lượng vũ trang quân khu đã "lần lượt đánh bại hai cuộc hành quân đánh phá và lấn chiếm u Minh với lực lượng địch tương đương cấp quân đoàn, có pháo binh, pháo bờ biển và 2 trung đoàn không quân, có B52 yểm trợ.
Đến lúc này, trong cấp chỉ đạo, lãnh đạo của Quân khu nổi lên hai cách nhìn, hai chủ trương khác nhau. Cuộc đấu tranh giữa hai chủ trương đó kéo dài đến tháng 9 năm 1970 mới đi tới nhất trí trong Hội nghị Khu ủy ở u Minh Hạ (mà ông Kiệt đã nói ở trên). Tại hội nghị này, Khu ủy đã ra được nghị quyết cụ thể về việc bám trụ đánh địch, trong đó chỉ rõ: Lực lương vũ trang phải bám dân, sống trong dân, làm chỗ dựa cho dân, cùng với dân hình thành lực lượng tổng hợp tiến công địch. Bộ đội tập trung phải gắn chặt với dân quân du kích hình thành sự kết hợp chặt chẽ ba thứ quân thường xuyên tổ chức tiến công địch... Phải xây dựng và phát triển lực lượng, nhất là củng cố, xây dựng bộ đội chủ lực mới tạo được điều kiện để phản công và mới phá được thế tiến công của địch.
Thực hiện nghị quyết trên, quân khu đã phân công địa bàn bám trụ cho các đơn vị: Trung đoàn 1 ở Long Mỹ, Trung đoàn 3 trụ bám trên địa bàn then chốt giữa hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh.
Các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần của quân khu cũng có kế hoạch bám trụ và đánh địch. Nhưng việc bám trụ và đánh địch của các cơ quan ở Bộ tư lệnh Quân khu trong tình hình hết sức căng thẳng, khó khăn ác liệt. Lúc đó, Khu ủy cũng có ý kiến khuyên Quân khu nên đi chuyển cơ quan về nam Cà Mau để có điều kiện ổn định làm việc. Ông Anh khẳng định nếu lui về Cà Mau, địch lấn tới và theo đó sẽ mất đất, mất dân không còn chỗ nào đứng chân nữa, do đó hạ quyết tâm bám trụ ở U Minh Thượng, đồng thời triển khại sở chỉ huy tiền phương của quân khu ở Long Mỹ (Cần Thơ) ngay sát đồn địch, chỉ cách hàng rào đồn địch mấy trăm mét. Và ông, Tư lệnh Quân khu thường trực chỉ huy tại đây. Vóc người ông vốn cao nên mỗi khi di chuyển, nhất là qua những đoạn gần đồn địch, cứ phải khom xuống trong tư thế rất căng thẳng và chóng mệt mỏi. Lội nước nhiều, bên chân trái bị yếu từ nhỏ lại được dịp đau nhức, hành hạ ông. Nhưng không còn cách nào khác là cắn răng chịu đựng và cố gắng vươn lên. Không thể không cố gắng vì phía trước là kẻ thù, hơn nữa trong mọi lúc, nhất là lúc gian khổ ác liệt nhất, bao nhiêu con mắt của cán bộ chiến sĩ cấp dưới đều nhìn vào người Tư lệnh, người chỉ huy của họ.
Các xã vùng địch lấn chiếm, lúc đầu cán bộ tróc địa bàn, chạy sang xã khác, dần dần quay trở lại địa phương thực hiện 3 bám (bám đất, bám dân, bám địch) khôi phục phong trào du kích chiến tranh. Thời kỳ này cán bộ Đảng, cán bộ Mặt trận đều cầm súng đánh giặc. Nhiều địa phương, Bí thư chi bộ làm đội trưởng du kích, xây dựng các lõm căn cứ chiến đấu suốt mấy năm ác liệt nhất...
Đến năm 1970, tình hình Quân khu 9 đã bắt đầu gượng lại được. Năm 1971, Bộ Tổng Tham mưu điều một số đơn vị từ miền Bắc vào chi viện cho chiến trường miền Nam, Quân khu 9 cũng được hai trung đoàn (10 và 20), Bộ tư lệnh Quân khu tiến hành củng cố bố trí lại lực lượng chiến đấu: Xây dựng, củng cố bộ đội địa phương và dân quân du kích; bổ sung quân số cho 3 trung đoàn chủ lực 1, 2, 3. Trung đoàn 1 tiến lên phía Phụng Hiệp (Cần Thơ) trước khi Hiệp định Paris có hiệu lực. Trung đoàn 2 đứng chân ở Long Mỹ. Trung đoàn 3 ở Măng Thít, vùng ruột Vĩnh-Trà. Đưa 2 trung đoàn mới được bổ sung từ Cam-pu-chia về khu vực Giồng Riềng, trong đó Trung đoàn 10 đứng ở phía sau (phía sông Cái Lớn-U Minh). Sự bố trí này đã tạo nên thế phòng thủ vững chắc cho Quân khu.
Cần vụ giúp việc cho ông là hai người: Trương Văn Thọ tức "Tám Lọ" và cậu Tý, đều là người Nam Bộ, rất dũng cảm và lanh lợi. Hôm xuống Long Mỹ- cần Thơ kiểm tra chỉ huy và tổ chức chiến đấu của Trung đoàn 1, do đồng chí Dương Tử làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Phạm Văn Trà làm Tham mưu trưởng trung đoàn, khi ba người vừa chuẩn bị vượt qua sông Nước Trong để sang sở chỉ huy trung đoàn đặt sát đồn địch thì máy bay địch oanh tạc bằng bom phá, bom phát quang và cả thùng bom hỗn hợp chất C4 để hủy diệt sỗ chỉ huy của Trung đoàn 1. Cậu Tý đã đè lên người ông để bảo vệ cho ông. Hết đợt bom, ba người vùng ngồi dậy, thấy bầy trực thảng vũ trang đã ầm ầm bay tối. Đồng chí Tám Lọ đang đứng trên miệng hầm quan sát, và bằng mấy loạt súng tiểu liên AK, Tám Lọ đã bắn một chiếc rốt xuống chỉ cách chỗ hầm của ba người chừng 200 mét. Chiếc thứ hai cũng bị trúng đạn, bay loạng choạng rồi lao xuống đồn Thanh Lòng, cách chỗ họ chừng gần cây số. Trong lúc máy bay của chúng bu lại tập trung việc cứu phi công của hai chiếc máy bay nói trên, hai chiến sĩ cận vệ Tý và Tám Lọ nhanh chóng đưa ông vượt sông về ngay sát hàng rào ngoài cùng của đồn Đầu Lá của địch, để nắm tình hình mọi mặt của Trung đoàn 1.
Cuộc phản công mùa mưa 1971 của Quân khu 9 đã thu được thắng lợi. Địch phải hủy bỏ kế hoạch "Tô dày lấp kín u Minh". Những ngày tháng năm này, quân và dân Quân khu 9 càng ghi nhớ sự chi viện to lớn của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng hàng vạn đô la chi dùng cho kháng chiến và mãi mãi biết ơn nhân dân miền Bắc đã gửi con em mình vào tận mảnh đất cuối cùng của Tổ quốc, tăng sức mạnh cho Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang quân khu vượt qua những ngày thử thách cam go tưởng chừng như không vượt qua được, để đứng vững và đi lên.
Bắt đầu từ đêm 6 rạng ngày 7 tháng 4 năm 1972, các lực lượng vũ trang Quân khu 9 đồng loạt nổ súng tiến công, giành giật quyết liệt với quân địch từng mảnh đất, nhánh sông với 6 đợt cao điểm suốt từ tháng 4 đến tháng 8-1972. Ta đã diệt, bắt, rồi thả và binh vận làm rã ngữ, gọi hàng... tổng cộng ta đã làm giảm 12.000 tên địch; tiêu diệt 4 chi khu, 2 yếu khu, 6 căn cứ trung đoàn và tiểu đoàn. Trong 916 đồn bốt mà ta đã diệt, bức rút, binh vận khởi nghĩa, có 600 đồn do lực lượng chính trị, binh vận xã ấp trực tiếp gỡ. Song, quân địch đã tái chiếm, tái dựng 650 đồn bốt, đủ thấy cuộc đấu tranh ở đây gay go, quyết liệt như thế nào. Ta giải phóng được 400 ấp với gần 80 vạn dân (so với cuốỉ 1971 ta mối giải phóng được 20 vạn dân). Lực lượng vũ trang đã có bước phát triển mới: Dân quân du kích tăng 50%, bộ đội địa phương của tỉnh và huyện tăng từ 20% đến 50% quân số. Điều quan trọng nhất là các đảng bộ địa phương đã bám được trong dân, trong đó có trên 1.000 ấp trước đây bị địch kìm kẹp hoàn toàn, nay đã xây dựng được cơ sở Đảng và bắt đầu phát huy tác dụng lãnh đạo với quần chúng. Bộ đội địa phương tỉnh và huyện đã gắn chặt được với dân quân du kích trong tác chiến và xây dựng. Bộ đội chủ lực của quân khu đã đứng vững được trên địa bàn cơ động, giữ được thế liên hoàn phía trước và phía sau, liên hoàn giữa các khu vực chiến trường. Đội hình hậu cần tại chỗ được triển khai, hành lang giao thông liên lạc từ Khu lên Miền và xuống các tỉnh, huyện, xã thông suốt tạo đỉều kiện cho công tác chỉ đạo, chỉ huy xử trí các tình huống kịp thời hơn.
Từ chỗ bị lấn chiếm gần hết đất, hết dân, hoàn toàn nằm trong thế bị động chống đỡ địch đánh phá, Quân khu 9 đã gượng dậy và chuyển dần sang chủ động tiến công, đẩy lùi quân địch dần vào sát thị xã, thị trấn, đánh bại bước đầu chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ-ngụy.
Hiệp định Paris được ký kết thì bộ đội và nhân dân miền Nam nói chung, Khu 9 nói riêng phấn khởi lắm. Trong hiệp định, có nhiều nội dung rất cơ bản, nếu nói riêng ở góc độ tư duy quân sự thì hay nhất là ở chỗ Hiệp định quy định quân Mỹ rút, các lực lượng vũ trang còn lại của "hai bên Việt Nam" ở nguyên tại chỗ. Như vậy ta đã đánh bại âm mưu "phân tuyến" của đối phương, bộ đội ta không phải "tập kết" ra một nơi (như thời Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954), mà ngược lại, ta duy trì trên chiến trường thế xen kẽ "da báo", một thực trạng rất có lợi cho ta, bất lợi cho quân địch.
Những kẻ cầm quyền hiếu chiến trong chính giới Mỹ và chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn tuy Mỹ phải rút quân, nhưng quân ngụy còn 1,l triệu vối 13 sư đoàn chủ lực, lại được Mỹ viện trợ tối đa về quân sự và kinh tế nên vẫn nuôi ảo vọng sẽ thắng ta bằng chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Bởi vậy, nếu theo văn bản Hiệp định thì 7 giờ sáng 28 tháng 1 năm 1973, hai bên bắt đầu ngừng bắn, nhưng cũng chính ngày đó Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn công khai tuyên bố trong diễn văn của mình là "Ngừng chiến, không ngừng bắn, không thi hành Hiệp định Paris!...". Trước đó, chúng ráo riết thực hiện kế hoạch "Tràn ngập lãnh thổ", cắm cờ, giành đất, giành dân trong 48 giờ trước khi Hiệp định có hiệu lực, đồng thời đẩy mạnh bình định lấn chiếm theo kế hoạch mà chúng đã soạn thảo.
Ông Lê Đức Anh cho biết: "Tôi nhớ lúc đó có ông già ở Hỏa Lựu đến tìm gặp tôi; ông và gia đình, bà con đã từng chịu đựng bao cay đắng tủi nhục từ thời Diệm-Nhu dồn dân lập khu tập trung Vị Thanh - Hỏa Lựu; khi gặp tôi ổng nói: "Các chú không đánh thì nó không bao giờ chịu thi hành hiệp định đâu. Chừ các chú đánh đồn bót nào, tui sẽ dẫn đường cho các chú!".
Ẩm mưu của quân thù đã rõ. Lòng dân như vậy cũng đã rõ. Tôi chiêm nghiệm một điều là, trong đấu tranh cách mạng, đánh giá đúng tình hình địch-ta là yếu tố quyết định đề ra đường lối chủ trương phù hợp. Khi Hiệp định Paris được ký kết, thi hành hiệp định thì có phía ta và cả phía Mỹ- ngụy. Ta muốn thi hành, địch không chịu thi hành; ta phải đấu tranh bắt buộc chúng thi hành. Nhưng lúc này phải tính coi ta có thể bắt buộc chúng thi hành được không? Kinh nghiệm xương máu khi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, Mỹ-Diệm đã tuyên bố dứt khoát không thừa nhận hiệp định, và chúng đã dùng súng đạn để đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng của nhân dân ta, tàn sát thắng tay những người cách mạng, những người yêu nước; nhưng ta vẫn dùng đấu tranh chính trị, tay không đòi thi hành hiệp định, và ta đã bị tổn thất rất lớn, tình hình này kéo dài suốt sáu năm trời. Vì vậy tôi đề xuất ý kiến và Khu ủy đã hoàn toàn nhất trí chủ trương phát huy thắng lợi của Hiệp định Paris, nhưng phải thấy rõ âm mưu của kẻ thù, phải kiên quyết tiến công, dùng sức mạnh chính trị, quân sự và pháp lý để trừng trị quân địch vi phạm Hiệp định; nếu chúng ngoan cố không thi hành thì phải tiêu diệt chúng, giải phóng hoàn toàn địa bàn Quân khu đảm trách. Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu, một mặt vừa báo cáo và xin ý kiến Trung ương Cục, Bộ Chính trị Trung ương, về mặt quân sự xin ý kiến của Bộ chỉ huy Miền và Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Quốc phòng; một mặt quyết tâm đưa phong trào phản công và tiến công trừng trị quân địch vi phạm
Hiệp định Paris, trước mắt đẩy lùi và làm thất bại kế hoạch "Tràn ngập lãnh thổ", lấn chiếm và bình định Chương Thiện của chúng. Ta đã biết rõ địch, nay phải đề cao cảnh giác, kiên quyết không để mất đất, mất dân; đấy mạnh binh vận làm tan rã địch; vừa tuyên truyền thắng lợi Hiệp định, vừa củng cố và phát triển lực lượng, sẵn sàng đánh trả trong khuôn khổ Hiệp định cho phép nếu địch tấn công. Phải luôn luôn chủ động đánh địch để bảo vệ Hiệp định. Chủ trương, nghị quyết này đã được phổ biến cho các tỉnh và các ngành trong toàn quân khu.
Tháng 10 năm 1972, sau khi thống nhất với anh Kiệt (lúc đó bí danh là Tám Thiện) và Thường vụ Khu ủy, với cương vị Tư lệnh Quân khu, tôi quyết định điều chỉnh lại bố trí lực lượng, tập trung 4 trung đoàn chủ lực về địa bàn Chương Thiện, sở chỉ huy Quân khu vẫn ở khu vực tây nam Long Mỹ, ngay sát đồn bốt địch. Những ngày tháng đấu tranh quyết liệt đó, tôi (lúc đó bí danh là Chín Hoà) luôn thường trực tại sở chỉ huy tiền phương này đê trực tiếp chỉ huy, chỉ đạo các đơn vị đang có mặt tại vừng trọng điểm".
Từ giữa tháng 3 đến tháng 8 năm 1973, dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, sự chỉ huy trực tiếp của Tư lênh Lê Đức Anh, trên vùng đất Chương Thiện, Cần Thơ, các lực lượng vũ trang và nhân dân Quân khu 9 đã chiến đấu ngoan cường và mưu lược, bẻ
gãy tất cả các cuộc hành quân lấn chiếm quy mô cấp quân đoàn, đánh bại 75 tiểu đoàn cùng với kế hoạch "Tràn ngập lãnh thổ" của chúng.
Lực lượng vũ trang ba thứ quân đơn vị nào cũng kiên cường và đánh giỏi, nhưng điển hình nhất là Trung đoàn 1 do đồng chí Phạm Văn Trà làm Trung đoàn trưởng. Trong suốt 3 tháng trời, một nghìn quân của trung đoàn đã cùng với lực lượng tại chỗ của địa phương quần nhau với hơn một vạn quân của địch trong phạm vi 20 ki-lô-mét vuông với những trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt, giành giật nhau từng khu vực, từng đoạn sông. Lúc đó, đồng chí Sáu Bé, Bí thư Chi bộ xã Phương Phứ đã ngày đêm có mặt tại sở chỉ huy của trung đoàn để cùng Ban chỉ huy trung đoàn lãnh đạo và tổ chức lực lượng ba thứ quân, thực hiện tiến công địch trên cả ba mũi - quân sự, chính trị và binh vận, địch vận nên đã giành thắng lợi rất vẻ vang. Đồng chí Phạm Văn Trà sau đó được phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, hiện nay là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Pháo binh của Quân khu lúc đó do đồng chí Tư Niên chỉ huy cũng đánh rất giỏi, anh em đã bắn chìm được cả tàu địch trên sông, đánh được cả căn cứ, đồn bốt của địch và còn tổ chức phục kích, tập kích bộ binh địch khi chúng hành quân dã ngoại. Bên Tham mưu có Tham mưu trưởng Tư Chức. Còn bên Chính trị có đồng chí Sáu Hoài, Chủ nhiệm Chính trị, Đoàn cẩm Thính và Bảy Sanh, Phó chủ nhiệm Chính trị Quân khu không chỉ giỏi công tác chính trị mà còn giỏi tổ chức cơ quan bám trụ và đánh địch. Trong hoàn cảnh bảo đảm hậu cần rất khó khăn, nhưng ngành Hậu cần Quân khu đã rất báng tạo, dũng cảm kiên cường và trách nhiệm, đã giải quyết tốt mọi việc - từ tiếp nhận, vận chuyển hàng hoá từ miền Bắc đưa vào, đến việc thu mua và khai thác nguồn hậu cần tại chỗ kể cả việc tổ chức tăng gia sản xuất lương thực thực phẩm, quân trang quân dụng, phương tiện và thuốc men quân y, vũ khí quân giới... mà đứng đầu ngành là các đồng chí: Hai Nhưòng, Năm Đỏm, Bảy Lúa, Ba Lò Rèn, v.v...
Song, khi Quân khu 9 đang tổ chức đánh địch bình định lấn chiếm "Tràn ngập lãnh thổ" thì Bộ chỉ huy Miền có chỉ thị rút 2 trung đoàn chủ lực về căn cứ u Minh để củng cố. Trung ương Cục còn hai lần điện yêu cầu T3 (mật danh Khu 9 lúc đó) phải thấy tình hình mới, phải có biện pháp mới (điện số 05 và 07), còn Bộ chỉ huy Miền thì điện phê bình T3 không thi hành chủ trương của Trung ương Cục và thông báo cho toàn Miền. Lúc đó, có ý kiến cho rằng Tây Nam Bộ "không thực hiện Hiệp định Paris". Mặc đù có điện, nhưng ông Anh ra lệnh cho đồng chí Hai Minh, trợ lý tác chiến cùng tổ điện đài sở chỉ huy tiếp tục truyền đạt các mệnh lệnh của ông chỉ đạo các đơn vị đánh địch.
Cuối tháng 5 năm 1973, trên Miền có Hội nghị tổng kết công tác đấu tranh chính trị và binh vận. Tại hội nghị, có ý kiến cho rằng, Quân khu 9 chưa thực hiện đúng sự chỉ đạo của trên và nhắc nhở các nơi phải thực hiện "5 cấm" (cấm bao vây đồn bốt, cấm gỡ đồn bốt, cấm đánh địch bung ra, cấm pháo kích và cấm xây dựng ấp, xã chiến đấu) và cho rằng hiện nay lấy đấu tranh chính trị, binh vận làm gốc, nơi nào tấn công quân sự là sai lầm. Còn ông Trung, Khu ủy viên vừa đi họp trên Miền về thì nói với ông Anh: "Trên R có người đề nghị đưa anh ra tòa vì anh không chấp hành Hiệp định!". Ông Anh bảo: "Được, anh yên tâm đi! Nhưng anh không được nói với ai chuyện này. Tôi phải đánh đã. Nếu thua thì tôi ra toà luôn một thể. Chủ trương này tất cả Khu ủy đã nhất trí, anh củng phải chấp hành cái đã!".
Đến 30 tháng 8, tức là hết thời hạn đợt 2 của địch, quân địch vẫn không hoàn thành được việc chiếm Chương Thiện, chưa đánh phá được U Minh. Cục dỉện chiến trường chưa hề thay đổi theo ý đồ của chúng. Vùng giải phóng căn cứ U Minh của ta vẫn ổn định. Lúc này cũng là thời điểm đã có và đang triển khai văn bản Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng, các quân khu bạn được lệnh phản công - Đánh! Tinh thần của Quân khu 9 được các nơi học tập. Sau 8 tháng kể từ ngày có Hiệp định Paris, đến đây, riêng trên địa bàn Khu 9, kế hoạch "Tràn ngập lãnh thổ", của ngụy quân ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu cơ bản đã phá sản.
Nói về các lực lượng vũ trang Quân khu 9 chiến đấu làm thất bại kế hoạch "Tràn ngập lãnh thổ" của chính quyền và quân đội ngụy Sài Gòn, đồng chí đại tá Bạch Vân cho biết: 'Từ cuối năm 1972 Bộ Tổng Tham mưu ngụy đã có "Kế hoạch Hùng vương 2 và 18" nhằm chủ động triển khai các hoạt động quân sự và chính trị bất chấp thời điểm Hiệp định Paris được ký kết, để giành lợi thế chiến trường từ đầu, chúng đề ra kế hoạch "Tràn ngập lãnh thổ".
Đầu tháng 1-1973 Bộ chỉ huy Miền xây dựng kế hoạch đập lại quần ngụy, gọi là kế hoạch "Thời cơ". Đây là kế hoạch tiến công đồng loạt của lực lượng vũ trang ba thứ quân trên khắp chiến trường B2 nhằm tranh thủ trước khi Hiệp định Paris có hiệu lực, giải phóng thêm nhiều địa bàn quan trọng, vừa ngăn chặn kế hoạch "Tràn ngập lãnh thổ" của quân ngụy, vừa cải thiện thêm một bước thế trận.
Hiệp định Paris được ký kết là một thắng lợi lớn của cách mạng Việt Nam. Đây là một bước ngoặt trong tính toán chiến lược có tính chủ động thể hiện đường lối độc lập tự chủ của Đảng ta. Nghị quyết của Quân ủy Trung ương ngày 9-1-1973 xác định chủ trương "Ra sức củng cố hòa bình, nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Paris, lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu, sử dụng lực lượng quân sự làm hậu thuẫn, triệt để phát huy tác dụng của pháp lý để buộc địch cũng phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định" - Mặc dầu nghị quyết của Trung ương Đảng, Trung ương Cục, chỉ thị của Quân ủy Trung ương, của Bộ tư lệnh Miền đều nêu rõ "Nhất thiết lực lượng vũ trang ta phải mạnh và luôn luôn sẵn sàng chiến đấu. Bất kể trong tình huống nào nếu địch gây hấn trở lại, nhất định sẽ bị giáng trả đích đáng và ta sẽ giành được thắng lợi hoàn toàn". Song bên cạnh đó, sự chỉ đạo "Lấy đấu tranh chính trị lầm chủ yếu, sử dụng lực lượng quân sự làm hậu thuẫn" của Trung ương Đảng đã khiến các địa phương, đơn vị rất lúng túng khi cụ thể hoá nhiệm vụ quân sự. Vào thời điểm phải ngừng bắn, quân ngụy dốc toàn lực ào ạt lấn chiếm bất chấp tình hình chính trị ngoại giao và pháp lý của Hiệp định. Một số địa phương và đơn vị của ta nhận thức đấu tranh thị hành Hiệp định một cách cứng nhắc, không sâu sắc vận dụng tư tưởng tiến công và bạo lực cách mạng nên lực lượng vũ trang chống đỡ thụ động, lúng túng, để địch nhanh chóng chiếm lại nhiều vùng giải phóng.
Đến cuối tháng 3-1973 quân ngụy không chỉ chiếm lại hầu hết những vùng đất ta giải phóng được trong đợt tiến công "Thời cơ" trước ngày 28-1-1973 mà bắt đầu lấn sâu vào các vùng giải phóng toàn B2. Tại Khu 6 và Khu 7 địch đã lấn chiếm 309 ấp với 290.000 dân. Tại Khu 8, chỉ trong 2 tháng riêng 4 tỉnh Mỹ Tho, Bến Tre, Gò Công, Kiến Tường đích đã đóng thêm 287 đồn bốt, lấn chiếm 129 ấp thuộc 24 xã.
Trong bối cảnh chung đó thì tình hình Quân khu 9 lúc này do anh Lê Đức Anh làm Tư lệnh và anh Võ Văn Kiệt làm Chính ủy, lại diễn ra theo chiều hướng khác. Do sớm đề ra các chủ trương cụ thể về các phương hướng tấn công, đối tượng tác chiến, phương thức hoạt động với từng vùng, từng loại đồn bối, đường giao thông, kho tàng, đồng thời đề đạt lên Bộ chỉ huy Miền không rút chủ lực vào sâu trong căn cứ u Minh, giữ nguyên thế bố trí của 4 trung đoàn chủ lực Miền và Quân khu để hỗ trợ các địa phương chống bình định lấn chiếm. Do vậy Quân khu 9 đã đánh bại kế hoạch bình định lấn chiếm của địch, quân ngụy không lấn chiếm được vùng nào quan trọng.
Từ sự chỉ đạo bổ sung của Trung ương Cục, tình hình chung sau 2 tháng thi hành Hiệp định và thắng lợi bước đầu của Quân khu 9, Bộ chỉ huy Miền đã đúc rút một số kinh nghiệm chống bình định lấn chiếm và phổ biến cho các Quân khu học tập vận dụng. Trong thông báo ngày 27-3-1973 của Bộ chỉ huy Miền đã chỉ rõ: "Quân khu 9 đã đánh giá đúng âm mưu ngoan cố phá hoại Hiệp định, phá hoại hoà bình của địch, dự kiến được những thủ đoạn xảo quyệt của chúng nên đã chỉ đạo các lực lượng vũ trang có biện pháp đối phó thích hợp, kịp thời uốn nắn những tư tưởng lệch lạc, suy nghĩ đơn giản, ảo tưởng hoà bình, thiếu cảnh giác, trông chờ Ủy ban quốc tế và Ban liên hiệp quân sự đi kiểm tra. Khu ủy đã đánh giá đúng những mặt yếu mới của địch, nhất là tinh thần sa sút, nên đã có kế hoạch tấn công quân sự, kết hợp tấn công chính trị, binh vận ở cơ sở tương đối tốt. Phong trào bao bó đồn bốt địch phát triển, những cuộc hành quân của địch tuy liên tục nhưng kết quả rất hạn chế".
Giữa năm 1973, lực lượng vũ trang B2 đã có tiến bộ hơn trong hoạt động chống phá hoạt động lấn chiếm của địch. Trong tháng 5-1973 hai Quân khu 8 và 9, lực lượng vũ trang diệt và bức rút 122 đồn tua, địch chỉ lấn chiếm và tái chiếm được 30 đồn. Riêng Quân khu 9, lực lượng vũ trang chang những bước đầu đánh bại kế hoạch bình định lấn chiếm của quân ngụy, mà còn đẩy lui địch, giải phóng thêm 30 ấp và 35.000 dân.
Hồi đó tất cả các tin tức tình báo, nhất là "kế hoạch tràn ngập lãnh thô", cơ quan chúng tôi đã nắm tình hình địch, cung cấp đầy đủ và kịp thời cho anh Lê Đức Anh. Anh đã nói: "Rất cám ơn các anh đã cung cấp tin tức!".
Sau khi Trung ương có Nghị quyết 21, Bộ Chính trị cử các ông Tố Hữu, Đinh Đức Thiện, Nguyễn Thọ Chân vào miền Nam truyền đạt nghị quyết. Nhưng đồng chí Lê Duẩn còn băn khoăn một điều là nghị quyết như vậy có sát với tình hình thực tế chiến trường hay chưa, nên đã gọi đại diện lãnh đạo các quân khu phía Nam ra để nghe trực tiếp các cán bộ quân khu báo cáo. Quân khu 9 đã cử ông Võ Văn Kiệt đi. Sau đó ông Lê Duẩn gọi tiếp ông Lê Đức Anh ra báo cáo. Còn trên Miền thì vẫn có lệnh là rút hai trung đoàn chủ lực lui về vùng căn cứ u Minh để củng cố, học tập. Tư lệnh Lê Đức Anh nói với Tham mưu trưởng Tư Chức điện báo cáo Miền cho ở lại, không lui gì hết. Lui là mất dân mất đất. Sau đó có điện của Miền trả lời; "Lệnh của trên, tất cả chủ lực phải lui theo đúng Hiệp định Paris. Ký tên: Năm Ngà". Cuối bức điện không thấy ghi rõ chức vụ gì cả. Ông Anh bảo với ông Tư Chức: "Điện không có chức vụ Tư lệnh hay Phó tư lệnh gì hết. Nên cứ để yên. Còn anh cứ chấp hành lệnh của tôi đi, vì chủ trương này Thường vụ Khu ủy đã quyết". Nói rồi ông đi thẳng ra miền Bắc theo lệnh của Trung ương, hôm đó là ngày 4 tháng 11 năm 1973.
Hai người đi hai thời điểm cách nhau một ít ngày nhưng đều rất bí mật. Cuộc đi của ông Kiệt khá thuận lợi, ông đi bằng đường bộ mất 14 ngày, còn cuộc đi của ông Anh thì có gian nan trục trặc. Thời gian trước đó, các tàu vỏ sắt của đoàn tàu Không số đã bị lộ, địch đánh ác liệt nên lần này các đồng chí vượt biển nhưng đi bằng hai tàu đánh cá loại nhỏ, nói cho đúng hơn là hai cái thuyền máy bằng gỗ đã cũ, mỗi cái chỗ 5 người, do ông Tư Mâu chỉ huy dùng hai vỏ bằng gỗ để hoà lẫn với những tàu thuyền đánh cá thông thường của người dân ven biển miền Nam. Ông Tư Mâu là người chuyên tổ chức vận chuyển vũ khí từ Bắc bằng tàu "Không số" vào Nam, sau này được phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; khi chuyển ra ngoài thì làm Thứ trưởng Bộ Hải sản. Đi được một chặng thì vì gió to, nước tràn vào, bị thủng và chìm mất một thuyền, phải dồn tất cả người lên chiếc thuyền còn lại. Khi ra đến ngang Vũng Tàu thì quyết định xông vô bờ để cho bớt người lên ở lại, không thì rất nguy hiểm. Nhưng đến đây lại xảy ra một chuyện phức tạp là có một người đào ngũ, tối đến không thấy nó về, mọi ngưòi rất sốt ruột trong khi gió vẫn rất to. Lúc đó ông Anh quyết định cứ nhổ neo ra đi. Ra ngoài khơi gió càng dữ đã thổi dạt thuyền đi. Rất may là Hải quân của Trung Quốc đã phát hiện và cứu thuyền, kéo về cảng đảo Hải Nam. Sau đó các đồng chí Hải quân Trung Quốc báo cho Hải quân ta sang đón và đưa về cảng Hải Phòng. Khi đón được ông Lê Đức Anh trở về an toàn, ông Nguyễn Bá Phát, Tư lệnh Quân chủng Hải quân vô cùng mừng rỡ. Như vậy ông đã đi mất 7 ngày đêm.
Ông Anh kể: "Về đến Hà Nội, người đầu tiên ra thăm tôi là anh Văn Tiến Dũng. Ngay sau đó, bên Trung ương có mời tôi sang ăn cơm. Khi ăn có ba người là các anh Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ. Lúc ăn tôi thấy các anh không hề nói tới chuyện nhiệm vụ chiến đấu gì cả. Ăn xong tôi nói với anh Sáu Thọ là giờ có kỷ luật gì tôi thì anh đưa quyết định để tôi chấp hành và xin đi chữa bệnh. Anh Thọ nói "Giờ thì cậu trở về ngay Miền!". Chỉ có anh Lê Duẩn gặp riêng và nói rằng: "Về nói với anh Hùng, anh Trà, bàn trong nội bộ làm kế hoạch tác chiến và cùng với ngoài này tích cực chuẩn bị về mọi mặt để có thể giải phóng nhanh nhất. Nếu để chậm thì ngụy Sài Gòn nó lại hồn, nó củng cố thì sẽ rất khó". Anh nói hai ba lần "Nó lại hồn" và "Rất khó". Rồi anh nói thêm: "Có thể cuối năm này, nói các anh bàn bạc thu xếp để ra họp". Lúc đó trong Miền, anh Phạm Hùng làm Bí thư Trung ương Cục, anh Trần Vãn Trà làm Tư lệnh Bộ chỉ huy Miền.
Trước khi trở về Nam, tôi bảo cho tôi vào bằng đường Trường Sơn Đông, không đi Trường Sơn Tây. Trước ngày lên đường, anh Lê Duẩn và tôi đến báo cáo Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng. Chủ tịch Tôn Đức Thắng ân cần thăm hỏi tôi và nói rằng: "Các chú giải phóng nhanh miền Nam để cho Bác trở về thăm, quê Long Xuyên và thăm Ba Son, nơi Bác đã tổ chức phong trào công nhân chống thực dân Pháp năm xưa". Sau đó tôi sang thăm Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ, và ăn cơm với ông. Trước ngày tạm biệt miền Bắc, anh Hoàng Văn Thái, rồi kế đó anh Võ Nguyên Giáp kêu tôi đến ăn cơm. Tôi đến thăm, gia đình và dùng cơm với hai anh, rất vui vẻ và thoải mái.
Bữa tôi đến thăm anh Lê Trọng Tấn và các anh ở Bộ Tổng Tham mưu và cơ quan Bộ Quốc phòng, nhân lúc chuyện trò, các anh nhắc lại chuyện Quân khu 9 chúng tôi đánh địch lấn chiếm và phá hoại Hiệp định, anh Hoàng Nghĩa Khánh nói vui: "Anh dũng cảm!". Tôi bảo - Dũng cảm, à? Đánh giặc thì phải dũng cảm chứ! Rồi cả hai cùng cười, không khí thật thoải mái vui vẻ.
Vào đến Vĩnh Linh, lúc đó đã giải phóng, gặp anh Trần Độ đi từ Miền ra, tôi hỏi - Anh ra thì ai thay? Anh lặng im không nói gì... Vào tới Miền, tôi không thấy ai nhắc chuyện "ra toà" nữa.
Theo lời dặn của anh Lê Duẩn và anh Văn Tiến Dũng, tôi gặp và báo cáo với hai anh Phạm Hùng và Trần Văn Trà, chỉ hai anh thôi. Anh Trà bảo tôi: "Căn cứ vào việc nắm tỉnh hình xong thì cậu làm kế hoạch đi. Sau khi Trung ương Cục có ý kiến là triển khai luôn". Anh Hùng cũng bảo tôi: "Làm sớm đi!". Vào tới Bộ chỉ huy Miền được ít ngày thì trong này nhận được thông báo quyết định của Trung ương phong cấp hàm cho tôi từ Sư đoàn bậc trưởng tương đương đại tá lên trung tướng. Cùng phong vượt cấp lần này có cả anh Đồng Sỹ Nguyên, Tư lênh Bộ đội 559. Ý của anh Trần Văn Trà là tôi làm Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Miền. Tôi bảo không nên, cứ để anh Năm Ngà (Nguyễn Minh Châu) làm Tham mưu trưởng. Tôi kiêm cũng được, nhưng không cần thiết phải thế. Và ý kiến của tôi được các anh chấp thuận. Lúc này anh Lê Văn Tưởng đã thay vị trí của anh Trần Độ - Phó Chính ủy Bộ chỉ huy Miền.
Khi làm kế hoạch tác chiến mùa khô 1974-1975, tôi nhớ đinh ninh lời anh Lê Duẩn "Để chậm thì khó". Các đơn vị chủ lực của Miền bắt đầu huấn ìụyện và hoạt động tác chiến theo kế hoạch mới. Nhưng thực trạng lúc này, bộ đội đánh tập kích thì được, nhưng đánh công kiên thì chưa ổn mà điển hình là trận đánh đồn Rạch Bắp nằm trên lộ 7. Ta dùng lựu pháo, có xe tăng và một trung đoàn bộ binh nhưng đánh hai ngày liền mà không dứt điểm được đồn. Tôi nói với chỉ huy các đơn vị là các anh hãy cho bộ đội tập huấn lại; nếu cứ đánh kiểu đội hình "đầu nhọn đuôi dài", "bộc phá liên tục" để mở qửa đối với sự phòng thủ của Mỹ-ngụy thì e không được, mà có được củng thương vong lớn. Hoặc dùng xe tăng đi trước dẫn bộ binh theo sau, trong khi hoả lực nói chung, hoả lực chống tăng nói riêng của địch rất mạnh, thì không thành công. Kế đó, tôi mời hai anh Bùi Cát Vũ và Lương Văn Nho đến, hôm đó có cả anh Năm Ngà, Tham mưu trưởng Miền. Tôi bảo, bây giờ ta hãy tập huấn cho bộ đội cách đánh cùng lúc tiến hành mở hai cửa mở. Một cửa mở bằng lối dùng đặc công bí mật luồn sâu gỡ cắt hàng rào; một cửa dùng pháo binh bắn chế áp lô cốt địch và dùng bộc phá phá hàng rào, pháo binh bắn yểm trợ cho bộ đội xung phong, hướng là tiêu diệt chi khu quân sự của chúng và lấy Đồng Xoài làm ví dụ thực tế. Hai anh đã về xây dựng một khu vực địa hình giống như trận địa thật và tập huấn cho bộ đội ở cả ba cấp: đại đội, tiểu đoàn và trung đoàn. Cuộc tập huấn kỹ càng suốt mấy thắng trời tại Cánh Đồng Pan.
Trước khi bước vào mùa khô, chủ lực của Miền thành lập "Bộ chỉ huy 351", sau mới đổi là Quân đoàn 4. Cử anh Hoàng Cầm làm Tư lệnh kiêm Chính ủy, về sau anh Hoàng Thế Thiện làm Chính ủy; anh Bùi Cát Vũ làm Phó tư lệnh, còn Tham mưu trưởng là anh Hoàng Nghĩa Khánh. Khi bắt đầu triển khai kế hoạch mùa khô thì Bộ chỉ huy Miền có tôi, anh Tưởng là Phó chính ủy, anh Vũ, anh Năm Ngà và anh Hoàng cầm. Trong Bộ chỉ huy Miền phân công tôi, anh cầm và anh Vũ lo mở hướng hành lang, còn anh Năm Ngà thì lo hướng đường 20. Triển khai xong việc này thì chuyển sang hướng Long An. Lúc này anh Đồng Văn cống
đang chỉ đạo Khu 9. Còn một vị trí, một hướng vô cùng quan trọng là núi Bà Đen. Lực lượng giải quyết ở hướng này thì lấy đơn vị Trinh sát và Trung, đoàn 16 cộng với lực lượng dân quân du kích địa phương. Vùng ven đô do anh Hải Phụng phụ trách; điều anh Mân người gốc Gia Định làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn Gia Định thay cho anh Hai Sỹ về Miền.
Khoảng tháng 10, khô ráo, thì việc tập huấn cho chỉ huy các đơn vị và luyện tập cho bộ đội đánh công kiên đã xong, bắt đầu thực hiện kế hoạch của các hướng. Hướng Tây Ninh làm trước. Khi ta bao vây núi Bà Đen, tiến công các đồn bốt và phá ấp chiến lược và ven thị xã Tây Ninh thì quân địch ở đây bỏ chạy. Lập tức Sư đoàn 25 của ngụy đang đứng chân từ Củ Chi tới Gò vấp kéo lên. Như vậy ta đã làm được việc nghi binh thu hút, căng kéo lực lượng chủ lực của chúng. Việc quan trọng nhất ở đây là ta đã phá được đài quan sát toàn vùng của chúng, đây đồng thời là trung tâm thông tin của toàn khu vực. Đứng trên núi Bà Đen, tầm quan sát có thể khống chế cả một vùng rộng lớn, bên này là Phước Long, bên kia là thành phố Sài Gòn, cả vùng Sông Tiền, Long An và quốc lộ số4.
Riêng hướng mở hành lang, vì thấy rõ vị trí và tầm quan trọng của nó, nên tôi và các anh em cơ quan Tham mưu, Bộ chỉ huy Miền vẫn hằng nung nấu ý tưởng này, khi trình ra Hội nghị của Bộ chỉ huy Miền và Trung ương Cục thì đều đạt được sự nhất trí rất cao. Lúc này tuyến đường Đông Trường Sơn, cả đường ô tô và đường ống dẫn dầu đã mở vào tới bắc Bù Đốp, Lộc Ninh. B2 phải mở được hành lang để nối liền, phát huy ưu thế của dãy Trường Sơn cho giai đoạn chiến lược quyết định. Chủ trương đã vạch ra là: Chủ lực của Miền, của Quân khu 7 và Quân khu 6 phải đánh mở rộng, hoàn chỉnh các vùng căn cứ, chuẩn bị cho các hướng: bắc, tây bắc, đông và tây Sài Gòn, thực hiện bao vây cô lập và ép Sài Gòn ngày càng chặt. Ngay từ đầu mùa khô phải giải phóng đường 14 từ Đồng Xoài lên giáp Quảng Đức để mở rộng căn cứ của Miền về phía sau giáp Tây Nguyên và nối liền căn cứ Miền về phía đông Sài Gòn, tạo điều kiện mở đường và dự trữ vật chất, phương tiện kỹ thuật, hậu cần cho hướng này. Muốn giải phóng đường 14 thực hiện ý định nói trên, thì ta phải diệt cho được mục tiêu chủ chốt là Đồng Xoài. Chúng tôi cũng tiên lượng được rằng, nếu quân ta đạt được mục tiêu này thì tỉnh lỵ Phước Long sẽ lập tức rơi vào trạng huống hoàn toàn bị cô lập; lúc đó, ta chỉ cần bao vây lại đó, quân địch ở đây sẽ không còn tác dụng gì nữa. Đạt được điều này thì không những sẽ làm cho căn cứ hậu phương của ta hoàn chỉnh mà còn tạo ra được một tác động tâm lý và chính trị rất có lợi cho ta.
Ngày 13 tháng 11, hai anh Phạm Hùng và Trần Văn Trà lên đường ra Bắc. Trước khi đi, giao cho anh Võ Văn Kiệt trực bên Trung ương Cục, giao cho tôi thay vị trí chỉ huy của anh Trà trong những ngày anh đi vắng. Lúc chia tay, anh Trà còn dặn tôi: "Ngoài các điện báo ra Bộ như thường lệ, hãy luôn điện cho tôi mọi việc diễn biến của chiến trường, cả tình hình khó khăn nổi cộm và cả những tin thắng trận". Tôi củng nói với anh là ra ngoài đó anh ráng trình bày với Trung ương xin thêm lực lượng cho chiến trường B2; vì dù ta đã có Quân đoàn 4 nhưng hiện nó là quân đoàn thiếu và yếu nhất trong các quân đoàn, vậy mà đang mang danh là chủ lực của chiến trường chủ yếu...".
Trở lại nói về Đồng Xoài. Với địch, đây là vị trí then chốt của toàn bộ tỉnh Phước Long cũng như của tuyến đường 14 vì nó là yết hầu, là cửa ngõ, là con đường sống, nối toàn tỉnh với các vùng của Quân đoàn 3 ngụy. Mất Đồng Xoài thì bộ phận còn lại của tỉnh Phước Long và đường 14 bị cô lập, sẽ khốn đốn về tiếp tế mọi mặt cho một tỉnh miền núi vốn nghèo lương thực, thực phẩm. Với ta, mục đích giải phóng đường 14 để mở đường hành lang về phía đông, vận tải vũ khí đạn dược, lương thực thực phẩm, thuốc men ở căn cứ Khu A và đông đường 20, chuẩn bị cho cánh quân sẽ đánh vào Sài Gòn từ phía đông - Hành lang này phải qua Đồng Xoài hay sát Đồng Xoài về phía bắc. Không giải phóng được Đồng Xoài thì hành lang vẫn bị hạn chế như trước đây, cũng có nghĩa là mục đích của kế hoạch mùa khô này chưa đạt được.
Vị trí Đồng Xoài thật sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Lúc đầu ông Anh chỉ đạo dùng một trung đoàn bộ binh của Sư đoàn 7 do đồng chí Lê Nam Phong làm Sư đoàn trưởng, giao cho đồng chí Bùi Cát Vũ trực tiếp chỉ đạo với phương án là ta dùng cách đánh đặc công bí mật gỡ mìn, cắt hàng rào và luồn bộc phá ống vào để phá vật cản, mở "cửa mỏ" cho một hướng tiến công. Còn một hướng khác thì dùng hai khẩu pháo 85 ly bắn chế áp lô cốt và hoả điểm đầu cầu của địch để cho bộ binh mở cửa và xung phong. Đây là lối đánh mới mà ta vừa tổ chức tập huấn cho cán bộ các cấp. Nhưng, khi anh em đang gỡ gần xong hàng rào kẽm gai của địch thì nhận được điện của Bộ Tổng Tham mưu với nội dung không cho đánh Đồng Xoài, đặc biệt không cho dùng pháo lớn, mà chỉ cho dùng pháo nhỏ với quy mô cao nhất là cấp đại đội. Trong cán bộ có nhiều đồng chí thắc mắc là tại sao cấp trên lại không cho đánh, hơn nữa cấp Bộ mà lại chỉ đạo quá cụ thể như vậy? Trong thâm tâm thì ông Lê Đức Anh hiểu nguyên nhân sâu xa của sự việc này, nhưng không thể nói ra để giải thích cho anh em được. Còn nguyên nhân trực tiếp: vì hiện trạng lượng pháo lớn và xe tăng dự trữ của ta không còn nhiều nên ý định của đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và của Bộ Chính trị là hạn chế đến mức tối đa, tiết kiệm đến mức tốì đa pháo, đạn pháo lớn, tăng-thiết giáp và vũ khí tiến công nặng, để dành cho trận quyết chiến cuối cùng. Còn một nguyên nhân trực tiếp nữa là trong mùa mưa vừa rồi ta đã tiến công vị trí Rạch Bắp nhưng không thành công, nên cấp trên e ngại nay B2 tiến đánh chi khu Đồng Xoài là chi khu lớn hơn, khó hơn Rạch Bắp sẽ lại không thành công mà hao tổn pháo đạn, nên đã lệnh vào không cho đánh, hơn nữa còn quy định cụ thể như vậy. Cấp trên ra lệnh không cho đánh Đồng Xoài là có lý đúng của trên, nhưng Bộ chưa hề biết trong B2 đã tập huấn cách đánh mới, nên vẫn đinh ninh rằng Rạch Bắp đã đánh không nổi thì đánh Đồng Xoài sẽ càng khó khăn hơn. Mà trận mở màn mùa khô không thành công thì sẽ gây nhiều bất lợi cho toàn chiến trường miền Nam.
Khi nhận được lệnh của trên, ông Anh bảo anh em mở xong hàng rào thì cài lại, đánh dấu để đó, giữ nguyên lực lượng lui ra bao vây. Rồi sử dụng Trung đoàn 271 thuộc Sư đoàn 3, tăng cường cho hưống tiến công chủ ỵếu này 2 khẩu pháo 85 ly và hai nghìn viên đạn để đánh vào chi khu Bù Đăng. Ông nói với các đồng chí trong Bộ chỉ huy: "Khi đánh được Bù Đăng rồi thì ta sẽ đánh Đồng Xoài
liền, như vậy cấp trên sẽ không nói gì nữa", và điện ra Bắc cho ông Trà biết quyết định điều chỉnh kế hoạch, thay đổi việc chọn mục tiêu đánh trận mở màn cho mùa khô này.
Sở chỉ huy trung tâm lúc đó đặt ở Tà Thiết.
Chi khu Bù Đăng gồm ba cụm mục tiêu chủ yếu: Chi khu quân sự, căn cứ Vĩnh Thiện, khu hành chính và tiểu đoàn 362 bảo an cùng lực lượng dân vệ đóng giữ. Bộ chỉ huy Miền phân công đồng chí Hoàng Cầm chỉ đạo hướng này. Sáng 14 tháng 12/1974 lực lượng của Sư đoàn 3 do đồng chí Sáu Hưng chỉ huy bắt đầu nổ súng tiến công. Trung đoàn 271 tiến công trên hướng chủ yếu, đánh- vào chi khu quân sự, đến 8 giờ 40 phút đã chiếm dược chi khu và khu hành chính. Trung đoàn 201 tiến công trên hướng thứ yếu, 8 giờ đã làm chủ căn cứ Vĩnh Thiện. Cùng lúc, lực lượng vũ trang địa phương tiến công quét sạch các đồn và chốt dân vệ-ở xung quanh chi khu. Bộ đội ta thừa thắng truy kích tàn bĩnh địch và lần lượt chiếm các vị trí của chúng ở ngã ba Km 10, Km 48 và cầu 38 trên đưòng 14.
Trển hướng thứ yếu Bù Na, ta tổ chứe vây ép yếu khu này. Tiểu đoàn 363 bảo an đóng- giữ ở đây thấy Đồng Xoài đang bị bao vây, Bù Đăng bị ta chiếm và lệ 14 bị ta cắt đứt ở Km 19 nên đã nhằm đêm 15-12 rút chạy về Phú Riềng. Quân ta truy kích, diệt và làm tan rã gần hết tiểu đoàn này, đồng thời diệt 7 đồn địch từ Bù Nà đến Liễu Đức. Chốt địch ở cầu 11 bị Tiểu đoàn 9 của Trung đoàn 209 vây ép, ngày 16-12 cũng bỏ chạy về Đồng Xoài. Tướng Lê Đức Anh cùng Bộ chỉ huy quyết định nhanh chóng chuyển cuộc tiến công sang đợt 2 - tiêu diệt hai chi khu Bù Đôp và Đồng Xoài.
Rạng sáng 23 tháng 12, Trung đoàn 165 đo Trung đoàn trưởng Trần Quang Triệu và Chính ủy Nguyễn Can chỉ huy, cùng lực lượng được tăng cưòng, nổ súng tiến công chi khu Bù Đốp. Đánh đến chiều thì ta làm chủ Bù Đốp rồi phát triển về hướng tây, bức rút hai đồn ngã ba Phước Lộc và Phước Quả.
Trước nguy cơ Bù Đốp bị tiêu diệt, tiểu khu Phước Long bị uy hiếp, trưa ngày 23, Quân đơàn 3 ngụy (của Dư Quốc Đống) dùng máy bay lên thẳng đổ một tiểu đoàn và 2 khẩu pháo 155 ly xuống Phước Bình. Lực lượng này lập tức bành quân theo lộ 311 đến phía tây Phước Quả để ngăn chặn ta. Như vậy, quân địch đã bị thu hút về hướng Bù Đốp đúng như ý định của ông Anh. Bởỉ vậyr trên hướng chủ yếu, ông lệnh cho quân ta lập tức triển khai lực lượng, để tiêu diệt căn cứ Đồng Xoài, chi khu lớn nhất, quan trọng nhất trên địa bàn Phước Long.
Nhiệm vụ đánh chi khu Đồng Xoài vẫn do Sư đoàn 7 đảm nhiệm. Hướng tấn công chủ yếu giao cho Trung đoàn 141 do đồng chí Lê Dương Liễu làm Trung đoàn trưởng, Nguyễn Ngọc Doanh làm Chính ủy. Trung đoàn 201 chặn phía nam, Trung đoàn 209 chặn phía tây căn cứ, không cho địch từ Phước Vĩnh và Chơn Thành sang ứng cứu. 5 giờ sáng 26 tháng 12, Trung đoàn 141 nổ súng tiến công, đến 15 giờ cùng ngày thì đơn vị diệt mục tiêu cuối cùng là chốt cầu sô 2.
Sư đoàn 3 cũng cho một mũi bao vây Bà Rá. Một mũi khác anh em thừa cơ tự vận động lên chiếm sân bay Phước Bình. Trước đó nó cho một đại đội biệt kích nhảy dù đổ bộ, anh em của ta đánh mạnh thì nó co lại. Khi anh em đánh chiếm Bà Rá vì chúng biết đã mất Đồng Xoài nên chúng chống cự không đáng kể.
Như vậy sau 4 ngày chiến đấu, ta đã diệt hai chi khu, nhiều đồn bốt, đánh tan hai tiểu đoàn bảo an, thu được nhiều vũ khí, giải phóng hoàn toàn lộ 14. Thấy quân địch không có phản ứng gì lớn, ông Anh hội ý trong Bộ chỉ huy Miền, quyết định tiến công đợt 3, tiêu diệt khu vực phòng thủ cuối cùng, giải phóng Phước Long.
Địch ở Phước Long còn khá đông, khoảng hơn 4 tiểu đoàn và một chi đội xe M113, 4 trận địa pháo; bố trí liên hoàn chặt chẽ nhưng lúc này đang rơi vào thế bị cô lập, tinh thần binh lính hoang mang sau khi biết rõ Đồng Xoài, Bù Đốp, Bù Đăng và hàng loạt đồn bốt dọc lộ 14 đã mất. Như vậy "ta có kế hoạch tiến công Phước Long từ trước" là không đúng, mà nó chỉ nảy ra khi đã đánh thắng, giải quyết dứt điểm Đồng Xoài.
Bộ chỉ huy B2 họp và phân công: Lê Đức Anh, Nam Ngà, Lê Văn Tưởng, mỗi người chỉ huy một hướng tiến công. Ban chỉ huy 351 gồm các ông: Hoàng Cầm, Bùi Cát Vũ và Hoàng Nghĩa Khánh tập trung ở Thuận Lợi để chỉ huy tiến công giải phóng Phước Long. Ông Anh điều một tiểu đoàn xe tăng và lựu pháo 105 ly vào tăng cường và điều Trung đoàn độc lập 16 ỏ Củ Chi lên bao vây phía Bắc và chuẩn bị đột phá vào Phước Long từ hướng này, còn các hướng khác các đơn vị đang tác chiến tại đây đã hình thành thế bao vây. Mặt khác, ông sử dụng Sư đoàn 9 đứng chân ở ven sông Sài Gòn- khu vực từ Bến Cát, Dầu Tiếng đến Bến củi để kiềm chế Sư đoàn 5 và Sư 25 ngụy. Khi các đơn vị đã vào vị trí triển khai đội hình xong, sáng 31 tháng 12, phát lệnh nổ súng. Đến chiều ngày 6 tháng 1 năm 1975, ta diệt mục tiêu cuối cùng là hầm ngầm ở trung tâm hành chính, làm chủ hoàn toàn thị xã Phước Long, kết thúc thắng lợi hoàn toàn chiến dịch. Ở đây có một chuyện là khi ta đột kích vào Phươcs Long, có lẽ vì nó đang ở trạng thái hoang mang, nên thằng trưởng chi khu Phưốc Long đưa cố vấn Mỹ bỏ chạy.
Sau 24 ngày chiến đấu tiến công, ta đã diệt và làm tan rã hoàn toàn quân địch ở Phước Long, thu toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến tranh của chúng; giải phóng tỉnh Phước Long với hơn 50 vạn dân. Ta đã diệt và làm tan rã 4 tiểu đoàn bảo an, 1 tiểu đoàn chủ lực, 2 đại đội biệt kích, 4 đại đội thám sát, 2 đại đội cảnh sát, 6 trung đội thám báo phượng hoàng, 10 trung đội pháo 105 và 155 ly, 60 trung đội dân vệ và 3.000 phòng vệ dân sự; diệt 1 tiêu khu, 4 chi khu và 1 yếu khu.
Một ngày sau giải phóng, ông Võ Văn Kiệt đã điều động cán bộ và nhân viên kỹ thuật lên tiếp thu và quản lí nhà máy sửa chữa cơ khí và chế biến cao su ở Phú Riềng thuộc Sở cao su Thuận Lợi. Đồng thời ta cũng tổ chức quản lý sân bay Phước Bình. Trên đất Phước Long vừa giải phóng nhà máy và sân bay là hai khu vực quan trọng nhất. Nhờ quản lý tốt nên sau này phi công Nguyễn Thành Trung đã lấy máy bay của địch hạ cánh xuống đây an toàn.
Khi nhớ lại sự kiện này, Đại tướng Lê Đứe Anh tâm sự: "ở đây, tôi tư rút ra được mấy điều. Một là, về phía địch, khi ta chọn đúng và đánh đòn hiểm (chi khu Đồng Xoài) thì lập tức nó hoang mang, nao núng tinh thần. Hai là, người chỉ huy phát động được tinh thần chủ động sáng tạo của bộ đội từ cơ sở trở lên, thì không những ta khắc phục được những hạn chế vốn có (về vũ khí trang bị), để tìm ra cách đánh mới có hiệu quả, mà còn làm cho bộ đội, nhất là cán bộ chỉ huy các cấp luôn phát huy được tịnh thần chủ động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm trong quá trình phát triển chiến đấu. Ba là, cấp trên dù khi chưa hiểu rõ cấp dưới, ra lệnh, thì cấp dưới phải nghiêm chỉnh chấp hành, nhưng tùy từng tình hình mà có những quyết định cho đúng, quyết định kịp thời, quyết định tại chỗ, không "theo lệnh trên" một cách rập khuôn máy móc. Mạnh dạn quyết định dùng chủ lực và hỏa lực tăng cường để tiến công quyết liệt khi biết rõ quân địch đã dao động hoang mang, quân ta đang ở thế thượng phong thì phải dấn tới giành chiến thắng cao nhất. Mọi tình hình tôi đều điện báo ra cho anh Trà để anh báo cáo-cấp trên.
Từ trước đến nay, diệt địch hành quân dã ngoại, địch đi cứu viện... nghĩa là diệt địch ở bên ngoài cứ điểm là sở trường của tar Nhưng khi ta đưa được tăng, pháo vào đánhr bộ đội thì phấn khởi; khi ta đánh được quân địch trong căn cứ có công sự, lô cốt vững chắc thì quân địch lập tức hoang mang dao động: Kế hoạch lúc đầu xác định Đồng Xoài là trận then chốt, nhưng trên không cho đánh. Sau đó, khi ta đã đánh được liên tục Bù Đăng, Bù Na, Đầng Xoài, Bà Rá, nhất là giải quyết Đồng Xoài thì quân địch dao động lớn, ta chớp thời cơ đánh chiếm Phước Long. Đây là thời cơ tại chỗ, không một người nào định trước cả. Nó phát sinh tại chỗ cả về chiến dịch và chiến thuật. Đến lúc ta đưa tăng vào, đưa pháo vào, quân địch hoảng không chống cự mà bỏ chạy. Đơn vị xe tăng và Trung đoàn 16 còn đứng nguyên chưa phải đánh. Như vậy là, khi ta đánh đòn phủ đầu mà trúng huyệt hiểm thì địch rã. Nếu ta lừng chừng không chớp thời cơ này đánh tới, mà để chậm, nó đưa lên một liên đoàn biệt động tăng cường cho núi Bà Rá và thị xã Phước Long thì ta sẽ khó hơn rất nhiều. Đây không phải là chủ trương có trước của Bộ chỉ huy Miền, mà tình hình cụ thể nó đặt ra phải xử lý. Nếu ta tách vòng ngoài xong rồi mới đột kích vào như cách đánh thông thường thì không thắng".
Có thể nói, chiến thắng Đường 14 - Phước Long- núi Bà Đen đối với Mặt trận B2 đã tạo ra một địa bàn chiến lược quan trọng, uy hiếp trực tiếp phía đông quốc lộ 13 và hệ thống phòng thủ của địch trên hướng bắc Sài Gòn, làm thay đổi đáng kể tương quan về thế trận trên chiến trường Đông Nam Bộ có lợi cho ta. Ý nghĩa trực tiếp là khi tiến vào giải phóng, ta đã hiểu được cách phòng thủ của địch ở một thị xã có địa hình hiểm trở, và quan trọng nhất là ta đánh giá được tinh thần của quân ngụy ở thởi điểm này. Đốì với Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tham mưu thì chiến thắng Đồng Xoài - Đưòng 14 – Phước Long có ý nghĩa là "Trận trinh sát chiến lược" thăm dò khả năng quân ngụy và sự can thiệp của Mỹ, làm sáng tỏ hơn những cơ sở để Bộ Chính trị hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam. Trước đó ta cũng dự đoán Mỹ sẽ không trở lại, nhưng qua trận này thì điều đó được khẳng định. Lịch sử có nhiều cái tưởng như ngẫu nhiên nhưng lại mang tính quy luật. Lần này, chiến thắng Đồng Xoài - Đưòng 14 - Phước Long, lần đầu tiên ta giải phóng hoàn toàn một tỉnh, lại diễn ra dứng lúc Hội nghị Trung ương đang họp và tập trung bàn về quyết tâm chiến lược, thựe hiện nốt nửa sau tư tưởng chỉ đạo của Bác Hồ "Đánh cho ngụy nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Nhìn khái quát hai năm 1973-1974, thấy rất rõ là, sau Hiệp định Paris, Mỹ-ngụy đánh quyết liệt vào các vùng giải phóng. Nhiều nơi ta mất đất, mất dân. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh"; bước đầu chúng thực hiện được. Trong lúc Mỹ-ngụy đang chủ quan lại được sự kiện ở Rạch Bắp ta đánh không thành công, ta bị thương vong, phải lui quân, làm cho địch chủ quan.
Ta đánh thắng địch ở Phước Long trong một tư thế mới - Tư thế quân ngụy thua đau mà quân Mỹ không dám quay trở lại. Ta cũng đã chuẩn bị phương án khi nó phản công quyết liệt bằng bộ binh và phi pháo, nhưng nó đã không dám làm, mà chỉ cho chừng một tiểu đoàn nhảy dù xuống. Do đó, có thể nói cái dở ở đây đã chuyển thành cái hay. Và trận thắng Đồng Xoài-Phước Long đã thật sự trở thành cơ sở vững chắc để Trung ương hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976 khi thời cơ lớn đã thật sự mở ra.
Về ý định giải phóng miền Nam, Bộ Chính trị họp bàn và thống nhất là kế hoạch giải phóng miền Nam sẽ thực hiện trong hai năm 1975-1976. Nhưng đồng chí Lê Duẩn vẫn băn khoăn và nói: "Cố gắng để sớm giải phóng miền Nam, để ngụy nó lại hồn thì khó". Nhiều người đều cho rằng đây là một suy nghĩ sắc sảo của đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn.
Ông Anh cho biết: Thực tế sau khi đánh được Phước Long, ngay sau khi hai anh Phạm Hùng và Trần Văn Trà họp Trung ương trở về, Bộ chỉ huy Miền chúng tôi đã làm kế hoạch tiến công giải phóng Sài Gòn. Chúng tôi thảo phương án sử dụng lực lượng tại chỗ là chủ yếu, tính toán kỹ thấy chỉ thiếu một quân đoàn. Anh Trà đi họp ngoài Bắc vào, anh nói: "Anh Ba bảo sẽ làm sớm, để chậm sẽ khó khăn phức tạp". Khi anh Trà trở về, họp bàn thống nhất với chúng tôi trong Bộ chỉ huy là điện xin Trung ương đưa ngay Quấn đoàn 3 vào tăng cường cho B2. Lúc đó bên Trung ương Cục anh Võ Văn Kiệt trực thay anh Trần Nam Trung. Anh Ba Hưng, người gốc củ Chi, là Tư lệnh Quân khu 9. Anh Đồng Văn Cống ở Bộ chỉ huy Miền chỉ đạo trực tiếp Khu 9. Anh Phạm Hùng là Bí thư Trung ương Cục kiêm Chính ủy Bộ chỉ huy Miền. Trong Bộ chỉ Huy cũng dự kiến phân công ba người: Phạm Hùng, Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, mỗi người chỉ huy một hướng. Cả Bộ chỉ huy Miền gần như thống nhất là sẽ tiến công giải phóng Sài Gòn vào tháng 4 vì sang tháng 5 đã vào đầu mùa mưa ở Nam Bộ, việc cơ động của ta, nhất là tăng, pháo và cơ giới sẽ khó khăn, mà khó khăn nhất là hướng Tây-Tây Nam Sài Gòn, vùng Long An mênh mông đồng nước, kênh rạch và sình lầy. Cùng với việc soạn thảo kế Hoạch là xây dựng "Quyết tâm chiến đấu", sơ đồ đã phác ra năm hướng tiến công vào sào huyệt cuối cùng của quân thù. Tôi còn nhớ người thao tác vẽ sơ đồ là đồng chí Long, Trưởng phòng Tác chiến sở chỉ huy. Bởi vậy khi hai anh Lê Đức Thọ và Văn Tiến Dũng được Bộ Chính trị cử vào, các anh xem và nói "Kế hoạch làm tốt, nhưng phải thêm quân". Và các anh cũng thấy nơi khó nhất là hướng Tây-Tây Nam vì sình lầy. Các anh cũng thống nhất với nhận định phân tích của Bộ chỉ huy Miền - Đây là một hướng tiến công rất quan trọng vì nhất định ta phải nhanh chóng chia cắt quân địch trên tuyến quốc lộ số 4 để quân địch ở Sài Gòn không thể co cụm xuống cố thủ ở Tây Đô - Cần Thơ (nếu nó co cụm được về đó, trong một tình huống nhất định, nó phát lời kêu gọi, thì không chừng quân Mỹ và bọn phản động quốc tế có theer lấy cớ để can thiệp, thì "trận đánh cuối cùng" của ta sẽ không "thuận buồm xuôi gió") và ngược lại, nếu ta chia cắt quân địch ở lộ 4 thì Quân đoàn 4 và quân ngụy ở vùng đồng bằng sông cửu Long sẽ không thể kéo về ứng cứu cho Sài Gòn. Tôi là Phó tư lệnh chiến dịch nhưng được giao đảm trách chỉ huy cánh quân tiến công trên hưởng Tây-Tây Nam, cùng với tôi có anh Hai Tưởng làm Chính ủy. Đây là một trong năm hướng tiến công của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, được mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử".
Trước đó, hai ông Năm Ngà và Trần Văn Phác đã được rút về Miền. Cánh quân hướng Tây-Tây Nam lúc này trên cơ sở Đoàn 232 giữ nguyên, bô sung các đơn vị vào, đội hình tiến công của hướng này gồm có: 3 sư đoàn bộ binh (3, 5 và 9), 4 trung đoàn bộ binh độc lập, 1 trung đoàn đặc công, được tăng cường 1 tiểu đoàn xe tăng T54, 1 tiểu đoàn thiết giáp PT85, 1 tiểu đoàn pháo 130mm, 1 trung đoàn và 1 tiểu đoàn phòng không, cùng với Sư đoàn 8 của Quân khu 8 và các lực lượng vũ trang địa phường, tất cả tương đương một quân đoàn tăng cường. Khi nhận nhiệm vụ cùng ông Anh chỉ huy cánh quân hướng Tây-Tây Nam đánh vào Sài Gòn, ông Lê Văn Tưởng rất phấn khởi vì ở "thời điểm lịch sử" lại được cấp trên giao nhiệm vụ đúng với ước nguyện của mình là "Trận cuối cùng được trực tiếp về tham gia giải phóng quê hương" vì ông là người gốc Long An. Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh đã nhất trí với đề xuất của Tư lệnh và Chính ủy cánh Tây-Tây Nam về điều động cán bộ: Đồng chí Lê Quốc Sản, Tư lệnh Khu 8 làm Phó chỉ huy, đồng chí Hai Nghiêm, Phó chỉ huy Đoàn 232 làm Tham mưu trưỏng Bộ tư lệnh cánh Tây-Tây Nam.
Việc cắt lộ 4 là rất khó nên nhiệm vụ được giao cho Sự đoàn 5, do ông Vũ Thược (Năm Thược) làm Sư đoàn trưởng, đồng chí Hoà, Chánh văn phòng Bộ chỉ huy Miền làm Chính ủy, vì khó nên Sư 5 xuống từ hai, ba tháng trước đó, đứng chân giữa hai con sông Vàm cỏ Đông và Vàm cỏ Tây. Lúc đó có một cô du kích tên là Sáu Sửa dẫn trung đoàn ra cắt lộ. Trời mưa xối dữ lắm. Phụ nữ mà dầm mình dưới nước, đỉa bu vào cứ bắt đỉa ném đi. Sau đó cô được phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Sau này cô làm Bí thư Huyện ủy Thủ Thừa, rồi Bí thư Huyện ủy Đức Huệ, rồi làm Phó chủ tịch tỉnh Long An.
Ông Anh ra lệnh cho Sư đoàn 5 không đánh Mộc Hóa mà tổ chức thành hai mũi tiến công; mũi thứ nhất cho một trung đoàn đánh Thủ Thừa, mũi thứ hai dùng hai trung đoàn đánh thị xã Tân An. Sư 5 khi đã làm tốt nhiệm vụ chia cắt quân địch tại lộ 4 thì giữ chặt hai đầu, giữ chắc địa bàn đã đánh chiếm rồi mối phát triển chiến đấu. Sư đoàn 8 của Khu 8 xin đánh và giữ ở đoạn Cái Bè, ông yêu cầu tiến công giải phóng Mỹ Tho, nhất định phải giữ từ Đồng Tâm trở xuống, kiên quyết không cho quân ngụy từ Sài Gòn chạy về co cụm ở vùng 4 chiến thuật (tức Cần Thơ).
Còn một mũi tiến công nữa cũng rất khó, đó là hướng Cần Giuộc, Nhà Bè đánh vô vì ngập nước, sình lầy. Bởi vậy ông đã cử ba đồng chí đảm nhiệm mũi này: Một là Tư Thân, Phó tư lệnh Khu 8, rất giỏi và thông minh; Chính ủy là Võ Văn Thạnh tức Ba Thạnh (Cục phó Chính trị Miền, quê gốc ở Nhà Bè); ba là Tư Chiểu, Chỉ huy trưởng Tỉnh đội Long An. Những người chỉ huy ở mũi này phải nhờ những xuồng nhỏ của dân để vận động, cả quãng đường dài tiến công là hệ thống đồn bốt giặc dày đặc, đi tới đâu phải gỡ đồn bốt tới đó; tất cả có đến mấy chục đồn. Nhưng khi bộ đội ta đánh vài đồn phủ đầu thì các đồn khác thấy quân ta tiến đến liền bỏ chạy.
Khi xe tăng, thiết giáp của ta vượt qua sông Vàm Cỏ thì trời đổ mưa, chỗ đó thuộc huyện Đức Huệ (Long An) sình lầy, ta không đi được. Nhân dân liền về dỡ nhà mình ra lót đường cho xe tăng ta vượt qua. Lúc đó ông Anh nói, anh nào đi đánh thì đi, còn anh ở lại thì làm lại nhà cho dân; tuy dân không hề đòi hỏi. Sau đó ông Năm Ngà đã trở lại chỉ huy việc bộ đội mình làm lại nhà cho dân, phần lớn là bằng gỗ.
Mũi tiến công do ba đồng chí Tư Thân, Ba Thạnh và Tư Chiểu phụ trách được giao mục tiêu chủ yếu trong nội đô là Tổng nha cảnh sát và cảnh sát đô thành. Mũi này đã thực hiện dứt điểm được sớm nên quân địch không kịp chạy, càng không kịp tẩu tán và hủy tài liệu. Khoảng hơn 9 giờ sáng 30 tháng 4 bộ đội đã chiếm lĩnh, làm chủ và tổ chức gác hết tất cả các vị trí. Anh em rất hăng hái nên dù không được giao mục tiêu nhưng khi hoàn thành nhiệm vụ sớm ở Tổng nha cảnh sát, đã cho một mũi vào dinh Độc Lập, còn một mũi phát triển ra cảng Hải quân.
Sau khi Sư đoàn 3, do đồng chí Sáu Hưng chỉ huy thực hiện đánh địch và mở được tuyến sông Vàm Cỏ, đánh chiếm tiểu khu Hậu Nghĩa, tạo điều kiện cho Sư đoàn 9 vượt sông để tiến công vào nội đô. Lực lượng trực tiếp đánh vào Biệt khu Thủ đô là một trung đoàn của Sư đoàn 9, lúc đó ông Ba Hồng (tức Võ Văn Đần) làm Sư đoàn trưởng. Mũi phát triển vào tới dinh Độc Lập thì hợp điểm vổi mũi thọc sâu của Quân đoàn 2 ở đó. "Thời khắc lịch sử" trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, tại dinh Độc Lập có mặt ba mũi tiến công từ hai hướng: 1 mũi của Quân đoàn 2, 1 mũi của Sư đoàn 9 và 1 mũi do đồng chí Tư Thân dẫn đầu. Thực tế lịch sử là như vậy.
Ông Anh bảo: Nhiều anh cứ nói Sư 22 ngụy nó phản kích quyết liệt là không có, chứ thực chất là nó chạy rã. Có thể nói lúc này quân ta đang ở thế thượng phong, còn quân ngụy đã lâm vào tình thế "vỡ trận" nên tư tưởng tan rã và đầu hàng là phổ biến. Mũi tiến công ra Bộ tư lệnh Hải quân thì quẫn ngụy cũng chạy hết rồi, anh em thấy dân đã vào đó, anh em tiếp thu và quản lý. Cả ở đây và đặc biệt là ở Tông nha Cảnh sát, Bộ tổng tham mưu ngụy và Trung tâm lưu trữ ở Quân cảng Hải quân, anh em phải lo vào sớm và quản lý được hết những cái cơ mật; sau đó giao tất cả các kho này cho Công an. Cách đây hai năm tôi mới hỏi lại bên Công an thì được biết tài liệu này ta đã chở hết nhưng chưa khai thác được nhiều. Nói chung chúng nó không kịp mang đi hoặc hủy tài liệu. Nguyễn Văn Thiệu và tên trùm tình báo chạy sớm, nhưng tài liệu thì nó không mang đi kịp. Nếu ta chỉ đạo tập trung khai thác trong vài ba năm thì đỡ, sẽ hạn chế được tối đa sự phức tạp. Đó là chỗ yếu của ta sau khi giải phóng, chỉ đạo không được tốt. Với các nước khác, khi thua trận, nó chạy thì nó hủy. Còn ở ta nó không kịp hủy; ưu điểm là ta thu được hết, nhưng thiếu sót là ta chưa tập trung khai thác.
Cái gì đúng, hay thì ta nói đúng, hay; cái gì dở thì ta nói là dở, là thiếu sót khuyết điểm. Những cái ta đã nói, đã viết cơ bản là đúng nhưng chưa đúng tuyệt đối như sự thật đã diễn ra, càng chưa đủ. Thời gian đã trôi qua 30 năm, độ lùi lịch sử cho phép chúng ta phân tích kỹ càng hơn, nhìn nhận thấu đáo hơn, đánh giá đúng đắn và công bằng hơn. Đó là trách nhiệm của những nhà viết sử.
Chẳng hạn, khi ta có Phước Long thì đâu đâu và lúc nào cũng chỉ thấy nói đến chiến thắng Phước Long là không đủ đâu. Mà phải thấy các trận đánh nghi binh ở Tây Ninh để tạo điều kiện cho vùng ven đô và ven lộ 4, Long An phát triển lực lượng, để tạo thế, mới đầy đủ. Còn ở hướng của Quân đoàn 3 phải tiến công giải quyết cứ điểm Đồng Dù. Lực lượng của địch ở đây có sư đoàn 25. Do tác động từ khi Bộ chỉ huy Miền cho đánh nghi binh ở núi Bà Đen (Tây Ninh) nên sư đoàn 25 ngụy phải căng kéo lên lo giữ Tây Ninh và Hậu Nghĩa. Quân đoàn 3 sử dụng một sư đoàn (thiếu) tấn công căn cứ Đong Dù từ 5 giờ 30 đến 11 giờ làm chủ căn cứ này. Cùng lúc Quân đoàn 3 sử dụng một sư đoàn thọc sâu đánh thắng vào ngã ba Bà Quẹo, rồi tiến vào Tân Sơn Nhất, Bộ tổng tham mưu ngụy. Cùng thời gian này, máy bay A37 của Phi đội Quyết thắng do Nguyễn Thành Trung dẫn đầu ném bom, sân bay tê liệt và quân địch hoảng loạn dẫn đến hỗn loạn. Hướng tiến công của Quân đoàn 1 ở Lái Thiêu cũng lần lượt đánh chiếm các cứ điểm của địch, tiến vào nội đô. .
Các hướng tiến công khác, các đơn vị của ta thực hành "đánh địch trong hành tiến", mọi sự kháng cự của địch nhanh chóng bị đập tan. Chỉ riêng có vị trí Xuân Lộc - Long Khánh là gay go, ác liệt nhất. Nhìn bao quát chúng ta thấy: Tuyến vòng cung phòng thủ vòng ngoài Sài Gòn của đối phương từ hướng tây - bắc theo chiều kim đồng hồ đến đông nam Sài Gòn, tức là từ Tây Ninh đến Vũng Tàu, địch bố trí 3 sư đoàn chủ lực thiện chiến bậc nhất, gồm sư đoàn 25 ở Trảng Lớn-Tây Ninh, sư đoàn 5 ở Lai Khê-Bến Cát, sư đoàn 18 ở Xuân Lộc-Long Khánh. Và trong số 5 sư đoàn bảo vệ vòng ngoài Sài Gòn (gồm sư 5, 7, 18, 22 và 25) thì sư đoàn 18 đứng ở Xuân Lộc được đầu tư trang bị xây dựng từ chân tơ kẽ tóc, được chi viện tối đa về hoả lực, được tăng cường các đơn vị dự bị chiến lược cuối cùng của quân ngụy. Xuân Lộc-Long Khánh là khu vực phòng ngự trọng yếu của địch ở quân khu 3, bảo vệ Sài Gòn từ phía đông, là một trọng điểm của tuyến phòng ngự Xuân Lộc-Biên Hoà-Bà Rịa-Vũng Tàu; đồng thời là điểm tựa hậu thuẫn vững vàng của phòng tuyến Phan Rang. Xuân Lộc là "Cánh cửa thép" - ngã tư quan trọng phát triển bốn hướng theo bốn trục lộ số 1, 20, 2 và 3, trong đó chủ yếu là án ngữ hai con đường quốc lộ 1 và 20 về Sài Gòn. Ở đây, bên cạnh sư đoàn 18 ngụy thiện chiến và được trang bị mạnh, còn có sở chỉ huy quân đoàn 3, tổng kho Long Bình, sân bay và cầu lớn Biên Hoà. Ngoài những lực lượng phòng thủ đóng quân cố định tại đây, khi chiến dịch nổ ra, chúng còn tung vào nhiều lực lượng bộ binh chủ lực và cơ giới như: Lữ 1 dù, chiến đoàn 5 sư 5, liên đoàn 7 biệt động quân, lữ 3 thiết giáp, các trung đoàn thiết giáp, các lữ đoàn thủy quân lục phiến 315, 318, 320, v.v... Thực tế cho thấy Xuân Lộc là mắt xích quan trọng nhất của tuyến phòng thủ vòng ngoài Sài Gòn. Âm mưu của địch là giữ cho được "Cánh cửa thép" này để hy vọng giữ được thủ phủ Sài Gòn, hòng tìm một giải pháp chính trị duy trì chế độ tay sai ngụy quyền ở miền Nam. Tổng fhống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu từng khẳng định "mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn". Còn các tướng lĩnh ngụy thỉ luôn rêu rao đây là "Phòng tuyêh bất khả xâm phạm", là "Cái máy nghiền các binh đoàn Việt Cộng".
Nhưng, thực tế cũng đã cho thấy, sau những ngày chiến đấu quyết liệt, dũng mãnh, hy sinh to lớn của Quân đoàn 4 và Quân khu 7, Trung đoàn 95B và các lực lượng vủ trang địa phương Biên Hoà, Bà Rịa, Long Khánh, thì vị trí "Cánh cửa thép Xuân Lộc - Long Khánh" đã được giải quyết một cách cơ bản. Cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 2 từ xa đã nhanh chóng thọc sâu vào nội đô là một công lớn, nhưng phải thấy rõ là khi Quân đoàn 4 ở Xuân Lộc đã chiếm và làm chủ từ ngã ba Dầu Giây, đánh chiếm sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy ở Biên Hoà và tổng kho Long Bình, đã đánh chiếm sân bay Biên Hoà, rồi mở được cầu Biên Hòa là đã hoàn thành cơ bản, đã mở rộng đường tiến vào Sài Gòn. Từ cầu Biên Hòa tiến vào nội đô Sài Gòn, lực lượng đặc công và biệt động đã đánh chiếm và giữ các cây cầu quan trọng, sức đề kháng của quân địch bị đè bẹp. Mũi thọc sâu của Quân đoàn 2 đã xộc thắng được vào tận dinh Độc Lập. Bởi vậy, nếu nói tới Chiến thắng 30 tháng 4 mà chỉ nói nhiều đến đơn vị xe tăng của Quân đoàn 2 tiến vào dinh Độc Lập thôi thì không đủ. Mà phải thấy rõ cả 5 cánh quân từ năm hướng lực lượng vũ trang và lực lượng quần chúng tại chỗ trong nội đô cùng nổi dậy và tiến công đồng loạt vào sào huyệt cuối cùng của quân địch với một quyết tâm và nỗ lực rất cao, trong đó kết quả tác chiến của đơn vị này đã mở ra điều kiện thuận lợi, thậm chí rất thuận lợi cho đơn vị kia, v.v...
Toàn bộ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã toát lên một điều là đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta đã thấm sâu vào quần chúng, kể cả quần chúng bị bắt buộc vào trong hàng ngủ địch, đây là thời cơ nó bộc lộ ra, vô cùng sinh động, mạnh mẽ và hiệu quả hơn bao giờ hết...
Đời tôi may mắn được đi qua suốt hai cuộc chiến tranh giải phóng đất nước. Biết bao kỷ niệm sâu sắc tưởng chừng không thêểquên. Nhưng nay tuổi cao, sức yếu, hai lần xuất huyết não thì nó không cho mình níu kéo mãi cái sự nhớ của mình dù đó là những kỷ niệm thiêng liêng. Chiến tranh là thử thách cao nhất, nghiệt ngã nhất đối với con người. Nhiều lúc bom đạn ác liệt quá, tôi vẫn từng nói vui với anh em "Bom đạn đầy trời thế này, chết là chuyện thường, còn sống thì mới kỳ". Bởi vậy, cái cú chết hụt cuối cùng ở giờ phút mà chiến tranh kết thúc đã trong tầm tay thì tôi không thể nào quên.
Tôi đặt sở chỉ huy của mình ngay bên bờ sông Vàm Cỏ thuộc huyện Đức Hoà, tỉnh Long An. Suốt ngày đêm tôi vẫn trụ trong cái chòi nhỏ sát mép sông. Sáng đó vô ăn cơm, chỗ ăn là cái nhà họp của địa phương làm nửa chìm nửa nổi. Chính ủy Hai Tưởng đặt vị trí ở đây; vừa ăn xong tự nhiên anh Tưởng bảo tôi: "Anh hãy nán lại, nằm trên võng của tôi mà thở, nghỉ mươi phút rồi hẵng ra đó!". Tôi nghe anh. Vừa ngả lưng thì ở ngoài chòi của tôi một quả bom từ máy bay địch ném trúng, cái chòi bay mất, cậu Nguyễn Hồng Thái cảnh vệ bị thương, cậu lái xe của tôi hy sinh. Nếu sáng hôm đó như những hôm trước, ăn xong tôi ra liền thì nhất định "cái chuyện thường" đã xảy ra với tôi. Và hôm nay chẳng còn ngồi để mà viết ra những dòng chữ này! Chiến tranh nó có chừa ai, cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên nhiều khi không thể mang "tính quy luật" ra mà giải thích.
Ngày 28 và 29 tháng tư Mỹ-ngụy hấp hối ào ạt hoảng loạn trong di tản. Ngày 30 ta đã giải phóng. Tôi nhớ, 30 tháng 4 và 1 tháng 5, tôi ở sở chỉ huy cánh Tây-Tây Nam, khi nghe các nơi báo cáo: Xong rồi! Lúc bấy giờ trong cơ thể cảm giác nhẹ nhõm, thoải mái biết bao! Và, lúc bấy giờ mới thấy thấm mệt, có thể nói mệt rã rời sau bao ngày đêm cơ thể luôn căng ra như dây đàn, nên khi anh Phạm Hùng, anh Văn Tiến Dũng cho người xuống kêu tôi lên để họp bàn với Trưởng ban Quân quản thành phố, tôi đã nói chừ cho tôi ngủ chút đã, mệt quá! Và tôi nhớ, mình đã ngủ một giấc tới 9 giờ sáng. Trên đời này, những ai vừa trải qua những thử thách nghiệt ngã, những ngày tháng căng thẳng cao độ thì hẳn sẽ hiểu và hết lòng cảm thông cho giấc ngủ ngon lành và không gì cưỡng nổi của những người lính chúng tôi ngay khi vừa kết thúc cuộc chiến tranh".
Nam hoàn toàn giải phóng. Bộ Chính trị có chủ trương giải thể Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền; tổ chức lực lượng phía Nam Bộ từ 4 quân khu (6, 7, 9 và Sài Gòn - Gia Định) thành 2 quân khu là Quân khu 7 và Quân khu 9. Quân khu 5 có thêm một phần của Quân khu 6 nhập vào. Đồng thời trên cũng có quyết định ông Lê Đức Anh về làm Tư lệnh Quân khu 9, gồm Khu 9 và Khu 8 cũ. Lúc đó, đối với ông thì việc sáp nhập và lập ra hai quân khu ở Nam Bộ và việc sắp xếp bộ máy của các quân khu không có gì lớn. Nhưng có một việc lớn là giảm quân số, giải thể các đơn vị theo chủ trương chung. Ông đưa ý kiến bàn trong Đảng ủy: cố gắng tập trung làm tốt một việc mà được hai, ba việc, chứ đừng ngược lại. Hiện tại Quân khu có 3 sư đoàn bộ binh, Đảng ủy nhất trí với ông quyết định giữ lại một sư đoàn thường trực, còn 2 sư đoàn (4 và 8) tổ chức đi làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Sư đoàn 4 ở tứ giác Long Xuyên, còn Sư đoàn 8 có công binh cơ giới thì ỏ vùng Đồng Tháp Mười; chủ yếu đào kênh, đưa nước vào thau chua rửa mặn. Rửa được mặn rồi thì trồng lúa cũng được, trồng cái gì cũng được. Việc quyết định đưa hai trong sô' ba sư đoàn chủ lực của quân khu đi làm kinh tế, như vậy được coi như đã giảm quân số thường trực nhưng vẫn giữ được quân tại ngũ. Đó là việc thứ nhất. Việc thứ hai là chủ trương đào tạo nguồn cán bộ cơ sở, là chăm lo đầu vào, làm nền tảng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, ngay từ những ngày đầu tiên sau giải phóng miền Nam, đồng thời quyết định lấy căn cứ Đồng Tâm làm nơi trực tiếp đào tạo cán bộ trung đội trưởng, trung đội phó, tiểu đội trưởng từ việc tuyển chọn những chiến sĩ tốt, đã trải qua chiến đấu của các đơn vị.
Việc thứ ba cũng lớn, là ông ra chỉ thị tiến hành kiểm kê tất cả tài sản rồi có quy chế về quản lý và sử dụng; kể cả số vũ khí có trong biên chế sau chiến tranh còn lại và số vũ khí, khí tài, phương tiện, cơ sở vật chất thu được của địch, mà số này cũng rất nhiều, nhiều cả về số lượng và chủng loại. Qua thanh, kiểm tra đã giúp cho lãnh đạo, chính quyền và chỉ huy các cấp sắp xếp lại cơ sở vật chất theo quy chế bảo quản và quy chế an toàn, thống kê phân loại được số lượng, chất lượng các chủng loại, củng cố xây dựng được hệ thống kho tàng, v.v... nên đã ngăn chặn được những nguy cơ uy hiếp cháy nổ và mất an toàn, ngăn chặn được tình trạng xuống cấp của vũ khí, khí tài, vật chất do sự tùy tiện và cẩu thả của con người, ngăn chặn được sự thất thoát và lãng phí; thu hồi được nhiều cơ sở vật chất bị chiếm dụng trái phép; giữ gìn và sử dụng có hiệu quả được một khối lượng vật chất phương tiện khá lớn trong khi nền công nghiệp nói chung, công nghiệp quốc phòng của ta nói riêng còn chậm phát triển, nước ta còn nghèo, lại đang cần củng cố xây dựng cơ sỏ hạ tầng, hàn gắn vết thương chiến tranh.
Một việc 1ớn nữa mới phát sinh phải giải quyết là dẹp cuộc bạo loạn ở Trà Vinh. Ngay từ đầu Khu ủy đã ra chủ trương không để đổ máu, làm được điều này nó đã có tác động tốt ngay lúc đó và tốt cho cả về sau này. Bí thư Trà Vinh lúc đó là ông Trung trước làm công tác địch vận ở trên Miền; ông sốt ruột nên đề nghị đưa lực lượng bộ đội Quân khu xuống dẹp bạo loạn. Ông Anh nói: "Không là không/ Thậm chí nếu để mất chính quyền một ngày tôi cũng không đưa. Nó mất là tại các anh. Bạo loạn cũng tại các anh. Các anh phải xử lý! Bây chừ mình phải tìm hiểu và thấy rõ những lệch lạc của mình mà sửa, chứ đưa quân đội xuống làm to chuyện thì
không được". Rõ ràng, từ việc giải quyết vụ bạo loạn ở Trà Vinh, những năm sau đó tình hình của địa phương rất vững.
Qua giải quyết bốn việc lớn nói trên đã không những không gây biến động lớn về tổ chức biên chế mà còn tạo được sự ổn định, đời sống và các hoạt động trong toàn quân khu nhanh chóng đi vào nền nếp khi đất nước chuyển giai đoạn từ chiến tranh sang hòa bình xây dựng. Điều này thì ai cũng thấy và ghi nhận. Khi Pôn Pốt và tập đoàn phản động cầm quyền ở Cam-pu-chia đánh sang toàn tuyến biên giới Tây Nam, riêng Quân khu 9 không bị hẫng hụt, không rơi vào tình trạng "bỏ trống địa bàn" vì không có quân thường trực do đã giải thể như các nơi khác. Lúc đó, hai sư đoàn 4 và 8 đang làm kinh tế chuyển ngay sang ehiến đấu đánh trả. Còn việc đào tạo cán bộ từ những anh em đã qua chiến đấu, đào tạo xong đề nghị phong quân hàm. Nhờ làm tốt việc này nên đã giữ được những cán bộ đã có kinh nghiệm chiến đấu ở lại xây dựng lực lượng vũ trang.
Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, Bộ đã cho ra quân, giải thể hàng loạt các đơn vị quân đội. Chính vì thế ở biên giới Tây Nam, hầu hết các nơi ta không có bộ binh thường trực, nên lúc đó ta bị bất ngờ, ở vào thế bị động đối phó lúng túng, bị tổn thất lớn.
Khi tập đoàn Pôn Pốt gây chiến tranh xâm lược trên toàn tuyến biên giới Tây Nam thì trên điều ông Lê Đức Anh về làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7 kiêm Chỉ huy trưởng Tiền phương của Bộ, ông Lê Ngọc Hiền làm Phó chỉ huy.
Trên mười năm làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Cam-pu-chia, một khoảng thời gian dài hơn cả cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Một nhiệm vụ khó khăn phức tạp mang tính đặc thù và chưa hề có trong lịch sử, chưa hề có tiền lệ, biết bao gian nan thử thách, biết bao kỷ niệm đối vối ông và các đồng chí đồng đội.
Tính từ tháng 10 năm 1975, đúng 17 tháng sau, ngày 30 tháng 4 năm 1977 Pôn Pốt cho quân tấn Công tuyến biên giới Quân khu 9, đến tháng 8 tấn công tuyến Quân khu 7 và tháng 10 tấn công tuyến Quân khu 5, chúng thực hiện chính sách giết sạch, đốt sạch, phá sạch, mổ bụng, moi gan, hãm hiếp phụ nữ, tàn sát cực kỳ dã man đồng bào ta ở biên giới. Nhưng về phía ta, các tỉnh, các quân khu phía Nam thiếu sẵn sàng chiến đấu, biên giới bỏ ngỏ, nên không hoàn thành nhiệm vụ. Chỉ huy tác chiến thì nặng về đánh theo -lối chính quy hiệp đồng binh chủng nên tiêu hao đạn dược thì lớn mà hiệu suất chiến đấu rất thấp. Chiến tranh nhân dân chưa được phát động; ba thứ quân chưa được hình thành rõ rệt để hỗ trợ cho nhau, hậu phương chưa được động viên.
Đến tháng 9 năm 1977 Thường vụ Quân ủy Trung ương họp đề nghị Bộ Chính trị có chủ trương giải quyết tình hình biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia. Mặc dù ta đã cố gắng kiềm chế và tích cực đề nghị giải quyết tình hình biên giới hai nước bằng phương pháp hòa bình, thương lượng, nhưng mọi cố gắng của chúng ta đều bị phía bên kia khước từ; không những thế họ còn mạnh hơn trong tiến công quân sự.
Ngày 1 tháng 2 năm 1978, trung ương đảng Pôn Pốt họp bàn chủ trương chống Việt Nam, quyết định thành lập 15 sư đoàn. Trong nghị quyết của họ viết rõ: "... chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10-15 đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Cam-pu-chia để tiêu diệt 60 triệu người Việt Nam...". Kế đó, chúng đã điều 13/17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa phương áp sát biên giới, liên tục mở các cuộc tấn công vào lãnh thổ của ta, có nơi chúng tiến sâu vào từ 15km đến 20km. Những cuộc tấn công này đã gây cho ta thiệt hại nhiều hơn bất cứ thời gian nào trước đó. Từ tháng 12 năm 1977 đến 14 tháng 6 năm 1978, ta bị thương vong 30.642 bộ đội, trong đó có 6.902 đồng chí hy sinh. Riêng tháng 3 đầu năm 1978 ta thương vong 12.000 đồng chí, dân ta bị thương vong 4.100 người, bị bắt 900 ngưòi, 30 vạn người phải tản cư về phía sau, bỏ hoang 6 vạn ha đất sản xuất. Một lần nữa ta rơi vào thế bị động.
Trước tình hình quan hệ Việt Nam - Cam-pu-chia ngày một xấu đi, kẻ địch càng công khai bộc lộ bộ mặt phản động, hiếu chiến, đưa chiến tranh leo thang ngày càng ác liệt, từ tháng 6 đến tháng 12-1978, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta lần lượt có 4 cuộc hội nghị quan trọng về cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Sau khi phân tích đánh giá tình hình, chỉ rõ kẻ thù và nguyên nhân của chiến tranh, Trung ương Đảng ta đã chỉ rõ: "... Giải quyết cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam càng nhanh càng tốt, để lâu kéo dài thì ta thương vong càng lớn, Việt Nam không thể ổn định để xây dựng và nhân dân Cam- pu-chia sẽ lâm vào cuộc diệt chủng ngày càng khủng khiếp...”.
Thực hiện chủ trương trên, một mặt chúng ta đã khẩn trương chuẩn bị tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ, bảo đảm có lực lượng mạnh đánh thắng địch ở hướng Tây Nam. Mặt khác, chúng ta khẩn trương giúp bạn xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xây dựng Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia vững mạnh, tập hợp sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân đứng lên lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Phong trào nhân dân Cam-pu- chia ly khai chế độ diệt chủng của Pôrt Pốt, chạy sang Việt Nam ngày một, đẩy địch vào thế bị động, cô lập và đứng trước nguy cơ sụp đổ; tạo ra thời cơ cho ta và cho bạn tiến lên mở cuộc tiến công toàn diện đánh đổ chế độ Pôn Pốt.
Ngày 13 tháng 12 năm 1978, Pôn Pốt đã huy động 10/19 sư đoàn mở cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta, trong đó 3 sư đoàn đánh vào Bến sỏi hòng chiếm thị xã Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh Hồng Ngự (Đồng Tháp), 2 sư đoàn đánh Bảy Núi (An Giang), 2 sư đoàn đánh Hà Tiên (Kiên Giang), 1 sư đoàn đánh Trà Phô, Trà Tiến (Kiên Giang).
Ngày 23 tháng 12 năm 1978, ta nổ súng mở màn cuộc phản công và tiến công quân Pôn Pốt trên toàn tuyến biên giới thực hiện quyết tâm chiến lược đã đề ra. Tiếp đó phối hợp với lực lượng quân sự và chính trị của bạn do ông Hun-xen chỉ huy, tấn công thần tốc và bất ngờ qua Cam-pu-chia.
Ngày 2 tháng 1 năm 1979, lực lượng ta và bạn đã đánh tan các sư đoàn chủ lực địch án ngữ các trục đường 1, số 7 và số 2 là đường vào Phnôm Pênh và giải phóng toàn bộ vùng đông sông Mê Kông. Ngày 4 tháng 1 năm 1979, ta và bạn hạ quyết tâm giải phóng Phnôm Pênh trước ngày 8 tháng 1 năm 1979. Ngày 7 tháng Giêng năm 1979 Phnôm Pênh giải phóng. Ngày 8 tháng 1 năm 1979, bạn tuyên bố thành lập Hội đồng nhân dân cách mạng Cam-pu-chia (do ông Hêng-xom-rin làm Chủ tịch), công bố chính sách đối nội, đối ngoại, quyền đại diện chân chính và hợp pháp của nhân dân Cam-pu-chia; và đến ngày 17 tháng 1 năm 1979 ta và bạn giải phóng Kô Kông là thị xã cuối cùng, đánh sập chính quyền Pôn Pốt trong cả nước, hoàn thành việc giải phóng nhân dân Cam-pu-chia khỏi hoạ diệt chủng, kết thúc thắng lợi giai đoạn thứ nhất của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở hướng Tây Nam nước ta và cuộc chiến tranh giải phóng giành độc lập dân tộc và dân chủ của bạn, mở- đường cho nhân dân Cam-pu-chia hồi sinh đất nước, làm lại cuộc cách, mạng, xây dựng lại đất nước và bảo vệ những thành quả đã giành được.
Ông Anh cho biết: "Có một lần, Tổng Bí thư Lê Duẩn cho gọi anh Lê Trọng Tấn và tôi lên, có cả đồng chí Phi Long, Cục phó Tác chiến nữa. Chúng tôi sang gặp Tổng Bí thư ở nhà số 6 Hoàng Diệu (Hà Nội). Đồng chí bảo: "Cố gắng làm xong sớm rồi rút quân ở Cam-pu-chia về Nam Bộ làm ruộng. Chúng tôi xin vâng lời và lúc đó tôi ý thức được rằng đồng chí Tổng Bí thư của Đảng rất tin tưởng vào quân đội, một đội quân anh hùng đã luôn phát huy truyền thống bản chất "Là đội quân chiến đấu và đội quân công tác, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua..." đặc biệt ở thời điểm mà nền kinh tế-xã hội của đất nước đang đứng trước những khó khăn gay gắt thì dùng lực lượng quân đội vào nhiệm vụ tăng gia sản xuất thì sẽ nhanh chóng giải quyết được những bức xúc về lương thực. Điều đó nói lên sự tin cậy của người đứng đầu Đảng ta đối với quân đội. Nhưng thực tế cho thấy khi ta cùng lực lượng của bạn đã đánh giải phóng xong thì bạn yêu cầu và ta cũng thấy là cần phải ở lại giúp cho bạn để bạn vững lên, và sự thật đã diễn ra là phải mất mười năm xây dựng cơ sở cho bạn vững rồi mới về được. Bởi vậy đã không thực hiện được Chỉ thị của Tổng Bí thư là giải phóng xong thì rút về ngay".
Khi đặt chân sang đất bạn thì ông thấy một kiểu trại tập trung thật là kinh khủng, cả đất nước, cả xã hội Cam-pu-chia tan nát tiêu điều. Đây là những thập niên cuối của thế kỷ XX, khi khoa học và công nghệ của nhân loại đang phát triển với tốc độ vũ bão đã và đang đưa nền kinh tế-xã hội loài người tiến nhanh lên văn minh hiện đại, thì ở Cam-pu-chia chính quyền Pôn Pốt đã đưa đất nước trở lại thời trung cổ. Đất nước từ lâu đời vẫn lấy đạo Phật làm Quốc đạo mà hơn 90% chùa chiền bị phá hủy, hầu hết thiết chế văn hóa và cơ sồ hạ tầng xã hội bị phá nát; cả đất nước là một trại tập trung khổng lồ, một "xã hội trong sạch" cực đoan: Không tín ngưỡng, không cúng bái thờ phụng, không họp chợ, không tiêu tiền, không trường lớp học hành, con người không có tên, không có tuổi, không được phép suy nghĩ và có lòng tin, không quê hương và gia đình. Hôn nhân thì tổ chức "cưới tập thể" do Ăng-ka gán ghép, không được tự do yêu đương. Con người trở thành bầy đàn nô lệ, phải lao động khổ sai dưới roi, vọt và súng đạn. Quyền cơ bản của con người bị tước đoạt đến tận cùng. Những cuộc xua đuổi ly hương và những cuộc hành quyết diễn ra dồn dập và triền miên với kiểu giết người man rợ: Đập vỡ đầu bằng sỏ cuốc. Những hố chôn người tập thể kinh khủng đến nỗi nhiều năm sau vẫn chưa khám phá hết. Mới có mấy năm Pôn Pốt cầm quyền mà hàng triệu dân lành đã bị giết hại. Trong đó điều kinh khủng nhất là nó tạo ra một không khí lo âu nơm nớp, sợ hãi và hoảng loạn để đi đến một tâm lý phục tùng vô đỉều kiện, biến con người thành những cỗ máy lao động khổ sai, những cái xác không hồn; biến đội quân, lực lượng trẻ mặc áo lính thành những kẻ chỉ làm theo lệnh trên, giết người thản nhiên không một chút ghê tay. Đất nước, xã hội chìm đắm trong chết chóc và khổ đau, đất nước bị bưng bít và khép kín không giao lưu với bên ngoài đen tối như đang nằm trong tay sự hoành hành của quỷ dữ đội lốt ngưòi. Khi chúng ta tiến sang giải phóng thì một sự thật đặt ngay ra trước mắt là nạn đói nghiêm trọng đang đe doạ tính mạng của người dân mới được giải phóng khỏi nạn diệt chủng.
Lúc đó ông đề xuất, tập thể lãnh đạo nhất trí "việc đầu tiên bây giờ là quân đội và chuyên gia chúng ta phải tập trung cứu đói, cứu đau cho dân. Cụm từ "Cứu đói, cứu đau" được phổ biến suốt các đơn vị. Lương thực, thuốc men lập tức đưa xuống, bộ đội trực tiếp xuống các vùng dân. Đó là việc cấp bách số 1. Rồi nhanh chóng khôi phục lại xã hội Cam-pu-chia như trước thời Pôn Pốt. Tạo mọi điều kiện để người dân tha phương, người dân bị o ép trong các trại tập trung mà bọn Pôn Pốt gọi là công xã, là "mô hình xã hội chủ nghĩa" kiểu Pôn Pốt, trở về quê hương bản quán của mình. Tức là khôi phục lại phum sóc làng xã, dựng lại nhà cửa chùa chiền. Ruộng đất vườn tược của ai thì được trả lại cho người nấy. Các tầng lớp xã hội, các nghề nghiệp cũng khôi phục lại. Đây là vấn đề cực lớn.
Mỗi khi nhớ về ngày đó, ông Lê Đức Anh lại kể: Những ngày trước khi ta giải phóng, quân Pôn Pốt nó kìm kẹp dân rất dã man, chỉ cần một ánh mắt, một cử chỉ trái ý nó là nó bắn, nó giết liền. Khi bộ đội ta sang giải phóng, họ rất sung sướng vì được tự do nhưng lại lâm ngay vào cảnh đói. Họ đã bị đói dài ngày rồi, phần lớn lại bị sốt rét, rồi rách rưới. Những ngày đó, chỗ nào xe có thể đi được thì ta dùng xe để chở lương thực, thực phẩm đến cứu đói cho dân. Vì họ đói rách, lâu ngày lại không được tắm nên cơ thể vừa tiều tuỵ vừa toát ra một mùi hôi khét. Bởi vậy số dân người Cam-pu-chia mà họ ly khai chạy sang ta, ta huấn luyện rồi đưa trở về thì họ ngại đến gần những người dân của chính tộc người mình vì họ bảo là hôi. Thấy bộ đội đến thì việc đầu tiên là họ chạy ra xin dầu gió để xoa và rượu mạnh để uống, họ bảo để chống nôn. Họ sợ nôn khi phải ngửi mùi hôi khét của những người dân nước họ. Nhưng anh em bộ đội Quân tình nguyện của ta thì chẳng nề hà gì cả, cứ xông vào cứu họ. Người còn đi được thì anh em dìu đi. Người không đi được thì anh em cõng họ về doanh trại, bón cháo, cho uống thuốc, rồi tắm giặt cho họ. Khi họ đã tỉnh lại, có thể đi được dù còn rất yếu thì anh em dìu họ trở về quê. Có thể nói, cứu đói cứu đau là một thời kỳ đã đi vào lịch sử. Chúng tôi sang đó đều cảm nhận rất rõ rằng nếu chậm giải phóng thì sự diệt chủng sẽ mang tính lây lan với một tốc độ cao, sự diệt chủng không chỉ dừng lại ở sự bắn giết mà ở chỗ dân bị kiệt sức, ốm đau, bệnh tật mà chết hàng loạt. Trong lúc đó có cá biệt một số cán bộ ta đi đến đâu cũng chỉ bàn đến mỗi chuyện đánh nhau, rồi chiến thuật, chiến dịch. Tất nhiên không thể không đánh lại bọn phản động, nhưng trước mắt cần phải cứu đói cứu đau cho dân đã. Bộ đội Việt Nam ta cũng từ nông dân mà ra, cũng xuất thân phần lớn là con nhà nghèo nhưng với một số anh em đã không xúc động trước nỗi đau khổ của dân nên đã xúc phạm đến dân và không quán triệt thấu đáo nhiệm vụ chính trị của mình. Bởi vậy, mỗi lần hồi tưởng lại, tôi lại nhớ tới anh Kim Tuấn. Anh là cán bộ cấp tướng mà rất biết thông cảm với dân bạn. Anh dùng ô tô đi chở gạo để cứu đói cứu đau cho dân nên bị nó phục kích bắn cháy xe và anh hy sinh.
Sau những ngày cứu đói cứu đau thì chuyển sang giai đoạn giải quyết các vấn đề rất cơ bản của người dân và xã hội cộng đồng của bạn là: Ruộng đất, chùa chiền, đường, trường, trạm. Sau giải phóng miền Nam thì cả nước ta cũng thiếu lương thực. Nhưng bộ đội ta đã về mang gạo, khoai sắn, thuốc men sang để cứu cho dân bạn, trong đó, có cả những thứ xin của gia đình, của người thân của mình...".
Vấn đề thứ ba là khôi phục lại sản xuất, mà từng gia đình, từng thôn bản phum sóc tự lo, dân họ tự làm là chính, bộ đội chỉ chuyên gia hướng dẫn cho họ thôi. Anh em bộ đội Việt Nam về nước mang từng vốc hạt bí, hạt bầu, dây khoai, hom sắn mỳ, thóc giống... có gì mang sang giúp hết, cả nông cụ, doanh cụ nữa. Rồi anh em mình tổ chức, tư vấn cho nhân dân bạn xây dựng chính quyền cơ sở, đoàn thể xã hội, trường lớp; chùa chiền, chợ búa, v.v... thì họ phấn khởi lắm. Tuy ăn chưa no, mặc chưa lành nhưng tinh thần phấn chấn, tự do nên việc khôi phục họ làm khá nhanh.
Lúc đầu chính quyền của bạn không cấp giấy sở hữu, ông góp ý cho cán bộ bạn là: cái cốt lõi của cách mạng dân tộc dân chủ là người dân được sở hữu ruộng đất, không có cái đó thì người dân họ không tin vào chế độ, và bạn đã cấp giấy chứng nhận sở hữu, người dân càng tin tưởng phấn khởi nghe và làm theo sự tổ chức hướng dẫn của cán bộ cách mạng.
Vấn đề thứ tư là khi ta đánh thì quân Pôn Pốt nó chạy dạt ra rừng hết. Ngay từ đầu và suốt quá trình công tác, chiến đấu bên đất bạn, Bộ Chỉ huy quân tình nguyện đã luôn giáo dục và xây dựng tư tưởng cho bộ đội ta sang làm nhiệm vụ quốc tế lấy mục đích làm tan rã địch là chính chứ không phải mục tiêu tiêu diệt là chính, lấy lòng nhân ái để vận động thuyết phục họ hướng thiện vào con đường sáng, tránh con đường tối, xoá bỏ hận thù. Công cuộc hồi sinh dân tộc là chủ đạo chứ không phải là trả thù hay phục thù. Bởi vậy khi quân Pôn Pốt chạy ra rừng, chúng ta đã động viên từng gia đình vào rừng kêu gọi, vận động con, em, chồng, cha họ trở về với gia đình với phum sóc lo xây dựng và làm ăn. Ta cũng động viên những người lính ra trước, trở vào vận động những ngưòi lính khác còn ẩn náu. Dần dần họ đã trở về rất nhiều. Có một số khá ngoan cố, gọi mãi không về thì họ bắn súng chỉ thiên để doạ. Một số người lính trở về rồi, bảo họ trở vào gọi người khác ra, họ bảo đi thế họ rất sợ vì không có vũ khí trong tay, nếu cán bộ cho súng thì họ đi. Nhiều anh em băn khoăn ngần ngại. Ông bảo cứ đưa súng cho họ. Quả nhiên, mình cho họ súng họ đi gọi và kéo ra được. Bởi vậy lúc đầu đội quân của Pôn Pốt có 21 sư đoàn, khoảng 29.000 tên; sau đó chỉ còn lại khoảng 8 nghìn tên, kể cả thương binh và số ốm đau. Chỉ tính riêng năm 1987, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 43% quân địch, trong đó chủ yếu là do ta gọi hàng. Nhiều vụ binh biến đầu hàng tập thể từ nhóm ba, năm người đến cả đại đội, tiểu đoàn đầu hàng, cán bộ địch ra hàng có cả cấp sư đoàn.
Khi có một số anh em không hiểu rõ nên cứ nói rằng "Công việc ở Cam-pu-chia cứ giao tất cho ông Sáu Nam cũng được rồi, cần gì phải có đồng chí Sáu Thọ (Lê Đức Thọ) nữa". Ông Lê Đức Anh bảo: "Không đúng! Có ông Thọ là rất cần thiết. Vì ông là Ủy viên Bộ Chính trị, lại nữa, suốt mấy chục năm ông làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương, phụ trách về nhân sự. Phải có vai trò của ông thì mới huy động được các cán bộ giỏi, cán bộ hàng tỉnh, cán bộ các Bộ, Ban, Ngành của Trung ương, của cả nước; có ông mới huy động được nhân tài vật lực cho công việc này, cho nhiệm vụ quốc tế cao cả nhưng cũng rất gian nan và nặng nề này. Có sức mạnh của con người và vật chất của cả nước tập trung vào nhiệm vụ thì ta mới thực hiện được phương châm "Ngành, giúp ngành, tỉnh giúp tỉnh, huyện giúp huyện..." thì công cuộc hồi sinh đất nước cho bạn mới nhanh chóng và vững chắc. Có nhanh và vững thì ta mới giao lại cho bạn tự quản để rút về nước được.
Hồi đó ở đất bạn Cam-pu-chia ta có hai khối: Quân tình nguyện là lực lượng quần đôi và Đoàn chuyên gia. Mỗi bên có một Đảng bộ. Tôi chỉ huy, phụ trách chung. Ngay sau khi có chủ trương của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, ông Lê Đức Thọ là người đại diện Bộ Chính trị trực tiếp chỉ đạo việc giải quyết chiến tranh biên giới Tây Nam và nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Cam-pu-chia nên ông Thọ là người thiết kế từ đầu, là người quyết định những vấn đề lớn như xây dựng, lực lượng, phương thức tiến hành, phương án chiến đấu, điều binh khiển tướng... ông Thọ là Tổng chỉ huy. Nếu lấy mốc là tháng Giêng 1979 thì ông Thọ vào trước 3 tháng, ông vào kiểm tra công tác chuẩn bị, đánh giải phóng xong ông còn ở lại chỉ đạo một thời gian nữa. Khi Trung ương lần lượt gọi anh Tấn rồi ông Thọ về nước thì giao lại cho tôi.
Ông Thọ là người thông minh, giỏi và rất quyết đoán.
Nhưng một đất nước, một dân tộc vừa đánh thắng tên đế quốc đầu sỏ xong, con người ta dễ rơi vào sự tự hào thái quá, dễ tỏ ra kiêu ngạo, dễ nảy sinh tư tưởng "nước lớn", "ban ơn", mà tâm lý này không chỉ ở riêng ai. Bởi vậy, Ban lãnh đạo Quân tình nguyện Việt Nam chúng tôi ở bên đó luôn luôn phải quán triệt và giáo dục cho anh em bộ đội phải đề phòng và chống mọi biểu hiện của tư tưởng nước lớn và tư tưởng ban ơn, phải thấy rõ mình sang giúp bạn cũng là làm cho chính mình. Bạn có yên ấm vững vàng thì mình cũng mới ôn định thật sự. Rất nhiều lần họp hành, giao ban tôi nói rõ - Bộ đội và Chuyên gia tình nguyện Việt Nam chúng ta ở bên đất bạn Cam-pu-chia chỉ đượe phép dùng khí trời để thở và nước lã để sinh hoạt, ngoài ra không được tơ hào, tự ý lấy bất cứ cái gì của bạn. Ngược lại, sẵn sàng cho bạn tất cả những gì bạn cần mà mình có. Trong hơn mười năm sống, chiến đấu, công tác gian khổ và cam go trên đất bạn, trong hơn mười vạn Quân tình nguyện, cũng có một số cá nhân và đơn vị vi phạm kỷ luật dân vận, nhưng số này không nhiều, và các đơn vị đã ngăn chặn và thi hành kỷ luật nghiêm khắc. Do ta giữ được hệ thống tổ chức Đảng lãnh đạo các đơn vị và hệ thống công tác chính trị tư tưởng của ta làm tốt và có hiệu quả. Bởi vậy không chỉ có lãnh đạo của bạn, mà cả nhân dân Cam-pu-chia, cả vua Sãi và Quốc vương đều nói Quân tình nguyện Việt Nam là "Quân đội nhà Phật". Theo tôi, đây là danh hiệu cao quý, cao quý hơn bất cứ danh hiệu nào khác!".
Từ mùa mưa năm 1979 đến 1980, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Quân tình nguyện và sự chỉ huy trực tiếp của ông, quân ta đã giúp bạn phá âm mưu của địch làm chính quyền hai mặt ở cơ sở. Ta và ban đã tổ chức và bố trí lực lượng chiến lược ở biên giới và nội địa, hình thành thế trận tiến công và làm chủ, làm chủ và tiến công địch, nhằm khóa biên giới. Ổn định nội địa, phá âm mưu giành dân và giành chính quyền cơ sở của địch. Từ thực tiễn chiến đấu và sản xuất, bạn đã sớm hình thành và phát triển 3 phong trào cách mạng của quần chúng và tổ đoàn kết sản xuất làm ba chức năng. Năm 1980, đã vượt qua nạn đói (ngày đầu giải phóng 4/5 vạn dân bị đói ở mức độ khác nhau, có nơi rất căng thẳng. Bộ đội tình nguyện đã nhường, sẻ khẩu phần ăn của mình để cứu đói, ra sức lao động sản xuất lương thực, vụ lúa 1980 được mùa). Từ tháng 4 đến tháng 9 năm 1981, ta giúp bạn tổ chức bầu cử Ủy ban nhân dân xã; ngày 1 tháng 5 năm 1981 tổng tuyển cử bầu Quốc hội; ngày 25 tháng 6 năm 1981 ban hành Hiến pháp đầu tiên của nước Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia, thể chế hóa một quốc gia độc lập có chủ quyền; tiến hành Đại hội Đảng Nhân dân cách mạng (CPP) lần thứ tư (ngày 26-51981) xác định nhiệm vụ của cách mạng Cam-pu- chia giai đoạn 1981-1985.
Những năm đầu tiên sau giải phóng, Quân tình nguyện và Chuyên gia các ngành của Việt Nam đã vượt qua gian khổ hy sinh, bám dân, xây dựng phong trào, giúp cách mạng Cam-pu-chia giành những thắng lợi bưốc đầu rất quan trọng là: Đánh bại cuộc phản kích lớn lần thứ nhất của địch. Dân tộc Cam-pu-chia đã đạt được những bước đi đầu tiên nhưng rất cơ bản của sự hồi sinh đất nước.
Từ giữa năm 1982 đến giữa năm 1985: Với danh nghĩa "Chính phủ Liên hợp 3 phái Cam-pu-chia dân chủ" địch ra sức tranh thủ viện trợ quốc tế, tập hợp lực lượng trong và ngoài nước tạo ra thế mới và nỗ lực mới để tiếp tục phản kích chống Việt Nam và cách mạng Cam-pu-chia quyết liệt hơn. Hai Bộ Chính trị của Đảng ta và Đảng bạn đã nhất trí xác định 3 mục tiêu chiến lược của cách mạng Cam-pu-chia là:
1. Tiếp tục làm cho các lực lượng phản động Cam-pu-chia, nhất là phản động Bôn Pốt tan rã và suy tàn hơn nữa và càng thất bại trong các âm mưu của chúng.
2. Ra sức xây dựng lực lượng cach mạng Cam-pu-chia ngày càng lớn mạnh về mọi mặt, tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ và xây dựng đất nước, trở thành lực lượng quyết định cuối cùng của cách mạng Cam-pu-chia, tạo điều kiện cho bộ đội tình nguyện Việt Nam tập trung xây dựng thành lực lượng cơ động khu vực và cơ động chiến lược chung.
3. Tăng cường liên minh chiến lược, liên minh chiến đấu Việt Nam - Cam-pu-chia lên một bước mới vững chắc hơn.
Thời gian thực hiện từ 3 đến 5 năm. Đạt được 3 mục tiêu trên là giành thắng lợi quyết định, ta có thể rút hết quân về nước một cách chủ động.
Trong 3 năm ta và bạn đã nỗ lực rất lớn, giành được thắng lợi rất cơ bản trong việc thực hiện 3 mục tiêu chiến lược này. Không những ta đã đánh bại địch khi chúng tổ chức cuộc phản kích lớn lần thứ 2 ở mùa khô 1983-1984, và tiếp tục còn giành thắng lợi lớn, có ý nghĩa chiến lược mùa khô 1984-1985, đã phá vỡ thế trận biên giới của địch, diệt các căn cứ và cơ sở hậu cần lớn, thu và phá hủy nhiều kho tàng, phương tiện chiến tranh của chúng. Đồng thời huy đông hàng chục vạn dân trên mọi vùng đất nước cùng yới bộ đội xây dựng tuyến tuần tra biên giới dài hơn 800 km, có biệt danh là "K5". Hồi đó và cả đến bây giò vẫn có một số đồng chí thắc mắc và cho rằng "K5" là tốn kém và không cần thiết, về việc này, tôi đã có dịp hỏi chuyện Thiếu tướng Mai Xuân Tần, Phó trưởng đoàn Chuyên gia quân sự, ông nói: - Làm K5 có 2 ý nghĩa rất rõ và thiết thực. Một là, có công trình phòng thủ biên giới thì các đơn vị vũ trang của bạn mới cảm thấy vững tâm hơn, từ đó mới dám đảm nhiệm tự lực bảo vệ tuyến đường biên, và như vậy Quân tình nguyện của ta mối rảnh ra thực hiện nhiệm vụ của đơn vị chủ lực cơ động chiến lược, đúng nhự mục tiêu mà ta và bạn đã đề ra. Hai là nếu lúc đó bảo bạn đứng ra tể chức những trận đánh lớn hoặc một chiến dịch lớn, một cuộc "vận động cách mạng lớn" thì bạn chưa làm được. Nhưng bảo bạn đứng ra tổ chức cho dân cò cây, đào hào, trồng tre làm thành đường tuần tra biên giới thì bạn làm được và dần dần làm tốt. Như vậy, việc tổ chức "Công trình K5" là nơi thực tế để tập dượt cho bạn biết làm công tác vận động và tổ chức quần chúng. Nhân dân của bạn đã tham gia rất tích cực và hào hứng. K5 đã thật sự là một công - trình quốc phòng của toàn dân và toàn quân. Tuyến tuần tra biên giới này có tác dụng chia cắt chiến lược ngoại biên và nội địa, góp phần tích cực và có hiệu quả trong việc hạn chế, dễ phát hiện và ngăn chặn sự thâm nhập của địch. Đấy là ở đưòng biên giới giáp Thái Lan. Còn ở trong nội địa ta và bạn đã kết hợp ba mũi tiến công: Truy quét, địch vận và an ninh, đưa mũi địch vận thành quốc sách, đã diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng sinh lực địch. Khả năng chiến đấu và công tác của bạn tăng lên hàng năm. Năm 1983 bạn đã đảm đương được nhiệm tự bảo vệ ấp, xã, thị xã, thị trấn trừ hai thành phố Phnôm Pênh và Kông-pông-xom. Năm 1984 ban tự đảm đương hoàn toàn 4 tỉnh (Svây-riêng, Srây-veng, Kông-pông-ehàm và Kăng-đan) và một so huyện ở các tỉnh khác. 1985 bạn tự đảm đương ỉnột phần quan trọng biên giới Cam-pu-chia - Thái Lan. Ta tích cực giúp bạn việc đào tạo cán bộ học tại Việt Nam và mở trường trong nước đào tạo tại chỗ.
Ngày 22 tháng 2 năm 1983 tại thủ đô Viêng Chăn của Lào diễn ra Hội nghị cấp cao ba nước Lào - Việt Nam - Cam-pu-chia, đây là sự kiện có ý nghĩa lớn, nhằm tăng cường đoàn kết hợp tác toàn diện giữa ba nước trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị cũng tuyên bố hàng năm sẽ quyết định việc rút một số quân tình nguyện Việt Nam ở Cam-pu-chia. Ta và bạn bắt đầu có sự hợp tác kinh tế giữa hai nước, giữa các ngành và các địa phương. Lực lượng của bạn phát triển, liên minh chiến đấu đi dần vào chiều sâu.
Ta rút quân đợt 4. Bạn đảm đương được một phần quan trọng trong sự nghiệp quốc phòng an ninh, mở ra một cục diện mới trên chiến trường, tạo được cơ sở để đẩy nhanh hơn việc thực hiện 3 mục tiêu chiến lược trong thời kỳ tới.
Ngày 16 tháng 1 năm 1989, lần đầu tiên sau 8 năm, Trung Quốc và ta mới có cuộc hội đàm cấp Thứ trưởng Ngoại giao về vấn đề Cam-pu-chia. Trong khi đó Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện rất nghiêm trọng, đang tiến hành "cải tổ", lợi dụng tình hình này, các thế lực phản động quốc tế thực hiện "diễn biến hòa bình" nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở khu vực rộng lớn và chiến lược đó. ASEAN thì có sự phân hóa từ đối đầu chuyển sang đối thoại trong giải quyết vấn đề Cam-pu-c để bảo đảm lợi ích lâu dài của mỗi nưóc. Trong đó In-đô-nê-xi-a là nước hoạt động tích cực, Thái Lan cũng có sách lược mới nhất là từ khi Xạt-xai Xu-ha-vắn làm Thủ tướng.
Ta thực hiện điều chỉnh bố trí chiến lược, rút trước Bộ tư lệnh Quân tình nguyện về lập sở chỉ huy ỏ Tân Sơn Nhất. Rút quân là do sự chủ động của hai nước. Hoạt động quân sự và ngoại giao kết hợp chặt chẽ để đạt được hai yêu cầu có tính nguyên tắc là bạn mạnh lên dù có giải pháp hay không có giải pháp và liên minh hai nước ngày càng vững chắc.
Thực hiện thỏa thuận giữa hai Đảng, khi làm việc với Bộ Chính trị Đảng bạn, ông Lê Đức Anh với tư cách là đại diện Bộ Chính trị Đảng ta đã khẳng định lại lịch thời gian lực lượng vũ trang cách mạng Cam-pu-chia tự đảm đương và Quân tình nguyện Việt Nam rút: Đến 1987 bạn tự đảm đương, ta rút dần, đến 1990 sẽ rút hết.
Ông và tập thể lãnh đạo Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã cùng vối lãnh đạo của bạn có nhiều cuộc gặp trao đổi bàn bạc, cùng đánh giá tình hình, chỉ rõ những khuyết điểm, nhược điểm của mỗi bên với tinh thần thẳng thắn, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, thỏa thuận các giải pháp để đấu tranh, phấn đấu khắc phục, đưa phong trào cách mạng Cam-pu-chia tiến lên.
Từ đầu năm 1988 đến tháng 9 năm 1989, lợi dụng khi Việt Nam rút quân lớn, địch đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị, cả ở biên giới và nội địa, mà đỉnh cao là chúng tiến hành một cuộc phản kích lớn đánh chiếm khu vực Piêm-ta, Sam-lốt, Pai-lin tây và tây nam Bát-đom-boong, Xiêm Riệp và bắc Phnôm Pênh nhằm làm chuyển biến so sánh lực lượng và cục diện chiến trường để đàm phán trên thế mạnh và tạo thế đảo ngược tình hình sau khi Việt Nam rút hết quân.
Về phía ta, theo kiến nghị của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Chính trị Đảng ta chủ trương nâng cao chất lượng và hiệu quả giúp bạn, đẩy nhanh tốc độ bạn tự đảm đương để sớm rút quân tình nguyện và chuyên gia về nước, tạo điều kiện cho bạn nắm vũng ngọn cờ độc lập dân tộc. Nhưng việc rút quân phải theo tiến trình có tính toán chặt chẽ để không cho địch lợi dụng sơ hở, ta thực hiện thắng lợi 3 mục tiêu chiến lược đã đề ra.
Từ đầu 1988, để phù hợp với tình hình mới ta đổi mới phương thức quan hệ với bạn. Mối quan hệ về Nhà nước đều qua Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của ta ỏ Cam-pu-chia; quan hệ về Đảng thông qua đại diện của hai Bộ Chính trị hoặc hội đàm trao đổi giữa hai Bộ Chính trị. Quyết định rút Bộ tư lệnh Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự tháng 6 năm 1988; từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1988 rút 5 vạn quân tình nguyện và chuyên gia quân sự. Bộ phận quân tình nguyện còn lại do Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia quản lý và chỉ đạo chung.
Ngày 5 tháng 1 năm 1989, nhân dịp Đoàn đại biểu cấp cao Đảng và Nhà nước ta sang dự lễ kỷ niệm lần thứ 10 Quốc khánh Cam-pu-chia, đại diện Bộ Chính trị hai Đảng đã quyết định rút hết bộ phận Quân tình nguyện còn lại trong tháng 9 năm 1989.
Ban Bí thư Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy và Bộ chỉ huy Quân tình nguyện Việt Nam đã có những chỉ thị, hướng dẫn về những vấn đề cần giải quyết trước khi rút quân; hướng dẫn tiến trình rút quân tình nguyện và chuyên gia, tổ chức sinh hoạt chính trị học tập "Thư của Bộ Chính trị gửi cho Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam ở Cam-pu-chia". Bộ chỉ huy Quân tình nguyện phổ biến những quy định cụ thể đối với các đơn vị, cơ quan và cá nhân để thực hiện an toàn, thắng lợi nhiệm vụ rút quân, giữ vững phẩm chất và hình ảnh cao đẹp của Anh bộ đội Cụ Hồ trong lòng nhân dân nước bạn Cam-pu-chia...
Các đơn vị Quân tình nguyện được ở lại chiến trường đã tích cực đánh địch và giúp bạn đến ngày cuối cùng. Nhiều trung đoàn hiệu suất chiến đấu cao, hiệu quả giúp bạn tốt. Những vụ vi phạm kỷ luật giảm hẳn. Trước khi rút quân các đơn vị đều làm những công trình lưu niệm thiết thực. Các chính sách nội bộ, các mối quan hệ giữa ta vối bạn, với dân từ trước đến nay đều được các quân khu, quân đoàn, cơ quan Bộ kiểm tra, giải quyết thỏa đáng, được lòng bạn, lòng dân. Các đợt rút quân của bộ đội tình nguyện được bảo đảm an toàn, thật sự là những ngày hội của nhân dân bạn.
Ngày 26 tháng 9 năm 1989, những đơn vị cuối cùng của Quân tình nguyện Việt Nam rút hết về nước.
Đại tướng Lê Đức Anh nói: "Tính từ giữa tháng Giêng năm 1979 ta và bạn giải phóng hoàn toàn đất nước Cam-pu-chỉa cho đến 26 tháng 9 năm 1989, ngày ta rút toàn bộ Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam ở Cam-pu-chia về nước là mười năm bảy tháng và chín ngày, gần đúng như tôi dự kiến hôm đầu khi báo cáo và trả lời anh Lê Duẩn và anh Chu Huy Mân.
Những ngày cuối năm 1978, đầu 1979, trước bối cảnh đang diễn ra, trong lãnh đạo Đảng ta có hai ý kiến: Một là, đánh xong giao lại cho bạn rồi rút về ngay. Hai là, đánh xong phải giúp bạn xây dựng cho vững rồi mới bàn giao và rút về nước. Như vậy tôi là người thực hiện ý định thứ hai của lãnh đạo, ở đây ta không phê phán ý này ý kia đúng hay sai gì cả. Mà cuộc sống nó là như vậy. Trước mỗi sự việc, hiện tượng, ai cũng nghĩ tới một kết quả tốt đẹp. Nhưng mỗi người lại tư duy tiến tới kết quả đó bằng những cách khác nhau, phương pháp khác nhau, kế hoạch khác nhau. Còn sự thật lịch sử thì nó chỉ diễn ra theo một cách. Anh Lê Duẩn bảo đánh xong giao cho bạn rồi rút về ngay, đây là ý nghĩ và động cơ rất trong sáng, vô tư của người đứng đầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta.
Hơn mười năm biết bao mồ hôi công sức và xương máu của chúng ta và của bạn đã đổ ra để làm nên cuộc cách mạng giải phóng một Dân tộc khỏi họa diệt chủng của bọn quỷ đội lốt người - tập đoàn Pôn Pối, hồi sinh một Đất nước từ tiêu điều tan nát, đói rách lầm than, để mọi người dân có quyền được sống, có quyền được mưu cầu hạnh phúc, một đất nước có chủ quyền với hệ thống chính trị mới được xây dựng từ Trung ương đến cơ sở xã ấp, cùng với những thiết chế văn hóa - xã hội bảo đảm sự độc lập của đất nước và quyền tự chủ của người dân, là nền tảng vững chắc để tiến lên xây dựng xã hội mới, cuộc sống mới. Công cuộc cứu nguy Dân tộc và hồi sinh Đất nước là sự nghiệp và công lao to lớn của Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia, có sự giúp đỡ của Quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia Việt Nam ở giai đoạn đầu. Lực lượng cách mạng của bạn lúc đầu tuy có ít nhưng rất quan trọng vì phải có họ thì mới làm được và mới giành được thắng lợi cuối cùng, thắng lợi vững chắc. Một trong những điều khó nhất ở đây là người dân Cam-pu-chia lâu nay họ chỉ sùng bái nhà Vua và đạo Phật, bởi vậy khi ta nói là Cộng sản thì không gây được ấn tượng tốt với người dân, vì trước đó tập đoàn Pôn Pối cũng từng là "Đảng Cộng sản".
Hơn mười năm giúp bạn, quãng thời gian còn dài hơn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Từ cuộc trường chinh vĩ đại này, có nhiều bài học sâu sắc được rút ra, theo tôi, trong đó có hai vấn đề bao trùm nhất cũng là sâu sắc nhất.
Một là, chúng ta đã vận dụng đúng đắn và nhuần nhuyễn nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh vào tình hình cụ thể của giai đoạn này trong việc kết hợp chặt chẽ giữa tinh thần, Dân tộc thiêng liêng với tinh thần Quốc tế cao cả. Nhận rõ bạn có "ổn" thì mình cũng mới "yên" nên coi việc giúp bạn là tự làm cho mình. Bởi vậy nhân dân Việt Nam đã sẵn sàng nhường cơm sẻ áo
cho nhân dân bạn. Các bà mẹ Việt Nam một lần nữa lại dứt ruột gửi con ra chiến trường khi nước nhà vừa mới im tiếng súng sau hơn 30 năm chiến tranh tàn khốc. Bởi vậy hơn mười vạn chiến sĩ Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam không tiếc máu xương, không sợ gian khổ hy sinh, cống hiến hết mình cho sự nghiệp Quốc tế cao cả một cách vô tư trong sáng.
Nhưng, nếu chỉ có sẵn sàng xả thân, sẵn sàng hy sinh để cứu bạn, để cho bạn thôi thì chưa đủ. Vấn đề cốt tử là anh làm theo phương hướng nào để "đi đúng" và giành thắng lợi? Bởi vậy, vấn đề bao trùm thứ hai, một vấn đề có tính nguyên tắc và cốt tử - Tất cả từ trên xuống dưới đã quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn và triệt để, có hiệu quả đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta từng làm nên sức mạnh phi thường và đi tới thắng lợi cuối cùng của hai cuộc chiến tranh giải phóng đất nước vào hoàn cảnh cụ thể, tình hình cụ thể trong sự nghiệp Quốc tế cao cả này. Từ quan điểm đường lối chiến tranh nhân dân nên mặc dù kẻ thù vô cùng hiểm độc và tàn bạo, tàn bạo hơn cả quỷ dữ, nhưng ta không lấy "tiêu diệt" làm đích mà lầm cho chúng tan rã là chính; ta không lấy sự "phục thù" làm mục đích mà lấy dựng xây, hồi sinh làm, mục đích. Ta không "quyết làm cho bằng được" để "tỏ mặt anh hào" lầm mục đích, mà ngược lại, ta tiến hành vận động, thuyết phục, tổ chức hướng dẫn cho nhân dân bạn dần dần đứng lên tự tổ chức cuộc sống, tự lực quản lý đất nước mình. Chính đường lối chiến tranh nhân dân mới bảo đảm phương thức tiến hành và các bước tiến hành cách mạng của Đảng và nhân dân Cam-pu-chia thắng lợi vững chắc, thành quả của cách mạng mới vững bền. Từ vận dụng đúng đường lối chiến tranh nhân dân, ta đã huy động được sức mạnh to lớn; bởi vậy kẻ thù hùng hổ như vậy, tàn bạo như vậy nhưng đã tan rã nhanh chóng, thất bại thảm hại. Rõ ràng khi ta loại hết tổ chức của Pôn Pốt thì không ai ngờ hết. Quốc vương Xi-ha-núc cũng rất là quý và cám ơn Việt Nam. Cho nên nhân dân Cam-pu-chia mới nói "Bộ đội Tình nguyện Việt Nam là bộ đội nhà Phật". Một đất nước từ lâu đời vẫn lấy đạo Phật làm Quốc đạo mà người dân dành cho chúng ta câu nói đó, tôi nghĩ nó còn quý hơn cả vàng, ngọc, kim cương. Còn cao quý hơn các loại Huân chương cao quý nhất ở mọi thời đại. Khi tôi sang dự Lễ tiễn đưa Quân tình nguyện Việt Nam, cũng như khi tôi sang thăm chính thức Cam-pu-chia, Vua Sãi Tếp Vông (Vua đạo Phật phái Tiểu thừa) nhất định đến gặp để chúc phúc cho tôi. Sau này Vua Tếp Vông còn sang nhà riêng của tôi ở thành phố Hồ Chí Minh để thăm hỏi, chúc phúc và tặng vật kỷ niệm. Ở quốc gia đạo Phật thì người dân Cam-pu-chia tỏ lòng tôn kính Quốc vương Xi-ha-núc và Vua Sãi như nhau. Cả hai ông vua đều nói lời cám ơn nhân dân và đất nước Việt Nam, cám ơn Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam; hai ông vua, các quan chức và nhân dân Cam-pu-chia đã dành cho chúng tôi, những người được đại diện cho hơn mười vạn chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam đã chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp Quốc tế cao cả sự đón tiếp trọng thị, sự tiễn đưa trân trọng và lưu luyến. Giờ phút đó trong tôi cũng bồi hồi xúc động và sung sướng tột độ, giống như buổi sáng 30 tháng Tư 1975 khi chúng ta giải phóng Sài Gòn vậy.
Thời kỳ ở Cam-pu-chia, với tôi, còn một chuyện không thể không nói, vì nói ra để làm bài học cho sau này; và một chuyện cũng không thê quên được.
Chuyện không thể không nói, đó là vụ việc xảy ra ở Xiêm Riệp. Thời điểm xảy ra là năm 1982, giữa lúc ta và bạn đang tập trung nỗ lực để ổn định tình hình Cam-pu-chia, thì tập đoàn Pôn Pốt đã dùng thủ đoạn "phản tình báo", chúng chủ động cho một tên Trung đoàn phó quân Pôn Pốt trá hàng để thực hiện kế hoạch gây nghi ngờ, rối loạn trong nội bộ bạn và chia rẽ khối đoàn kết giữa ta và bạn. Lúc xảy ra vụ việc, tôi đang đi chữa bệnh ở Liên Xô, đồng chí Hồ Quang Hoá thay tôi làm quyền Tư lệnh 719. Căn cứ vào lời khai của thằng Trung đoàn phó trá hàng, anh em ta đã bắt và xét nhà một số cán bộ của bạn. Lúc tôi được anh Lê Đức Thọ thay mặt Bộ Chính trị điện gọi về, một bên mắt tôi còn băng kín, vị giáo sư Liên Xô chữa mắt cho tôi tỏ ra rất ái ngại khi đang ở giai đoạn điều trị tích cực mà lại rời bệnh viện về nước. Trở về Hà Nội, Bộ Chính trị họp bàn xét vụ này. Lúc đó tôi nhớ anh Tô là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương đã phê phán rất gay gắt và đề nghị một mức kỷ luật rất nặng đối với toàn bộ cán bộ chủ chốt của Bộ tư lệnh 479 và 719 có liên quan đến vụ việc. Sau khi bàn bạc, Bộ Chính trị nhất trí giao cho tôi xử lý vụ việc. Tôi nghĩ, lúc đó bất cứ ai đứng vào cương vị và nhiệm vụ của tôi thì cũng cảm thấy rơi vào trạng thái khó xử, vì nếu tình hình chỉ thuần tuý là anh em tự động làm, sai đến đâu thì kiểm điểm và kỷ luật đến đó thì không khó. Nhưng đằng này lại có chuyện đồng chí Hồ Quang Hoá có ra Hà Nội báo cáo cấp trên. Vậy thì mấy ông "cấp trên" này trách nhiệm đến đâu phải do Bộ Chính trị định đoạt. Bởi vậy lúc đó tôi được giao thì buộc lòng tôi phải đề nghị với Bộ Chính trị là, nay giao cho tôi xử lý thì tôi chỉ xin "xử lý" những việc cụ thể và những "con người cụ thể" của Bộ tư lệnh 719 và 479 có liên quan thôi. Bộ Chính trị chấp nhận. Tôi cũng đề xuất là Bộ Chính trị nên cử một đồng chí có cương vị cao, thay mặt Đảng ta sang xin lỗi Đảng bạn, thì Bộ Chính trị nhất trí cử anh Chu Huy Mân. Lúc đó anh Mân nói tôi đi, tôi bảo tôi đã ở bên Cam-pu-chia nhiều năm nay, hàng ngày kề cận lãnh đạo của Đảng bạn thì sự xin lỗi nó không gây ấn tượng bằng cử đồng chí ở bên nước ta sang, và mọi người đã đồng ý với đề nghị của tôi. Còn về phía tôi, được giao toàn quyền xử lý vụ việc, việc đầu tiên tôi điện sang là ngừng tất cả các cuộc bắt bớ và thả tất cả những người đã bắt. Tôi vào thành phố Hồ Chí Minh và sang Cam-pu-chia, yêu cầu các đồng chí có trách nhiệm, không chỉ của Mặt trận 479 mà cả các mặt trận khác lên báo cáo tình hình. Tôi nghe rất kỹ, hỏi rất kỹ và đi kiểm tra thực tế thì tôi thấy rằng các đồng chí không hề có ác ý hay thủ đoạn gì ở đây, mà chẳng qua chỉ là do ấu trĩ và nôn nóng nên dẫn đến sai lầm. Lúc đó tôi nghĩ rằng đối với cán bộ và lính của Pôn Pốt nó đã giết người rất dã man mà khi ta bắt được ta còn tha, huống hồ đây là anh em đồng chí của mình không hề có ác ý. Nên lúc đó tôi nói là anh em đã mắc sai lầm, không kỷ luật thì không được, nhưng kỷ luật nặng quá cũng không nên, bởi vậy tư tưởng của tôi là kỷ luật càng ít người, mức kỷ luật càng nhẹ càng tốt. Do đó cuối cùng chỉ thi hành kỷ luật hai người "trực tiếp" chỉ huy vụ việc, là đồng chí Hồ Quang Hoá, đồng chí Tư Thanh, mỗi người hạ một sao, và cho trở về nước. Khi anh Chu Huy Mân thay mặt Đảng ta sang xin lỗi và cùng Đảng bạn bàn bạc giải quyết thì Bộ Chính trị Đảng bạn rất xúc động. Bạn nói đại ý là các đồng chí Việt Nam cùng chúng tôi tiến hành cuộc cách mạng suốt mười năm trời thì không thể tránh được một số sai lầm khuyết điểm, nhưng đó chỉ là thiểu số và tạm thời, không đáng kể gì so với sự hy sinh to lớn của Đảng, nhân dân và Quân tình nguyện Việt Nam đã dành cho nhân dân và đất nước Cam-pu-chia suốt mười năm qua. Bạn rất xúc động, đầy sự cảm thông và vui vẻ, và vụ việc đã được giải quyết thoả đáng...".
Để được hiểu thêm về sự việc này, sáng 29 tháng 8 năm 2003, người viết đã đến gặp và xin hỏi chuyện Đại tướng Chu Huy Mân - nguyên úy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước tại nhà riêng của ông ở phố Lý Nam Đế, Hà Nội. Đại tướng Chu Huy Mân cho biết: "Tháng 1-1979, ta tiến công làm tan rã quân Pôn Pốt. Đến năm 1981 hay 1982 gì đó, thì xảy ra vụ nghi ngờ một số cán bộ của Cam-pu-chia phản động. Lúc đó anh Lê Đức Anh đi chữa mắt ở Liên Xô. Sau khi xảy ra sự việc thì anh Phạm Văn Đồng rất bực mình. Anh nói là mình sang giúp người ta mà sao lại làm thế; sai thì phải sửa thôi. Và các anh giao cho tôi cùng anh Lê Đức Anh sang Phnôm Pênh. Khi chúng tôi đến, có đông đủ Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia. Tôi nói rằng, thay mặt Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, chân thành xin lỗi các đồng chí vì sự việc
đã xảy ra ngoài ý muốn. Chúng tôi đã hy sinh hàng vạn con người để cùng Đảng và nhân dân Cam-pu-chia phấn đấu cho đất nước này bình yên. Nay cấp dưới của chúng tôi vì nóng vội, thiếu cân nhắc nên để xảy ra sự việc đáng tiếc". Lúc đó ông Hêng-xom-rin làm Tổng Bí thư đã thay mặt Bộ Chính trị Đảng bạn nói: "Nhờ đồng chí về nói với các đồng chí bên đó, chúng tôi cảm ơn Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, cảm ơn tấm lòng chân thành của Đảng Cộng sản Việt Nam với một động cơ vô cùng trong sáng, đã giúp Đảng và nhân dân Cam-pu-chia vô cùng to lớn và không hề vụ lợi".
Đặc biệt hôm đó ông Chia-xim còn nói rằng việc này là chuyện nhỏ so với việc rất lớn là Đảng, nhân dân và quân đội Việt Nam đã hy sinh sức người, sức của để cứu nguy dân tộc chúng tôi thoát khỏi hoạ diệt chủng, giúp và cùng chúng tôi hồi sinh một đất nước; là việc nhỏ so với một đại cục vô cùng tốt đẹp giữa hai Đảng, hai Quân đội và Nhân dần hai nước chúng ta. Mình sang xin lỗi họ mà họ lại cám ơn mình với tinh thần thái độ rất chân thành và thân mật. Tôi nhớ hôm đó có các ông Hêng-xom-rin, Chia-xim, Bu Thoong, Hun-xen và hai người nữa. Họ bảo: "Hôm nay anh sang là mở tấm lòng cho chúng tôi, hay lắm! Vì chúng tôi cũng thấy rắc rối khó xử, không biết thế nào. Việt Nam rất tốt! Không có chuyện gì phải băn khoăn cả. Chúng tôi rất biết ơn Việt Nam!". Sáng hôm sau tôi mang gần hai chục gói quà, đi bằng máy bay trực thăng lên Xiêm Riệp, ông Chia-xim cùng đi với tôi. Lên tới Xiêm Riệp thì có thêm anh Phiêu, tôi bảo anh cùng đi với chúng tôi. Chúng tôi đã đến từng nhà, thăm hỏi các gia đình có người bị bắt oan. Khi gặp họ thì thấy họ thật lắm, không có ai liến láu, kêu ca gì cả. Mình xin lỗi và tặng quà thì họ rất xúc động. Chiều hôm đó có chị phụ nữ tên là Pua-văn xin đi nhờ máy bay ra thị xã Xiêm Riệp, chị ta cứ nói mãi là cảm ơn các bác".
Còn một "chuyện không thể quên" thì ông Lê Đức Anh kể tiếp:
"Lúc đó ở bên nước nhà, toàn quân đã thực hiện cơ chế mới theo "Nghị quyết 07", tức là giải tán, bỏ phế độ Đảng ủy, thiết lập cơ chế "Một người chỉ huy" và "Hội đồng công tác chính trị". Trưởng đoàn cố vấn Liên Xô sang Cam-pu-chia gặp tôi. Tôi nói - Bỏ Đảng ủy thì dứt khoát không! Lúc đó không khí trao đổi rất căng thẳng. Vì tôi nghĩ, trong quân đội không có nghị quyết lãnh đạo mà chỉ có chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên thì rất nguy hiểrn. Ông Đại tướng cố vấn nói: "Tôi đề nghị bỏ chế độ Đảng ủy" Tôi nói – Không. Ông ta bảo: "Đồng chí không chấp hành chỉ thị của Bộ Quốc phòng, không giải tán chế độ Đảng ủy là không Mác-xít!". Tôi nói - Thưa đồng chí cố vấn! Tôi không có thời gian đọc hết các tác phẩm của Mác - Lênin. Xin đồng chí chỉ cho ở bản
tiếng Nga và bản tiếng Việt, ở chỗ nào, nếu Mác nói trong quân đội không cần có chế độ Đảng ủy và Đại hội Đảng thì tôi nhận là sai và xin chấp hành. Găng tới mức như thế. Sau đó, khi Bộ Chính trị họp ở T.78 thành phố Hồ Chí Minh có điện triệu tôi về dự. Tại hội nghị, tôi nói - Riêng ở bên Cam-pu-chia vì quân đội ta đang chiến đấu, xin cho chúng tôi vẫn để chế độ Đảng ủy. Tôi trình bày tại sao nên giữ lại chế độ Đảng ủy và Đại hội Đảng trong Quân đội. Hôm đó có Tổng Bí thư Lê Duẩn chủ trì, các ông Lê Đức Thọ, Đỗ Mười, Văn Tiến Dũng, Tố Hữu... đủ cả. Tôi cũng xin nói rõ thêm: Chúng ta phải nhất quán rằng một chủ trương quân sự, một hoạt động quân sự thì không bao giờ là quân sự đơn thuần, là quân sự thuần túy, mà hoạt động quân sự là hoạt động chính trị, phục vụ mục đích chính trị. Vì tổ chức quân sự, hoạt động quân sự, suy cho cùng là hoạt động chính trị quyết liệt nhất, quan trọng nhất Quân sự là chính trị. Lúc đó ở ngoài Bắc có hai tài liệu khác nhau. Tôi nói, ở trong này, mà hiện tại ở chiến trường, du có cách chức tôi ngay thì tôi củng không làm, vì thấy làm là sai, là nguy hiểm. Người chỉ huy quân sự là làm chính trị, phục vụ chính trị, phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của tổ chức Đảng. Dứt khoát cái đó! Hội nghị đã kết luận đồng ý với ý kiến của tôi. Và thế là ở bên đất bạn Cam-pu-chia, Quân tỉnh nguyện và Chuyên gia Việt Nam chúng tôi vẫn luôn luôn có chế độ Đảng ủy".
Mùa hạ năm ngoái, người viết có dịp đi gặp và hỏi chuyện nhiều tướng lĩnh, cựu chiến binh từng chiến đấu và công tác với Đại tướng Lê Đức Anh, họ đều có nhận xét, đánh giá giống nhau: Ông là vị tướng có tầm nhìn và tư duy chiến lược, nhìn xa trông rộng, luôn chủ động phân tích và tiên lượng tình hình chính xác nên những chủ trương, mệnh lệnh của ông đề ra đúng đắn và sắc sảo. Là cán bộ cao cấp nhưng không bao giờ ông đọc bài do người khác viết sẵn. Trong túi ông thường có một cuốn sổ con con, ông lắng nghe người này phát biểu, ông hỏi chuyện người này người kia, ông nghe đài địch, ông đi thực địa, ông đọc tài liệu và ông ghi chép những gạch đầu dòng nho nhỏ trong cuốn sổ đó. Rồi ông cầm cuốn sổ lên phát biểu. Quan điểm lập trường rất rõ ràng, tính nguyên tắc rất dứt khoát. Tình hình có phức tạp đến đâu, khó khăn có chồng chất đến mấy, qua lời phát biểu, phân tích của ông mọi thứ đều rất rõ ràng, mọi người ngồi nghe đều thấy rất sáng. Đặc biệt, tuy thị lực một bên mắt ông bị yếu bẩm sinh nhưng ông là ngưòi nắm rất chắc địa hình. Mỗi lần cán bộ tác chiến báo cáo tình hình chiến sự, hay cán bộ chỉ huy cấp dưới báo cáo "Quỵết tâm chiến đấu", ông lim dim mắt ngồi nghe, nhưng hễ anh nào nắm lơ mơ nói sai địa hình là ông phát hiện liền, ông bảo dừng lại, ông chỉ ra ngay chỗ sai đó. Là cán bộ lãnh đạo chỉ huy ở tầm chiến lược nhưng ông luôn xông xáo, bất chấp hiểm nguy; chỗ nào khó khăn là ông có mặt và chỉ đạo cách giải quyết. Rất nhiều trận đánh quan trọng của cấp dưới, khói súng chưa tan đã thấy trực thăng của ông đáp xuống giữa trận địa. Trong chiến đấu và trong công việc ông rất quyết đoán và nghiêm khắc, nhưng trong sinh hoạt đòi thường ông lại rất thương yêu và cảm thông với anh em cấp dưới, kể cả những chiến sĩ phục vụ. Sống liêm khiết, ăn mặc giản dị đến mức thanh đạm đã trở thành thói quen và nếp sống cố hữu của ông ở bất cứ hoàn cảnh, môi trường nào.
Trong số tướng lĩnh đã tham gia và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia mà tôi được gặp, có hai trong những người đã gây ấn tượng khá đậm nét đối với tôi, đó là Thiếu tướng Phùng Đình Âm, nguyên Chính ủy Đoàn 779 - Quân tình nguyện, đặc phái viên của đồng chí Lê Đức Anh bên cạnh Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia và Thiếu tướng Mai Xuân Tần, nguyên Phó tư lệnh Quân đoàn 2, Trưỏng đoàn Chuyên gia quân sự Việt Nam tại Cam-pu-chia, Phó trưởng ban tổng kết công trình "Chiến tranh biên giới Tây Nam và nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Cam-pu-chia".
Sự "gây ấn tượng" không chỉ dừng lại ở gương mặt đôn hậu, tác phong giản dị, lời nói mộc mạc chất phác, mà còn ở chỗ hai ông luôn thẳng thắn chỉ rõ bản chất của sự việc, không tránh né rào trước đón sau; những vấn đề hai ông nêu ra có phân tích, có kết luận một cách trung thực và khách quan, bộc lộ rõ thái độ khen, chê và quan điểm của mình. Khi mới gặp, câu đầu tiên ông Mai Xuân Tần nói với tôi là ông được giao làm Phó ban, Trung tướng Lê Hai làm Trưởng ban Tổng kết; mặc dù làm cũng mất khiếu công sức và Bản tổng kết đó là một trong số ít văn bản tổng kết đã được Bộ Chính trị nhất trí thông qua, nhưng riêng ông, thì ông vẫn chưa thật hài lòng về nó. Ông cho rằng đó mới chỉ là Bản tổng kết về đường lối và những vấn đề thuộc về chiến lược. Bây giờ cần phải tổng kết thật đầy đủ, thật thấu đáo, thật khoa học trên nhiều bình diện, nhiều lĩnh vực, như: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, chiến dịch, chiến thuật, địch vận, xây dựng và tổ chức lực lượng giúp bạn, công tác vận động và tổ chức quần chúng cách mạng, v.v... Hơn nữa, đã tổng kết về chiến tranh biên giới Tây Nam và 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Cam-pu-chia thì không thể lấy cái mốc thòi gian từ 1977, tức là chỉ tính từ khi Pôn Pốt cho quân gây chiến tranh biên giới với ta, cho đến năm 1989, là khi ta rút toàn bộ Quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia về nước; mà phải lấy mốc thời gian, bối cảnh từ năm 1945 cho đến bây giờ. Có như vậy thì chúng ta mới phân tích, nhìn nhận vấn đề một cách đầy đủ và hiện thực khách quan mới cho phép chúng ta tổng kết một cách trung thực, và bản chất của từng giai đoạn trong mối quan hệ hữu nghị láng giềng giữa Việt Nam và Cam-pu-chia mới được gọi ra đúng đắn nhất... Khi tôi hỏi về những kỷ niệm và cảm nhận của ông về Đại tướng Lê Đức Anh, ông Mai Xuân Tần đã nói khá kỹ; dưới đây xin trích một sô' đoạn của ông:
"Về trách nhiệm của đồng chí Lê Đức Anh trong chiến dịch phản công cuối năm 1978.
... Tôi không nhớ việc quyết định tổ chức chiến dịch trong mùa mưa là do ai đề xướng, nhưng tôi nhớ rõ là khi tôi và đồng chí Lê Duy Mật, Phó cục trưởng Cục Tác chiến được giao nhiệm vụ giúp các anh tại sở chỉ huy Tiền phương của Bộ Quốc phòng tổ chức chỉ huy chiến dịch thì chúng tôi thông suốt ngay, và có thể nói là đã rất phấn khởi khi được phổ biến mục đích, nhiệm vụ, thời gian chiến dịch. Chúng tôi củng mường tượng và rất hy vọng rằng từ kết quả của chiến dịch này, bạn có thể giương cao ngọn cờ dân tộc vào thời điểm này là rất cần thiết và củng từ đó lực lượng của ta và của bạn đã có thế mới, lực mới để chuẩn bị cho mùa khô tới. Bởi lẽ, quân địch đã gây chiến tranh sang đất ta, giết hại dã man nhân dân ta thì ta có quyền đánh trả, chúng ta tiến công sang là theo yêu cầu khẩn thiết của bạn và dưới ngọn cờ cứu nguy dân tộc của bạn.
Bởi vậy, theo tôi, đồng chí Lê Đức Anh là một vị Tư lệnh Tiền phương đã thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương có bản lĩnh, tích cực, kiên quyết và có hiệu quả cao.
Trong chiến dịch này, thông qua một việc khiến tôi nghĩ là đồng chí Lê Đức Anh cố phong cách chỉ huy rất hay là đồng chí đã biết nghe ý kiến của cấp dưới, làm cho công việc có hiệu quả. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm có Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4; lực lượng của Quân khu 7 thì chuẩn bị sẵn sàng để đưa lên tiếp. Quân địch luôn bám, sát biên giới đánh nhỏ với ta, chúng luồn lách qua biên giới để tiến hành đánh phá. Quân đoàn 3 phải dàn một lực lượng lớn để bảo vệ biên giới, do đó bị hạn chế nhiều về khả năng cơ động tiến công, việc tiến công mở rộng địa bàn rất chậm. Sau khi làm việc thống nhất với cơ quan tham mưu Quân khu 7, tôi kiến nghị với đồng chí Lê Đức Anh sớm đưa lực lượng của quân khu vào chiến đấu, tuy rằng mói khôi phục lực lượng, khả năng tiến công còn chưa mạnh, nhưng cũng đủ khả năng đánh trả địch để bảo vệ biên giới. Đưa Quân đoàn 3 sang đất bạn để cơ động đánh địch. Khi nghe tôi đề xuất, đồng chí Lê Đức Anh nói ngay: "Đồng chí có giải pháp chuyển Quân đoàn 3 sang thế cơ động tiến công là đúng ý tôi mong muốn, nhưng tôi chưa có giải pháp. Thế là tốt...
Thi hành Nghị quyết Trung ương lần thứ 4 ngày 27-7-1978, xuất phát từ kết luận của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tham mưu đã chuẩn bị kế hoạch, đồng chí Lê Ngọc Hiền, Phó Tổng Tham mưu trưởng phụ trách tác chiến đã báo cáo Bộ Chính trị thông qua lần thứ nhất tháng 10-1978 và lần cuối ngày 7-12-1978. Hiện văn bản đó còn lưu trữ tại Cục Tác chiến, có bút tích của đồng chí ghi ý kiến bô sung của Bộ Chính trị.
Việc để Quân tình nguyện ở lại giúp bạn để thực hiện Hiệp ước hoà bình, hữu nghị và hợp tác lâu dài giữa Hội đồng nhân dân cách mạng Cam-pu-chia đã ký kết với Chính phủ ta tại Phnôm Pênh ngày 18-1-1979; theo đó, bạn yêu cầu ta để Quân tình nguyện ở lại giúp bạn. Sau đó, ngày 20-5-1981, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ tư lệnh Quân tình nguyện lấy phiên hiệu là Bộ tư lệnh 719 do đồng chí Lê Đức Anh làm Tư lệnh. Quyết định này cũng quy định Bộ tư lệnh 719 chỉ huy lực lượng Quân tình nguyện và trực tiếp chỉ đạo Đoàn 478 Chuyên gia quân sự giúp Bộ Quốc phòng Carn-pu-chia...
Quyết định của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương phản công và tiến công sang Cam-pu-chia đánh đổ tập đoàn Pôn Pốt để bảo vệ biên giới Tây Nam và giải phóng nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi hoạ diệt chủng, hồi sinh đất nước, làm lại cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đã bị Pôn Pốt phản bội là một quyết định rất sáng suốt và kịp thời.
Trước đây chúng ta đã đưa quân sang giúp Lào và Cam-pu-chia khi hai nước bạn bị giặc ngoại xâm thì là chuyện bình thường. Ngày nay, trong hoàn cảnh mới, nước Cam-pu-chia đã có chủ quyền, việc xuất quân này phải được và đã được Quốc hội bỏ phiếu thông qua.
Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã xác định lực lượng cách mạng và đề ra yêu cầu nhiệm vụ của chiến dịch lịch sử này rất rõ ràng: Phải do hai lực lượng Việt Nam, Cam-pu-chia đều quyết định, nhưng về lâu dài lực lượng Cam-pu-chia là lực lượng quyết định cuối cùng. Yêu cầu phải chắc thắng cả về chính trị và quân sự, cả trước mắt và lâu dài. Phải giương ngọn cờ dân tộc của bạn, giúp bạn giải phóng, giao cho bạn rồi nhanh chóng rút về.
Khi giải phóng xong, quân địch còn mạnh vì chúng dựa được vào vùng rừng núi của Thái Lan và sự viện trợ của các thế lực đen tối nước ngoài, lực lượng bạn còn non yếu chưa tự bảo vệ được, nếu ta rút thì thành quả mới giành được không bảo vệ được và biên giới Tây Nam nước ta lại tiếp tục bị uy hiếp, cả miền Nam không được ổn định đê xây dựng. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã chấp nhận yêu cầu của bạn để Quân tình nguyện ở lại giúp bạn là đúng như tư tưởng quân sự của Bác Hồ "Giúp bạn là tự giúp mình" thật trong sáng và cao cả. Thắng lợi của việc giúp bạn thời gian qua đã chứng tỏ đó là một chủ trương rất sáng suốt và kịp thời.
Về tổn thất, tôi thấy chúng ta cần phân tích hai giai đoạn: Giai đoạn chiến tranh biên giới Tây Nam ta tổn thất về người (cả quân và dân) với tỷ lệ 1,7/1 so với 10 năm ta có mặt trên đất bạn để giúp bạn, trong khi đó khoảng thời gian chiến tranh biên giới Tây Nam chỉ bằng 3 /10 thời gian ta sang giúp bạn. Như vậy thấy rằng tổn thất chủ yếu là do địch gây chiến mà ta phải gánh chịu, chứ không phải do ta ở lại quá lâu mà bị tổn thất nhiều hơn so với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp...
Có một vấn đề cụ thể: Có ý kiến cho rằng để Bộ tư lệnh 719 chỉ đạo trực tiếp Đoàn 478 Chuyên gia quân sự giúp Bộ Quốc phòng Cam-pu-chia dễ phạm phải việc làm thay và áp đặt cho bạn. Tình hình thực tế tại Cam-pu-chia cho thấy: Chỉ khi bạn có lực lượng, tổ chức chỉ huy theo hệ thống từ trên xuống dưới, đã chuyển sang giai đoạn "Bạn làm ta giúp" thì mới bắt đầu nghiên cứu tổ chức chuyên gia độc lập thành hệ thống từ trên xuống cơ sở, để khi Quân tình nguyện rút hết thì Chuyên gia còn ở lại để tiếp tục giúp bạn. Do tình hình phát triển nhanh nên khi làm xong phương án này để trình lên trên thông qua thì cũng vừa đến ngày Bộ Chính trị hai Đảng thống nhất chủ trương rút Bộ tư lệnh, cơ quan 719 và Chuyên gia về nước; lực lượng còn lại của Quân tình nguyện đặt dưới sự lãnh đạo chỉ huy của Bộ Chính trị và Bộ Quốc phòng bạn. Do đó không có cơ hội để thử nghiệm phương thức giúp bạn mới thảo ra này. Trong thời gian làm việc dưới Sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, đồng chí luôn nhắc nhở chúng tôi sớm để cho bạn làm, trong việc chuyển giao từng bước cho bạn, đồng chí luôn để mức giao cho bạn tự đảm nhiệm sớm hơn chúng tôi nghĩ.
Những cán bộ Quân tình nguyện và Chuyên gia đều đã được quán triệt từ đầu về tinh thần thái độ và phương pháp giúp bạn. Chúng tôi đã đem hết nhiệt tình và trách nhiệm để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tuy nhiên, có nơi có lúc chúng tôi cũng bị va vấp, phạm những sai lầm, thậm chí cố sai lầm nghiêm trọng, có việc làm, thay kéo dài vì cứ lo lắng bạn chưa làm được sợ ảnh hưởng chung, khi được nhắc nhở thì mới sửa chữa; do đó đã hạn chế đến kết quả giúp bạn và thời gian giúp bạn từ đó kéo dài thêm, đó là lỗi của chúng tôi.
Về việc định mục tiêu, biện pháp chiến lược giúp bạn:
Với tư cách là Chỉ huy trưởng Tiền phương Bộ, rồi Tư lệnh Quân tình nguyện, đồng chí Lê Đức Anh đã tham mưu, đề đạt lên Quân ủy và Bộ Chính trị về phương hướng nội dung công tác giúp bạn phù hợp và đã được chấp nhận.
Cũng thông qua giúp bạn phát động phong trào cách mạng có hiệu quả, qua những hoạt động sôi nổi của nhân dân Cam-pu-chia, ta đã giúp bạn hình thành ba phong trào cách mạng của quần chúng là:
- Phong trào đánh địch và địch vận.
- Phong trào xây dựng lực lượng.
- Phong trào sản xuất.
Ba phong trào đó đã trở thành biện pháp chiến lược để thực hiện 3 mục tiêu...
Về chủ trương xây dựng đường tuần tra biên giới.
Năm 1985 ta và bạn giành được thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, đánh tan các căn cứ ở biên giới, đẩy quân địch ra xa buộc chúng phải thay đổi chiến lược, lấy mục tiêu chiến lược là chính hòng giành dân để làm chủ phum sóc, chờ thời cơ ta rút quân lớn sẽ làm thay đổi cục diện. Trong nội địa bạn có thế mạnh có thể tự đảm nhiệm được, đồng thời đã đến lúc ta chuyển giao cho bạn điều hành công tác vận động quần chúng xây dựng cơ sở để đẩy nhanh tốc độ hoàn thành 3 mục tiêu chiến lược. Bộ tư lệnh 719 đề xuất ỷ kiến và lãnh đạo của bạn nhất trí sẽ phát động phong trào toàn dân tham gia với Quân tình nguyên xây dựng tuyến đường tuần tra biên giới gọi là K5; qua đó đẩy nhanh tốc độ phát triển lực lượng ba thứ quân để tự đảm nhiệm cả biên giới và nội địa để cho Quân tình nguyện rảnh tay làm lực lượng cơ động (theo Nghị quyết 39 của Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia đề ra năm 1983); dự kiến công trình làm trong 3 năm 1986-1988.
Nội dung chính là cò cây kết hợp với chông mìn làm vật cản, bên trong làm đường cơ động tuần tra, nhằm phát hiện địch kịp thời từ đó hạn chế việc thâm nhập của quân địch. Trên các hướng dự kiến địch sẽ tổ chức đánh lớn thì xây dựng điểm tựa bằng gỗ đất, có nơi đào hào chống tăng... Nếu ta coi nó tương tự như tuyến Maginot của Pháp trước đây thì nó ít tác dụng và tốn kém rất lớn. Nhưng ở đây chủ yếu dùng sức người là chính, kết hợp với chống mìn thì bạn có thể làm được mà đã đạt kết quả rất tốt, vì sau 3 năm bạn đã tự điều hành cuộc vận động rộng lớn này với sự giúp đỡ kinh nghiệm của chuyên gia các ngành, bạn đã thu được nhiều thắng lợi lớn.
Đối với cơ quan lãnh đạo, đã có nhiều kinh nghiệm thực tế, tự tin hơn, đã xây dựng được cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, quân sự làm tham mưu và chỉ huy lực lượng vũ trang, riêng trình độ lãnh đạo lực lượng tổng hợp của bạn lên nhanh.
Phần lớn các cơ sở của bạn được củng cố đã nâng trình độ làm chủ ở phum sóc của bạn. Qua công tác thực tế, trình độ của cấp huyện và cấp tỉnh được nâng lên rõ.
Đặc biệt lực lượng vũ trang của bạn phát triển mạnh và có chất lượng tốt nhờ có sự sàng lọc qua thực tế; nhất là bộ đội địa phương và dân quân...".
Trong thiên hồi ức của Thiếu tướng Phùng Đình Âm, tôi nhớ rất rõ một đoạn ông kể cho tôi nghe giữa một chiều mùa mưa tại nhà riêng của ông ở thành phố Hồ Chí Minh:
"... Mùa khô năm 1981.
Hôm đó tôi đại diện Mặt trận 779 về Phnôm Pênh họp chuyên gia. Trước đó tôi xuống huyện Rồ-mi-hét thấy có một nhóm phản động chạy ra rừng lập đảng "Voi trắng ngà xanh" chống lại cách mạng. Anh Hà Mẫu, Đoàn trưởng 7703 (giúp bạn ở Xoài Riêng) mở cuộc tiến công lực lượng phản động ẩn náu ở huyện này. Tôi vô thấy dân nói - Bộ đội tới, nó chạy; bộ đội đi, nó líp lại. Nếu bộ đội Việt Nam cho họ một tiểu đoàn, họ sẽ nuôi bộ đội ở đó để du kích dựa vào bộ đội mà truy quét, thì cứ vài tháng địch nó sẽ hết hồn và sẽ đầu hàng.
Tôi lên báo cáo trong cuộc họp chuyên gia về sự việc này. Chính quyền địa phương nguyện vọng có một tiểu đoàn, thiếu đủ gì cũng được. Hội nghị kết luận: Sẽ thành lập "Tiểu đoàn địa bàn" ở mỗi huyện. Có huyện (như Ô-ra-hau) chỉ có một trung đội nhưng cũng gọi là tiểu đoàn. Danh từ "Tiểu đoàn địa bàn" có từ đây.
Qua đó thấy rằng, anh Sáu là người nhạy bén và biết nghe cấp dưới những ý kiến đúng, từ đó có chủ trương đúng để đối phó với địch, và cũng từ đó cơ sở của ta vững vàng hơn hẳn.
Hai là, sau chuyện sai lầm ở Xiêm Riệp anh em 719 định làm tiếp ở Công-pông-thom vì ở đó cũng báo cáo là có "địch hai mặt".
Lúc đó anh Sáu đang đi chữa mắt ở Liên Xô được Bộ Chính trị gọi về, anh liền điện cho tôi là - Ba Cung hãy báo cáo tình hình Công-pông-thom. Tôi bàn với anh Sáu Hưng (thay chỉ huy trưởng đang đi họp). Và tôi đã trực tiếp đi nắm tình hình và về báo cáo anh. Sau đó anh hỏi tôi: "Cậu báo cáo tình hình dựa vào nguồn tin nào?". Tôi trả lời là dựa vào 3 nguồn tin:
- Ở dưới báo cáo lên qua giao ban hàng ngày.
- Tôi dựa vào đoàn cán bộ của Mặt trận cử xuống.
- Tôi trực tiếp làm việc với Huyện ủy Ba Rày (Công-pông-thom).
Anh hỏi: "Đoàn gồm những ai?". Tôi trả lời: "Tham mưu có: tác chiến, quân báo; Chính trị có: bảo vệ, vận động quần chúng và Phòng K; Hậu cần không có". Anh bảo: "Chấp thuận! Nếu cậu chỉ cử mỗi Quân báo, chỉ nghe mỗi nguồn tin của Quân báo không thôi thì không đủ, mà phải có nhiều nguồn tin thì mới đủ! Anh nói vậy tôi hiểu là vì lí do Quân báo thông tin sai mà ta đã mắc sai lầm ở Xiêm Riệp rồi. Lúc đó tôi nghĩ, thật là may vì mình có rút kinh nghiệm, nên không bị anh đuổi về. Và tôi báo cáo với anh là chỉ có hai tên xâm nhập vào chính quyền, giờ ta bắt hai tên đó là yên ấm. Anh bảo "Ý kiến cậu đúng! Một huyện như huyện Ba Rày không thể có nhiều địch hoạt động ngầm được". Vì Chỉ thị 53 do anh Lê Hai soạn thảo. Chỉ thị này tôi cho Quân khu 7 in thành sổ tay: Huyện Ba Rày tổ chức học đã "chấm cơm" nên dân không sót một người nào. Tôi nói với anh Sáu là một huyện như thế thì địch không thể chui vào nhiều mà hoạt động ngầm được. Anh Sáu thường nói có 3 tỉnh vững vàng là Công-pôrig-thom, Xoài Riêng và Srây-veng thì Cam-pu-chia vững. Đó là ấn tượng thứ hai, tôi thấy anh Sáu là người rất thận trọng, kể cả những chỉ thị đích danh.
Với công tác chiến đấu, tôi có cảm nhận đặc biệt là: Nơi nào khó khăn anh đến tận nơi.
479 tiến công vị trí Tà Tum hai ngày không mở được. Anh Năm Ngà, Tư lệnh Quân khu đã lên trực tiếp theo dõi. Anh Sáu quan tâm chỉ đạo đánh cho dứt điểm. Anh Sáu đã đi trực thăng lên tiền phương trao đổi với anh Năm Ngà, chính hình ảnh này đã tăng thêm tin tưởng cho anh em...
Bộ Chính trị giao cho anh Sáu đặc trách nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Cam-pu-chia, ngụ tại Phnôm Pênh. Tôi chính thức là đặc phái viên kiêm phiên dịch của anh bên cạnh Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia.
Hai bên thoả thuận quy ước - về mặt Nhà nước, ngoại giao thì qua Đại sứ Ngô Điền, về chính trị, quân sự thì qua tôi. Hồi đó khi ở bên Cam-pu-chia anh Sáu với tôi ngủ cùng phòng, ăn cùng mâm. Tôi xin không làm đoàn trưởng, mà đề xuất nên để anh Ba Trân vì anh có cương vị cao hơn, lại nhiều tuổi hơn tôi, anh Sáu không đồng ý và bảo là bạn tin anh, anh cứ làm.
Anh Sáu chỉ đạo ở Cam-pu-chia có nhiều cái phù hợp. Riêng anh giữ cơ chế Đảng ủy là đúng. Rất đúng! Hồi đó khi có chỉ thị bỏ cơ chế Đảng ủy các cấp, anh Sáu đề nghị chỉ áp dụng đối với các đơn vị trong nước, còn Quân tình nguyện đang chiến đấu ở Mặt trận 719 vẫn cho giữ nguyên như cũ, do đó đã giữ vững và phát huy sức mạnh lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, còn bộ đội thì vững tin và rất hoan nghênh...".
Tại hồ sơ lưu trữ của Văn phòng Bộ Quốc phòng, chúng tôi được biết:
Ngày 21 tháng 1 năm 1980, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ký sắc lệnh số 11/LCT thăng quân hàm từ cấp Trung tướng lên cấp Thượng tướng cho đồng chí Lê Đức Anh, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7.
Ngày 29 tháng 6 năm 1981, Quyền Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Hữu Thọ ký Sắc lệnh số 106/LCT bổ nhiệm đồng chí Thượng tướng Lê Đức Anh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Cam-pu-chia.
Ngày 21 tháng 12 năm 1984, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh ký Quyết định số 596/NQ- HĐNN7, thăng cấp quân hàm từ Thượng tướng lên Đại tướng cho đồng chí Lê Đức Anh, Thứ trưỏng Bộ Quốc phòng, Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Cam-pu-chia.
Tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ V (diễn ra tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 27 đến 31 tháng 3 năm 1982), đồng chí Lê Đức Anh được bầu vào Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương. Cũng từ đây, đồng chí được giao đảm trách việc lãnh đạo và chỉ huy toàn bộ lực lượng Quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Cam-pu-chia trong công cuộc giúp bạn tiếp tục sự nghiệp cách mạng "Hồi sinh đất nước". Ở thời điểm này, chúng ta đã thực hiện việc rút quân đợt đầu tiên - Tiến hành từ ngày 14 đến 17 tháng 7 năm 1982, rút 6 đơn vị đóng ở Tây bắc Xiêm Riệp và Ôt-đô Miên-chây. Đến tháng 6 năm 1986, ta đã thực hiện xong đợt rút quân thứ 5. Tổng số quân rút của đợt 5 bằng gần một nửa tổng số quân thời cao điểm.
Cuối năm 1986, trước thềm Đạỉ hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, tình hình và nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đòi hỏi bộ máy lãnh đạo của Đảng phải tập trung trí tuệ để tìm ra những giải pháp mới, đặng đưa đất nước và cách mạng Việt Nam vượt qua những khó khăn, thử thách để ổn định và phát triển đi lên. Bởi vậy lúc này, thực hiện quyết nghị của Bộ Chính trị, đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh được điều ra Thường trực Ban Bí thư. Ngày 5 tháng 11 năm 1986, Tổng Bí thư Trường Chinh ký Quyết định số 1318-NQ-NS/TW, và ngày 12 thắng 11 năm 1986, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng ký Quyết định số 287/CT, cả hai quyết định cùng một nội dung: Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng thôi giữ chức Trưởng ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia tại Cam-pu-chia và Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Cam-pu-chia (Bộ tư lệnh 719), trở về Bộ Quốc phòng nhận công tác. Từ đây, Đại tướng Lê Đức Anh tuy hàng ngày không trực tiếp chỉ huy ỏ Cam-pu-chia nhưng vẫn là người chịu trách nhiệm chính trước Đảng và Nhà nước việc chỉ đạo tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ Quốc tế giúp Cách mạng Cam-pu-chia cho đến ngày Việt Nam rút toàn bộ Quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia về nước.
Một tháng sau, ngày 7 tháng 12 năm 1986, Tổng Bí thư Trường Chinh ký Quyết định số 1325- NQNS/TW - quyết định Đại tướng Lê Đức Anh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Như vậy, ông được Bộ Chính trị chọn làm người thay thế Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn vừa qua đời.
Từ 15 đến 18 tháng 12 năm 1986, Đảng ta tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Đại hội VI là mốc son lịch sử trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng ta, tại Đại hội này, Đảng ta đã đề ra đường lối và quyết định khỏi xướng sự nghiệp đổi mới đất nước. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư. Đại tướng Lê Đức Anh được tiái cử Úy viên Bộ Chính trị. Hai tháng sau, ngày 16 tháng 2 năm 1987, Bộ Chính trị và Hội đồng Nhà nước đã quyết định bổ nhiệm Đại tướng Lê Đức Anh làm Bộ trưởng Quốc phòng, Thượng tướng Đoàn Khuê làm Tổng Tham mưu trưởng, Thượng tướng Nguyễn Quyết làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Đây là giai đoạn mà tình hình quốc tế, khu vực và tình hình trong nước có nhiều biến động rất phức tạp, rất sinh động và quyết liệt:
Liên Xô rút quân khỏi Áp-ga-ni-xtan đồng thời đề nghị giải quyết nhanh vấn đề Cam-pu-chia bằng giải pháp chính trị, cắt giảm viện trợ cho Việt Nam và Cam-pu-chia.
Trung Quốc tích cực thực hiện đường lối cải cách kinh tế, chính sách mở cửa liên doanh liên kết và thu hút đầu tư của các nước. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện rất nghiêm trọng, đang tiến hành "cải tổ, cải cách". Nhưng trong quá trình cải tổ, cải cách ở các nước này đã phạm sai lầm nghiêm trọng, các thế lực đế quốc và phản động chống phá, lợi dụng khó khăn và khuyết điểm để thực hiện "diễn biến hòa bình" nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội.
Tại một số khu vực khác, một số nước nội chiến kéo dài hàng chục năm lần lượt kết thúc bằng giải pháp chính trị, tổng tuyển cử tự do có sự giám sát của quốc tế.
Các nước trong khối ASEAN từ đốỉ đầu chuyển sang đối thoại giải quyết vấn đề Cam-pu-chia. Trong ASEAN thì In-đô-nê-xi-a là nước hoạt động tích cực. Thái Lan cũng có sách lược mới... Tất cả những diễn biến trên đều có tác động đến Việt Nam ta và đến công cuộc Cách mạng của nhân dân Cam- pu-chia mà ta đang giúp bạn.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang đứng trước những khó khăn gay gắt: Mỹ vẫn tiếp tục bao vây cấm vận; "chiến tranh ở hai đầu biên giới" vẫn chưa nguôi; những năm hòa bình sau mấy chục năm chiến tranh ta chưa khôi phục hàn gắn được bao nhiêu thì từ sự chậm đổi mới cộng với những sai lầm trong chính sách vĩ mô về kinh tế xã hội, nhất là đợt biến động "giá - lương - tiền" đã dẫn đến tình trạng nền kinh tế kiệt quệ, tiền nhiều hàng ít, thiếu đủ đường, nền kinh tế-xã hội rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đòi sống nhân dân lao động nói chung, cán bộ công nhân viên khối hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang nói riêng vô cùng khó khăn vất vả. Trong lúc đó một bộ phận cán bộ đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân tác động, chi phối, đã rơi vào thói tham ô
vụ lợi, hách dịch cửa quyền, quan liêu xa rời quần chúng đã làm xói mòn lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và tạo kẽ hở cho kẻ thù giai cấp và những kẻ cơ hội lợi dụng để đả kích, chỉ trích bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, hô hào đòi "đa nguyên, đa đảng"... thực chất là nhằm mục đích phá hoại Đảng, đòi chia quyền lãnh đạo đất nước, phá hoại thành quả cách mạng, đưa đất nước đi chệch con đường chủ nghĩa xã hội...
Những ngày trước đó, khi được giao Tổng Tham mưu trưởng, việc đầu tiên là Đại tưống Lê Đức Ạnh đi lên sáu tỉnh biên giới phía Bắc. Ông đi hết các khu vực đường biên, gặp gỡ hỏi chuyện người dân, vào các trận địa chốt thị sát trực tiếp công tác tổ chức chiến đấu và sinh hoạt của bộ đội, đối thoại trực tiếp với cán bộ, chiến sĩ ở cơ sở. Đây là lần thứ hai ông lên biên giới phía Bắc. Lần trước, cách đây không lâu, trước khi Bộ Chính trị có quyết định rút ông từ Cam-pu-chia về Bộ Quốc phòng, ông đã lên biên giới. Lúc này ông và ông Nguyễn Văn Linh cùng gặp nhau ở một tư duy là cần phải giảm quân số thường trực và bpps trí lại lực lượng, cả hai ngưòi đều cảm nhận hình thái bố trí quân đội, nhất là các đơn vị chủ lực cơ động như hiện tại là không ổn. Ông đã gặp riêng một số đồng chí lãnh đạo cao nhất trong Bộ Chính trị để trao đổi với Tổng Bí thư Lê Duẩn lúc đó đang bệnh nặng, ông vào bệnh viện thăm, khi nghe ông trình bày, Tổng Bí thư thấy vấn đề ông nêu ra là đúng, nhưng cách xử lý thế nào còn đang là việc khó. Cả hai ông Trường Chinh và Nguyễn Văn Linh đều cho rằng cần phải cân nhắc, suy nghĩ thêm. Quả thật, trong "thế cờ" của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc lúc này, chọn "nước đi" như thế nào là cả một vấn đề rất hệ trọng, không hề đơn giản và không được phép sai lầm. Trong Bộ Chính trị lúc đó cũng có ý kiến thấy "nên điều chỉnh", còn một số ý kiến đều nói điều chỉnh khó lắm. Mà khó thật. Lúc đó ông Phạm Văn Đồng là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Đỗ Mười và ông Phạm Hùng là Phó chủ tịch, cả ông Đồng và ông Mười đều muốn làm sao giảm được chi phí quốc phòng, giảm quân số, nhưng cũng thấy khó quá. Nếu giảm quân số thì sẽ như thế nào, không ai lường trước được một khi chúng ta chưa biết được ý định của nhà cầm quyền phía, bên kia biên giới đối với cuộc xung đột vũ trang biên giới đang diễn ra. Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Văn Tiến Dũng khi trao đổi vối ông, cũng bảo: "Cơ quan Tham mưu còn đang có ý định tăng thêm ba vạn quân, tức là thành lập quân đoàn thứ 10. Tình hình này mà bảo Tham mưu giảm quân thì chắc là khó, mà để như vậy cũng thật khó!...".
Lần này ông lên thị sát biên giới, không chỉ để thấy rõ "bức tranh toàn cảnh"; nắm vững toàn bộ tình hình biên giới, đi sâu vào bản chất, thực trạng của tình hình quân đội và nhân dân phía bên ta, mà còn thăm dò để hiểu bộ đội phía bên kia. Đến điểm tựa Vị Xuyên (Hà Giang), ông nói với cán bộ đơn vị: "Nếu họ đánh sang, chiếm đất của ta, ta nói rằng chúng ta chống xâm lược thì dễ làm công tác tư tưởng. Đằng này cứ ở trong trạng thái nhùng nhằng lặp đi lặp lại chuyện bắn pháo và bắc loa chửi nhau; cứ như thế này thì không giải quyết được vấn đề, không giải quyết được tư tưởng. Bây giờ họ bắn pháo sang ta, thì ta sẽ "bắn" lại bằng tình hữu nghị". Khi ông bảo anh em bộ đội bên ta sang mời thuốc lá bộ đội bên họ thì họ rất phấn khởi và biết được thực lòng họ không muốn hai bên xung đột. Một thực trạng nữa mà ông nhìn rất rõ là bộ đội ta rất khó về vật chất, rất căng thẳng về tinh thần, một vài nơi đã có hiện tượng bộ đội vi phạm kỷ luật dân vận. Khá nhiều đơn vị cán bộ báo cáo lên trên không trung thực vì hai nguyên nhân-một là chủ quan, quan liêu, xa rời thực tế, hai là chạy theo chủ nghĩa thành tích...
Ngay sau khi ông nhận chức Bộ trưởng Quốc phòng, tại "Nhà Con Rồng" đã diễn ra cuộc họp "Bộ Chính trị hẹp" hai ngày. Tại đây, ông đã báo cáo toàn bộ tình hình biên giới phía Bắc. Những dẫn chứng sinh động, những phân tích đánh giá sát đáng và khúc triết, những đề xuất táo bạo và sắc sảo của ông đã được hội nghị bàn bạc, phân tích và chấp nhận, trong đó nội dung không dừng lại ở vấn đề giải quyết tình hình biên giới, mà từ vấn đề biên giới để định ra chiến lược và sách lược của công tác đốĩ ngoại. Từ thu thập tình báo đến quan sát thực tế và những động tác thăm dò đầu tiên, trong ông đã hình thành một tư duy là Trung Quốc gây xung đột vũ trang ở biên giới không phải có ý định xâm lược mà vì một mục đích khác. Và như vậy thì khả năng của ta có cơ sở để phá thế bao vây cấm vận được. Có hai việc lớn ta có thể xúc tiến, một là tìm cách để nối lại quan hệ bình thường với Trung Quốc, hai là tìm lối để gia nhập vào ASEAN. Nếu nói thuần túy về kinh tế thì các nước ASEAN họ không chịu vì ta đang nghèo về kinh tế. Nhưng tã có hai cái giàu, ta giàu về chính trị, giàu về địa lý và tiềm năng con người. Lòng tự tôn dân tộc nước nào cũng có. Nay ta vào, trước mắt có thể chưa có lợi gì về kinh tế, nhưng các nước ASEAN cần Việt Nam làm chỗ dựa về chính trị để vươn lên. Trong ASEAN không phải tất cả đều chông Việt Nam, mà có những nước rất có thiện cảm với ta, như In-đô-nê-xi-a chẳng hạn.
Ý kiến của ông nhiều người đồng thuận: Thế thì được! Không có ai nói khác. Có tư tưởng rồi, hệ thống rồi, được lắm! Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: "Làm việc này, bên Ngoại giao là chức năng rồi, Bộ Quốc phòng phải phối hợp; nhưng việc này cả Đảng và Nhà nước cùng làm mới xong". Lúc đó Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch nói: "Bây giờ các anh cứ quyết, tôi xin làm ngay!", cả Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch nước Trưòng Chinh đều cho rằng, Bộ Ngoại giao làm là tất nhiên rồi, nhưng giao cho anh Lê Đức Anh suy nghĩ tìm biện pháp cụ thể, nhất là việc "mở đầu". Lúc đó ông nói vui: "Được! Tôi sẽ mở đầu. Tôi sẽ cùng vối anh Nguyễn Cơ Thạch cố gắng hoàn thành nhiệm vụ mà Bộ Chính trị tin cậy giao cho". Và ông đã quyết định "mở đầu" với Trung Quốc bằng hai "luồng thăm dò". Một luồng với bà con Hoa kiều ở Chợ Lớn và một luồng vối Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội. Còn trước mắt, với cương vị và quyền hạn của Bộ trưỏng Quốc phòng, ông tiến hành điều chỉnh tạm thời lại thế bố trí chiến đấu ở biên giới phía Bắc: các đơn vị chủ lực cơ động lui xuống phía sau, tuyến thứ hai. Đưa dân lên sống và sản xuất, đưa dân quân, bộ đội địa phương và bộ đội biên phòng lên tuyến một. Sự điều chỉnh này vừa đúng với quy luật của khoa học nghệ thuật quân sự, lại vừa là "bước thăm dò" đầu tiên với phía bên kia.
Vào thành phố Hồ Chí Minh, ông đề nghị với lãnh đạo thành phố (ông Võ Trần Chí là Bí thư Thành ủy) chỉ đạo Ban Hoa vận của Thành ủy mời một số người Hoa có uy tín, đại diện cho bà con Hoa kiều khu vực Chợ Lớn đến. Cuộc gặp mặt giữa ông và đại diện Hoa kiều đã diễn ra trong không khí chân tình, cởi mở tại trụ sở của Thành ủy. Có 8 người Hoa đến dự, cùng dự có một đồng chí Thường vụ Thành ủy. Khi họp, ông lược lại quá trình quan hệ hữu nghị giữa hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam-Trung Quốc. Trong đó viện dẫn có những đồng chí người Việt Nam nhưng lại là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, là tướng lĩnh của Giải phóng quân Trung Quốc, cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Trung Quốc. Rồi khá nhiều đồng chí khác là ngưòi Trung Quốc nhưng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông nói tới việc cộng đồng người Hoa sinh sống ở Việt Nam đã tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ xâm lược, giải phóng đất nước. Trong đó có nhiều bà má đã nuôi giấu, cứu chữa thương binh là bộ đội giải phóng ngay tại nhà mình, bất chấp nguy hiểm trong những ngày Tông tiến công Tết Mậu Thân 1968. Tình hữu nghị Trung- Việt là truyền thông tốt đẹp và bền lâu, chúng ta cần làm cho nó bền vững và phát triển. Hai nước đoàn kết hữu nghị là bình thường. Vừa rồi xảy ra chuyện Việt Nam-Trung Quốc xung khắc là chuyện không bình thường. Vậy thì yêu cầu bà con người Hoa hãy góp sức mình để hàn gắn lại hữu nghị, để xoá bỏ cái không bình thường này đi. Nghe ông nói những điều đó, những người dự họp đều đồng tình, phấn khởi. Họ đều phát biểu và nói lên rằng từ lâu chúng tôi cũng mong muốn như thế. Việt Nam và Trung Quốc cứ tốt với nhau như hồi xưa, giúp nhau như anh em một nhà thì chúng tôi sung sướng lắm. Sinh sống lâu năm ỏ Việt Nam, chúng tôi cũng muốn chăm lo xây dựng cuộc sống gia đình và góp công góp sức xây dựng đất nước Việt Nam, quê hương thứ hai của mình...
Trở ra Hà Nội, ông nói Cục trưởng Cục Đối ngoại quân sự Vũ Xuân Vinh đến mời Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy tới Nhà khách Bộ Quốc phòng ở số 28 phố Cửa Đông để ông mời cơm. Bữa cơm và cuộc gặp bí mật đó chỉ có hai người, vừa ăn cơm vừa nói bhuyện. Ông điểm lại quá trình Trung Quốc giúp Việt Nam về cách mạng nói chung, về quân sự nói riêng là rất quan trọng. Từ Chiến dịch Biên Giới 1950, Bác Hồ lên tận nơi để chỉ đạo, và đồng chí Trần Canh cùng đoàn cố vấn Trung Quốc giúp đỡ về cách đánh chiến dịch như thế nào. Ở Điện Biên Phủ nếu không có lựu pháo, vũ khí chống tăng, súng máy phòng không và vũ khí, đạn dược của Trung Quốc giúp thì khó giành được thắng lợi. Rồi những đoàn cán bộ, những đoàn học sinh miền Nam được gửi ra Bắc rồi đưa sang Trung Quốc học tập. Rồi chuyện quân đội Việt Nam hành quân sang đánh dẹp quân Tưởng ở Thập Vạn Đại Sơn theo điện yêu cầu của đọng chí Chu An Lai, giải phóng vùng đất Ung - Long - Khâm để đón Đại quân Nam Hạ, v.v... Đề nghị đồng chí Đại sứ báo cáo với lãnh
đạo của Trung Quốc. Tôi mới nhận chức nhưng cũng sẽ báo cáo với lãnh đạo của Việt Nam. Để lãnh đạo hai nước gặp nhau giải quyết việc này. Ông còn khoe với Đại sứ Trương chuyến ông đi với Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang Tô Châu gặp Mao Chủ tịch Mao Chủ tịch hỏi có khó khăn và cần gì, ông nói cần súng đạn và tiền để mua gạo, thì một tháng sau chiến trường Nam Bộ đã nhận được vũ khí và tiền... Hôm đó Đại sứ Trương Đức Duy vừa ngạc nhiên vừa vui mừng ra mặt khi nghe ông nói những lời như vậy. Đại sứ Trương tỏ rõ sự phấn khởi và nói rằng "Vậy thì tôi phải về để báo cáo với lãnh đạo bên tôi!".
Xung quanh sự việc này, người viết được Trung tướng Vũ Xuân Vinh, nguyên Cục trưởng Cục Đối ngoại quân sự cho biết:
"... Đồng chí Lê Đức Anh đã nói với tôi, Cục trưởng Đối ngoại: - Trung Quốc là một nước lớn, láng giềng gần gũi với ta; nếu hai nước luôn ở tình trạng đối đầu căng thẳng thì không xây dựng được đất nước mà còn bị phương Tây lợi dụng. Trung Quốc lại có nhiều điểm tương đồng với ta, nhất là điểm tương đồng cơ bản là còn tính chất xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình quốc tế phức tạp hiện tại, ta cần chủ động sớm mở ra quan hệ bình thường với Trung Quốc.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Lê Đức Anh, tôi với cương vị là Cục trưởng Đối ngoại đã tổ chức bốn cuộc gặp với Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội là Trương Đức Duy vào cuối tháng 5 đầu tháng 6-1990, trong đó có hai cuộc gặp trực tiếp giữa tôi và Đại sứ Trương Đức Duy để tiến tới cuộc gặp riêng giữa Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh và Đại sứ Trương Đức Duy tại Nhà khách 28 phố Cửa Đông...".
Nhiệm vụ mà Bộ Chính trị tin cậy giao cho ông đã hoàn tất. Quả nhiên sau đó, trong chuyến đi thăm Sin-ga-po (tháng 7 năm 1990) Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đã "đánh tiếng" là "sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với Việt Nam". Một tháng sau đó (ngày 19 tháng 8) Tổng Bí thư Giang Trạch Dân có thư qua đưòng Đại sứ, mời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Cố vấn Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Đỗ Mười. Cuộc gặp không công khai giữa hai Tổng Bí thư và hai Thủ tướng đã diễn ra trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại Thành Đô. Hai bên bàn bạc thoả thuận những nguyên tắc để lập lại quan hệ bình thường giữa hai nước, hai bên cũng thống nhất việc giải quyết vấn đề Cam-pu-ehia.
Tiếp đó, tháng 8 năm 1991, Đại tướng Lê Đức Anh với tư cách là "Đặc phái viên của Bộ Chính trị" đã sang thăm nội bộ Trung Quốc để bàn bạc những vấn đề cụ thể việc bình thường hóa quan hệ hai nước. Cùng đi với ông có đồng chí Hồng Hà, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương. Phía bên Trung Quốc do Tổng Bí thư Giang Trạch Dân làm trưỏng đoàn. Trước khi vào hội đàm, có ít phút ngồi chuyện trò thì Tổng Bí thư Giang nói: "Tới đây lãnh đạo hai nước gặp nhau sẽ mở lại trang sử tốt đẹp quan hệ Trung-Việt. Nhưng có một vấn đề tuy cũng quan trọng nếu nói trong cuộc họp chung thì không tiện. Tôi ở địa phương mới lên làm Tổng Bí thư. Trước chưa biết, nhưng nay nghiên cứu lịch sử mới biết là Trường Sa của Trung Quốc". Ông Anh đáp lời: "Tôi cũng giống như đồng chí, tôi ở chiến trường mới về. Khi về Trung ương có dịp nghiên cứu về lịch sử, địa lý và pháp lý, thì thấy rõ Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc lãnh thổ Việt Nam. Bây giờ chúng ta nên cử các cơ quan chức năng nghiên cứu và xác định cụ thể". Nghe vậy, ông Giang không nói gì nữa, chỉ cười thôi. Rồi ông Giang bảo: "Tới giờ rồi, mời đồng chí ra hội đàm!".
Cuộc hội đàm diễn ra một ngày tại Trung Nam Hải, mọi vấn đề đều đạt kết quả tốt. về giải quyết vấn đề Cam-pu-chia, lúc đó Khơ-me đỏ đã tan, vì lúc đó ông Hoàng Xi-ha-núc đang ở Bắc Kinh, Trung Quốc bàn với ta đồng tình việc mời Xi-ha-núe trở về Tô quốc Cam-pu-chia để cùng với Đảng, Chính phủ, nhân dân Cam-pu-chia xây đựng đất nước. Việt Nam và Trung Quốc sẽ cùng giúp cho Cam-pu-chia tiếp tục giữ vững ổn định và phát triển. Thời điểm này Trung Quốc cũng thấy rằng quan hệ với Việt Nam để phát triển là một nhu cầu (UI cải cách mở cửa, trong khi đó lại gặp thái độ cua ta rất "phải chăng" thì họ tiếp thu ngay. Họ đang có nhu cầu phát triển, ta cũng có nhu cầu bình thường hóa quan hệ để phát triển nên hai bên đã gặp nhau.
Sau cuộc đi "tiền trạm" này của ông, từ ngày 5 đến 10 tháng 11-1991 là chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Sau lễ đón và hội đàm, hai bên ra Thông cáo chung và ký kết Hiệp định chính thức quan hệ bình thường giữa hai nước Trung-Việt trên cơ sở ở nguyên tắc hòa bình, đồng thời ký kết cả quan hệ bình thường giữa hai Đảng, khép lại 15 năm đối đầu căng thẳng.
Thời điểm lãnh đạo cấp cao hai bên đã gặp nhau, việc lập lại quan hệ bình thường giữa hai nước đã ở trong tầm tay, Đại tướng Bộ trưồng Lê Đức Anh bắt đầu thực hiện việc điều chỉnh chiến lược quốc phòng mà trước đó ông đề xuất đã được Bộ Chính trị nhất trí hoàn toàn. Bởi vậy những đơn vị chủ lực lớn phải lui về sau, không thể giăng ra áp sát biên giới như hiện tại được; có lực lượng cơ động và lực lượng vũ trang địa phương ở tuyến trên, và nhất định không thể để "hỗ sườn" bỏ trống Tây Nguyên như hiện nay. Nên ngoài lực lượng của quân khu
ra, ông quyết định điều thêm một quân đoàn chủ lực đứng chân ở đó. Biết rằng đây là việc làm không dễ gì vì quân đoàn đã xây dựng "ấm chỗ", doanh trại quân đoàn bộ và các đơn vị đã xây dựng khang trang, phần lớn anh em cán bộ, công nhân viên người miền Bắc, trong đó có nhiều người sau bao năm vào Nam chiến đấu, nay mới được ra Bắc đóng quân, các "Khu gia đình" đã và đang yên ổn, nay bỗng chốc bỏ tất cả để vào chốn "rừng xanh núi đỏ xa xôi" thì anh em thắc mắc rất dữ. Nhưng rồi với sự giúp đỡ của các cơ quan Bộ Quốc phòng, Đảng ủy Quân đoàn và Tư lệnh Quân đoàn 3 - Tướng Khuất Duy Tiến đã lãnh đạo và chỉ huy hoàn thành rất tốt việc di chuyển. Đội hình bố trí lực lượng các quân, binh chủng cũng được điều chỉnh thích hợp. Rồi tăng cường phòng thủ biển, nhất là khu vực quần đảo Trường Sa. Trước đó ở Trường Sa ta chỉ có 7 cái đồn, sau ta xây dựng được 21 vị trí đóng quân, sức mạnh phòng thủ ở khu vực tăng rõ về chất.
Về việc này, tôi được Thiếu tưống Nguyễn Văn Ninh, nguyên Phó cục trưởng Cục Tác chiến cho biết: "Hơn mười năm tôi được phân công chỉ đạo và theo dõi về biển, đảo và thềm lục địa, tôi thấy rằng Đại tướng Lê Đức Anh là người đặc biệt quan tâm và có tầm nhìn chiến lược về vấn đề này. Lần đó mặc dù sức khoẻ của Đại tướng rất yếu, nhưng ông kiên quyết yêu cầu chúng tôi đưa ra thị sát khu vực Trường Sa. Ông đi hết các đảo để kiểm tra tình hình mọi mặt của bộ đội. Và, ngày 7 tháng 5 năm 1988, ông đã chỉ thị cho Bộ tư lệnh Hải quân tổ chức mít tinh kỷ niệm ngày truyền thống của Quân chủng tại đảo Trường Sa Lớn, ngay bên cột mốc có gắn Quốc huy Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại đây, bên cột mốc biểu tượng cho chủ quyền của Tổ quốc Việt Nam, ông đã cùng đơn vị bộ đội Hải quân ở đây long trọng làm "Lễ tuyên thệ". Đứng giữa trời biển mênh mông, ông đọc lên lời thề của thế hệ Quân đội nhân dân Việt Nam hôm nay kiên quyết bảo vệ và giữ vững từng tấc đất, vùng trời, vùng biển, non sông gấm vóc của Tổ quốc Việt Nam! Ngay sau đó ông ra chỉ thị và chỉ đạo xây dựng các chòi, nhà nổi bằng bê tông cốt thép ở khu vực đảo chìm Tư Chính.
Tại đảo Trường Sa-đảo chính trong quần đảo Trường Sa, Bộ tư lệnh Hải quân nhân dân Việt Nam đã tổ chức mít tinh kỷ niệm lần thứ 33 ngày truyền thống của quân chủng (7-5-1955 - 7-5-1988). Đại tướng Lê Đức Anh, ủy viên Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Bộ trưởng Quốc phòng đã đến dự. Đến dự còn có đại diện các cơ quan Bộ Quốc phòng, Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh Phú Khánh, đoàn Văn hoá nghệ thuật Phú Khánh và cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam.
Dưới đây là bài phát biểu của Đại tướng Lê Đức Anh tại cuộc mít tinh ở đảo Trường Sa:
Cùng với các lực lượng, các đơn vị của Hải quân nhân dân Việt Nam, hôm nay, Bộ tư lệnh Quân chủng tổ chức mít tinh kỷ niệm lần thứ 33 ngày truyền thống quang vinh của quân chủng (7-5-1955 - 7-5-1988) trên vùng quần đảo Trương Sa, mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.
Thay mặt Bộ Quốc phòng, tôi chuyển tới các đồng chí cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân lời chúc sức khoẻ.
Hải quân ta ra đời trong hoàn cảnh khó khăn về nhiều mặt, vượt qua mọi khó khăn thử thách bằng sức lao động thông minh và sáng tạo, từ những chiếc thuyền gỗ có gắn máy mà đi lên, Hải quân ta đã phát triển không ngừng và đã lập nhiều thành tích trên các mặt chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng lực lượng, bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam và làm nhiệm vụ quốc tế.
Từ những ngày đầu của cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, Hải quân nhân dân ta đã nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí quyết đánh quyết thắng và đã lập nhiều chiến công oanh liệt. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ ven biển miền Bắc, Hải quân nhân dân ta còn có nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng là đưa cán bộ, súng đạn vào miền Nam qua đường biển bằng loại tàu đi biển do Hải quân ta tự thiết kế. Loại tàu nhỏ bé này đã vượt biển khơi đi qua vùng biển dưới sự kiểm soát của không quân và hải quân thuộc Hạm đội 7 của Mỹ, của hạm đội tuần tiễu của quân đội Sài Gòn.
Nhưng Hải quân nhân dân ta vừa làm nhiệm vụ bảo vệ ven biển miền Bắc, chống mọi sự phong toả của địch, đồng thời đã vận chuyển được hàng vạn tấn hàng hoá, vũ khí, đạn dược và hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần xứng đáng giành thắng lợi trọn vẹn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc ta.
Nhân kỷ niệm ngày truyền thống của Quân chủng, tôi nhắc lại điều đó để nói lên tinh thần dũng cảm và sự thông minh sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ Hải quân ta trong thời kỳ đánh Mỹ. Đó là sự thông minh và dũng cảm tuyệt vời, nó được nổi tiếp mãi cho đến ngày nay và mãi mãi đến các thế hệ mai sau. Thông minh dũng cảm là sức mạnh. Niềm tin là sức mạnh. Đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế là sức mạnh.
Mở đầu thời kỳ đánh Mỹ để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, trước một tên đầu sỏ hùng mạnh nhất của chủ nghĩa đế quốc; Đảng ta đã có một vũ khí cực mạnh, đó là niềm tin, niềm tin ở chính nghĩa độc lập tự do, niềm tin ở sức mạnh của nhân dân khi đã quyết tâm thì sẽ sáng tạo muốn vàn cách đấu tranh để giành lấy độc lập tự do cho Tổ quốc.
Chính niềm tin sắt đá đó đã động viên và đoàn kết toàn dãn tộc nhất tề đứng dậy đấu tranh với tên đế quốc cực mạnh và đã từng bước thu hút sự chú ỷ và sự ủng hộ của loài người tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ. Sự ủng hộ của bạn bè trên thế giới đã góp phần quan trọng giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Đoàn kết dân tộc, đoàn kết với bạn bè quốc tế, đó là sức mạnh, đó là đại nghĩa, đó là lẽ sống của cách mạng Việt Nam, của nhân dân Việt Nam.
Về mối quan hệ giữa ta và Trung Quốc: Trong những năm 50 và những năm 60 quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc là quan hệ hữu nghị, tình sâu nghĩa nặng. Đặc biệt là sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với cuộc khảng chiến chống Mỹ của nhân dân ta trong những năm từ 1965 đến 1970 là rất to lớn và có hiệu quả. Nhân dân Việt Nam vô cùng biết ơn sự giúp đỡ to lớn đó của nhân dân Trung Quốc đã dành cho mình. ;
Mặt khác, thắng lợi của chúng ta cũng đã góp phần đáng kể phá vỡ sự bao vây của đế quốc Mỹ đối với nước Cộng hoà nhân dân Trưng Hoa.
Năm 1976, Đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và Nhà nước ta đi thăm và cảm ơn các nước và bầu bạn trên thế giới đã ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam đánh thắng đế quốc Mỹ. Tới Trung Quốc, các đồng chí lãnh đạo của Đảng ta đã cảm ơn sự giúp đõ to lớn của Trung Quốc đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam, thì người lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc lúc bấy giờ đã nói: "Trung Quốc phải cảm ơn Việt Nam, chính nhờ Việt Nam thắng Mỹ mà Tổng thống Mỹ đã phải thân hành đến Trung Quốc để cầu thân với Trung Quốc".
Nói tóm lại là cả hai nước giúp đỡ lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực, với tình nghĩa anh em sâu đậm. Chúng ta đinh ninh rằng tình sâu nghĩa nặng đó sẽ kéo dài mãi mãi và nhất định nó sẽ xoá nhoà, đi đến xoá hẳn trong ký ức của dân tộc Việt Nam những tội lỗi mà các triều đại phong kiến Trung Quốc đã gây đau khổ cho dân tộc Việt Nam suốt hàng ngàn năm đô hộ.
Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thật sự trên thực tế, phù hợp với pháp lý quốc tế, với đạo lý quốc tế.
Từ xưa cho đến nay, dân tộc Việt Nam đù chế độ xã hội khác nhau qua các thời đại, xu hướng chính trị khác nhau, tôn giáo khác nhau, đàn ông củng như đàn bà, già cũng như trẻ đều một lòng một dạ kiên trì và kiên quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Chúng ta nhớ mãi không bao giờ quên tình sâu nghĩa nặng giữa nhân dân hai nước Việt-Trung, kiên trì phấn đấu để khôi phục tình hữu nghị giữa hai nước, đồng thời chúng ta nhất quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc chúng ta...
Hôm nay nhân kỷ niệm ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam trên đảo chính của quần đảo Trường Sa, có mặt đông đủ đại diện của các tổng cục, các quân chủng, đại diện tỉnh Phú Khánh, chúng ta xin thề trước hương hồn của tổ tiên ta, trước hương hồn của các cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau "Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta!".
Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh còn cho biết: "Vấn đề bán đảo Cam Ranh cũng vậy. Ông Lê Đức Anh nói với tôi, biên giới phía Bắc bức xúc và nóng bỏng như vậy mà có những "trọng điểm" ông chỉ tới được có hai lần, nhưng với Cam Ranh ông vào tới bốn, năm lần. Lần đầu vào, lúc đó Liên Xô chưa sụp đổ, thấy họ khai thác đá ở cái núi đá trong vịnh, núi này trước đây ngụy cũng để cho quân Mỹ khai thác để xây dựng các công trình cảng quân sự, ông đã phê bình "Để họ làm thế này thì đây sẽ bị sa mạc hoá. Không được!". Ông bảo mỗi cục đá ở đây phải quý như một cục vàng. Ngay sau đó ông về báo cáo vói Tổng Bí thư Lê Duẩn và Bộ Chính trị, nhất định không để cho họ phá núi lây đá và khai thác cát ở trong khu vực vịnh. Vị trưởng đoàn Chuyên gia và Tùy viên quân sự Liên Xô cự lại. Ông Lê Đức Anh sẽ đảm bảo có đá cho các anh. Ngay sau đó họ và cả người dân ở đây rất biết ơn ông đã cho mở một con đường dài 30 km vào mỏ đá trong đất liền. Khi Liên Xô sụp đổ, mặc dù "Hiệp định hợp tác toàn diện" mà ta ký với Liên Xô vẫn còn hạn đến năm 2004, nhưng ông đã chỉ đạo rất sát sao và khôn khéo việc đàm phán giữa ta và Cộng hòa liên bang Nga để họ trao trả cảng quân sự Cam Ranh. Vì vịnh Cam Ranh là một trong ba vịnh tốt nhất thế giới (cùng với Xan Phran-xi-xcô của Mỹ và Riô-đơ Gia-nê-rô của Bra-xin); Cam Ranh có vị trí chiến lược, một khu vực phòng thủ then chốt của miền Trung và của cả nước, là căn cứ để bảo vệ cả vùng biển rộng lớn và quần đảo Trường Sa. Ông từng nói, cần khẳng định dứt khoát Cam Ranh là căn cứ quân sự tổng hợp Hải quân - Không quân. Phải xây dựng, bảo vệ, quản lý vững chắc trong mọi tình huống, duy trì và làm phong phú thêm cảnh quan thiên nhiên, giữ tốt môi trường sinh thái, không được chặt cây phá đá, không đặt vấn đềxây dựng kinh tế hoặc kết hợp kinh tế-quốc phòng ở đây. Có thể nói việc thu hồi một cách êm thấm quân cảng Cam Ranh và giữ được nó như hiện nay là có phần công lao rất lớn của Trung ương Đảng, trong đó có vai trò của ông Lê Đức Anh. Đề tài khoa học KX-09-06A "Chiến lược bảo vệ vùng biển đảo và thềm lục địa" được nghiệm thu Công trình cấp Nhà nước do Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh làm Chủ nhiệm đề tài, Thiếu tướng Nguyễn Tấn làm Phó chủ nhiệm đề tài, nhưng thực chất là chúng tôi làm nó theo tư tưởng chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh...".
Về chuyện xử lý các vấn đề đặt ra xung quanh bán đảo Cam Ranh, người viết được Đại tướng Lê Đức Anh cho biết:
"Giai đoạn đầu khi tôi được giao làm Tổng Tham mưu trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tình hình biên giới phía Bắc nóng bỏng như vậy, kể cả những trọng điểm như Chi Lăng, Vị Xuyên, Trà Lĩnh, tôi cũng chỉ cố gắng đến được hai lần; vậy mà với Cam Ranh, tôi vào tới bốn lần. Lúc đó tôi đau đáu ý nghĩ bây giờ sẽ giải quyết với Liên Xô về Cam Ranh như thế nào; về lực lượng cố vấn quân sự như thế nào; tôi nghĩ phải giải quyết có tình có lý, có pháp lý hẳn hoi thì mới xử lý toàn bộ vấn đề một cách cơ bản và "dứt điểm" được. Trước đây, hai Tổng Bí thư Đảng - Brê-giơ-nép của Liên Xô và Lê Duẩn của Việt Nam lãnh đạo, hai Nhà nước đã ký kết "Hiệp định đoàn kết và hợp tác toàn diện", những gì đã ký kết thì phải tôn trọng, hai bên hỗ trợ, giúp đỡ nhau để thực hiện. Những gì làm, thêm ngoài nội dung ký kết thì phải trao đổi, hai bên đồng thuận thì mới được làm. Chẳng hạn, họ yêu cầu cho khu gia đình của họ ở phía bắc vào bãi Cam Ranh cho thuận tiện đối với sĩ quan của họ, đây là vấn đề nảy sinh, là điểm "làm, thêm", ta đồng ý. Nhưng một vấn đề rất hệ trọng khiến tôi suy nghĩ rất dữ là nếu Liên Xô đưa tàu nói chung, tàu ngầm nguyên tử nói riêng vào quân cảng Cam, Ranh thì nguy hiểm lắm. Cố vấn Liên Xô tiến hành đồng thời việc yêu cầu ta bỏ chế độ Đảng ủy, một đằng đưa toàn bộ 19 sư đoàn chủ lực cơ động của ta lên bố trí sát biên giới Trung Quốc. Nhất định ta phải gỡ để thoát ra khỏi "Vòng xoáy" này. Trở về Hà Nội, tôi xin gặp các anh Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh và các anh trong Bộ Chính trị; tôi đề nghị kiên quyết - Một là không đưa vũ khí nguyên tử vào Cam Ranh. Hai là không khai thác đá và cát trong khu vực vịnh Cam Ranh. Việc ký kết với Liên Xô thì là cần thiết và đã ký rồi, các anh biết cả rồi, nhưng riêng hai điều này thì tôi đề nghị cấm kỵ. Lúc đó, tôi đã cố nghiên cứu xem trong văn bản Hiệp định có chỗ nào "hở" để có thể "gỡ" được không. Thấy trong Hiệp định không có chỗ nào nói đến "hạt nhân, nguyên tử, nên với danh nghĩa Bộ trưởng Quốc phòng, tôi nói với Trưởng đoàn Cố vấn Liên Xô: "... Cái thứ hai là, trong văn bản Hiệp định không nói nên các đồng chí không được lấy đá trong vịnh để xây dựng công trình, mà phải lấy ở ngoài. Hơn nữa, văn bản Hiệp định cũng không hề nói đến vũ khí hạt nhân nên mọi vũ khí hạt nhân và các phương tiện mang đầu đạn hạt nhân không được có ở đây", Sau khi Đại sứ Liên Xô điện về nước, họ xin gặp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng của ta, anh Phạm Hùng. Anh Phạm Hùng cho gọi tôi lên, nói qua nói lại. Tôi bảo trong Hiệp định không có chuyện hạt nhân, tên lửa. Hai là trong vịnh Cam Ranh chúng tôi đánh giá mỗi viên đá quý như hòn vàng, chỉ có thêm, tức lấy ở ngoài vào chứ nhất định không sả núi lấy đá đi. Tôi nói với Trưởng Cố vấn là chúng tôi sẽ có đá cho các đồng chí, bao nhiêu cũng được. Rồi Đại sứ họ điện về nước họ; Trung ương họ điện sang, sự việc êm! Tôi chỉ đạo bộ đội trong Cam Ranh làm một con đường chừng 30 km. Có con đường vào khai thác đá núi trong đất liền chở ra vịnh, cả bộ đội của Liên Xô và người dân sống định cư ở ngoài vịnh rất phấn khởi.
Trong quan hệ theo đường ngoại giao, ta bàn với các nước ASEAN đi đến thỏa thuận "Khu vực Đông Nam A là khu vực phi hạt nhân, không có vũ khí hạt nhân". Ta tham gia và ký vào đó. Các nước Đông Nam Á rất đồng tình, kể cả Phi-líp-pin cũng tích cực vận động vì Phi-líp-pin củng có căn cứ của Mỹ ở Su-bíc. Mà ta đã ký thì phải giải tỏa được Cam Ranh. Ta, nói với Liên Xô rằng khi nào có tên lửa đầu đạn thì cho chúng tôi biết, nếu không thì vi phạm Hiệp định, vì trong văn bản Hiệp định không có chỗ nào nói tới vũ khí hạt nhân và tên lửa mang đầu đạn hạt nhân. Trước đó thì có, về sau, khi ta nói vậy thì họ không cho tàu ngầm vào nữa. Tàu khu trục cũng không vào nữa. Kho xưởng của họ trước đây đã sửa chữa đầu đạn tầm xa thì nay họ cũng ngừng, ở Cam Ranh chỉ còn lại máy bay trinh sát chiến lược RF.71, trước đây bay 24/24 giờ trong ngày, nay họ cũng giảm bớt. Việc này tuy ta không hói ra nhưng những người làm quân sự, những nhà quân sự thế giới họ đều biết cả. Lúc đó cũng có người hỏi "Tại sao mình lại ký văn bản này với ASEAN?"- Tôi nói, nay ta tham gia được "Hiệp ước không có hạt nhân" là rất may, chứ không tham gia được thì "mệt lắm".
Đến khi Liên Xô tan rã, Chính phủ Cộng hòa liên bang Nga thế chân tiếp tục Hiệp định, duy trì sự có mặt ở Cam Ranh. Mặc dù biết rằng Hiệp định còn hạn tới năm 2004, nhưng được sự nhất trí của Bộ Chính trị và Ban Bí thư, tôi đã chỉ đạo các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng và của Nhà nước (khi tôi lên làm Chủ tịch nước) tiến hành đàm đạo một cách kiên trì, khôn khéo và êm dịu để họ rút ra, trao trả quân cảng Cam Ranh trước thời hạn. Thực chất khi thấy không còn đạt được ý định thì họ cũng muốn rút ra. Lúc đó tôi nói rằng các anh rút, chúng tôi chỉ xây dựng cảng cho Hải quân Việt Nam sử dụng, chứ nhất định không cho bất cứ một nước nào vào đây thuê, cam, đoan như vậy. Những năm tiếp theo, Mỹ cũng vận động thông qua một vài nước ASEAN để thuê quân cảng Cam Ranh, ta nói rõ Việt Nam, không chứa, không tàng trữ vũ khí hạt nhân, không cho ai sử dụng cảng của mình, đất của mình để có vũ khí hạt nhân ở đó. Nghe vậy, các nước ASEAN rất phấn khởi. Và như vậy, cả Trung Quốc, Nga và Mỹ đều yên tâm. Có thể nói, đây là khu vực hết sức nhạy cảm, là vấn đề lớn lắm; nó tạo sự ổn định lâu dài cho ta và xóa đi cái sự lo ngại của Trung Quốc, của Mỹ và các nước khác. Sau này Mỹ có dùng một số nước tác động để thuê ta cho tàu của họ vào, thuê cảng nhưng chỉ để lấy nước ngọt thôi. Mấy ông lãnh đạo địa phương ưng lắm, cứ ra Trung ương xin ráo riết. Tôi bảo nhất định không được. Ngay cả cát ở đó cũng rất quý vì hàm lượng si-li-cát cao, hạt cát ở Cam Ranh lóng lánh như thủy tinh, cần khẳng định dứt khoát Cam Ranh là căn cứ quân sự tổng hợp Hải quân-Không quân; phải xây dựng, bảo vệ, quản lý vững chắc trong mọi tình huống, duy trì và làm phong phú thêm cảnh quan thiên nhiên, giữ tốt môi trường sinh thái, không được chặt cây phá đá, cũng không đặt vấn đề xây dựng kinh tế hoặc kết hợp kinh tế quốc phòng ở đây...".
Tiến hành đồng thời với việc điều chỉnh bố trí chiến lược, Đại tướng Bộ trưởng Lê Đức Anh bắt đầu thực hiện việc giảm quân số. Điều này ông nung nấu từ trước bởi ông thấy không thể để kéo dài thực trạng ngân sách quốc phòng cứ chiếm tới 25% tổng thu nhập quốc dân, trong đó chưa tính đến trang bị, trong khi nền kinh, tế đang trong tình trạng suy kiệt và khủng hoảng trầm trọng, lạm phát lên tới 774%. Nhất định phải giảm quân số thường trực để làm nhẹ bớt gánh nặng chi phí ngân sách quốc phòng là trực tiếp góp phần đáng kể giải quyết khủng hoảng, trực tiếp góp sức vào công cuộc "Đổi mới đất nước" mà Đảng ta vừa khởi xướng. Khi ông đề xuất chủ trương này thì tập thể Bộ Chính trị hoàn toàn nhất trí, Bộ Chính trị không áp đặt mức giảm bao nhiêu mà đề nghị Bộ Quốc phòng tính toán. Tại hội nghị, ông đưa ra một con số khá khiêm tốn về tỷ lệ ngân sách quốc phòng. Các đồng chí phụ trách kinh tế hoàn toàn đồng ý và nói rằng "Quốc phòng cứ tính toán, làm sao cho vừa". Đi đôi với việc giảm quân số, giảm ngân sách quốc phòng, ông đề nghị có chính sách cụ thể để cải thiện đời sống cho bộ đội, không thể để anh em quá khó khăn vất vả như vừa qua và hiện tại. Trước mắt là nâng mặt bằng tiền lương của sĩ quan và những người hưởng lương trong quân đội lên 1,5; thứ hai là giải quyết đất ở cho họ. Có thể nói lúc đó các đồng chí Trung ương rất quan tâm, nói rằng trước mắt là Bộ Quốc phòng tự thu xếp, nếu còn thiếu thì báo cáo để Nhà nước bổ sung, trên nguyên tắc là Trung ương ủng hộ. Ông đề nghị giải quyết việc làm cho số anh chị em ra quân. Trước đây ta đã có hai lần giảm quân với số lượng lớn, một lần sau khi thắng Pháp và một lần sau thắng Mỹ, miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhưng cả hai lần người lính thắng trận trở về lại rơi vào hoàn cảnh "học không hay cày không biết", cuộc sống rất khó khăn vất vả. Bởi vậy lần này giảm quân, ông đề nghị các Bộ (bên ngoài quân đội) cho xuất khẩu lao động thì phải ưu tiên cho bộ đội. Trung ương nhất trí, các Bộ cũng hoàn toàn ủng hộ. Bởi vậy lần đầu tiên trong lịch sử quân đội những đợt ra quân có anh chị em ở các đơn vị, cơ quan trong toàn quân được đi lao động ở châu Âu, chủ yếu là Đức, Nga, rồi I-rắc, Li Bi... lại được tổ chức thành "đoàn, đội" rất nền nếp, chặt chẽ. Khi về họ vừa có nghề, vừa được "giải quyết chính sách theo chế độ" thoả đáng, vừa có một khoản thu nhập rất đáng kể để cải thiện kinh tế và đời sống gia đình.
Được Bộ Chính trị đồng ý, các cơ quan của Chính phủ và lãnh đạo, chính quyền các địa phương, nhất là các thành phố hoàn toàn ủng hộ, ông đã chỉ đạo các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng và các đơn vị trong toàn quân trích một phần quỹ đất quốc phòng để cấp cho anh em hưởng lương, trong đó ưu tiên số về nghỉ hưu, ra quận mà sống ở thành phố, thị xã, để họ tự xây dựng nhà ở, ổn định "hậu phương quân đội"; còn số về quê thì cấp các định mức vật liệu xây dựng (sắt, xi măng, than, gạch, doanh cụ, tiền) để họ có thể xây được một nếp nhà cấp 4. Tính từ ngày triển khai ý tưởng và quyết định này của ông, đến những năm vừa qua, việc ăn ở định cư của các hộ gia đình cán bộ và viên chức quốc phòng đã được giải quyết một cách căn bản, trong đó có nhiều đồng chí được cấp đất ở vị trí thuận lợi đã thật sự được "đổi đời".
Đại hội Đảng VI đã quyết định công cuộc đổi mối đất nước, Đảng ta đã vạch ra những nội dung rất to lớn và rất cơ bản trong "Đường lốỉ đổi mới" của mình như: Xoá bỏ cơ chế quản, lý kinh tế-xã hội ịbằng hành chính quan liêu bao cấp, xây dựng nền kinh tế hàng hóa với 5 thành phần kinh tế vận hành theo "cơ chế thị trường" theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của Nhà nước, về quan hệ đối ngoại là thực hiện "Đa phương hoá, đa dạng hoá" mà tư tưởng xuyên suốt là "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các quốc gia, các dân tộc trên thế giới". Đây là vấn đề hết sức mới mẻ, một công cuộc hết sức gian nan đầy thử thách nhưng nhất định phải làm cho bằng được. Tình hình quốc tế còn rất khó khăn cho ta, ta phải gỡ và đi dần từng bước. Nhưng ngày trong tình hình nội bộ cũng rất nhiều trở ngại không thể nóng vội một sớm một chiều, trong đó trở ngại đầu tiên là lề thói của cơ chế quan liêu bao cấp đã hằn sâu trong cán bộ các cấp các ngành. Bởi vậy Đảng ta chỉ rõ - Thực hiện đổi mới trước hết phải "Đôi mới tư duy". Triển khai thực hiện chủ trương này, ở lĩnh vực quốc phòng, sau khi đạt được sự nhất trí cao trong Đảng ủy Quân sự Trung ương, Đại tướng Lê Đức Anh, Phó bí thư Quân ủy Trung ương đã chỉ đạo sát sao các cơ quan Bộ Quốc phòng, trong đó nòng cốt là Cục Tác chiến và Cục Quân lực (lúc đó gọi là Cục Tổ chức động viên) tiến hành song song hai công việc lớn: Một là làm kế hoạch và triển khai kế hoạch điều chỉnh bố trí chiến lược và giảm quân số như đã nói ở trên. Hai là soạn thảo các văn bản, tài liệu, giáo trình và triển khai trên toàn quốc "Thế trận chiến tranh nhân dân" và nhiệm vụ "Quốc phòng toàn dân" làm cơ sở lý luận và thực tiễn để Trung ương ra "Nghị quyết 02/Bộ Chính trị". Đây là một nghị quyết hết sức cơ bản về đường lối chiến tranh nhân dân và xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong tình hình mới. Nghị quyết được triển khai thực hiện đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, đã phát động được toàn dân, toàn diện sức người, sức của; các ban, ngành, lãnh đạo, chính quyền, tổ chức đoàn thể và nhân dân vào công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành đến cơ sở huyện xã, có quy chế rõ ràng, được huấn luyện thường xuyên và có bài bản khoa học, có tổ chức diễn tập định kỳ, v.v... Đã tạo nên sức mạnh tại chỗ của nền quốc phòng. Vấn đề mang tính bản chất của việc xây dựng khu vực phòng thủ là ở chỗ lực lượng không bao giờ thoát ly khỏi địa bàn; làm được như vậy sẽ không bao giờ còn hiện tượng khi "có động" thì công an, lực lượng chính quyền, đoàn thể và dân chúng đều lui về sau hết, mà tất cả được tể chức chặt chẽ để chiến đấu ngăn chặn và đánh trả địch tại chỗ; vừa tổ chức đánh địch vừa sản xuất, kể cả Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang và quần chúng nhân dân. Chính vì vậy thực hiện việc giảm được hơn một nửa số quân thường trực nhưng sức mạnh sẵn sàng chiến đấu không hề giảm mà càng được tăng cưòng. Ở đây Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về "Chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính." đã được vận dụng một cách đúng đắn, khoa học, phù hợp với tình hình mới, hoàn cảnh mới của đất nước.
Đến đây có thể nói ông đã hoàn thành cương vị và trách nhiệm của mình mà Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị (khóa VI) tin cậy trao cho. Đôi lúc nhớ lại, xin hỏi ông về những ngày đó, ông tâm sự: "Khi làm, thuận lợi cũng có, mà thuận lợi to lớn nhất là được Bộ Chính trị và Trung ương đồng tình ủng hộ. Còn khó khăn thì nhiều, nhưng trong đó khó khăn nhất là phải đối mặt với những cộng sự, những đồng chí của mình. Đã giảm nhiều quân thì phải giảm tướng; tướng già về nhưng một số tướng chưa già cũng phải về, mà phần lớn là không muốn về. Nhưng biết làm sao được, chỉ còn cách là đặt sự nghiệp chung, đặt cái chung lên trên hết thì mới làm được việc...".
Đã từ lâu ông Lê Đức Anh rất tâm huyết với công việc tổng kết kinh nghiệm chiến tranh. Ông bảo làm được việc này một cách đầy đủ, thấu đáo có ngọn có ngành thì mang lại ý nghĩa rất to lớn. Trước hết nó sẽ lý giải được một cách thuyết phục là vì sao Việt Nam - một nước nhỏ, nghèo, nền sản xuất kinh tế lạc hậu mà lại thắng được hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Nếu không lý giải được ngọn ngành thì các thế hệ sau này sẽ không tin và cho đây là huyền thoại, thế hệ chúng ta là thần thánh ma quỷ chứ không phải ngưòi bình thường, ngưòi bình thường thì không thể thắng được đế quốc Hoa Kỳ.
Hai là, nếu ta tổng kết một cách khoa học và nghiêm túc thì sẽ có ích cho công cuộc giữ nước hôm nay và mai sau. Điều này cần lắm vì Việt Nam ta nằm ở một vị trí chiến lược rất quan trọng trong khu vực Đông Nam Á.
Có lẽ chính vì điều tâm huyết này nên ở cuối nhiệm kỳ Đại hội Đảng VI, ông đã đề nghị được nghỉ mọi chức vụ để tập trung vào việc tổng kết kinh nghiệm chiến tranh. Tìm ở Văn phòng Lưu trữ, tôi thấy được hai bức thư viết tay của ông như sau:
Bức thứ nhất: "Hà Nội, ngày 17 tháng 5 năm 1991. Kính gửi: Bộ Chính trị. Tôi xin không ứng cử vào Quốc hội Khóa IX. Xin cám ơn Bộ Chính trị. Kính! Lê Đức Anh (ký)".
Bức thứ hai: "Hà Nội ngày 24 tháng 6 năm 1991. Kính gửi: Anh Linh, anh Tô, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Trước đây khi chuẩn bị nhân sự cho Đại hội VI, tôi đề nghị với Bộ Chính trị Khóa V cho phép tôi được chuyên trách làm công tác tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, không làm việc gì khác. Bộ Chính trị lúc bấy giờ không chấp nhận và nói tiếp tục làm thêm một khóa nữa. Theo sự phân công của Đảng, tôi đã cố gắng chấp hành nghiêm túc quyết định của Đảng. Hiện nay tuổi đã lớn mà vẫn chưa thực hiện được nguyện vọng cần thiết đó. Nay do công việc cần thiết tôi có thể tiếp tục làm việc thêm vài năm nữa như nghiên cứu phối hợp chiến lược qụốc phòng - an ninh, quốc phòng an ninh với kinh tế trước tình hình diễn biến rất phức tạp. Nếu Đảng phân công công việc cao hơn, nặng hơn không hợp với sở trường của tôi, trong khi tuổi đã lớn, chắc chắn tôi sẽ không làm được, có hại cho công việc của Đảng, của Tổ quốc. Xỉn Đảng cho phép tôi, phân công cho tôi chuyên trách công tác tổng kết kinh nghiệm chiến tranh và cùng với anh em nghiên cứu nâng cao những kinh nghiệm đó ứng dụng vào tình hình mới, và xin được rút khỏi danh sách đề cử vào Bộ Chính trị Trung ương Khóa VII. Mong các anh chấp nhận - Lê Đức Anh".
Nguyện vọng của ông như vậy, nhưng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đại hội vẫn bầu ông vào Ban Chấp hành Trung ương và Ban Chấp hành Trung ương đã bầu ông vào ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX, ông được bầu làm Chủ tịch nước.
Tôi may mắn có dịp được gặp và hỏi chuyện ông Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư, ông cho biết: "Giai đoạn tôi làm Tổng Bí thư, anh Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước, anh Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng, anh Nông Đức Mạnh làm Chủ tịch Quốc hội, anh Đoàn Khuê làm Bộ trưởng Quốc phòng. Đây là thời kỳ ta triển khai công cuộc Đổi mới rất mạnh, mà trọng tâm là đổi mới về kinh tế. Mà đổi mới về kinh tế thì có mấy việc lớn:
- Hình thành kinh tế nhiều thành phần.
- Đưa quốc doanh ra hoạt động theo giá cả thị trường.
- Tìm cách mở cửa với bên ngoài.
Lúc này sức sản xuất bung ra, sản xuất phát triển mạnh. Đời sống nhân dân bắt đầu được cải thiện. Có một việc lớn ở thời kỳ này là chống lạm phát. Ta đang đứng trước một thực trạng rất khó khăn là kinh tế kiệt quệ, thiếu đủ đường, khủng hoảng nghiêm trọng; cũng là lúc Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, cắt hoàn toàn viện trợ. Với Trung Quốc thì chưa bình thường hoá; Mỹ thì bao vây cấm vận. Nền kinh tế- xã hội là: Cung không đủ cầu; tiền nhiều hàng ít; lạm phát đến 774%. Bây giờ phải giải quyết thế nào? Lúc đó nhiều ý kiến lắm. IMF họ nói phải có ba tỷ đô la, nhưng bảo họ cho Việt Nam vay thì khó khăn. Ta giải quyết theo tư tưởng của Bác Hồ "Khó vạn lần dân liệu cũng xong". Lúc đó mới đặt ra mấy vấn đề:
Trước hết là đẩy mạnh sản xuất và thực hành tiết kiệm.
Ai ra nước ngoài cứ việc mang hàng về, Nhà nước không đánh thuế. Vì thế, chỉ một thời gian ngắn, dân mình mang hàng về rất nhiều, vì học sinh, sinh viên, lao động Việt. Nam ở nước ngoài nhiều lắm. Sau một năm tình hình hàng tiêu dùng đã đỡ căng thẳng. Đó là tư tưởng dựa vào quần chúng; phải có động lực động viên quần chúng bằng lợi ích; và đây là biện pháp cách mạng.
Hàng ít, tiền nhiều, lạm phát ghê gớm. Dân gửi tiết kiệm chỉ có lãi suất 3% đến 4%, trong khi hàng hóa tăng giá 9% đến 10%, thậm chí hơn nữa. Mà đồng tiền vốn là thước đo giá trị. Trên bàn, dưới bàn, bàn mãi, cuối cùng Thường vụ Bộ Chính trị chúng tôi chủ trương đưa lãi suất tiết kiệm lên 9% ngang với mức tăng giá của hàng hoá. Nếu ai gửi 3 tháng thì thêm 3% nữa là 12%. Vậy là dân yên tâm và gửi tiền vào nhiều lắm.
Như vậy, hàng thiếu thì dân chạy hàng, tiền trong ngân quỹ thiếu thì dân gửi tiền vào Nhà nước. Còn Đảng và Nhà nưóc thì bảo đảm lợi ích cho dân. Lúc đó quy định nghiêm ngặt: Ngân hàng chỉ nhận tiền gửi và cho vay, không được in thêm tiền. Vậy là từ chỗ lạm phát 774% giảm xuống chỉ còn mấy phần trăm và còn giảm nữa. Những ngày cam go đó, tôi, anh Lê Đức Anh và anh Võ Văn Kiệt luôn bàn bạc thống nhất với nhau, có việc gì chưa thật thống nhất thì đưa ra Bộ Chính trị bàn để đi tới thống nhất.
Ra quy định cơ chế khoán đến hộ nông dân; thực chất ở nhiệm kỳ Đại hội VI, anh Nguyễn Văn Linh đã cho triển khai việc này, đến nhiệm kỳ VII ta thực hiện triệt để trên phạm vi toàn quốc. Lập tức lúa bung ra, lương thực bung ra; các ngành khác cũng áp dụng cơ chế khoán, hàng hóa cũng bung ra. Giai đoạn trước ta đã làm dầu mỏ với Liên Xô, đến thời kỳ này ta đã có thu về dầu mỏ. Nhờ có dầu và gạo, ta đã chống được lạm phát. IMF không hiểu Việt Nam làm thế nào mà có được như vậy.
Khi anh Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước thì ta thật sự mở rộng cửa quan hệ với nước ngoài. Chính phủ là cơ quan tổ chức thực hiện nên anh Võ Văn Kiệt đi nhiều, anh Lê Đức Anh cũng phải đi, nhưng tính toán kỹ lắm, đi đâu, ký kết cái gì, làm sao có hiệu quả mà lại tiết kiệm nhất. Đồng thời ta cũng mời và đón tiếp nhiều nguyên thủ quốc gia và các đoàn khách quốc tế để họ ủng hộ Việt Nam về chính trị và kinh tế. Còn trong nước phải tính hai cái nữa - Đó là đổi mới về chính trị và đổi mới về quân sự. Về chính trị, ta thay đổi Hiến pháp 1992 để phù hợp vối hoàn cảnh đổi mới. Về quân sự, chúng tôi đề nghị với Bộ Chính trị khó gì cũng phải quan tâm đến việc trang bị cho quân đội và công nghiệp quốc phòng.
Quan điểm đường lối, đối nội, đốỉ ngoại trên các lĩnh vực đều vững vàng. Có thể nói thời kỳ này làm được nhiều việc tốt nhưng không có sai sót gì lớn lắm. Quan điểm giai cấp của Đảng và Nhà nước ở anh Lê Đức Anh rất vững vàng và rõ ràng. Anh nắm tình hình trong, ngoài nước và tình hình quân đội rất chắc nên xử lý rất đúng, chỉ đạo vừa sát sao vừa sắc sảo, quyết đoán...".
Về việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ, ông Lê Đức Anh cho biết: "Chủ trương này trước hết do một số các anh: Anh Linh, anh Mười, anh Kiệt trong Bộ Chính trị và anh Tô, Cố vấn đề ra. Khi họp bàn, phân tích thì thấy rằng, sau khi Mỹ dùng nước thứ ba để phá Việt Nam không thành công, trong lúc Mỹ chưa có chính sách gì mới đối với Việt Nam, mà "hội chứng Việt Nam" sau cuộc chiến tranh vẫn còn phát huy tác dụng, thì đây là thời cơ thuận lợi cho việc ta xúc tiến bình thường hoá. Khi họp bàn, cũng có người phân vân về cách làm và nói cái này là trách nhiệm của Ngoại giao để Ngoại giao làm. Tôi bảo việc này của toàn Đảng toàn dân làm, tất nhiên Ngoại giao là chức năng. Tôi xin nói là tất cả những "việc lớn" của giai đoạn này, từ vỉệc giảm quân số, giảm ngân sách quốc phòng, nâng cao đời sống quân đội, việc giải quyết về tiền và hàng để chống lạm phát, đến việc bình thường hóa với Mỹ và gia nhập ASEAN đều là sự chỉ đạo thống nhất của Bộ Chính trị, nên khi triển khai củng thuận lợi. Bây giờ ta mở đầu việc xúc tiến bình thường hoá quan hệ với Mỹ bằng cách nào? Tôi cho rằng ta dùng ngành khoa học thì dễ thành công. Lúc này nếu ta chọn kinh tế làm mũi đột kích đê quan hệ thì không được vì Mỹ là nước mạnh nhất, giàu nhất, còn ta thì đang quá nghèo; chọn chính trị thì càng khó, vậy chỉ có thể chọn con đường tiếp cận từ khoa học. Cân nhắc tính toán cuối cùng chọn anh Nguyễn Huy Phan, là giáo sư đầu ngành về y học phẫu thuật chỉnh hình làm "khâu đột phá". Anh Phan khi đi dự hội nghị quốc tế đã trình bày công trình "Phẫu thuật chỉnh hình" của mình được các nhà khoa học đánh giá rất cao, trong đó các nhà khoa học Mỹ có lời mời giáo sư Phan sang thăm Mỹ. Trước khi đi, tôi dặn anh Phan sang đó cứ làm về khoa học, đừng nói gì đến chính trị cả, vì anh làm tốt việc này là phục vụ nhân dân, phục vụ chính trị rồi, cứ đi mà làm. Sang đó, khi nghe được tin này, bà con Việt kiều, nhất là số trí thức họ cũng thấy vui và tự hào. Khi trao đổi, các nhà khoa học phẫu thuật Mỹ hỏi ta, ta mời họ sang làm phẫu thuật nhân đạo, trước hết là chữa cho trẻ em bị khuyết môi hở hàm ếch, họ đồng ý và cử đoàn bác sĩ "Phẫu thuật nụ cười" sang ta. Sau đó đưa anh Phan làm Chủ tịch Hội hữu nghị Việt-Mỹ để làm "cầu nối" liên lạc. Tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị lúc đó là trong tiếp xúc quan hệ, ta làm sao không để họ tự ái là nước lớn mà thua ta, mà ta vẫn giữ được tinh thần độc lập dân tộc của ta...".
Bước tiếp theo là phái đoàn Thượng nghị sĩ Mỹ sang Việt Nam, nói với ta hợp tác về POW/MIA, tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh. Trong đó có một lần vào ngày 18-11-1992, khi tiếp đoàn do Thượng nghị sĩ John Kerry dẫn đầu, Chủ tịch Lê Đức Anh khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam coi việc tìm kiếm người Mỹ mất tích là vấn đề thuần túy nhân đạo, không hề gắn với chính trị; đã và sẽ tiếp tục hợp tác với Mỹ thực hiện thỏa thuận giữa hai Chính phủ để giải quyết xong sóm vấn đề này. Chủ tịch cho rằng việc sớm bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ là phù hợp với lợi ích của nhân dân hai nước, với hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Tại buổi tiếp, ông Kerry đã trao cho Chủ tịch bức thư của Tổng thông Bush (Bush bố) gửi cho Chủ tịch, đánh giá cao sự hợp tác của phía Việt Nam trong thòi gian qua, bày tỏ mong muôn đẩy mạnh hợp tác trong thời gian tới và khẳng định cam kết của Chính phủ Mỹ thúc đẩy tiến trình bình thưòng hóa quan hệ giữa hai nước.
Đến tháng 7 năm 1993, Tổng thống Mỹ Clin-tơn mở đường cho các tổ chức tài chính quốc tế bao gồm IMF và World Bank cung cấp tín dụng cho Việt Nam.
Ngày 3 tháng 2 năm 1994, Tổng thống Clin-tơn tuyên bố chấm dứt lệnh cấm vận thương mại kéo dài 19 năm đối với Việt Nam.
Ngày 8 tháng 5 năm 1995, nhận lời mời của Tổng thống Pháp P.Mitơrrand, Chủ tịch Lê Đức Anh sang Cộng hòa Pháp dự "Lễ kỷ niệm 50 năm
chiến thắng phát xít". Tổng thống Pháp chiêu đãi các nguyên thủ quốc gia tại điện Elysée. Tại bữa cơm thân mật do Chủ tịch Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện Cộng hòa Pháp mời riêng Chủ tịch Lê Đức Anh, khi ông Chủ tịch Thượng viện hỏi chân tình là Việt Nam có cần gì không, thì Chủ tịch trả lời: "Chúng tôi cần tình hữu nghị!".
Ngày 12 tháng 7 năm 1995, Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao và mở Văn phòng liên lạc tại Wasington và Hà Nội.
Từ ngày 22 đến 24 tháng 10 năm 1995, Chủ tịch Lê Đức Anh trở thành Nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Việt Nam đặt chân tới đất Mỹ. Ông sang New York dự Lễ kỷ niệm 50 năm Liên Hợp quốc. Trong bài phát biểu của mình, ông nói rõ "... Làm sao để trên thế giới xây dựng một tương lai không còn hận thù mà chỉ còn hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc và các quốc gia". Ông bảo, không bao giờ ông nói "Khép lại quá khứ" cả. Tuy mình là nước thắng trận, nhưng sang đó mình chào hỏi, tiếp xúc với thái độ khiêm tốn và đàng hoàng thì người ta quý. Phong cách và bài phát biểu của ông thật sự đã gây được mối thiện cảm và tiếng vang rất tốt tại Đại hội đồng Liên Hợp quốc. Khi ông thay mặt Nhà nước và nhân dân Việt Nam tặng Liên Hợp quốc phiên bản Trống đồng Đông Sơn thì họ đã để ở vị trí trang trọng. Sau đó, Tổng thống Mỹ Clin-tơn đã mời cơm thân mật các nguyên thủ quốc gia. Tại đại
tiệc, nguyên thủ các nước đã đến chúc rượu Chủ tịch Lê Đức Anh với thái độ chân tình và trọng thị. Trong ông bỗng trào dâng niềm xúc động với một ý thức lớn lao là biết bao mồ hôi xương máu của đồng bào và chiến sĩ đã đổ ra suốt ba mươi năm chiến tranh giải phóng đất nước, vượt qua biết bao gian nan thử thách ở chặng đường đầu tiên của sự nghiệp đổi mới đất nước vừa qua, thì mới có được ngày hôm nay. Dân tộc Việt Nam từ bùn đen nô lệ, từ chỗ không có tên trên bản đồ thế giới, nay đã sánh ngang hàng với các quốc gia và dân tộc trên thế giới, trong sự nể phục của bạn bè khắp năm châu. Ông cho biết, dịp đó có một Thượng nghị sĩ Mỹ là chủ một doanh nghiệp lớn có ý định mời cơm ông và Tổng thống Clin-tơn vào buổi tối, nhưng ông cảm ơn và từ chối vì ông cho rằng Tổng thông Clin-tơn đã mời cơm các nguyên thủ rồi, với lại việc nào ra việc đó.
Những tháng năm này ông đã cùng Bộ Chính trị chỉ đạo sát sao các Bộ, Ngành để mở rộng quan hệ với các nước. Sau khi Mỹ xoá cấm vận và lập lại quan hệ bình thường với Việt Nam thì hàng loạt các quốc gia cũng đến với Việt Nam để tìm hiểu và hợp tác, đầu tư kinh tế và khoa học công nghệ. Có thể nói đây là nhiệm kỳ công tác đối ngoại của ta rất sôi nổi và phong phú.
Trong nhiệm kỳ làm Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh đã thay mặt Nhà nước và nhân dân ta đi dự một số hội nghị quốc tế quan trọng, như: Lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng chủ nghĩa phát xít tổ chức tại thủ đô Paris của Cộng hoà Pháp; Hội nghị cấp cao các nước Không liên kết lần thứ 11 tổ chức tại Cô-lôm-bô; Lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Liên Hợp quốc ở thành phố New York, Hoa Kỳ. Đây là những dịp tốt để gặp gỡ, trao đôi ý kiến trực tiếp với các nhà lãnh đạo của nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế nhằm tăng cường mối quan hệ song phương và đa phương của Đảng và Nhà nước ta. Chủ tịch Lê Đức Anh đã đi thăm hữu nghị chính thức và làm việc tại 13 nước trên thế giới; Phó chủ tich nước Nguyễn Thị Bình đã đi thăm và làm việc tại 11 nước. Chủ tịch đã đón tiếp 26 Nguyên thủ quốc gia thăm hữu nghị chính thức nước ta, nhiều đoàn khách quốc tế tới thăm Việt Nam; tiếp nhận 90 Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài tại Việt Nam và cử 57 Đạỉ sứ của Việt Nam tại các nước có quan hệ ngoại giao với nước ta. Theo đề nghị của Chính phủ, Chủ tịch đã ký quyết định phê chuẩn 1 Hiến chương, 26 Công ước, 5 Hiệp ước, 35 Hiệp định, 3 Nghị định thư giữa Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế; đã trình Quốc hội phê chuẩn 1 Công ước theo quy định của Hiến pháp (Công ước quốc tế về Luật biển) và đã ủy quyền đàm phán và ký kết một số điều ước quốc tế khác (xem phần Phụ lục ở cuối sách).
Khi người viết được tiếp cận các tập hồ sơ lưu trữ về các cuộc viếng thăm ngoại giao của Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã cảm nhận rõ một điều là mỗi cuộc đi đã được tổ chức hết sức chặt chẽ; là Nguyên thủ quốc gia nhưng ông đã tính toán rất sát sao, tiết kiệm từng giờ, từng đồng và từng người là thành viên trong đoàn; ông chỉ đi khi thấy thật sự cần thiết, và hiệu quả của chuyến đi đã thể hiện khá rõ ngay trên văn bản của hồ sơ lưu trữ. Những ngày tháng đó, mọi người dân Việt Nam rất phấn khởi và chăm chú theo dõi trên màn ảnh nhỏ chương trình thời sự với vị Chủ tịch nước của mình vóc dáng cao to chững chạc và nhân hậu trong các nghi lễ chính thức tại Phủ Chủ tịch. Hiệu quả của các văn bản ký kết và sự nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong lao động và tổ chức xã hội đã đưa nền kinh tế nước ta thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng và bắt đầu khởi sắc. Việt Nam đã và đang là bạn của các nước, các dân tộc trên thế giới. Và Đảng ta hoàn toàn yên tâm và tự tin khi hạ bút đặt trong Nghị quyết về đường lối của mình dòng chữ "Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa; phấn đấu cho mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, vần minh".
Khi bàn về gia nhập ASEAN, cũng có đồng chí băn khoăn là vào ASEAN liệu xem có lợi hay có hại, ta có bị họ lôi kéo không? Ông Lê Đức Anh nói: "Độc
lập tự chủ của ta không phải nói suông mà là kết quả của quá trình đấu tranh gian khổ và hy sinh mới có được. Ta có thế mạnh về chính trị, nay ta vào với thiện chí tốt, đàng hoàng, thái độ thắng thắn chân tình thì mình nói nhất định họ nghe. Khi Việt Nam đã vào, chắc chắn vị thế của ASEAN sẽ được nâng lên. Trong quan hệ, các nước lớn sẽ phải đối xử với ASEAN một cách nghiêm túc hơn...". Chủ trương này Bộ Chính trị đã đồng ý. Sau những chuyến thăm các nước ASEAN của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã thực hiện cuộc đi thăm chính thức In-đô-nê-xi-a. Cuộc đi thăm đã đạt kết quả tốt đẹp, bạn In-đô-nê-xi-a rất ủng hộ Việt Nam. Tại đây ông đã gặp gỡ ngài Thư ký của Hiệp hội ASEAN; khi trao đổi, ông này cũng có ý mời Việt Nam vào. Chủ tịch Lê Đức Anh đã tỏ lời cảm ơn ngài Thư ký và nói rằng, chúng tôi về bàn bạc và sẽ vào ASEAN. Trước khi ông trở về Việt Nam, ngài Thư ký còn tới thăm chỗ ở và chào tạm biệt đoàn của Chủ tịch nước Việt Nam.
Về đối nội, cùng với việc phấn đấu hoàn thành các công việc về công tác xây dựng pháp luật, công tác cán bộ, công tác tiếp dân, thi đua khen thưởng, xét và ký lệnh đặc xá tha tù, v.v... tuy tuổi đã cao, sức khoẻ có hạn nhưng với cương vị và trách nhiệm của một Chủ tịch nước thời kỳ đổi mới, ông Lê Đức Anh thường tận dụng quỹ thời gian của mình để xuống các địa phương. Giản dị, tiết kiệm, ghét thói khoa trương hình thức là đức tính vốn có của ông. Nhiều chuyến đi chỉ mình ông và người trợ lý giúp việc, không muốn có xe cảnh sát dẫn đường, càng không muốn những nghi lễ đón tiếp linh đình. Đi cốt để nắm bắt được tình hình thực tế của địa phương, nhìn rõ những thuận lợi cần khai thác, những khó khăn cần tháo gỡ, ông lắng nghe người dân nói, người lính nói, cán bộ cơ sở nói. Bởi thế, khi làm việc với cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, những ý kiến chỉ đạo của ông rất sát thực.
Một lần vào hai tỉnh Kiên Giang và cần Thơ, ông phát hiện ở đây có nhiều người dân đã mất hết ruộng đất canh tác. Ông đã gặp họ và hỏi han vì sao mất ruộng, thì họ trình bày hết, rồi họ khóc. Thì ra một số anh cán bộ có tiền đã mua, đúng lúc gia cảnh gặp khó khăn họ phải bán, thế là mất ruộng; mà người nông dân cả đời gắn với ruộng đất nay ruộng không còn thì lập tức rơi vào khốn khó. Lúc đó ông nói thẳng với cán bộ lãnh đạo tỉnh rằng, chúng ta làm cách mạng để giành chính quyền cho dân, chính quyền của dân, do dân, vì dân. Vấn đề cốt lõi trong đường lối cách mạng dân tộc dân chủ của Đảng ta là ruộng đất cho dân cày. Bây giờ giải phóng rồi, người nông dân lại phải đi cầm cố ruộng đất, cuối cùng bị mất ruộng đất vì không có tiền chuộc, lại trở thành người làm thuê trên mảnh ruộng đó của mình. Như vậy mục tiêu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ bị phá, bị xoá bỏ. Nếu anh là cán bộ đảng viên nhưng từ chỗ không nhận thức rõ vấn đề cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ, trong đạo đức lối sống lại không chịu gột rửa tư tưởng tiểu nông trong con người anh, thì khi có quyền trong tay, hoặc là anh sẽ trở thành địa chủ, hoặn anh sẽ vô cảm, thấy nông dân mất ruộng là chuyện bình thường. Hôm đó ông Tám Quýt, Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang, một con người vốn rất thật thà, chiến đấu rất kiên cường dũng cảm, nói: "Tôi sống sát với dân mà không hiểu dân!".
Chủ tịch Lê Đức Anh nói với hội nghị cán bộ hàng tỉnh rằng: "... Đây là vấn đề của ta. Anh mang danh hiệu Đảng viên Cộng sản tức là Chiến sĩ của Đội tiền phong của giai cấp công nhân, nhưng trong tư tưởng anh muốn vươn lên làm giàu, nếu làm giàu chính đáng thì khuyến khích, nhưng làm giàu trên sự đau khổ của người khác thì trái với mục tiêu của Đảng, trái với bản chất của người đảng viên. Anh là cán bộ đảng viên mà anh không chịu tu dưỡng theo bản chất của giai cấp công nhân, vẫn mang tư tưởng của một anh tiểu nông, muốn làm giàu, bằng bất cứ giá nào thì nếu ở nông thôn anh sẽ dễ thành địa chủ. Chỉ một khi anh đã thật sự là chiến sĩ trong Đội tiền phong của giai cấp công nhân thì anh mới thấy rõ được người nông dân. Tôi biết, có người là đảng viên lão thành, trước làm tổ chức chính quyền, nay về hưu làm chủ trang trại mấy chục héc ta. Mà làm thuê cho anh lại chính là những người, nông dân nghèo khó mà anh vừa mới tham gia cách mạng để giải phóng họ. Với Bộ Chính trị tôi cũng nói nhiều lần, nói kiên trì lắm. Sau đó, Nhà nước đã cho các hộ nông dân vay tiền để chuộc lại ruộng đất, mà cho vay với lãi suất thấp, trong đề án của Chính phủ về xoá đói giảm nghèo. Những năm đó, và kể cả gần đây, người dân đi vỡ hoang phục hoá là tốt, nhưng hiện tượng nhiều người bao chiếm, mua nhiều đất đai rồi thuê mướn người làm thành các trang trại đang trở thành trào lưu. Đảng và Nhà nước phải suy nghĩ vấn đề này, vì đây là hiện tượng không hay, nó không phải là thuộc tính mang bản chất của Đảng Cộng sản cầm quyền, của mục tiêu và lý tưởng xã hội xã hội chủ nghĩa. Khi nghiên cứu rộng ra một chút thì tôi thấy, ở một số nước dân chủ tư sản họ đã tiến hành mua hết ruộng đất của địa chủ và phần ruộng đất dư thừa của phú nông rồi bán ruộng đất đó cho nông dân theo phương thức trả chậm. Còn đối với những địa chủ đã bán hết ruộng đất thì nhà nước mới cho lầm các dự án công nghiệp. Mà tiêu biểu cho chuyện này là Đài Loan. Nếu ta không khắc phục tình trạng nói trên thì ta "thua" họ".
Trong hồi ức của ông Phạm Văn Hy, nguyên Bỉ thư Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu có viết: "... Ngay sau chuyến thăm của Chủ tịch Lê Đức Anh lần trước, Tỉnh ủy đã nghiêm túc tiếp thu và sớm triển khai thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch. Bằng nhiều nguồn vốn huy động, Công ty đóng tàu và dịch vụ dầu khí "Vũng Tàu Shipyard" đã ra đời và hoạt động có hiệu quả. Công ty đã xây dựng được ụ tàu 3.000 tấn, phục vụ tốt việc sửa chữa định kỳ cho số tàu dịch vụ dầu khí, tiết kiệm được nhiều thời gian và ngoại tệ cho ngành dầu khí so với trước đây cứ phải đi Sin-ga-po để sửa chữa, về thăm tỉnh lần này, Chủ tịch Lê Đức Anh đã chỉ đạo toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội cũng như đối với an ninh - quốc phòng và công tác xây dựng Đảng. Những ý kiến của Chủ tịch đã mở rộng tầm nhìn, gợi mở hướng đi đúng và có hiệu quả cho địa phương. Lần nào được gặp, đồng chí Lê Đức Anh cũng để lại cho tôi và mọi người những ấn tượng sâu sắc".
Ông dành nhiều thời gian đi thăm nhiều nơi nên ông đã phát hiện ra một hiện tượng khá phổ biến là có nhiều bà mẹ có các con đã đi chiến đấu và hy sinh hết, bản thân mẹ thì nghèo đói. Ông hỏi cán bộ địa phương thì họ trả lời vì trên không có chủ trương nên địa phương không biết làm cách nào. Ông đến tận phường, xã hỏi số người nghèo khổ thiếu đói có bao nhiêu. Ông thăm hỏi các bà mẹ của liệt sĩ thì thấy rằng những người mẹ đã cống hiến con mình cho Tổ quốc nhưng lâu nay không ai chăm sóc. Từ những cuộc gặp gỡ, thăm hỏi này đã cho ông một cảm nhận là: Nỗi khổ về vật chất thì các mẹ đều nói tuy đời sống vật chất có thiếu thốn nhưng các mẹ vẫn chịu được, vì dù sao vẫn không thiếu thốn, khổ sở bằng những năm còn chiến tranh, nhưng nỗi tủi cực về tinh thần, sự côi cút cô đơn giữa cộng đồng thì không ai chịu nổi. Khi trở về thủ đô Hà Nội, họp Bộ Chính trị, ông đã đề xuất việc phong danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam, anh hùng". Ông cho rằng đối với sự chịu đựng và hy sinh của các bà mẹ cho Tổ quốc thì việc làm này là quá muộn, nhiều bà mẹ đã không còn nữa, nhưng muộn còn hơn không. Được tập thể Bộ Chính trị đồng ý, ngày 10 tháng 9 năm 1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh (Số 36L/CTN) công bố Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" và Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng.
Ngày 1 tháng 12 năm 1994, Đảng và Nhà nước ta long trọng tổ chức Lễ phong tặng danh hiệu Nhà nước "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" đợt một tại Hội trường Ba Đình lịch sử. Cả nước chăm chú theo dõi buổi truyền hình trực tiếp của Đài truyền hình Trung ương, hàng triệu ánh mắt và con tim trên khắp mọi miền đất nước xúc động khi nhìn thấy những đôi vai gầy rung rung, những giọt nước mắt và những nụ cười trên gương mặt khắc khổ của các Bà mẹ. Đọc tên và công trạng của từng Mẹ, Chủ tịch Lê Đức Anh cũng nghẹn ngào không giấu nổi cảm xúc của mình; ông muốn sẻ chia cùng đồng bào cả nước để bù đắp phần nào sự hy sinh to lớn và sự chịu đựng thầm lặng của các mẹ suốt những năm qua, muốn chung niềm vui và lòng hãnh diện chính đáng cùng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng và gia đình, họ mạc, quê hương của các mẹ. Và ngày 29 cùng tháng đó, lần đầu tiên trong lịch sử Cách mạng Việt Nam, hàng trăm Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở tuổi ngoại 70 đã cùng duyệt hàng quân danh dự với người đứng đầu Nhà nước Việt Nam trong khuôn viên Phủ Chủ tịch. Bên hàng quân danh dự trẻ trung và nghiêm trang, ánh nắng cuối thu soi rõ từng nụ cười rạng rỡ của các mẹ. Đi bên các bà mẹ, một lần nữa vị Chủ tịch nước không giấu nổi tình cảm của mình, nước mắt ông ứa ra và chảy dài trên má.
Kể từ đợt một, trong 6 năm liền, Đảng và Nhà nước ta đã phong tặng 6 đợt danh hiệu cao quý cho 42.798 bà mẹ. Cũng kể từ đó, phong trào "Đền ơn đáp nghĩa xây tặng nhà tình nghĩa và nhận phụng dưỡng suốt đời các Bà mẹ Việt Nam anh hùng và xây dựng "Quỹ đền ơn đáp nghĩa", toàn dân chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ, ngưòi có công với Cách mạng" vừa sôi nổi vừa rộng khắp trong tất cả các cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, đã trở thành nếp sống mang đậm tính nhân văn và truyền thống văn hóa "uống nước nhớ nguồn" của các tầng lớp nhân dân trong cả nước.
Khi biết tin cả 10.700 Bà mẹ Việt Nam anh hùng hiện còn sống đều đã được các tổ chức xã hội, cơ quan đoàn thể nhận phụng dưỡng suốt đời, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh mừng lắm. Nhưng theo suy nghĩ của ông thì sáu triệu đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi và trên 42 ngàn Bà mẹ Việt Nam anh hùng được chăm sóc, đó chưa phải là điểm dừng trong công tác đền ơn đáp nghĩa của toàn xã hội. Chiến tranh đã lùi xa, đất nước càng cần phải chăm sóc chu đáo hơn những người từng hy sinh xương máu, hy sinh cả hạnh phúc riêng tư của mình cho Tổ quốc và nhân dân có cuộc sống thanh bình hôm nay. Nâng mức sống của các Bà mẹ Việt Nam anh hùng và các đối tượng có công lên ngang hàng hoặc vượt trội so với mức sống trung bình của ngưòi dân cùng khu vực; đồng thời, cùng với chế độ hiện có, ngành Lao động Thương binh-Xã hội cố gắng hoàn chỉnh khung pháp lý về chính sách ưu đãi người có công, cố gắng giải quyết nhanh chóng mọi tồn đọng sau chiến tranh và tạo điều kiện để các Bà mẹ Việt Nam anh hùng có điều kiện giúp con cháu, người thân một phần nguồn vốn mưu sinh. Đây là mong ước của ông cũng là lòi căn dặn của ông đối với ngành Lao động Thương binh-Xã hội cả nước trước lúc ông về nghỉ dưỡng già sau những năm tháng đã hoàn thành nhiệm vụ trên cương vị của mình.
Đại tướng - Chủ tịch Lê Đức Anh đã được Đảng ỵà Nhà nước tặng thưởng: Huy hiệu Hồ Chí Minh, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huân chương Chiến thắng hạng nhất, Huân chương Chiến công, Huân chương Giải phóng và nhiều Huân, Huy chương khác; được Đảng và Nhà nước các nước: Liên Xô trao tặng Huân chương pờ đỏ, Cu Ba trao tặng Huân chương Hô-xê Mac-ti, Cam-pu-chia trao tặng Huân chường Ăng Ko, đây là bậc Huân chương cao nhất của các nhà nước bạn.
Từ một thanh niên của miền quê nghèo đói dưới ách thống trị của đế quốc thực dân, sớm được giác ngộ lý tưởng cách mạng và trở thành đảng viên cộng sản trẻ tuổi, cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Lê Đức Anh gắn liền với các bước thăng trầm và sự phát triển của cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; ông đã gắn bó suốt đời, mang hết sức lực, trí tuệ và phẩm chất của người cộng sản để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng đầy gian khô hy sinh với những thử thách vô cùng cam go nghiệt ngã nhưng rất đỗi vinh quang đó.
Từ một đảng viên cộng sản tổ chức và lãnh đạo phong trào công nhân của đồn điền cao su khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám 1945, chuyển thành cán bộ và chỉ huy của bộ đội miền Đông Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp và trở thành vị tướng có tên tuổi của Quân giải phóng miền Nam trong chiến tranh chống Mỹ, giải phóng đất nước; làm nhiệm vụ Quốc tế cao cả ở nước bạn Cam-pu-chia. Chiến tranh là thử thách cao nhất đối với con ngưòi. Chính những thử thách nghiệt ngã của ba cuộc chiến tranh và sự rèn luyện tự giác của bản thân đã hun đúc nên con người ông trở thành một cán bộ lãnh đạo cao cấp của Quân đội, của Đảng và Nhà nước ta. Nhiều điều phân tích, đánh giá, dự liệu, quyết đoán và đóng góp trực tiếp của ông mang tầm chiến lược đã góp phần cùng tập thể Bộ Chính trị lãnh đạo đưa đất nước vượt qua những giai đoạn khó khăn hiểm nghèo và mở ra giai đoạn mói của sự ổn định, phát triển đi lên. Phẩm chất, năng lực và sự cống hiến hết mình - ông thật sự "là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng ta, Nhà nước ta, nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam" đúng như nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười phát biểu.
Suốt cuộc đời tham gia cách mạng, ông đã làm nhiều việc, có nhiều cống hiến cho cách mạng, nhưng cũng suốt cả cuộc đòi ông sống giản dị và vô cùng thanh bạch. Từ khi ra Hà Nội làm Tổng Tham mưu trưởng, rồi Bộ trưởng Quốc phòng, rồi lên Chủ tịch nước nhưng suốt bao năm qua ông vẫn sống và làm việc trong căn nhà công vụ N8 giữa Trạm khách của Bộ Quốc phòng. Từ đồ dùng trong nhà đến bữa ăn, quần áo mặc và nếp sinh hoạt hàng ngày của ông vẫn luôn thanh đạm như một người dân Việt bình thường. Mỗi khi có việc đi đường dài, ông thường bảo người giúp việc mang theo bánh mỳ và đồ nguội, trưa đến đừng xe bên rừng cây ven đường, chỉ ba chục phút, xong bữa lại tiếp tục đi; vừa đỡ mất thời gian vừa không gây phiền hà và tốn kém cho lãnh đạo địa phương. Suốt đời học tập và noi gương đạo đức lối sống của Bác Hồ, ông cũng rất tâm đắc với câu nói của Bí thư Xứ ủy Nam Bộ Lê Duẩn từ thòi kháng Pháp: "'Anh nào chỉ lo thu vén cá nhân thì suốt đời làm nô lệ cho bản thân mình!". Bởi vậy sống thanh bạch, giản dị, không để cho tiện nghi và cám dỗ của vật chất nó chi phối, điều khiển mình, ông thật sự thấy mình được tự do và thanh thản. Nhưng ông lại là người nặng tình trọng nghĩa, thủy chung với những người đã từng sống và chiến đấu với mình.
Lần về thăm quê gốc Trường Hà, tháng Chạp 2002, sau khi hoàn tất các cuộc "thăm-đón" ở tỉnh, huyện và xã; thăm người thân và thắp hương ở nhà thờ, viếng mộ các Tiền nhân, thì đã gần hai giờ chiều. Bụng đói và cái nắng gắt sau đợt mưa khiến cánh trẻ chúng tôi cũng đã mệt nhoài, còn ông thì vừa qua trận xuất huyết não "thập tử nhất sinh" chưa thật sự bình phục. Vậy mà ông nhất định phải tới thắp nén hương tưởng nhớ và thăm hỏi gia quyến, con cháu của hai ngưòi thân nữa - Đó là người thầy giáo đã dạy ông những chữ quốc ngữ đầu tiên thời niên thiếu và ông Hoàng Viễn, người đảng viên cộng sản đã dìu dắt ông vào Đảng năm 1938, đồng thời là bạn vong niên "củ khoai chia ba" thủa nhỏ ở chốn quê nghèo. Mùa hạ vừa rồi, khi về thăm trại nuôi rắn của Quân khu 9 ở Tiền Giang, ông tìm và thăm bằng được "Cậu Tám Lọ" người lính cần vụ của ông. Khi xuống xã Vĩnh Viễn (Long Mỹ, cần Thơ), khi không còn đường ô tô, ông đi bằng xuồng máy Bo bo giữa vùng mênh mông sông nước để vào Ấp Tám, thăm, tặng quà và cảm ơn gia đình ông Tám Hòa đã cho ông mượn khu vườn để ông đặt sở chỉ huy ở những ngày chiến đấu ác liệt, đánh bại 75 tiểu đoàn và kế Hoạch "Tràn ngập lãnh thổ" của quân thù trên mảnh đất Chương Thiện - cần Thơ năm 1973.
Ngày Tết cổ truyền và ngày Tết Độc lập 2 tháng 9, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, lãnh đạo các Bộ, Ban, Ngành, các cơ quan đoàn thể, các tướng lĩnh và chỉ huy Quân đội, Công an đến chúc thọ ông. Đoàn đến trước, đoàn đến sau, chẳng ai hẹn ai, nhưng tôi thấy có một điều rất giống nhau là rất nhiều người nắm chặt tay ông và nói một lời giống nhau cùng với gương mặt rất chân thành: "Chúng cháu xin chúc Bác mạnh khoẻ, sống lâu, làm chỗ dựa tinh thần cho chúng cháu...". Vâng, đúng vậy! Trong tình hình thế giới đầy biến động nay, thành tựu của công cuộc Đổi mối đất nước đang được phát huy, Cách mạng Việt Nam đang phát triển đi lên, nhưng cũng đang đứng trước những khó khăn thách thức to lớn, những nguy cơ còn tiềm ẩn và hiện hữu, thì sự hiện diện của thế hệ các ông là niềm tin của hàng triệu đồng bào, là cây cao bóng cả, là tấm gương sáng cả về đạo đức lối sống, cả về năng lực tư duy và năng lực hành động cho thế hệ cán bộ lãnh đạo đất nước ngày hôm nay và mai sau.
Hà Nội, tháng 8 năm 2005
KHUẤT BIỂN HÒA
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Cam-pu-chia;
Xuất phát từ truyền thống đoàn kết chiến đấu và hữu nghị anh em Việt Nam - Cam-pu-chia đã vượt qua nhiều thử thách và trở thành một sức mạnh không gì phá vỡ nổi, bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ và xây dựng mỗi nước;
Nhận thức sâu sắc rằng độc lập, tự do, hoà bình và an ninh của hai nước có quan hệ khăng khít với nhau và hai bên có nghĩa vụ hết lòng hết sức giúp nhau củng cổ và bảo vệ những thành quả cách mạnh vĩ đại đã giành được trải qua gần ba mươi năm đấu tranh gian khổ, đầy hy sinh;
Khẳng định rằng tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác hữu nghị lâu dài về mọi mặt giữa Việt Nam và Cam-pu-chia đáp ứng lợi ích sống còn của nhân dân hai nước, đồng thời là một nhân tố bảo đảm hoà bình, ổn định vững chắc ở Đông Nam châu Á, phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân
các nước trong khu vực này và góp phần gìn giữ hoà bình thế giới;
Tin tưởng rằng thắng lợi hoàn toàn của nhân ậân Cam-pu-chia dưới ngọn cờ vẻ vang của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chỉa, đường lối đúng đắn, độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế của mỗi nước, sự tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau là cơ sở vững chắc để phát triển không ngừng quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai nưốc;
Nhằm mục đích tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, sự hợp tác hữu nghị lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt để củng cố nền độc lập, xây dựng đất nước phồn vinh và cuộc sống hạnh phúc của nhân dân mỗi nước, góp phần gìn giữ hoà bình và ổn định ở Đông Nam châu Á và trên thế giới, phù hợp với những mục tiêu của phong trào các nước không liên kết và Hiến chương Liên Hợp quốc;
Đã quyết định ký Hiệp ước này và đã thoả thuận những điều sau đây:
Điều 1. Hai bên cam kết làm hết sức mình để bảo vệ và phát triển không ngừng truyền thông đoàn kết chiến đấu, quan hệ hữu nghị, hợp tác anh em Việt Nam - Cam-pu-chia, lòng tin cậy và sự giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng
của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Hai bên ra sức giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nước mình bảo vệ truyền thống đoàn kết chiến đấu và hữu nghị thuỷ chung Việt Nam - Cam-pu-chia đời đời trong sáng.
Điều 2. Trên nguyên tắc việc bảo vệ và xây dựng đất nước mình là sự nghiệp của chính nhân dân mỗi nước, hai bên cam kết hết lòng ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt và bằng mọi hình thức cần thiết nhằm tăng cường khả năng bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và công cuộc lao động hoà bình của nhân dân mỗi nước, chống mọi âm mưu và hành động phá hoại của lực lượng đế quốc và phản động quốc tế. Hai bên sẽ tiến hành các biện pháp có hiệu quả nhằm thực hiện điều cam kết này khi một trong hai bên yêu cầu.
Điều 3. Nhằm giúp nhau xây dựng đất nước giàu mạnh, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, hai bên sẽ tăng cường quan hệ trao đổi và hợp tác anh em cùng có lợi và giúp đỡ nhau về các mặt kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, kỹ thuật, đào tạo cán bộ và trao đổi chuyên gia, trao đổi kinh nghiệm xây dựng đất nước về mọi mặt.
Nhằm mục đích đó, hai bên sẽ kí những hiệp định cần thiết, đồng thời tăng cường tiếp xúc và hợp tác giữa các cơ quan Nhà nước có liên quan và các tổ chức quần chúng của hai nước.
Điều 4. Hai bên cam kết sẽ giải quyết bằng thương lượng hoà bình tất cả những bất đồng có thể nảy sinh trong quan hệ giữa hai nước. Hai bên sẽ đàm phán để ký kết một hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước trên cơ sở đường biên giới này thành biên giới hoà bình, hữu nghị lâu dài giữa hai nước.
Điều 5. Hai bên hoàn toàn tôn trọng đường lối độc lập, tự chủ của nhau.
Hai bên kiên trì chính sách đối ngoại độc lập, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và không liên kết, theo nguyên tắc không can thiệp dưới bất cứ hình thức nào vào công việc nội bộ nước khác, không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào vào công việc nội bộ của nước mình và không cho phép bất kỳ nước nào dùng lãnh thổ nước mình để can thiệp vào nước khác.
Hai bên coi trọng truyền thống đoàn kết chiến đấu và tình hữu nghị anh em lâu đời giữa nhân dân Cam-pu-ehia, nhân dân Lào và nhân dân Việt Nam, nguỵện ra sức tăng cường quan hệ truyền thống đó trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước. Hai bên tăng cường quan hệ mọi mặt với các nước xã hội chủ nghĩa. Là những nước ở Đông Nam châu Á, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Cộng hoà nhân dân Cam-pu-ehia
kiên trì chính sách quan hệ hữu nghị, láng giềng tốt với Thái Lan và các nước khác ở Đông Nam châu Á, tích cực góp phần vào hoà bình, ổn định và phồn vinh của khu vực Đông Nam châu Á. Hai bên phát triển quan hệ hợp tác với các nước dân tộc độc lập, các phong trào giải phóng dân tộc và phong trào dân chủ, kiên quyết ủng hộ sự nghiệp đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hai bên tích cực góp phần vào sự đoàn kết và lớn mạnh của phong trào không liên kết chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế khác, giành và bảo vệ độc lập dân tộc, tiến tới xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới.
Điều 6. Hai bên sẽ thường xuyên trao đổi ý kiến với nhau về những vấn đề thuộc quan hệ hai nước và những vấn đề quốc tế mà hai bên cùng quan tâm. Mọi vấn đề trong quan hệ giữa hai nước sẽ được giải quyết bằng thương lượng trên tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, có lý có tình.
Điều 7. Hiệp ước này không nhằm chống một nước thứ ba nào và không liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mỗi bên theo các hiệp định hai bên hoặc nhiều bên mà họ tham gia.
Điều 8. Hiệp ước này có hiệu lực ngay từ ngày trao đổi thư phê chuẩn; việc phê chuẩn sẽ làm theo thủ tục của mỗi bên.
Điều 9. Hiệp ước này có giá trị trong hai mươi lăm năm và sẽ được mặc nhiên gia hạn thêm từng mười năm nếu một trong hai bên kí kết không thông báo bằng văn bản cho bên kia ý muốn huỷ bỏ Hiệp ước một năm trước khi Hiệp ước hết hạn.
Hiệp ước này làm tại Phnôm Pênh, thủ đô nước Cộng hoà nhân dân Cam-pu-chia ngày 18 tháng 2 năm 1979, thành hai bản bằng tiếng Việt và tiếng Khơ-me, cả hai văn bản đều có giá trị như nhau.
THAY MẶT CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM PHẠM VĂN ĐỒNG Thủ tướng Chính phủ | THAY MẶT HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁCH MẠNG NƯỚC CỘNG HÒA NHÂN DÂN CAM-PU-CHIA HÊNG-XOM-RIN Chủ tịch Hội đồng Nhân dân cách mạng |
Trong nhiệm kỳ làm Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh đã đi thăm hữu nghị chính thức các nước:
- Từ ngày 1 đến 3-11-1993: Thăm Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
- Từ ngày 11 đến 16-11-1993: Thăm Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
- Từ ngày 26 đến 29-4-1994: Thăm Cộng hoà In-đô-nê-xi-a.
- Từ ngày 30-4 đến 1-5-1994: Thăm Cộng hoà Hồi giáo I-ran.
- Từ ngày 1 đến 4-5-1995: Thăm Nhà nước Cô-oét.
- Từ ngày 4 đến 7-5-1995: Thăm Cộng hoà A-rập Xi-ri.
- Từ ngày 7 đến 12-5-1995: Dự Lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng phát xít tại Cộng hoà Pháp.
- Từ ngày 8 đến 9-8-1995: Thăm Vương quốc Cam-pu-chia.
- Từ ngày 8 đến 12-10-1995: Thăm Liên bang Bra-xin.
- Từ ngày 12 đến 17-10-1995: Thăm Cộng hoà Cu-ba.
- Từ ngày 18 đến 20-10-1995: Dự Hội nghị cấp cao lần thứ 11 Phong trào Không liên kết tại Gô-lôm-bô;
- Từ ngày 22 đến 24-10-1995: Dự Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Liên Hợp quốc tại thành phố New York, Hoa Kỳ.
- Từ ngày 29-11 đến 2-12-1995: Thăm Cộng hoà Phi-líp-pin.
Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình đi thăm và làm việc tại 11 nước:
- Từ ngày 7 đến 11-5-1993: Dự lễ nhậm chức của Tổng thống Nam Phi.
- Từ ngày 16 đến 18-10-1993: Dự Hội nghị cấp cao các nước có sử dụng tiếng Pháp lần thứ 5 tại Mô-ri-xơ.
- Từ ngày 20-2 đến 12-3-1994: Thăm các nước An-giê-ri, Ma-li, Ghi-nê, Ghi-nê Bít-xao.
- Từ ngày 4 đến 12-9-1995: Thăm Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và dự Hội nghị quốc tế về phụ nữ tại thủ đô Bắc Kinh.
- Từ ngày 24 đến 27-11-1995: Thăm Xê-nê-gan.
- Từ ngày 1 đến 3-12-1995: Dự Hội nghị cấp cao các nước có sử dụng tiếng Pháp lần thứ 6 tại Bê-nanh.
- Từ ngày 3 đến 12-9-1996: Thăm Ô-ki-na-oa, Nhật Bản.
- Từ ngày 22 đến 28-1-1997: Thăm Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, v.v...
Chủ tịch Lê Đức Anh đón tiếp 26 Nguyên thủ các nước thăm hữu nghị chính thức nước ta:
- Từ ngày 15 đến 21-11-1992: Thái tử Vương quốc Thái Lan.
- Từ ngày 11 đến 16-12-1992: Phó Tổng thông Ác-mê-ni-a.
- Từ ngày 9 đến 12-2-1993: Tổng thông Cộng hoà Pháp.
- Từ ngày 22 đến 28-9-1993: Phó Tổng thống Ấn Độ.
- Từ ngày 3 đến 5-3-1994: Tổng thông Mông cổ.
- Từ ngày 28 đến 30-3-1994: Tổng thông Gộng hoà Phi-líp-pin.
- Từ ngày 15 đến 19-8-1994: Chủ tịch Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
- Từ ngày 19 đến 21-11-1994: Chủ tịch Gộng hòa nhân dân Trung Hoa.
- Từ ngày 25 đến 27-3-1995: Tổng thông Cộng hoà Áo.
- Từ ngày 17 đến 21-4-1995: Toàn quyền Ô-xtrây-lia.
- Từ ngày 28 đến 30-6-1995: Phó Tổng thống I-rắc.
- Ngày 2-9-1995: Tổng thống Djibuti quá cảnh Việt Nam.
- Từ ngày 29-9 đến 1-10-1995: Tổng thống Xu-đăng.
- Từ ngày 5 đến 7-10-1995: Tổng thống Cộng hoà Hồi giáo I-ran.
- Từ ngày 1 đến 2-11-1995: Tổng thống Tô-gô.
- Từ ngày 14 đến 16-12-1995: Quốc vương Cam-pu-chia.
- Từ ngày 19 đến 23-12-1995: Quốc vương Ma-lai-xi-a.
- Từ ngày 27 đến 29-3-1996: Tổng thống Cộng hoà U-dơ-bê-ki-xtan.
- Từ ngày 7 đến 10-4-1996: Tổng thống Cộng loà U-crai-na.
- Từ ngày 19 đến 20-6-1996: Tổng thống Nhà nước Pa-lét-xtin.
- Từ ngày 20 đến 30-8-1996: Phó Chủ tịch Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
- Từ ngày 21 đến 23-10-1996: Tổng thống An-giê-ri.
- Từ ngày 20 đến 22-11-1996: Tổng thống Hàn Quốc.
- Từ ngày 17 đến 18-2-1997: Tổng thống Ac-hen-ti-na.
- Từ ngày 5 đến 9-9-1997: Thái tử Vương quốc Thái Lan.
Đàm phán, ký kết, phê chuẩn các điều ước quốc tế trong nhiệm kỳ của Chủ tịch:
Năm 1994:
- Công ước thành lập tổ chức đảm bảo đầu tư đa biên năm 1985.
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Khôi phục quốc lộ 1" với Ngân hàng Thế giới (WB).
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Giáo dục tiểu học" với Ngân hàng Thế giới.
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Chống lũ và khôi phục hệ thống thuỷ lợi" với Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB).
- Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Ba Lan.
- 12 Công ước về lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO).
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Phục hồi nông nghiệp" với Ngân hàng Thế giới (WB).
- Công ước về Luật biển năm 1982 của Liên Hợp quốc.
- Nghị định thư bổ sung thứ tư đối với Hiến chương liên minh bưu chính thế giới (UPU).
- Hiệp định Lãnh sự Việt Nam - U-crai-na.
- Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị Việt Nam và Liên bang Nga.
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Khôi phục và nâng cấp cho quốc lộ 1A đoạn thành phố Hồ Chí Minh - Nha Trang" với Ngân hàng phát triển châu Á (ADB).
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Khôi phục hệ thống làm sạch và cấp nước thành phố Hồ Chí Minh" với Ngân hàng phát triển châu Á (ADB).
- Công ước về biến đổi khí hậu của Liên Hợp quốc.
- Công ước về đa dạng sinh học của Liên Hợp quốc.
- Hiệp định tín dụng phát triển cho chương trình điều chỉnh cơ cấu của Việt Nam vói Ngân hàng Thế giối (WB).
- Hiệp định về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thuế đánh vào thu nhập giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Hung-ga-ri.
Năm 1995:
- Công ước BASEL của Liên Hợp quốc về kiểm soát vận chuyển qua biên giới các chất thải nguy hiểm và việc tiêu huỷ chúng.
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Thuỷ lợi đồng bằng sông Hồng" với Ngân hàng phát triển châu Á.
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Chương trình nông nghiệp" với Ngân hàng phát triển châu Á.
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Cảng Sài Gòn" vối Ngân hàng phát triển châu Á.
- Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á.
- Công ước của Liên Hợp quốc về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài năm 1958.
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Cải tạo mạng lưới phân phối điện" vối Ngân hàng phát triển châu Á.
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Khôi phục và mở rộng ngành điện lực" với Ngân hàng The giới (WB)."
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Hồi phục thuỷ lợi" với Ngân hàng Thế giới (WB).
- Hiệp định Lãnh sự giữa Việt Nam và Ru-ma-ni.
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Cấp nước và vệ sinh các thành phố, thị xã" với Ngân hàng phát triển châu Á (ADB).
- Điều 83 bis bổ sung của Công ước Chi-ea-gô 1944 về hàng không dân dụng.
Năm 1996:
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Khôi phục cơ sở hạ tầng nghề cá" với Ngân hàng phát triển châu Á (ADB).
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Hiện đại hoá ngân hàng" với Ngân hàng Thế giới (WB).
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Hỗ trợ Y tế quốc gia" với Ngân hàng Thế giới (WB).
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Dân số, sức khoẻ gia đình" với Ngân hàng Thế giới (WB).
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Phát triển điện lực (Phú Mỹ 2)" với Ngân hàng Thế giới (WB).
- Nghị định thư bổ sung thứ năm đối với Hiến chương Liên minh bưu chính thế giới (UPU).
- Hiến chương - Công ước - Nghị định thư không bắt buộc của Liên minh Viễn thông thế giới (ITU) Giơ-ne-vơ năm 1992 được thông qua tại Ky-ô-tô (Nhật Bản) năm 1994.
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Tài chính nông thôn" với Ngân hàng Thế giới (WB).
- Hiệp ước tránh đánh thuế hai lần đốI với các loại thuế đánh vào thu nhập và vào tài sản với Cộng hoà Liên bang Đức.
- Hiệp ước Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân.
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Tín dụng nông thôn" với Ngân hàng phát triển châu Á (ADB).
Năm 1997: (tính đến 24-9-1997)
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Dân số, sức khoẻ gia đình" với Ngân hàng phát triển châu Á.
- Hiệp định tín dụng phát triển cho dự án "Chương trình Ngân hàng tài chính" với Ngân hàng phát triển châu Á (ADB).
- Hiệp ước về những cơ sở quan hệ và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và U-dơ-bê-ki-xtan.
- Hiệp ước về những nguyên tắc quan hệ và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với U-crai-na.
- Hiệp ước về những nguyên tắc trong quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vối Cộng hoà Bê-la-rút.
- Công ước số 100 và Công ước số 111 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO).
- 3 Công ước về kiểm soát ma tuý của Liên Hợp quốc:
- Công ước thống nhất về các chất ma tuý năm 1961.
- Công ưóc về các chất ma tuý năm 1971.
- Công ưóc về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma tuý và các chất hướng thần năm 1988.
Công tác xây dựng Pháp luật:
Trong nhiệm kỳ công tác, theo quy định của Hiến pháp, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký lệnh công bố: 41 văn bản Luật đã được Quốc hội thảo luận và nhất trí thông qua; 43 văn hản Pháp lệnh đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thảo luận và nhất trí thông qua.
Từ đầu nhiệm kỳ đến ngày 24-9-1997, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký quyết định tặng thưởng:
1- Tặng thưởng danh hiệu vinh dự Nhà nước cho 44.339 đơn vị và cá nhân:
- Bà mẹ Việt Nam anh hùng: Cho 40.566 bà mẹ.
- Giải thưởng Hồ Chí Minh: 77 công trình và cụm công trình khoa học; cụm tác phẩm văn học nghệ thuật.
- Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: 1.013 đơn vị và cá nhân.
- Anh hùng Lao động: 11 đơn vị và cá nhân.
- Nhà giáo Nhân dân: 34 thầy giáo.
- Nhà giáo Ưu tú: 1.456 thầy, cô giáo.
- Thầy thuốc Nhân dân: 11 thầy thuốc.
- Thầy thuốc Ưu tú: 331 thầy thuốc.
2- Tặng thưởng Huân chương và Huy chương cho 938.695 đơn vị và cá nhân:
- Huân chương (gồm các loại Huân chương: Sao Vàng, Hồ Chí Minh, Độc lập, Quân công, Chiến công, Lao động, Kháng chiến): Cho 632.977 đơn vị và cá nhân.
- Huy chương: Cho 305.718 đơn vị và cá nhân.
Quyết định đặc xá cho tù nhân:
Trong nhiệm kỳ, theo đề nghị của Hội đồng Đặc xá Trung ương, Chủ tịch Lê Đức Anh đã ký quyết định đặc xá (giảm mức án và tha tù) cho 3.311 phạm nhân. Theo đề nghị của Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao, Chủ tịch đã ra quyết định miễn chấp hành hình phạt tù còn lại cho 69 phạm nhân vì lý do cao tuổi, sức yếu, bệnh tật nặng.