Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chiến sĩ cách mạng kiên cường, một vị tướng tài ba, mưu lược, có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế. Đồng chí là nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, Nhà nước, luôn đổi mới, quyết đoán, nhanh nhạy, bám sát thực tiễn, dám chịu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và cũng rất giản dị, sâu sắc, nhân văn trong cuộc sống, được đồng chí, đồng đội và nhân dân yêu mến, bạn bè quốc tế đánh giá cao.
1. Đại tướng Lê Đức Anh - người chiến sĩ cách mạng kiên trung, nhà quân sự tài ba, quyết đoán
Đồng chí Lê Đức Anh sinh ra trong gia đình và trên quê hương giàu truyền thống yêu nước thuộc xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ở tuổi 17, đồng chí đã tiếp xúc với những người yêu nước, đọc báo chí tiến bộ, tìm hiểu về chủ nghĩa cộng sản và tham gia phong trào dân chủ đấu tranh đòi độc lập, tự do cho dân tộc tại Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Hoạt động cách mạng của đồng chí bắt đầu từ việc rải truyền đơn, treo cờ đỏ... đến việc tuyên truyền, vận động nhân dân, tham gia phong trào dân chủ, phụ trách tổ chức các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh. Năm 1938, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Mang trong mình lý tưởng phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do, vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, đồng chí luôn bám dân, bám địa bàn, hoạt động và xây dựng phong trào cách mạng ở nhiều địa phương từ Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, đến Lâm Đồng, Bình Dương, Bình Phước. Đầu năm 1945, đồng chí được giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng trung kiên trong các nghiệp đoàn, chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền ở các đồn điền cao su và hai huyện Hớn Quản, Bù Đốp, tỉnh Bình Phước.
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, trên bất kỳ cương vị nào, đồng chí Lê Đức Anh luôn có mặt ở những chiến trường trọng yếu, khó khăn, ác liệt. Trong mọi hoàn cảnh, đồng chí luôn vượt qua khó khăn, thể hiện phẩm chất của người chỉ huy mưu trí, dũng cảm, quyết đoán, bám sát thực tiễn, vận dụng sáng tạo quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng vào điều kiện cụ thể của chiến trường. Đồng chí là người kiên quyết đề nghị chỉ xây dựng lực lượng vũ trang đến cấp tiểu đoàn tại chiến trường Nam Bộ, theo phương châm “dựa vào dân mà chiến đấu” và thu được nhiều thắng lợi quan trọng trong các chiến dịch, góp phần cùng quân và dân cả nước kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trên chiến trường miền Nam những năm đầu đánh Mỹ, đảm nhiệm cương vị Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Miền, với tư chất của một nhà chỉ huy quân sự mưu lược, đồng chí đã đề xuất sáng kiến tổ chức lại chiến trường ở vùng không dân thành một tổ chức quân sự theo lãnh thổ, biến các cơ quan dân sự kháng chiến thành các đơn vị hành chính huyện, xã; mạnh dạn lấy vũ khí từ các kho đang cất giấu dọc biên giới Việt Nam - Campuchia trang bị cho các nhân viên dân sự, tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, góp phần đánh thắng các cuộc hành quân của quân Mỹ và ngụy quân Sài Gòn trong mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967.
Đảm nhiệm cương vị Tư lệnh Quân khu 9, trong bối cảnh hết sức khó khăn của cách mạng miền Nam sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Chính ủy Quân khu Võ Văn Kiệt đề ra chủ trương xốc lại tinh thần đoàn kết nội bộ, đưa lực lượng vũ trang trở lại địa bàn, tiến công địch, không để địch giành quyền chủ động lấn chiếm, bình định. Những quyết sách táo bạo, quyết đoán này đã tạo sự chuyển thế to lớn trên chiến trường Khu 9 và cả vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sau khi Hiệp định Pari được ký kết (01/1973), có những nơi xuất hiện nhận thức, quan điểm, tư tưởng chưa thật thống nhất, một số cán bộ có xu hướng thiên về đấu tranh bằng phương pháp hòa bình. Nhận rõ âm mưu và thủ đoạn của địch, với tư duy nhạy bén, quyết đoán, đồng chí đã cùng Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng vũ trang Quân khu vừa chấp hành Hiệp định, song kiên quyết giữ vững thế tiến công, chủ động đánh địch vi phạm Hiệp định Pari, đẩy lùi các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, không để mất đất, mất dân.
Năm 1974, trên cương vị Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, đồng chí Lê Đức Anh đã khẩn trương chỉ đạo xây dựng “Kế hoạch tác chiến mùa khô 1974 - 1975”, chỉ đạo các đơn vị chủ lực Miền huấn luyện và hoạt động tác chiến theo kế hoạch mới, nhất là tập huấn cách đánh công kiên. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Lê Đức Anh và Bộ Chỉ huy Miền, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng Phước Long, là cơ sở vững chắc để Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên cương vị Phó Tư lệnh Chiến dịch kiêm Tư lệnh cánh quân hướng tây - tây nam, một trong năm hướng tiến công của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng đánh vào thành phố Sài Gòn, là hướng tiến công khó khăn nhất, song bằng bản lĩnh và kinh nghiệm được đúc rút qua thực tiễn chiến đấu, đồng chí đã tham gia hoạch định và trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần cùng quân và dân ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trước những biến động phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực, trong điều kiện đất nước còn rất nhiều khó khăn, vừa phải tập trung mọi nguồn lực khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa phải đẩy mạnh xây dựng phát triển kinh tế theo đường lối đổi mới để sớm thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, với cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí đã cùng tập thể Quân ủy Trung ương, tham mưu cho Đảng, Nhà nước và trực tiếp chỉ đạo xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, đưa dân tộc Campuchia hồi sinh. Dấu ấn nổi bật trong thời gian giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là đồng chí đã đề xuất kế hoạch xây dựng quân đội tinh, gọn, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao và cắt giảm lực lượng vũ trang để tập trung cho phát triển đất nước; kịp thời điều chỉnh chiến lược phòng thủ đất nước trong tình hình mới, phù hợp với tình hình kinh tế đất nước mà vẫn bảo đảm sức mạnh để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
2. Đại tướng Lê Đức Anh - người chỉ huy thao lược trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả tại Campuchia
Trong thời gian 10 năm (1979 - 1989), Đại tướng Lê Đức Anh đã quán triệt, thực hiện nghiêm túc đường lối quốc tế trong sáng của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng “giúp bạn tức là mình tự giúp mình” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên cương vị Tư lệnh Quân tình nguyện, Trưởng ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia giúp Campuchia, đồng chí đã chỉ huy các đơn vị quân tình nguyện và cán bộ chuyên gia Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, hy sinh, gian khổ giúp quân và dân Campuchia, đánh tan 20 vạn quân Pôn Pốt và chặn đứng âm mưu quay trở lại chính trường của chúng, cứu dân tộc Campuchia khỏi họa diệt chủng, thực hiện công cuộc hồi sinh đất nước; đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững ổn định ở biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
Với quan điểm“Không ai có thể làm thay cuộc hồi sinh Campuchia, bảo vệ thành quả cách mạng Campuchia bằng người Campuchia”, đồng chí Lê Đức Anh đã chuẩn bị mọi mặt chu đáo cho các cuộc tiếp xúc với nước bạn, thường xuyên rèn luyện cho cán bộ, bộ đội tình nguyện tính tổ chức kỷ luật cao; nghiên cứu, đánh giá chính xác tình hình, đề ra biện pháp đấu tranh phù hợp, giúp bạn vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân, chống lại cuộc chiến tranh du kích phản cách mạng của tàn quân Pôn Pốt. Với sự chân thành, chí nghĩa, chí tình, nhưng không làm thay bạn của Đại tướng Lê Đức Anh và các lực lượng quân tình nguyện, chuyên gia Việt Nam đã hỗ trợ chính quyền cách mạng non trẻ Campuchia xây dựng, bồi dưỡng được đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị có phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, từng bước đảm đương được các vị trí đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, tái thiết đất nước, củng cố chính quyền và bảo vệ thành quả cách mạng. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, đoàn chuyên gia, quân tình nguyện Việt Nam đã giúp đất nước Campuchia nhanh chóng hồi sinh; nghĩa cử cao cả ấy đã được Quốc vương, nhiều chính khách và nhân dân Campuchia quý trọng, coi bộ đội tình nguyện Việt Nam là “đội quân nhà Phật!”, góp phần tích cực vào việc tăng cường mối quan hệ đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Campuchia.
3. Đại tướng Lê Đức Anh - nhà lãnh đạo xuất sắc,
có uy tín lớn với nhiều dấu ấn nổi bật thời kỳ đổi mới đất nước
Trải qua nhiều cương vị quan trọng, như: Ủy viên Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng khóa VII; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa V, VI; đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991), Đại tướng Lê Đức Anh tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị và được Quốc hội khóa IX (nhiệm kỳ 1991 - 1996) bầu giữ trọng trách Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là thời kỳ tình hình thế giới và trong nước có những thay đổi lớn, nhiều khó khăn, thách thức. Đất nước ta đang thực hiện công cuộc đổi mới và đã đạt được những thành tựu bước đầu, song phải đối mặt với rất nhiều khó khăn; nước ta vẫn bị bao vây cấm vận, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu tan rã, nguồn viện trợ không còn, nhiều vấn đề mới đặt ra cần phải xử lý, đặc biệt là yêu cầu bức thiết về bình thường hóa quan hệ với các nước lớn, hội nhập quốc tế, gia nhập các tổ chức quốc tế, khu vực... Là người được tôi luyện, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, tác phong sâu sát, nói đi đôi với làm, tư duy sáng tạo, đồng chí Lê Đức Anh đã chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước hoạch định nhiều vấn đề chiến lược của đất nước, đưa đất nước ta vượt qua khó khăn về kinh tế - xã hội, phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ quốc tế, giữ vững ổn định chính trị, chủ quyền biên giới quốc gia, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Trong công tác đối nội, đồng chí Lê Đức Anh luôn chủ động, tham mưu đề xuất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư các chủ trương, giải pháp lãnh đạo xây dựng, từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp. Một trong những điều đồng chí Lê Đức Anh luôn trăn trở là làm sao các cơ quan nhà nước phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, thực sự đại diện cho quyền lợi và đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân đúng với chủ trương “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Trong hoạt động thực tiễn, đồng chí đã nhiều lần trực tiếp đến thăm và làm việc với các địa phương, nắm bắt tình hình và lắng nghe ý kiến phản ánh của nhân dân; kịp thời chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các địa phương thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận lòng dân ngày càng vững chắc.
Trên cương vị Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng - An ninh, Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, với tình cảm sâu nặng và trách nhiệm, Đại tướng Lê Đức Anh thường xuyên đến thăm, kiểm tra, động viên cán bộ, chiến sĩ các đơn vị Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Luôn quan tâm chỉ đạo xây dựng, điều chỉnh thế bố trí chiến lược giữa các vùng, miền, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; là một trong những người đề xuất ý tưởng xây dựng khu vực phòng thủ, các khu kinh tế - quốc phòng trên địa bàn chiến lược mà hiện nay chúng ta đã và đang tiếp tục triển khai thực hiện. Những chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh thể hiện tư duy nhạy bén, sắc sảo, tầm nhìn chiến lược đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Cùng với đó, Đại tướng Lê Đức Anh cũng rất quan tâm, chú trọng đến bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị của quân đội và đời sống của cán bộ, chiến sĩ.
Trong công tác đối ngoại, Đại tướng Lê Đức Anh được coi là “kiến trúc sư” của việc triển khai các biện pháp chiến lược và chiến thuật trong lộ trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Mỹ và ASEAN, “phá vây” để hội nhập quốc tế, góp phần đặt nền móng cho chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Đảng, Nhà nước ta. Đồng chí đã cùng Bộ Chính trị chỉ đạo các bộ, ngành mở rộng quan hệ, giao thương với các nước, đồng thời trực tiếp gặp gỡ, trao đổi ý kiến với các nhà lãnh đạo nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế nhằm tăng cường mối quan hệ, hợp tác song phương, đa phương; tiến hành đàm phán, ký kết, phê chuẩn các hiệp định, điều ước quốc tế, thu hút đầu tư, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại, đưa đất nước ta từng bước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, quốc phòng, an ninh được giữ vững và củng cố, để lại những dấu ấn quan trọng và tình cảm tốt đẹp với các quốc gia, cộng đồng quốc tế; uy tín, vị thế của Việt Nam ngày càng nâng cao trên trường quốc tế.
4. Đại tướng Lê Đức Anh - tấm gương về đạo đức cách mạng, tận trung với nước, tận hiếu với dân
Đại tướng Lê Đức Anh là tấm gương về nghị lực phấn đấu, học tập, nâng cao tri thức về mọi mặt; sống giản dị, tiết kiệm, gần gũi, thủy chung, nhân ái; luôn có tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của nhân dân lên trên hết. Cuộc đời hoạt động cách mạng cùng những cống hiến xuất sắc của đồng chí là một tấm gương sáng về phẩm chất của người cán bộ cách mạng “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, một danh tướng xuất sắc của thời đại Hồ Chí Minh.
Đại tướng Lê Đức Anh là nhà lãnh đạo, chỉ huy luôn gần gũi, đồng cam cộng khổ, hết mình thương yêu cán bộ, chiến sĩ, gắn bó máu thịt với nhân dân, bám địa bàn, bám dân để đánh giặc, tìm mọi cách giảm thiểu hy sinh xương máu của cán bộ, chiến sĩ và khó khăn, mất mát của người dân. Đồng bào, chiến sĩ Nam Bộ luôn nhớ hình ảnh người chỉ huy tin vào dân, coi lòng dân, sức dân là thành lũy để bộ đội chiến đấu và chiến thắng; một tư lệnh luôn có mặt ở những nơi ác liệt nhất, ở vào những thời điểm quan trọng nhất.
Trên cương vị Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh luôn quan tâm công tác chính sách hậu phương quân đội, giải quyết tồn đọng sau chiến tranh. Năm 1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” để tặng hoặc truy tặng những bà mẹ đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; đồng thời cũng để giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng, truyền thống đạo nghĩa “Uống nước nhớ nguồn” cho các thế hệ mai sau. Khi còn đương chức và kể cả khi đã nghỉ công tác, Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh vẫn thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, đóng góp với Đảng, Nhà nước nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc, có tầm chiến lược về công tác quân sự, quốc phòng.
Cuộc đời của Đại tướng Lê Đức Anh gắn liền với những chiến thắng, những bước thăng trầm của lịch sử nước nhà trong đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Trên các cương vị công tác, dù ở bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, đồng chí cũng luôn tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng của người đảng viên cộng sản; luôn tận tụy, bản lĩnh; đem hết tài năng, trí tuệ, tham mưu, đề xuất và chỉ đạo thực hiện nhiều quyết sách quan trọng góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Yêu cầu về chấn chỉnh lực lượng quân đội phù hợp với tình hình thực tiễn đang đặt ra những vấn đề mới cần quan tâm giải quyết. Học tập, noi gương Đại tướng Lê Đức Anh, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục trau dồi bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; phát huy tinh thần cách mạng tiến công; không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện, trình độ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi tình huống. Tích cực chấn chỉnh tổ chức, lực lượng theo hướng tinh, gọn, mạnh, bảo đảm nâng cao sức mạnh chiến đấu, phù hợp với yêu cầu của nghệ thuật tác chiến hiện nay. Tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ, “thế trận lòng dân” vững chắc. Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng; ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến. Đẩy mạnh phòng chống “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Chúng ta mãi mãi nhớ về Đại tướng Lê Đức Anh với lòng kính trọng và tự hào về người đồng chí thân thiết, chí tình, chí nghĩa, một vị tướng tài ba, một nhà lãnh đạo xuất sắc, một nhân cách giản dị, gần gũi của quân và dân ta. Toàn quân nguyện tiếp tục học tập, noi gương đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh, mãi đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn; nêu cao truyền thống, bản chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, luôn đoàn kết, thống nhất, chủ động, sáng tạo, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của cha anh; xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định, phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
| Đại tướng NGÔ XUÂN LỊCH Uỷ viên Bộ Chính trị Phó Bí thư Quân uỷ Trung ương Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
|
Đồng chí Lê Đức Anh (bí danh Nguyễn Phú Hòa; Sáu Nam) sinh ngày 01/12/1920, quê quán tại xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Được thừa hưởng truyền thống yêu nước của quê hương và gia đình, đồng chí đã sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1937, đồng chí tham gia phong trào dân chủ ở Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Tháng 5/1938, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 8/1945, đồng chí tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, đồng chí Lê Đức Anh là nhà chỉ huy quân sự tài ba, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, dày dạn kinh nghiệm trận mạc, có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và làm nhiệm vụ quốc tế cao cả.
Sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất, đồng chí được Đảng, Nhà nước giao nhiều trọng trách. Đặc biệt, những năm tháng giữ cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước, đồng chí luôn trăn trở, tìm tòi, tâm huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng để tái thiết đất nước, khởi xướng công cuộc đổi mới, phá thế bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước; cùng Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng thế trận “chiến tranh nhân dân” và nền quốc phòng toàn dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Với lực lượng Công an nhân dân, đồng chí luôn gắn bó và chỉ đạo chặt chẽ.
Những năm tháng chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, đồng chí trực tiếp chỉ huy chiến trường và giành được nhiều thắng lợi quan trọng, góp phần bảo vệ biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. Tháng 8/1979, đồng chí Lê Đức Anh là Phó Trưởng ban thứ nhất phụ trách công tác K (Campuchia) và tháng 8/1980 đồng chí là Trưởng ban. Ban này đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị. Tháng 6/1982, Bộ Chính trị ra Quyết định số 132 về việc thành lập Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia tại Campuchia thay Ban Phụ trách công tác Campuchia. Theo đó, Ban lãnh đạo gồm 7 đồng chí do đồng chí Lê Đức Anh làm Trưởng ban. Trong hai năm 1979, 1980, với tinh thần “giúp bạn là mình tự giúp mình”, Đảng và Nhà nước ta đã điều động một số lượng lớn cán bộ sang làm chuyên gia giúp bạn. Đoàn chuyên gia Bộ Nội vụ Việt Nam (bí số là K79) do đồng chí Viễn Chi, Thứ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) làm Trưởng đoàn và các đồng chí Lê Đình Thảo, Trần Mão, Tư Hoàng, Vy Hồng Phong, Nguyễn Tâm giúp bạn xây dựng lực lượng an ninh. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, Đoàn chuyên gia Bộ Nội vụ Việt Nam cùng với các đoàn khác đã hoàn thành tốt nghĩa vụ quốc tế, đóng góp tích cực trong việc giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng của tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary, xây dựng lại đất nước Campuchia.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Công an và quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng, của Chính phủ, của vô sản chuyên chính. Vì vậy, càng phải đoàn kết chặt chẽ với nhau, giúp đỡ lẫn nhau”, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo cụ thể lực lượng Quân đội nhân dân phối hợp với lực lượng Công an nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, nhất là trong thời kỳ giúp đỡ Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng và trong thời kỳ đồng chí giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, phát huy những kết quả đã đạt được trong thực hiện nhiệm vụ của hai lực lượng, từ năm 1987 đến năm 1992 trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí tiếp tục quan tâm, chỉ đạo, phát huy và đẩy mạnh quan hệ phối hợp, hiệp đồng chiến đấu giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Nhờ đó, hai lực lượng luôn đoàn kết, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ; thường xuyên trao đổi thông tin, nắm tình hình trong nước, khu vực và trên thế giới; chủ động làm tốt công tác tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về các chủ trương, đường lối lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; đồng thời là lực lượng nòng cốt, trực tiếp triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối đó. Cùng với Quân đội nhân dân, lực lượng Công an nhân dân đã tích cực đổi mới, phối hợp đảm bảo an ninh, trật tự trên địa bàn, đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động xâm nhập phá hoại từ bên ngoài của các tổ chức phản động, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và Nhân dân. Kết quả phối hợp giữa hai lực lượng đã trở thành cơ sở, điều kiện để ngày 17/11/1992, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ ban hành Chỉ thị số 18/CT-LB về phối hợp giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình hình mới. Từ đây, công tác phối hợp giữa công an và quân đội ngày càng đi vào chiều sâu và đạt hiệu quả cao hơn. Sau này, khi đã nghỉ hưu và cả khi sức khỏe đã yếu nhưng mỗi khi lãnh đạo Bộ Công an, Bộ Quốc phòng đến thăm, ông vẫn căn dặn phải thường xuyên phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ vì quân đội với công an đều là lực lượng vũ trang.
Tháng 9/1992, đồng chí được Quốc hội tín nhiệm bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên cương vị mới, với tầm nhìn chiến lược, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tác phong sâu sát, đồng chí đã cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước đề ra và chỉ đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đưa đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong hồi ký của mình, đồng chí Lê Đức Anh viết: “Với cương vị và trách nhiệm của mình, tôi thường xuyên gặp gỡ trao đổi, bàn bạc với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao về những chủ trương, công việc lớn mang tầm chiến lược, những việc trước mắt đang đặt ra bức thiết phải giải quyết để bảo đảm công tác an ninh - quốc phòng và công tác đối ngoại hoạt động tốt, nhằm ổn định chính trị, quốc phòng - an ninh”.
Với cương vị là Chủ tịch nước, Ủy viên Bộ Chính trị, đồng chí đã cùng với Bộ Chính trị thảo luận, ban hành và chỉ đạo thực hiện hiệu quả nhiều chủ trương, chỉ thị, nghị quyết quan trọng về bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh; đồng thời, chỉ đạo hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ an ninh trật tự. Trong nhiệm kỳ công tác, theo quy định của Hiến pháp, đồng chí Lê Đức Anh đã ký lệnh công bố nhiều văn bản luật, pháp lệnh đã được Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua, trong đó, có nhiều văn bản liên quan đến lĩnh vực công tác bảo đảm an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng Công an nhân dân. Đồng thời, xuất phát từ nhận thức sâu sắc về hội nhập quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí đã chỉ đạo đàm phán, ký kết và phê chuẩn một số Công ước quốc tế về vấn đề an ninh, trật tự như: Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Ba Lan (1994), Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, ba Công ước về kiểm soát ma túy của Liên hợp quốc (Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961, Công ước về các chất ma túy năm 1971, Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và các chất hướng thần năm 1988). Những văn bản này đã tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho công tác phòng, chống tội phạm và hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả cao.
Bằng tình cảm sâu nặng cùng ý thức trách nhiệm lớn lao, trong thời gian làm Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng quốc phòng - an ninh, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, đồng chí Lê Đức Anh đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, trực tiếp chỉ đạo đối với các lực lượng nghiệp vụ, các mặt công tác và sự trưởng thành, phát triển của lực lượng Công an nhân dân, nhất là đối với công tác của lực lượng an ninh, tình báo.
Giữa những năm 1990, lực lượng công an xây dựng Pháp lệnh Tình báo. Trên cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước và phụ trách các vấn đề quốc phòng, an ninh, đối ngoại, khi Bộ Công an báo cáo, đồng chí đã trực tiếp cho ý kiến chỉ đạo về nhiều vấn đề, nhất là vấn đề hợp tác quốc tế về an ninh, tình báo. Sau khi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua, ngày 22/12/1996, Chủ tịch nước Lê Đức Anh ký Lệnh số 53L/CTN công bố Pháp lệnh Tình báo. Đây là văn bản quan trọng làm cơ sở cho hoạt động của lực lượng tình báo, trong đó có lực lượng Tình báo Công an nhân dân. Việc ban hành Pháp lệnh Tình báo không chỉ thể hiện sự đánh giá cao của Đảng, Nhà nước về vai trò, vị trí và những đóng góp quan trọng của Tình báo Công an nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, mà còn đặt ra cho lực lượng Tình báo Công an nhân dân nhiệm vụ chính trị nặng nề trong thời kỳ mới. Qua hơn 20 năm thực hiện, thực tiễn đã cho thấy những ý kiến chỉ đạo và quyết định của Chủ tịch nước Lê Đức Anh khi đó là vô cùng xác đáng, có tầm chiến lược, nhìn xa, khoa học và thực tiễn sâu sắc.
Đối với công tác an ninh, đồng chí cho rằng phải rất chủ động, phải nắm tình hình, phải đánh địch từ xa, phải tạo cho được các tuyến phòng thủ liên hoàn, chặt chẽ từ trong ra ngoài. Những lời căn dặn của Chủ tịch nước Lê Đức Anh thể hiện tầm nhìn, sự bao quát đối với công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Những lời căn dặn ấy đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị. Không chỉ chỉ đạo thấu suốt về mặt chủ trương, chiến lược về vấn đề bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đồng chí Lê Đức Anh còn trực tiếp chỉ đạo một số vụ án lớn, phức tạp.
Điển hình là năm 1989, lực lượng an ninh phát hiện một số đối tượng phản động người Việt lưu vong liên kết hình thành tổ chức phản động với danh xưng “Liên đảng cách mạng Việt Nam” để chống phá cách mạng nước ta. Các đối tượng ráo riết chuẩn bị thực hiện âm mưu phá hoại tại một số mục tiêu ở trong nước, kích động biểu tình, bạo loạn lật đổ chế độ. Với tinh thần chủ động, lực lượng an ninh đã nắm được toàn bộ kế hoạch và di biến động của các đối tượng trong nước. Trước tính chất nghiêm trọng, phức tạp của vụ án, sau khi nghe báo cáo diễn biến hằng ngày, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã trực tiếp kiểm tra, chỉ thị lực lượng quân đội phối hợp với lực lượng Công an nhân dân triển khai các biện pháp ngăn chặn kịp thời âm mưu, hoạt động của nhóm phản động này; góp phần giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam.
Là cán bộ lão thành cách mạng, được tôi luyện, vào sinh ra tử, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí luôn giữ vững ý chí, phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, không ngừng rèn luyện, nâng cao tri thức, sáng tạo, quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong mọi công việc. Là một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt tiêu biểu, đồng chí đã mang hết tâm huyết, đóng góp nhiều ý kiến quan trọng vào những vấn đề lớn của đất nước, luôn đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc và nhân dân lên trên hết. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, với bao hiểm nguy, khó khăn, thử thách, đồng chí Lê Đức Anh luôn hoàn thành xuất sắc trọng trách trước Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân; đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Suốt cuộc đời, đồng chí sống giản dị, thanh bạch dù ở bất kỳ hoàn cảnh, môi trường nào. Đồng chí Lê Đức Anh là tấm gương sáng để đồng bào, đồng chí, cán bộ, chiến sĩ, trong đó có cán bộ, chiến sĩ lực lượng Công an nhân dân yêu quý, học tập và noi theo. Đánh giá về đồng chí, Đảng, Nhà nước khẳng định: “Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà chính trị, quân sự tài năng, một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của đồng chí Lê Đức Anh (01/12/1920 - 01/12/2020), lực lượng Công an nhân dân luôn khắc ghi những công lao, đóng góp to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và của dân tộc. Trong điều kiện và hoàn cảnh mới, lực lượng Công an nhân dân nguyện kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của các thế hệ cha anh, của đồng chí Lê Đức Anh, tiếp tục phấn đấu, rèn luyện theo tấm gương của đồng chí để ngày càng đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
| Đại tướng, GS.TS. Tô Lâm Uỷ viên Bộ Chính trị Bộ trưởng Bộ Công an
|
Đại tướng Lê Đức Anh là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người con ưu tú của quê hương Thừa Thiên Huế, người chỉ huy tham mưu chiến lược xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hơn 80 năm tham gia hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Đức Anh có gần 50 năm phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đảm nhiệm nhiều trọng trách của quân đội, của Đảng, Nhà nước. Dù ở hoàn cảnh nào đồng chí cũng luôn nỗ lực phấn đấu, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, đồng chí đã mang hết nhiệt huyết, đóng góp nhiều ý kiến quan trọng vào những vấn đề lớn của đất nước. Những phẩm chất nổi bật của một nhà lãnh đạo xuất sắc ở đồng chí Lê Đức Anh được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, vấn đề lớn, nhất là trong những điều kiện, hoàn cảnh đặc biệt, thể hiện rõ phẩm chất của một nhà chỉ huy tham mưu chiến lược xuất sắc:
Một là, những chủ trương, đề xuất tham mưu chiến lược xuất sắc trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
Trong hai cuộc kháng chiến, đồng chí trực tiếp chỉ huy các đơn vị chiến đấu trên nhiều cương vị, trong điều kiện vô vàn khó khăn ác liệt, song với tư chất người chỉ huy mưu trí, dũng cảm, kiên trung, tư duy quân sự tài ba, linh hoạt, đồng chí đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Tháng 11/1949, đồng chí được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Đến tháng 01/1950, Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn mở chiến dịch Bến Cát. Chiến dịch này, ngoài việc chỉ huy các đơn vị làm tốt công tác chuẩn bị, đồng chí còn phát huy tốt trí tuệ tập thể, tìm ra cách đánh hay để chiến dịch giành thắng lợi. Từ sáng kiến về đánh tháp canh bê tông cốt thép của địch đạt hiệu quả, đồng chí đã động viên anh em sáng tạo cách đánh dùng đạn lõm bắn thủng lỗ ở thành tháp canh, sau đó lao gậy đầu buộc bộc phá qua lỗ thủng đó vào bên trong tiêu diệt địch. Hay vận dụng 2 cách đánh đồn bằng phương pháp sử dụng đạn lõm, bộc phá để tiêu diệt lô cốt đầu cầu; hoặc sử dụng 2 mũi đặc công cùng tiến hành mở 2 cửa mở cho trận đánh đồn, gọi là “cách đánh đặc công”. Nhờ vận dụng linh hoạt, sáng tạo cách đánh, Chiến dịch Bến Cát nhanh chóng giành thắng lợi, đánh dấu bước sáng tạo, trưởng thành của lực lượng vũ trang Khu 7, đưa phong trào kháng chiến của quân và dân miền Đông Nam Bộ phát triển. Tháng 12/1952, đồng chí Lê Đức Anh được mời ra Bắc báo cáo kinh nghiệm đánh đồn, tháp canh của địch, được gặp và báo cáo thành tích với Chủ tịch Hồ Chí Minh về đánh tháp canh và đồn địch của bộ đội Nam Bộ. Những kinh nghiệm này được tuyên truyền, phổ biến, vận dụng rộng rãi trên khắp chiến trường, góp phần quan trọng cùng nhân dân cả nước đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đến thắng lợi.
Năm 1955, trên cương vị Cục phó Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu, đồng chí Lê Đức Anh được giao nghiên cứu, xây dựng kế hoạch phòng thủ bờ biển từ Quảng Ninh vào Quảng Bình. Đây là công trình mới, công phu và rất khó vì chưa ai làm, chưa ai biết. Sau khi đi khảo sát ở nước bạn về, đồng chí chủ trì cuộc họp nghiên cứu vận dụng vào điều kiện địa hình Việt Nam và thống nhất các nội dung báo cáo Bộ. Được Bộ nhất trí, đồng chí tổ chức phổ biến, hướng dẫn các quân khu xây dựng công trình theo bản thiết kế phù hợp với cách đánh đã được Bộ phê duyệt và trực tiếp chỉ đạo Quân khu Tả ngạn và Quân khu Hữu ngạn khẩn trương xây dựng các công trình ở căn cứ chiến lược và công trình cho những cơ quan trọng yếu, công trình ở vùng biển đảo. Các công trình nhanh chóng hoàn thành đã phát huy tốt tác dụng trong chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ra miền Bắc.
Đầu những năm 1960, cuộc kháng chiến ở miền Nam có những bước phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi sự chi viện ngày càng nhiều từ hậu phương lớn. Tổng Tham mưu trưởng giao Cục Quân lực nghiên cứu tổ chức tăng cường vận tải đường bộ và đường thủy để chi viện cho miền Nam. Trên cương vị Cục trưởng Cục Quân lực, đồng chí chỉ đạo các đơn vị khẩn trương triển khai tổ chức lực lượng vận tải, mở cơ sở đóng tàu biển ở nước bạn. Sau một thời gian ngắn, tàu trọng tải 500 tấn đầu tiên hạ thủy, bổ sung vào “Đội tàu không số” theo đường Hồ Chí Minh trên biển, chi viện hiệu quả cho chiến trường miền Nam. Bên cạnh đó, đồng chí Lê Đức Anh còn chỉ đạo Cục Quân lực xây dựng hoàn chỉnh “Kế hoạch tổ chức trang bị và xây dựng cơ sở vật chất cho Quân đội (1961-1965)”, được Quân ủy Trung ương đánh giá cao. Nhờ sự nỗ lực cố gắng của Cục Quân lực, đến cuối năm 1963, Quân đội ta đã có bước trưởng thành về tổ chức biên chế. Các sư đoàn, lữ đoàn bộ binh, binh chủng của ta được trang bị tương đối hiện đại, khả năng cơ động, chiến đấu được nâng cao, góp phần bảo vệ vững chắc miền Bắc và đáp ứng yêu cầu mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Từ năm 1963-1966, đồng chí được điều động vào hoạt động ở Chiến trường B2 với cương vị là Tổng Tham mưu phó Quân đội nhân dân Việt Nam, kiêm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Miền. Bộ Chỉ huy Miền giao đồng chí Lê Đức Anh tổ chức lực lượng tại chỗ đánh địch. Trên cơ sở nắm chắc tình hình, đồng chí đã chỉ huy cơ quan tổ chức các “ấp, xã chiến đấu”, địch chưa đến thì bung ra tìm địch mà đánh, bám địch mà diệt, tiêu hao địch rộng rãi, vừa chiến đấu, vừa bảo đảm phục vụ chiến đấu, bảo vệ cơ quan, kho tàng, duy trì sinh hoạt bình thường để đánh lâu dài. Mặt khác, đồng chí trực tiếp giao nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ đầu ngành trong cơ quan Bộ Chỉ huy Miền, mỗi ngành tổ chức thành một “huyện đội”, do chủ nhiệm ngành làm “huyện đội trưởng”. Trong đó, trận địa chiến đấu trên địa bàn một huyện có các “xã chiến đấu”, “ấp chiến đấu”: Từ 20 đến 30 người tổ chức thành một “ấp chiến đấu” và có một tiểu đội du kích; từ 2 đến 3 “ấp chiến đấu” thành 1 “xã chiến đấu”. Xã có 3 đội du kích, huyện có đại đội cơ động. Công sự đào hố cá nhân và giao thông hào là chủ yếu, không làm hầm kiên cố. Cứ 5 đến 10m đào một hố cá nhân. Các cơ quan, đơn vị phải đào hầm bí mật dự trữ 3 tháng lương thực, thực phẩm. Các cơ quan, đơn vị chủ động kiểm tra công tác chuẩn bị, bổ sung phương án chiến đấu và hiệp đồng tác chiến chặt chẽ… Với cách tổ chức chỉ huy chặt chẽ, khoa học, phù hợp của đồng chí Lê Đức Anh, các huyện trên địa bàn tác chiến không còn vùng trắng, đều được tổ chức đủ lực lượng “ấp”, “xã”, “huyện” chiến đấu. Bước vào chiến đấu, tinh thần chủ động “tìm Mỹ mà đánh, tìm Mỹ mà diệt” của anh em rất cao. Thông qua cách tổ chức lực lượng linh hoạt, khoa học đó, các đơn vị của Bộ Chỉ huy Miền đã tận dụng thế mạnh địa bàn, phát huy sức mạnh đánh bại cuộc hành quân Gianxơn Xiti của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn đánh chiến khu Dương Minh Châu ở Bắc Tây Ninh, nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não và chủ lực của ta.
Năm 1967, thực hiện quyết định của Bộ Chính trị về tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đồng chí cùng Bộ Chỉ huy Miền nghiên cứu, đánh giá khả năng hành động của bộ đội, nổi dậy của quần chúng cũng như binh biến của quân đội, chính quyền Sài Gòn để xây dựng kế hoạch, chỉ đạo các lực lượng làm tốt công tác chuẩn bị. Đến cuối năm 1967, địa bàn Quân khu 7 thiết lập được 19 “lõm” chính trị ngay sát những mục tiêu trọng yếu của địch, trong đó có 325 gia đình cơ sở, 400 điểm ém quân, 12 kho vũ khí. Với kỹ thuật ngụy trang mưu trí, các đơn vị đã vượt qua hệ thống kiểm soát, tuần tra dày đặc của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chuyển vào nội thành một khối lượng lớn vũ khí để chuẩn bị chiến đấu. Quá trình tác chiến, đồng chí Lê Đức Anh được giao chỉ huy bộ đội hướng Tây Sài Gòn (từ Long An đánh vào Tổng nha Cảnh sát và Cảnh sát Đô thành). Địa hình hướng này có nhiều vật cản, sình lầy, cơ động lực lượng khó khăn, nhưng đồng chí đã động viên anh em, phân công chỉ huy, tổ chức lực lượng chặt chẽ, vì thế, các đơn vị đã khắc phục vượt khó, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968.
Cuối năm 1968, nhận thức của cán bộ, chiến sĩ Quân khu 9 về âm mưu, thủ đoạn của địch còn đơn giản, nhiều địa bàn đóng quân bị địch phản công chiếm đất, chiếm dân, các tổ chức quần chúng trên địa bàn không còn là chỗ dựa an toàn cho bộ đội hoạt động, phong trào cách mạng sa sút, trong khi địch tổ chức càn quét đánh phá ác liệt vào U Minh - cơ sở hoạt động cách mạng của ta. Đầu năm 1969, trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí Lê Đức Anh quyết định Bộ Tư lệnh Quân khu bám trụ tại U Minh Thượng để tạo thế xen cài với địch, tiện chỉ huy hiệp đồng tác chiến. Đồng thời, chủ động nghiên cứu, nắm chắc tình hình, chỉ huy cơ quan, đơn vị bám địa bàn, tập trung xây dựng và huấn luyện lực lượng, củng cố phong trào du kích, khôi phục lại cơ sở quần chúng cách mạng, đưa cán bộ đã ly hương trở lại địa bàn nắm quần chúng và lực lượng vũ trang để đánh địch. Chỉ đạo lực lượng du kích 10 xã thuộc các huyện: An Biên, Vĩnh Thuận, Rồng Giềng, Thới Bình... thực hiện đánh nhỏ lẻ tiêu hao sinh lực địch. Chỉ đạo các tỉnh trên địa bàn: Cần Thơ, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh... phát huy lực lượng 3 mũi tại chỗ (quân sự, chính trị, binh vận) tích cực bao vây, tập tích, phục kích tiêu diệt địch. Những địa bàn bị địch chiếm đóng, việc bám trụ rất khó khăn, đồng chí Lê Đức Anh phân công cán bộ các đơn vị thuộc quyền bí mật cài cắm vào địa bàn thực hiện 3 bám: bám đất, bám dân, bám địch. Để giải quyết vấn đề thiếu đạn dược, nhất là đạn hỏa lực trong chiến đấu, đồng chí chỉ đạo bộ đội cùng nhân dân phát động phong trào dùng vũ khí tự tạo từ bom đạn lép và súng đạn thu được của địch, kết hợp sử dụng chiến thuật “đặc công hóa bộ binh” để tiêu diệt các ụ súng đầu cầu. Ngoài ra, mỗi tỉnh cử 1 tiểu đoàn, hằng ngày qua biên giới Campuchia gùi đạn về phục vụ chiến đấu. Đồng thời, thường xuyên bàn bạc thống nhất trong chỉ huy, phân công chỉ huy phụ trách trên từng hướng, từng địa bàn tác chiến, giúp đỡ các cơ quan, đơn vị giải quyết khó khăn, vướng mắc. Nhờ cách chỉ huy linh hoạt, năm 1971-1972, lực lượng dân quân du kích trên địa bàn Quân khu 9 tăng 50%, bộ đội địa phương cấp tỉnh, huyện tăng từ 20 đến 50%, hơn 1.000 ấp bị địch kìm kẹp đều có tổ chức đảng hoạt động, các đơn vị chủ lực của Quân khu 9 đứng vững trên địa bàn. Trước tình hình chiến trường Đông Dương đang giành nhiều thắng lợi, đồng chí chỉ huy Quân khu 9 mở đợt tiến công vào U Minh, tiêu diệt 4 chi khu, 2 yếu khu, 6 căn cứ trung đoàn, tiểu đoàn, phá hủy 916 đồn bốt, diệt 12.000 tên địch, giải phóng 400 ấp với gần 80 vạn dân2. Thắng lợi của lực lượng vũ trang Quân khu 9 làm thay đổi cục diện chiến trường, từ chỗ bị địch lấn chiếm gần hết đất, hết dân (chỉ còn khoảng 2.000 dân), quân và dân địa bàn đã chủ động tiêu diệt địch, mở rộng vùng giải phóng, tạo thế vững chắc để tiến công địch.
Đầu năm 1973, quân đội và chính quyền Sài Gòn ráo riết thực hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” cắm cờ giành đất, giành dân, lấy địa bàn Tây Nam Bộ làm trọng điểm, trước khi Hiệp định Pari có hiệu lực, hòng xóa thế trận chiến tranh nhân dân xen kẽ của ta, đẩy ta ra khỏi vùng đồng bằng đông dân. Trước thực tế đó, đồng chí báo cáo đề nghị Bộ Tư lệnh Miền và Trung ương về giải pháp đánh địch vi phạm Hiệp định, kiên quyết đánh trả các cuộc hành quân lấn chiếm của địch. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Tư Lệnh và Chính ủy quân khu, lực lượng vũ trang Quân khu 9 đã đánh bại cuộc tiến công của 75 tiểu đoàn địch, giữ vững các trọng điểm, tạo thế và lực mới, xây dựng, củng cố mọi mặt. Trước quyết sách sáng tạo, đúng đắn đó, Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền đã chỉ đạo các lực lượng liên tục tiến công làm thất bại kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của địch.
Năm 1974, với cương vị Phó Tư lệnh Bộ Chỉ huy Miền, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ tham gia chỉ đạo Chiến dịch Đường 14 - Phước Long. Sau 24 ngày chiến đấu tiến công, chiều ngày 06/01/1975, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ huy các đơn vị Bộ Chỉ huy Miền làm chủ thị xã Phước Long, tiêu diệt và phá hủy nhiều lực lượng, phương tiện của địch, hoàn thành mục tiêu chiến dịch. Thắng lợi của chiến dịch này thực sự là “đòn trinh sát chiến lược”, khẳng định Mỹ khó lòng can thiệp trở lại đối với miền Nam khi chủ lực ta đánh lớn. Từ cơ sở đó, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định thông qua kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh tháng 4/1975, trên cương vị Phó Tư lệnh Chiến dịch, đồng chí được giao chỉ huy cánh quân Tây - Tây Nam. Đây là một trong những hướng có địa hình phức tạp, nhiều sông ngòi, kênh mương trong khi phương tiện vượt sông của ta còn hạn chế. Đồng chí chỉ đạo lực lượng đặc công bí mật chiếm giữ không cho địch phá những cây cầu trọng yếu trên đường vào Sài Gòn khi chúng rút lui; vận động nhân dân địa phương giúp đỡ làm đường, ủng hộ phương tiện vượt sông bảo đảm bí mật. Đồng thời, đồng chí tổ chức giao nhiệm vụ cụ thể cho từng lực lượng, phân công chỉ huy hướng dẫn, giúp đỡ, giải quyết khó khăn cho các đơn vị. Nhờ đó, cánh quân do đồng chí chỉ huy đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần cùng quân và dân cả nước giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Hai là, những chủ trương, đề xuất tham mưu chiến lược xuất sắc thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-1992)
Sau ngày đất nước thống nhất, cùng với nhân dân cả nước khôi phục phát triển kinh tế - xã hội, quân đội còn tập trung kiện toàn tổ chức lực lượng và điều chỉnh thế bố trí thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giai đoạn này, đất nước phải tiến hành cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Với tư duy một nhà chỉ huy tham mưu chiến lược trong quân đội, đồng chí luôn hoàn thành xuất sắc chức trách được giao. Năm 1977, quân phản động Pôn Pốt ở Campuchia tiến hành đổ bộ đánh chiếm đảo Phú Quốc, tiến công tuyến biên giới Tây Nam, thực hiện chính sách tàn bạo đối với nhân dân ta. Trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí chỉ huy các đơn vị chủ lực, bộ đội địa phương khẩn trương sẵn sàng chiến đấu, xây dựng các tiểu đoàn chiến đấu mạnh, chuyển các tiểu đoàn khung huấn luyện thành tiểu đoàn đủ quân. Mỗi tỉnh tổ chức 1 đại đội pháo, 1 đại đội biên phòng; mỗi huyện tổ chức 1 đại đội dân quân du kích; mỗi xã tổ chức 1 đến 2 tiểu đội du kích tập trung. Thực hiện sự chỉ đạo của trên, đồng chí chỉ huy các đơn vị đánh địch xâm phạm biên giới (An Giang, Kiên Giang), bảo vệ nhân dân. Đồng chí chỉ đạo các đơn vị này vừa chiến đấu, vừa xây dựng huấn luyện bổ sung quân số tại chỗ, lấy thêm các tiểu đoàn địa phương phía sau lên tăng cường cho tuyến biên giới, làm tốt công tác tư tưởng, khắc phục khó khăn nâng cao sức chiến đấu cho bộ đội. Nắm chắc tình hình, đồng chí đã chỉ huy các lực lượng tổ chức phản công tiêu diệt địch trên toàn tuyến biên giới, giành lại thế chủ động, khôi phục lại địa bàn, đẩy địch về bên kia biên giới.
Tháng 6/1978, sau khi được bổ nhiệm làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7 và kiêm Chỉ huy trưởng tiền phương Bộ Quốc phòng, thực hiện chủ trương của Đảng, đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy các đơn vị thuộc quyền vừa tiến công địch trên tuyến biên giới giành thắng lợi, vừa giúp bạn xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Nhờ đó, tháng 12/1978, bạn đã xây dựng được 21 tiểu đoàn, 5 đại đội, 69 đội vũ trang tuyên truyền, đánh dấu sự phát triển bước đầu của bạn.
Ba là, những chủ trương, đề xuất tham mưu chiến lược xuất sắc trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả giúp nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xary, hồi sinh dân tộc Campuchia
Từ năm 1979 đến năm 1984, là Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia; Trưởng ban Lãnh đạo đoàn chuyên gia giúp Campuchia, đồng chí đã quán triệt nghiêm túc đường lối đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam “giúp bạn tức là tự giúp mình”. Đồng chí chuẩn bị chu đáo mọi mặt trong các cuộc tiếp xúc với nước bạn, coi trọng công tác chuyên gia, chỉ đạo bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần và phát huy trình độ, kiến thức, kinh nghiệm của đội ngũ này. Trên cương vị Tư lệnh Mặt trận 719, đồng chí ra chỉ thị “Xây dựng kỷ cương xã hội Campuchia thật nhanh chóng là yêu cầu cấp thiết, tuyệt đối không để tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ, mất chính quyền xảy ra”. Bên cạnh việc truy quét tàn quân Pôn Pốt, đồng chí yêu cầu Quân tình nguyện phải trực tiếp tham gia quản lý trật tự xã hội với biện pháp quan trọng hàng đầu: “Quân tình nguyện phải làm gương”. Đồng chí đã ra những chỉ thị rất nghiêm khắc, quyết liệt để thắt chặt kỷ luật quân đội, coi “kỷ luật dân vận” là “kỷ luật sắt chiến trường”. Bộ đội tình nguyện không được tơ hào dù là cây kim, sợi chỉ của dân, không được động chạm đồ thờ cúng, xâm hại đền, chùa, miếu mạo, tự do tín ngưỡng, không được hủy hoại môi trường, các cấp phải thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kỷ luật... Kết quả hoạt động đối ngoại của đồng chí đã góp phần tích cực vào việc tăng cường quan hệ hữu nghị quốc tế Việt Nam - Campuchia.
Bốn là, những chủ trương, đề xuất tham mưu chiến lược xuất sắc thời kỳ đổi mới đất nước, tăng cường hội nhập quốc tế, nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
Đây là thời kỳ tình hình thế giới và đất nước có nhiều biến động lớn, đòi hỏi phải có những quyết sách lớn, đúng đắn, phù hợp để đưa đất nước phát triển. Năm 1986, trên cương vị Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng chí thị sát nắm chắc tình hình biên giới, nhất là những đơn vị thuộc 6 tỉnh phía Bắc, kịp thời tham mưu cho trên điều chỉnh lực lượng, bố trí thế trận phòng thủ chiến lược phù hợp trên từng hướng, bảo vệ vững chắc chủ quyền Tổ quốc. Đồng thời, tham mưu cho Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ Quốc phòng điều chỉnh tổ chức biên chế, giảm quân số các cơ quan, đơn vị quân đội để giảm bớt gánh nặng chi phí quốc phòng trong điều kiện khủng hoảng kinh tế.
Từ năm 1987 đến tháng 9/1992, với cương vị là Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Lê Đức Anh có những chỉ đạo chiến lược xuất sắc. Đồng chí trực tiếp nhiều lần đi thị sát tình hình biên giới, hải đảo để có cơ sở thực tiễn và lý luận cho những đề xuất của mình. Với nhãn quan nhạy bén của nhà tham mưu chiến lược xuất sắc, đồng chí đã đề xuất giảm quân số thường trực, bố trí lại lực lượng quân đội. Để đảm bảo cho đề xuất tham mưu chiến lược đó, đồng chí Lê Đức Anh trực tiếp gặp gỡ, trình bày, báo cáo xin ý kiến của nhiều đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước ta. Việc giảm quân số, bố trí thế chiến lược của quân đội là vấn đề vô cùng hệ trọng, liên quan mật thiết đến vận mệnh đất nước, không được phép sai lầm. Quân số lớn đòi hỏi ngân sách chi tiêu cho quốc phòng lớn, trong khi đất nước đang khó khăn, yêu cầu của công cuộc đổi mới cần sự đầu tư trong nhiều lĩnh vực. Căn cứ tình hình cụ thể, đồng chí chủ động đề xuất giảm trên 60% quân số thường trực, đề nghị ngân sách quốc phòng từ 15% đến 18%, đầu tiên là tổng ngân sách, tiến tới là ngân sách thu trong nước. Với bản lĩnh, tầm nhìn chiến lược của một vị tướng trận mạc, cùng những luận cứ vững chắc, lập luận sắc sảo, những đề xuất của đồng chí đã được hội nghị Bộ Chính trị đồng ý. Theo đó, quân đội được xây dựng theo hướng tinh, gọn, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao, lực lượng vũ trang được cắt giảm bớt để tập trung cho phát triển đất nước; chiến lược phòng thủ đất nước trong tình hình mới được điều chỉnh để phù hợp, bảo đảm sức mạnh chiến đấu để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo rút các đơn vị chủ lực trên tuyến 1 biên giới về tuyến 2; điều động Quân đoàn 3 vào đứng chân và phối hợp với lực lượng vũ trang Quân khu 5 bảo vệ địa bàn Tây Nguyên, bố trí lại đội hình lực lượng các quân binh chủng thích hợp hơn, chú trọng tăng cường phòng thủ biển đảo. Cùng với việc giảm quân số, chi tiêu ngân sách cho quốc phòng cũng giảm đáng kể so với trước. Cùng với đề xuất giảm quân số thường trực và ngân sách quốc phòng, đồng chí Lê Đức Anh cùng với tập thể Quân ủy Trung ương đề xuất với Bộ Chính trị các giải pháp giải quyết chính sách cải thiện đời sống cán bộ, chiến sĩ, tại ngũ (nâng mặt bằng tiền lương của sĩ quan quân đội và người hưởng lương lên hệ số 1,5; tạo điều kiện về nhà ở cho cán bộ, chiến sĩ), giải quyết việc làm cho số xuất ngũ, kiến nghị với các bộ ngành ưu tiên giải quyết xuất khẩu lao động đối với số anh chị em là bộ đội diện giảm quân số.
Một điểm nổi bật về tham mưu chiến lược của đồng chí Lê Đức Anh thời gian này đối với Đảng và Nhà nước, đó là: Đề xuất đổi mới tư duy trong lĩnh vực quân sự quốc phòng theo đường lối đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986). Đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo các cơ quan Bộ Quốc phòng triển khai kế hoạch điều chỉnh bố trí chiến lược, giảm quân số đồng thời với việc triển khai đề án “Thế trận chiến tranh nhân dân” thực hiện nhiệm vụ “quốc phòng toàn dân” làm cơ sở lý luận và thực tiễn để từ đó tham mưu cho Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 02-NQ/TW Về xác định nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo. Nhờ thực hiện Nghị quyết này, chúng ta đã huy động toàn xã hội vào công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, đủ sức mạnh bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc.
Cùng với đó, tham mưu cho Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương có các chính sách, bước đi phù hợp để bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, từng bước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, gia nhập các tổ chức khu vực, quốc tế.
Có thể khẳng định, với hơn 80 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Đức Anh luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Quân đội giao phó. Ở chiến trường, mặt trận, lĩnh vực nào đồng chí cũng để lại những dấu ấn rõ nét. Đặc biệt, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều biến động, với nhiều nguy cơ và thách thức, Đại tướng Lê Đức Anh có những đề xuất tham mưu chiến lược xuất sắc cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng để tái thiết đất nước, chỉ đạo khởi xướng và triển khai công cuộc đổi mới, phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước; cùng Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân và nền quốc phòng toàn dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh đã cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước đề ra và chỉ đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đưa đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ngày càng nâng cao vai trò, vị thế của đất nước ta trên trường quốc tế.
| Thượng tướng PHAN VĂN GIANG Uỷ viên BCH Trung ương Đảng Uỷ viên Thường vụ Quân uỷ Trung tương Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
|
Đại tướng Lê Đức Anh sinh năm 1920 tại Thừa Thiên Huế, tham gia cách mạng từ năm 17 tuổi (1937). Cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của đồng chí gắn liền với nhiều mốc son lịch sử dân tộc.
Đồng chí đã tham gia quân đội và gắn bó với cuộc đời binh nghiệp đầy gian khổ và oanh liệt. Đồng chí có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và sự trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng chí đã trực tiếp tham gia chỉ huy nhiều chiến dịch lớn, như: Chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Junction City (Gian-xơn Xi-ty) của Mỹ-ngụy (mùa khô 1966-1967); Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; chống địch lấn chiếm, phá hoại Hiệp định Paris (1973); Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975); chỉ huy xây dựng lực lượng vũ trang ở đồng bằng sông Cửu Long và chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc; làm nhiệm vụ quốc tế, cùng quân, dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pol Pot, khôi phục sản xuất, xây dựng lại đất nước...
Hơn 80 năm hoạt động cách mạng, đồng chí đã đảm nhiệm nhiều trọng trách: Tư lệnh Quân khu 9; Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, kiêm chỉ huy trưởng Cơ quan Tiền phương của Bộ Quốc phòng ở Mặt trận Tây Nam; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên các cương vị công tác, đồng chí luôn tận tụy, cương nghị, bản lĩnh và dám làm, dám chịu trách nhiệm, đem hết tài năng, trí tuệ để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Với một thời gian dài công tác, giữ nhiều cương vị quan trọng trong quân đội, Đảng và Nhà nước, bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú, đồng chí luôn thực hiện tốt chức năng tham mưu, lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt cho toàn dân tiến hành hai cuộc kháng chiến trường kỳ giành thắng lợi vẻ vang, thống nhất đất nước, làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Một là, đồng chí Lê Đức Anh luôn quan tâm xây dựng bản chất cách mạng cho quân đội.
Xây dựng bản chất cách mạng là vấn đề quan trọng, cơ bản hàng đầu trong phương châm xây dựng quân đội, vì nó thể hiện sự giác ngộ chính trị của quân đội, là nền tảng để xây dựng tính chính quy, tinh nhuệ và tiến lên hiện đại, là cơ sở để Quân đội ta “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của xây dựng bản chất cách mạng cho quân đội, trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Đại tướng Lê Đức Anh luôn quan tâm giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ có lòng trung thành vô hạn và nhận rõ vinh dự, trách nhiệm với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Đại tướng khẳng định: “Sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội ta [...] bắt nguồn từ đường lối chính trị, đường lối quân sự và sự lãnh đạo, giáo dục của Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ muôn vàn kính yêu. Đó là thước đo phẩm chất, lòng trung thành vô hạn của Quân đội ta đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, kiên định và kiên trì con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ, nhân dân đã lựa chọn, quyết tâm đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Đại tướng Lê Đức Anh cũng chỉ rõ nguồn gốc, mục tiêu chiến đấu, vinh dự, trách nhiệm của mỗi quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam: “Quân đội ta là con em của nhân dân lao động, có lòng yêu nước nồng nàn, được Đảng giác ngộ cách mạng, mang bản chất của giai cấp công nhân, ra đời từ phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, vì nhân dân mà phục vụ. Mục tiêu chiến đấu của Quân đội ta là mục tiêu của Đảng, của dân tộc: Vì độc lập tự do của dân tộc, vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân [...] “Bộ đội Cụ Hồ” là tấm lòng ưu ái, sự tin cậy của nhân dân đối với Quân đội ta. Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu là vinh dự, trách nhiệm của lớp lớp cán bộ, chiến sĩ”.
Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh luôn quan tâm giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ có tinh thần vượt qua khó khăn, ý thức tổ chức kỷ luật tự giác, nghiêm minh, ý chí quyết tâm chiến đấu cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên cương vị là Tỉnh ủy viên kiêm Bí thư Quận ủy Hớn Quản và Chính trị viên Chi đội 1, đồng chí Lê Đức Anh luôn coi trọng tiến hành nhiều biện pháp giáo dục, động viên, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ. Do đó, các đội vũ trang, nhất là Chi đội 1 do đồng chí làm Chính trị viên nổi tiếng đánh giặc giỏi và có kỷ luật dân vận tốt. Khẩu hiệu “Không ra đi khi chưa trồng rau để lại cho người đến sau; không được đi khi chưa múc đầy ang nước; không đi khi nhà cửa chưa quét dọn sạch sẽ” đã trở thành nếp sống của bộ đội Chi đội 1. Ngày 14-6-1948, Chi đội 1 được cấp trên quyết định đổi thành Trung đoàn 301-trung đoàn đầu tiên ở Nam Bộ; đồng chí Lê Đức Anh tiếp tục được giao làm Chính trị viên.
Những năm tiếp theo của cuộc kháng chiến, cùng với thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của một cán bộ quân sự, đồng chí Lê Đức Anh luôn coi trọng tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị, cùng cấp ủy đảng giáo dục chính trị tư tưởng, qua đó xây dựng, củng cố bản chất cách mạng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ. Những đóng góp của đồng chí Lê Đức Anh đã trực tiếp xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu cao, tinh thần khắc phục khó khăn, gian khổ của cán bộ, chiến sĩ, góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh chính trị, tinh thần, giành thắng lợi trong nhiều chiến dịch có ý nghĩa quan trọng, như: Chiến dịch Bến Cát (1950); Chiến dịch Bình Giã (1965); Chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Junction City của Mỹ và tay sai (1966-1967); Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; đánh bại 75 tiểu đoàn địch bình định, lấn chiếm Chương Thiện trên địa bàn Quân khu 9 (1973); Chiến thắng Đồng Xoài-Phước Long (cuối 1974, đầu 1975); Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975) và đánh bại cuộc tiến công xâm lược của tập đoàn phản động Pol Pot trên tuyến biên giới Tây Nam, cùng quân, dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng; bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, biển, đảo của Tổ quốc.
Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh là tấm gương mẫu mực về phẩm chất cách mạng, luôn “tuyệt đối trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn [...] luôn giữ vững ý chí, phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy ở tầm chiến lược, nhưng trong công tác, chiến đấu, đồng chí Lê Đức Anh không ngại hiểm nguy, luôn có mặt ở những nơi khó khăn để chỉ đạo cách giải quyết; gần gũi, thương yêu, quan tâm, chăm lo cho cán bộ, chiến sĩ. Về vấn đề này, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, khẳng định: “Đối với đồng chí, đồng đội, Đại tướng Lê Đức Anh không phân biệt cấp bậc, chức vụ, sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi, luôn quan tâm, chăm lo cho cán bộ, chiến sĩ và thực hiện chế độ, chính sách hậu phương quân đội”. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc còn nhấn mạnh: Là một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng, đồng chí Lê Đức Anh “không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn thể hiện rõ phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc và nhân dân lên trên hết”. Đại tướng, Chủ tịch nước Lê Đức Anh luôn căn dặn cấp ủy, chính quyền các địa phương: “Chúng ta làm cách mạng để giành chính quyền cho nhân dân, chính quyền của dân, do dân, vì dân”; theo đó, “cấp ủy, chính quyền địa phương phải có giải pháp thiết thực để bảo đảm các điều kiện phát triển sản xuất, bảo đảm quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân”. Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh “là một nhà chính trị, nhà quân sự tài năng [...] tấm gương sáng để đồng bào, đồng chí, cán bộ, chiến sĩ cả nước yêu quý, kính trọng, học tập và noi theo”.
Hai là, đồng chí Lê Đức Anh có những cống hiến to lớn trong xây dựng, hoàn thiện tổ chức, biên chế của quân đội, bảo đảm phù hợp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ qua từng thời kỳ cách mạng.
Xây dựng, hoàn thiện tổ chức, biên chế là một trong những nội dung cốt lõi trong xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng chí Lê Đức Anh đã dành nhiều tâm huyết nghiên cứu, đề xuất và trực tiếp triển khai xây dựng, hoàn thiện tổ chức, biên chế của quân đội, bảo đảm phù hợp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ.
Đầu năm 1957, cách mạng Việt Nam có những chuyển biến quan trọng trên cả hai miền Nam-Bắc, đặt ra yêu cầu phải tiếp tục xây dựng quân đội theo hướng chính quy, hiện đại, nâng cao sức mạnh, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc và chi viện chiến trường miền Nam. Tháng 3-1957, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) họp Hội nghị lần thứ 12 (mở rộng), ra Nghị quyết về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, chỉ rõ: “Tích cực xây dựng Quân đội nhân dân hùng mạnh tiến dần từng bước lên chính quy và hiện đại”. Hội nghị đã chính thức phê chuẩn Kế hoạch xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng 5 năm (1955-1959). Quán triệt Nghị quyết 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và sự chỉ đạo của Tổng Quân ủy, Tổng Tham mưu trưởng giao cho Cục Quân lực chủ trì đề án điều chỉnh xây dựng Quân đội giai đoạn 1956-1960.
Tháng 6-1955, cấp trên bổ nhiệm đồng chí Lê Đức Anh làm Cục phó Cục Tác chiến; đến tháng 5-1957, đồng chí được điều sang làm Cục phó Cục Quân lực; tháng 8-1961, đồng chí được bổ nhiệm Cục trưởng Cục Quân lực; tháng 8-1963, đồng chí được bổ nhiệm Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Dấu ấn của đồng chí Lê Đức Anh trong thời gian này là đã tập trung nghiên cứu, xây dựng tổ chức quân đội, trước hết và chủ yếu là các đơn vị ở miền Bắc, theo hướng chính quy, hiện đại, biên chế gọn, làm việc hiệu quả. Với tinh thần làm việc trách nhiệm, nghiêm túc, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo tính biểu biên chế cho từng quân khu, nhà trường theo chức trách, nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, đi từ việc xác định chức danh để bố trí nhân sự vào các vị trí thích hợp, nhằm phát huy hết phẩm chất và năng lực của mọi cá nhân, tổ chức. Ngày 21-2-1958, “Đề án Điều chỉnh xây dựng Quân đội giai đoạn 1956-1960” hoàn thành, được Bộ Chính trị thông qua; ngày 24-2-1958, Kế hoạch Chỉnh biên được hoàn chỉnh. Đầu tháng 3-1958, Bộ Tổng Tham mưu ra Chỉ thị số 258.TV “Về công tác chỉnh biên năm 1958” trong toàn quân; ngày 21-3-1958, Bộ Quốc phòng ra “Quyết định về tổ chức biên chế, trang bị của các đơn vị binh chủng lục quân và những đơn vị đầu tiên của không quân, hải quân”. Tháng 7-1958, Cục Quân lực đã cùng các cơ quan có liên quan thực hiện chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu hoàn chỉnh đề án chỉnh biên cơ sở. Yêu cầu chỉnh biên phải tạo cơ sở vật chất (kho, xưởng, bệnh viện) có biên chế tổ chức phù hợp với nhu cầu ngày càng tiến lên chính quy, hiện đại cả thời bình và thời chiến của quân đội. Ngày 20-10-1958, Bộ Tổng Tham mưu ra chỉ thị chỉnh biên cơ quan tỉnh đội, thành đội, huyện đội, châu đội, quy định cụ thể tổ chức cơ quan quân sự địa phương. Đây là những cơ sở rất quan trọng để Quân đội ta hoàn chỉnh từng bước về tổ chức, biên chế, nâng cao sức mạnh chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Tháng 1-1959, Hội nghị lần thứ 15 (mở rộng), Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp xác định nhiệm vụ của cách mạng miền Nam, mối quan hệ giữa cách mạng hai miền Nam-Bắc. Đến giữa năm 1959, Hội nghị Trung ương 15 (lần thứ hai) và sau đó là Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9-1960) tiếp tục khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thống nhất đất nước. Đại hội xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: “Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc, phong kiến”; nhiệm vụ trước mắt là: “Chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam”. Đại hội quyết định thành lập Trung ương Cục để trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, trước mắt là ở Nam Bộ. Về quốc phòng, Đại hội chủ trương: “Xây dựng Quân đội thường trực tiến lên chính quy, hiện đại” để bảo vệ công cuộc lao động hòa bình của nhân dân ở miền Bắc và tích cực chi viện chiến trường miền Nam.
Cụ thể hóa nhiệm vụ quân sự mà Đại hội Đảng đề ra, ngày 25-2-1961, Bộ Chính trị phê chuẩn “Kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai (1961-1965)”, nhấn mạnh: “Chính quy hóa và hiện đại hóa, bảo đảm cho quân đội có đầy đủ và có tỷ lệ tương xứng các thành phần binh chủng, quân chủng, có sức chiến đấu cao; xây dựng lực lượng thời bình phải tính đến khả năng chuẩn bị cho thời chiến”.
Trên cơ sở những kết quả đạt được và những kinh nghiệm trong quá trình thực hiện Kế hoạch Quân sự 5 năm lần thứ nhất, bước vào thực hiện Kế hoạch xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng 5 năm lần thứ hai, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Cục Quân lực hoàn chỉnh kế hoạch tổ chức quân đội, trang bị và xây dựng cơ sở vật chất theo hướng tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chính quy, hiện đại. Ngày 28-2-1961, “Kế hoạch tổ chức trang bị và xây dựng cơ sở vật chất cho Quân đội (1961-1965)” do Cục Quân lực chuẩn bị được Quân ủy Trung ương thông qua.
Đến cuối năm 1963, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, công tác tổ chức, biên chế trang bị và chấn chỉnh bộ đội thường trực đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Việc chấp hành điều lệnh, điều lệ của quân đội đi vào nền nếp. Công tác phòng thủ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, nghiên cứu khoa học, xây dựng dân quân và lực lượng dự bị... đều được triển khai đồng bộ. Quân đội đã có bước trưởng thành về tổ chức, biên chế, được xây dựng tương đối chính quy, gồm nhiều quân, binh chủng, sư đoàn, trung đoàn được trang bị thống nhất, hiện đại, khả năng cơ động, tác chiến được nâng cao một bước.
Từ tháng 2-1964 đến năm 1975, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ vào miền Nam công tác, giữ các chức vụ: Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam; Tư lệnh Quân khu 9; Phó tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, Phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân hướng Tây-Tây Nam đánh vào Sài Gòn, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Chỉ huy trưởng Tiền phương Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam. Thời gian này, đồng chí đã có nhiều đề xuất quan trọng và trực tiếp soạn thảo, triển khai kế hoạch xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nói chung, các đơn vị quân đội nói riêng trên các địa bàn, đơn vị mình phụ trách, bảo đảm vừa thực hiện nghiêm chủ trương của cấp trên về xây dựng quân đội, vừa hoàn thành nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trên hướng, địa bàn phụ trách.
Ngày 18-2-1987, Bộ Chính trị và Hội đồng Nhà nước bổ nhiệm đồng chí Lê Đức Anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Với cương vị người chỉ huy cao nhất của quân đội, đồng chí cùng các đồng chí lãnh đạo Bộ Quốc phòng đề xuất Bộ Chính trị thông qua và trực tiếp triển khai thực hiện kế hoạch xây dựng quân đội tinh, gọn, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, trực tiếp là đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, thế trận phòng thủ đất nước được bố trí lại phù hợp, hiệu quả hơn; thế trận chiến tranh nhân dân và sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân được phát huy cao độ, nhất là ở các vùng biên giới, hải đảo, địa bàn chiến lược; đường biên giới với các nước được xây dựng, củng cố; lực lượng phòng thủ trên biển, đảo được tăng cường, quân số thường trực giảm nhưng tinh nhuệ, hiện đại, cơ động linh hoạt, chất lượng được nâng cao. Đồng thời, chú trọng xây dựng công nghiệp quốc phòng tự chủ, có khoa học kỹ thuật tiên tiến, có lực lượng cán bộ và nhân viên khoa học ngày càng phát triển; chú trọng nâng cao chất lượng bảo quản, bảo dưỡng và cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị tiến tới tự động hóa phòng không tầm trung và tầm cao; lực lượng hải quân phát triển và bố trí ngày càng thêm chặt chẽ. Cơ cấu biên chế, tổ chức và nhiệm vụ, chức năng của các học viện, nhà trường trong toàn quân được điều chỉnh thích hợp. Điều đó đã giảm được chi phí quốc phòng trong điều kiện đất nước còn rất nhiều khó khăn, khi vừa phải tập trung mọi nguồn lực khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa phải đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế theo đường lối đổi mới để sớm đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội.
Ba là, đồng chí Lê Đức Anh luôn coi trọng phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Nghệ thuật quân sự Việt Nam bao gồm chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Là một nhà chính trị, quân sự tài ba của Đảng, đồng chí Lê Đức Anh đã sớm bộc lộ tư chất và khả năng chỉ huy tham mưu quân sự. Trưởng thành trong hoạt động thực tiễn cách mạng phong phú, đồng chí Lê Đức Anh có nhiều đóng góp quan trọng trong việc phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngay trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên cương vị là Tham mưu trưởng Khu 7-một địa bàn trọng điểm, nơi diễn ra những trận đánh quyết liệt giữa quân và dân ta với quân đội Pháp và tay sai, đồng chí Lê Đức Anh đã dành sự quan tâm lớn cho công tác tổ chức chiến dịch, xây dựng và phát triển chiến thuật cho bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương. Dưới sự chỉ đạo của Bộ tư lệnh và Cơ quan Tham mưu, lực lượng vũ trang Khu 7 đã tổ chức nhiều trận đánh tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Thông qua tổng kết thực tiễn chiến đấu, bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương Khu 7 đã tìm ra nhiều cách đánh sáng tạo, hiệu quả. Từ cách đánh bí mật tiếp cận, thả lựu đạn vào bên trong tháp canh diệt địch, phơi sương làm mất hơi người để bí mật đột nhập vào đồn giặc, dùng đạn lõm và bộc phá để diệt lô cốt đầu cầu, đến cách dùng hai mũi đặc công cùng tiến hành mở hai cửa mở cho bộ binh xung phong tiến công đồn địch, tuy lúc đầu còn sơ khai, nhưng đã hình thành và phát triển thành “cách đánh đặc công”, “chiến thuật đặc công”-nỗi khiếp sợ đối với quân Pháp và quân Mỹ sau này.
Trong thời gian công tác tại Bộ Tổng Tham mưu, trên cương vị Cục phó Cục Tác chiến, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ trực tiếp nghiên cứu kế hoạch xây dựng công trình phòng thủ bờ biển từ Quảng Ninh đến Quảng Bình. Đồng chí được Bộ Tổng Tham mưu cử làm trưởng đoàn cán bộ sang Trung Quốc để nghiên cứu những vấn đề chiến thuật, cách đánh đường hầm, công tác kế hoạch xây dựng công trình quốc phòng quốc gia... trong thời gian hơn một tháng. Sau khi về nước, đoàn họp, thảo luận thống nhất cách vận dụng vào địa hình Việt Nam để báo cáo Bộ và tổ chức phổ biến kinh nghiệm, hướng dẫn các quân khu xây dựng các công trình theo bản thiết kế phù hợp với cách đánh được Bộ phê duyệt. Đây là những tiền đề rất quan trọng cho công tác xây dựng công trình phòng thủ, vận dụng chiến thuật cách đánh đường hầm, địa đạo cho các đơn vị bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương cả nước trong hai cuộc kháng chiến.
Mùa khô năm 1966-1967, đế quốc Mỹ và tay sai mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, mà đỉnh cao là cuộc hành quân Junction City đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và chủ lực của ta, bịt chặt biên giới Việt Nam-Campuchia, mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn. Để vừa bảo toàn lực lượng, bám trụ trên địa bàn tác chiến không có dân, vừa đánh tiêu hao, tiêu diệt địch, trên cương vị Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, đồng chí Lê Đức Anh đã đề xuất: “Di chuyển những người và tổ chức thật cần thiết thuộc Trung ương Cục và Bộ tư lệnh Miền đến nơi an toàn; lực lượng còn lại tổ chức thành các “huyện căn cứ”, các “xã căn cứ” để đánh địch tại chỗ, phát huy cao độ ưu thế của du kích chiến, kết hợp với các đơn vị chủ lực cơ động đánh vào bên sườn và phía sau đội hình quân địch”. Trung ương Cục và Bộ tư lệnh Miền nhất trí đề xuất này và giao đồng chí Lê Đức Anh tổ chức lực lượng tại chỗ đánh địch. Sau gần hai tháng chiến đấu (22-2-1967/15-4-1967), ta đã loại khỏi chiến đấu hơn 14.000 tên và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch, bảo vệ vững chắc căn cứ, cơ quan đầu não kháng chiến, đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ-ngụy. Đề xuất của đồng chí Lê Đức Anh trong chiến dịch này là nét độc đáo, sáng tạo về nghệ thuật chiến dịch, tạo ra “thế trận chiến tranh nhân dân trên một địa bàn không có dân” để đánh địch, phát huy hiệu quả và giành thắng lợi to lớn trong thực tiễn.
Năm 1974, trên cương vị Phó tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, đồng chí Lê Đức Anh khẩn trương xây dựng Kế hoạch Tác chiến mùa khô 1974-1975; chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị chủ lực Miền huấn luyện và hoạt động tác chiến theo kế hoạch mới, nhất là tập huấn cách đánh công kiên. Cuối năm 1974, đầu năm 1975, đồng chí cùng Bộ Tư lệnh Miền chỉ huy các đơn vị liên tiếp tiến công địch, giành thắng lợi trong Chiến dịch Đường 14-Phước Long (6-1-1975). Đây được coi là “Trận trinh sát chiến lược”, là cơ sở quan trọng để Trung ương Đảng hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975), đồng chí Lê Đức Anh đảm nhiệm Phó tư lệnh Chiến dịch kiêm Tư lệnh cánh quân tiến công trên hướng Tây-Tây Nam đánh vào Sài Gòn. Với tài thao lược và kinh nghiệm trận mạc được tích lũy trong suốt hai cuộc chiến tranh giải phóng, đồng chí Lê Đức Anh đã tổ chức lực lượng, xác định các hướng, mũi tiến công, giao nhiệm vụ, hiệp đồng cụ thể, rõ ràng cho từng bộ phận; chỉ huy cánh quân đánh chiếm các mục tiêu theo kế hoạch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đây là những cơ sở thực tiễn quan trọng, góp phần hoàn chỉnh lý luận nghệ thuật chiến dịch quy mô lớn của Quân đội ta.
Đại tướng Lê Đức Anh đã đi xa, nhưng những cống hiến của đồng chí với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, sự nghiệp xây dựng quân đội vẫn luôn có giá trị sâu sắc về lý luận và thực tiễn. Với hơn 80 năm hoạt động cách mạng, Đại tướng Lê Đức Anh đã tham gia chỉ huy chiến đấu trên chiến trường miền Nam trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, gần 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia, đảm nhiệm cương vị Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch nước giai đoạn đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Trên cương vị nào, Đại tướng Lê Đức Anh “cũng phát huy phẩm chất và năng lực, đóng góp hết sức mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân”; trong đó, nổi bật là những công lao, đóng góp to lớn của Đại tướng với sự nghiệp xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Đại tướng Lê Đức Anh là dịp để chúng ta tưởng nhớ, tôn vinh và tri ân những cống hiến to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc nói chung và đối với quân đội nói riêng; tuyên truyền, giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ học tập, rèn luyện theo tấm gương đạo đức cách mạng của đồng chí; nêu cao ý chí tự lực, tự cường, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, đoàn kết xây dựng quê hương, đất nước ngày càng văn minh, giàu đẹp và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trung tướng NGUYỄN TÂN CƯƠNG
Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
1. Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh - người chiến sỹ cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo tài năng đã cống hiến trọn cuộc đời vì sự nghiệp cách mạng
Đồng chí Lê Đức Anh (1920 - 2019) sinh ra trong một gia đình, dòng tộc có truyền thống hiếu học, có nhiều đời làm quan dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, ở xã Lộc An, huyện Phú Lộc - một làng quê có truyền thống văn hóa và lịch sử lâu đời ở Huế. Thân phụ từng là sỹ phu tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp. Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, phải chứng kiến và thấu hiểu sự nghèo đói, lam lũ của người dân, gia đình dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, phong kiến; cùng với đó, do ảnh hưởng từ các phong trào đấu tranh cách mạng trên quê hương Phú Lộc của các thế hệ tiền bối, của các bậc cha chú, đồng chí Lê Đức Anh đã sớm giác ngộ cách mạng và tích cực tham gia các phong trào đấu tranh yêu nước.
Năm 1938, sau quá trình tham gia phong trào đấu tranh dân chủ ở Phú Vang, đồng chí Lê Đức Anh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1939, trước sự khủng bố ráo riết của kẻ thù, hệ thống cơ sở Đảng ở Huế bị tổn thất hết sức nặng nề, để bảo toàn lực lượng theo chủ trương của tổ chức, đồng chí đã bí mật rời quê hương vào Đà Lạt hoạt động và tham gia xây dựng tổ chức cách mạng.
Thời kỳ từ năm 1939 - 1944, đồng chí hoạt động trong các hội Ái hữu ở Đà Lạt, Lộc Ninh, Thủ Dầu Một và các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh, Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch.
Trong Cách mạng Tháng 8 năm 1945, với vai trò là Ủy viên Ban cán sự Đảng tỉnh Thủ Dầu Một kiêm Bí thư Chi bộ Lộc Ninh, đồng chí Lê Đức Anh đã lãnh đạo công nhân, nhân dân và đồng bào dân tộc thiểu số giành chính quyền thắng lợi ở các quận Hớn Quản, Bù Đốp và chi viện cho Thủ Dầu Một, đóng góp quan trọng vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám ở Thủ Dầu Một.
Sau Cách mạng Tháng Tám, đồng chí Lê Đức Anh tham gia quân đội và bắt đầu gắn bó với cuộc đời binh nghiệp. Cuộc đời gắn với nhiều chiến trường từ Nam ra Bắc, đồng chí được tin tưởng giao những trọng trách quan trọng: Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8, Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn, Tham mưu Phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ; từ năm 1955 đến năm 1963, đồng chí là Phó Cục trưởng Cục Tác chiến, rồi Cục phó, Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu và trở thành Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; từ đầu năm 1964, đồng chí lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Tham mưu trưởng, Tư lệnh Khu 9, Phó Bí thư Khu ủy; Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Miền, Ủy viên Quân ủy Miền.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng chí được phân công chỉ huy bộ đội ở hướng Tây Sài Gòn, từ Long An đánh vào Tổng nha Cảnh sát và Cảnh sát Đô thành. Quá trình diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, trên cơ sở phân tích, đánh giá thấu đáo tình hình, đồng chí đã có những đề xuất quan trọng về chuyển hướng tiến công. Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã có ý nghĩa quan trọng, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh.
Sau khi Hiệp định Pari được ký kết (27/01/1973), chính quyền và quân đội Sài Gòn ngang nhiên vi phạm Hiệp định, ráo riết thực hiện kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ”, đẩy mạnh bình định lấn chiếm. Trước tình hình đó, mặc dù chưa có chủ trương của trên về tiến công quân sự, song dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, sự chỉ huy trực tiếp, quyết đoán và dám chịu trách nhiệm của Tư lệnh Lê Đức Anh, quân và dân Quân khu 9 đã chiến đấu ngoan cường, bẻ gãy các cuộc hành quân lấn chiếm quy mô cấp quân đoàn của địch đánh vào Chương Thiện, lần lượt đánh bại 75 tiểu đoàn cùng với kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” của chúng.
Với những thành tích trong chỉ huy chống địch lấn chiếm, phá hoại Hiệp định Pari năm 1973 trên địa bàn Quân khu 9 và những thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1964 - 1974; ngày 16/4/1974, đồng chí Lê Đức Anh được Chủ tịch nước ký quyết định phong quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng chí Lê Đức Anh đảm nhiệm cương vị Phó Tư lệnh Chiến dịch kiêm Tư lệnh cánh quân tiến công trên hướng tây - tây nam đánh vào Sài Gòn. Với tài thao lược và kinh nghiệm trận mạc được tích lũy trong suốt hai cuộc chiến tranh giải phóng, đồng chí Lê Đức Anh đã tổ chức lực lượng, chỉ huy các cánh quân đánh chiếm các mục tiêu theo kế hoạch tác chiến, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt của dân tộc.
Tư lệnh Quân tình nguyện làm nghĩa vụ quốc tế cao cả giúp bạn Campuchia và Trưởng ban Lãnh đạo các chuyên gia tại Campuchia, đồng chí Lê Đức Anh đã trực tiếp chỉ huy chiến trường và giành nhiều thắng lợi quan trọng, góp phần bảo vệ biên giới thiêng liêng của Tổ quốc, giúp dân tộc Campuchia khỏi họa diệt chủng và hồi sinh đất nước. Những việc làm của đồng chí được nhân dân Campuchia quý trọng và nhân dân tiến bộ trên thế giới đánh giá cao sự giúp đỡ to lớn của quân và dân Việt Nam đối với nhân dân Campuchia. Với việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đồng chí Lê Đức Anh được thăng quân hàm từ Trung tướng lên Thượng tướng (tháng 01/1981) và lên Đại tướng (tháng 12/1984).
Tháng 12/1986, Đại tướng Lê Đức Anh là Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, từ năm 1987 là Bộ trưởng Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. Đồng chí là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 1992 - 1997. Đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng khóa VII; Ủy viên Bộ Chính trị khóa V, VI, VII, VIII; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ năm 1997 đến tháng 4 năm 2001; đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII, IX.
Hơn 80 năm tham gia hoạt động cách mạng, gần 30 năm chỉ huy chiến đấu trên chiến trường Nam Bộ - Thành đồng Tổ quốc, gần 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia, Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng dày dạn trận mạc, một nhà chỉ huy xuất sắc, có tầm nhìn chiến lược, có chiến thuật tài tình và linh hoạt xử lý các tình huống phức tạp. Đồng chí luôn có mặt trên các chiến trường ác liệt nhất, trong những thời điểm gay go nhất với nhiều trận đánh mang tính lịch sử, tạo ra những bước ngoặt lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trên lĩnh vực chính trị và đối ngoại, thực hiện nhiệm vụ của Bộ Chính trị giao và xuất phát từ lòng nhân ái, từ truyền thống hoà hiếu của dân tộc, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã góp một phần quan trọng trong quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, nổi bật là quá trình xúc tiến việc bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc; ký kết nhiều hiệp định, điều ước quốc tế, để lại những dấu ấn quan trọng và tình cảm tốt đẹp với các quốc gia, cộng đồng quốc tế. Thông qua đó, ta đã tranh thủ được sự giúp đỡ, khai thác được thế mạnh của từng quốc gia, từng tổ chức quốc tế vào công cuộc tái thiết và xây dựng đất nước, từng bước nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế.
Trưởng thành từ một người lính, người chỉ huy qua nhiều trận đánh, rồi sau này khi là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Lê Đức Anh thấu hiểu hơn ai hết những mất mát, hy sinh để có ngày toàn thắng. Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã đề xuất việc phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và được Bộ Chính trị đồng ý. Ngày 29/12/1994, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, hàng trăm Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở tuổi ngoài 70 đã cùng duyệt hàng quân danh dự với người đứng đầu Nhà nước Việt Nam - Chủ tịch nước Lê Đức Anh trong khuôn viên Phủ Chủ tịch.
Không chỉ là một nhà lãnh đạo tài năng, một chiến sĩ quân đội có tầm nhìn chiến lược, sắc sảo, thận trọng và quyết đoán, đồng chí Lê Đức Anh còn giàu lòng nhân ái, chân tình, độ lượng, luôn dành tình cảm thương yêu và quan tâm chăm lo đời sống của đồng bào, đồng chí, chiến sĩ.
Với 99 tuổi đời, hơn 80 năm tuổi Đảng, Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã dành trọn cuộc đời cống hiến vì sự nghiệp cách mạng. Luôn gánh vác những trọng trách quan trọng trong suốt chiều dài đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dù ở cương vị nào, đồng chí cũng luôn dành trọn tâm huyết, trí tuệ và tài năng, làm tròn nhiệm vụ của mình với tình cảm cách mạng trong sáng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đồng chí đã đi xa nhưng sự hy sinh, cống hiến của đồng chí sẽ mãi là những trang sử vàng sáng chói, trường tồn với thời gian.
2. Học tập tấm gương Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh, Đảng bộ và nhân dân Thừa Thiên Huế quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh
Thừa Thiên Huế là quê hương, nơi lưu giữ nhiều kỷ niệm thời thơ ấu của Đại tướng, cũng là nơi đã nuôi dưỡng, hun đúc tinh thần, ý chí cách mạng của đồng chí Lê Đức Anh. Chính tình yêu quê hương là động lực, là sức mạnh để đồng chí hăng hái tham gia hoạt động cách mạng, cùng đồng bào cả nước đứng lên chống lại ách áp bức của thực dân, đế quốc, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Mặc dù sớm thoát ly gia đình và quê hương để tham gia hoạt động cách mạng, đến khi trở thành người lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và lúc nghỉ công tác, đồng chí vẫn luôn dành thời gian và tình cảm đặc biệt đối với Thừa Thiên Huế. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đồng chí nhiều lần trở lại Thừa Thiên Huế và gợi mở giúp quê hương khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội; gợi ý cho lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế xin phép Chính phủ xây dựng cảng Chân Mây để vừa phục vụ kinh tế, vừa phục vụ quốc phòng. Trong những năm 2004 - 2007, đồng chí đã nhiều lần cùng với các bộ, ban, ngành Trung ương về làm việc với lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế và đặc biệt quan tâm đề xuất để tỉnh triển khai thực hiện các đề án lớn như: Đề án công trình thủy lợi hồ Tả Trạch; Đề án nâng cấp thành phố Huế từ đô thị loại 2 lên đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh; Đề án nâng cấp sân bay Phú Bài.
Là một người con sâu nặng nghĩa tình với quê hương, đồng chí vui mừng và phấn khởi trước những khởi sắc của Thừa Thiên Huế, đồng chí luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải không ngừng chăm lo cho đời sống, học tập và lao động sản xuất của nhân dân, của đồng bào, chiến sĩ, luôn đoàn kết, đồng lòng tích cực xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, giàu mạnh. Trong ký ức của mỗi người dân Thừa Thiên Huế, đồng chí Lê Đức Anh là một vị Chủ tịch nước, vị Đại tướng gần gũi, giản dị và thân thương, một nhân cách đức độ với tài - đức vẹn toàn. Đồng chí Lê Đức Anh là một tấm gương sáng để Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế tri ân, học tập và noi theo.
Với niềm tự hào và kính trọng đối với Chủ tịch nước, Đại tướng, trong những năm qua, Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế vẫn luôn khắc ghi sâu sắc những lời căn dặn, dạy bảo của đồng chí, luôn nêu cao ý chí, lòng kiên trung cách mạng, đoàn kết, đồng lòng vượt qua những khó khăn, thử thách, quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và đã đạt được những kết quả quan trọng và toàn diện. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn bởi thiên tai, dịch bệnh, Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế đã nỗ lực phấn đấu, vững bước đi lên và đạt những thành quả quan trọng trên các lĩnh vực. Tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức khá, cao hơn bình quân chung của cả nước và một số tỉnh trong khu vực miền Trung. Thu ngân sách nhà nước tăng bình quân gần 8%/năm. Thu nhập bình quân đầu người đứng thứ 3 Vùng duyên hải miền Trung. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt trên 100.000 tỷ đồng. Kết cấu hạ tầng, bộ mặt đô thị, nông thôn ngày càng khang trang, hiện đại. Nhiều công trình, dự án quan trọng được hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đề án di dời dân cư, giải phóng mặt bằng khu vực I di tích Kinh thành Huế được triển khai quyết liệt, có ý nghĩa lớn về mặt xã hội và kinh tế. Vị trí đô thị “di sản, văn hóa, sinh thái, cảnh quan, thân thiện môi trường và thông minh” của tỉnh được xác lập và khẳng định. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Quan hệ đối ngoại tiếp tục được mở rộng. Khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày càng đi vào chiều sâu. Bộ máy hành chính từng bước được đổi mới theo hướng tinh gọn, hiện đại, hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả.
Những thành tựu mà Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế đã đạt được trong thời gian qua thể hiện tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trong tỉnh, là kết quả của quá trình phấn đấu đầy năng động và sáng tạo; là dấu ấn của sự đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện của các cấp ủy Đảng và chính quyền; sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương nhưng cao hơn hết, đây là sản phẩm của sức mạnh tinh thần to lớn được xây dựng và vun đắp của đồng bào, chiến sĩ, những người con ưu tú của quê hương đã không quản ngại khó khăn, gian khổ hy sinh trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những kết quả đạt được là hết sức quan trọng và toàn diện, song phía trước còn rất nhiều khó khăn, thách thức. Với tinh thần kế thừa, phát huy những kết quả đã đạt được và quyết tâm khắc phục những khó khăn, hạn chế, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ XVI đã xác định phương châm: “Đoàn kết - Dân chủ - Sáng tạo - Phát triển” với 15 chỉ tiêu kinh tế - xã hội đặt ra trong nhiệm kỳ mới (2020 - 2025) và 6 chương trình trọng điểm tập trung thực hiện. Đại hội cũng đã xác định tập trung triển khai 4 nhóm giải pháp đột phá chiến lược, gồm có: cơ chế, chính sách đặc thù để xây dựng đô thị di sản và phát triển kinh tế; phát triển nguồn nhân lực; đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng, phát triển và chuyển giao khoa học - công nghệ, tạo động lực mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; bồi đắp, phát huy giá trị văn hóa và con người Huế.
Tiếp tục phát huy ý chí, nghị lực của một vùng đất giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, là cái nôi đã sản sinh và nuôi dưỡng biết bao thế hệ lãnh đạo tài năng, tinh hoa của dân tộc, Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế khẳng định quyết tâm tiếp tục nỗ lực, đoàn kết, sáng tạo, biến chủ nghĩa anh hùng thành sức mạnh tinh thần và hành động; đem tất cả tâm huyết, tài năng và trí tuệ, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa Thừa Thiên Huế ngày càng đổi mới, hội nhập và phát triển, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 54-NQ/TW, ngày 10/12/2019 của Bộ Chính trị về xây dựng phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; góp phần đáp ứng nguyện vọng và lòng mong mỏi của Đảng, Bác Hồ vĩ đại, của các thế hệ tiền bối, của Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh - người con ưu tú của quê hương và dân tộc.
LÊ TRƯỜNG LƯU
Cuộc đời của Đại tướng Lê Đức Anh gắn liền với lịch sử nước nhà, nhất là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thế kỷ 20 và thập niên đầu của thế kỷ 21.
Đại tướng Lê Đức Anh đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh. Quá trình hoạt động cách mạng, Đại tướng đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc, trong đó có phong cách lãnh đạo, chỉ huy của một vị tướng tài ba, quả cảm; một nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng, luôn một lòng vì dân, vì nước, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Những nét phong cách lãnh đạo, chỉ huy của Đại tướng Lê Đức Anh được tập trung thể hiện nổi bật trên một số nội dung, đó là:
1. Tác phong lãnh đạo, chỉ huy quyết đoán, táo bạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm
Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng trận mạc, một nhà chỉ huy xuất sắc, vị tướng mà bộ quân phục thấm đẫm khói lửa chiến tranh. Ông đã từng chỉ huy bộ đội tham gia những trận đánh, những chiến dịch quan trọng, những sự kiện mang tính bước ngoặt của chiến tranh như: Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; cuộc chiến đấu chống lấn chiếm vùng giải phóng năm 1973; Chiến dịch Đường 14-Phước Long năm 1974; Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975; chỉ huy lực lượng vũ trang Quân khu 9 bảo vệ vững chắc biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc và phối hợp cùng lực lượng cách mạng Campuchia mở chiến dịch phản công giải phóng Campuchia giúp nhân dân nước Bạn thoát khỏi chế độ diệt chủng năm 1979; chỉ huy Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia từ năm 1981 đến 1986. Ông còn là người trực tiếp thị sát, chỉ đạo và có những đóng góp quan trọng trong hoạch định, tổ chức xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc, bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Cuộc đời binh nghiệp của Đại tướng gắn liền với các chiến trường từ phía Nam đến phía Bắc và trên chiến trường nước Bạn.
Đầu năm 1967, trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, Mỹ-ngụy huy động một lực lượng quân sự lớn mở cuộc hành quân Junction City, nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và chủ lực của ta tại căn cứ Dương Minh Châu. Đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền kiên quyết không di chuyển cơ quan, đồng thời tổ chức lực lượng tại chỗ đánh địch theo phương thức mới “bám trụ và bung ra”. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền, đồng chí Lê Đức Anh đã tổ chức đội ngũ cán bộ, nhân viên ở các cơ quan thành nhiều đội du kích ấp, xã. Lực lượng này chiến đấu bám trụ, tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân ở địa bàn không có dân, góp phần đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn của địch, bảo vệ an toàn cơ quan Trung ương Cục, Bộ chỉ huy Miền và hệ thống kho tàng chiến lược của ta.
Sau những nỗ lực của 3 đợt tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, cách mạng miền Nam nói chung, Quân khu 9 nói riêng đứng trước những khó khăn nghiêm trọng, địa bàn đứng chân của ta bị thu hẹp, bộ đội chủ lực Miền phải hoạt động chủ yếu trên đất Campuchia. Trước tình hình đó, một lần nữa trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Bộ tư lệnh kiên quyết bám trụ ở U Minh Thượng. Quyết định này đã giữ vững được vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 9 đối với các lực lượng vũ trang trên địa bàn. Lực lượng vũ trang và nhân dân Quân khu 9 dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu đã chủ động phản công đánh bại 2 cuộc tiến công của địch, phá tan kế hoạch “Tô dày, lấp kín U Minh”, giữ vững địa bàn.
Năm 1973, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí đã cùng Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu chỉ đạo giữ vững thế tiến công, đồng thời điện xin ý kiến của Bộ Chính trị, Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền. Trước quyết định rút lực lượng, đồng chí đã thẳng thắn trả lời: “Tôi phải đánh đã...” chứ kiên quyết không để mất đất, mất dân. Dưới sự chỉ huy của đồng chí, các lực lượng vũ trang Quân khu 9 đã anh dũng chiến đấu, bẻ gãy nhiều hoạt động nống lấn của địch, giữ vững địa bàn trọng điểm, tạo được thế và lực mới, làm cơ sở cho Trung ương Cục, Bộ chỉ huy Miền và cấp trên có chủ trương chỉ đạo đúng đắn.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, đồng chí Lê Đức Anh đảm trách vị trí chỉ huy trực tiếp cánh quân hướng Tây-Tây Nam Sài Gòn (Đoàn 232). Trên cơ sở đánh giá chính xác tình hình, đồng chí cùng đội ngũ cán bộ các cấp, chỉ huy cánh quân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chia cắt lực lượng địch ở Sài Gòn, miền Đông Nam Bộ với vùng Đồng bằng sông Cửu Long; phát triển tiến công biệt khu thủ đô, tổng nha cảnh sát; phối hợp cùng với các hướng khác giải phóng Sài Gòn.
Ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí đã thận trọng triển khai chủ trương giảm biên chế. Là người nắm rõ tình hình khu vực biên giới Việt Nam - Campuchia vẫn còn tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp, căng thẳng, đồng chí bàn bạc thống nhất trong Đảng ủy, Bộ tư lệnh tạm thời giữ lại nhiều hạ sĩ quan, chiến sĩ có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, cùng đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ chỉ huy, nhiều kinh nghiệm, trải qua thực tiễn chiến đấu, những đơn vị có truyền thống, nền nếp chính quy tốt để xây dựng lực lượng vũ trang. Do vậy, khi quân Pôn Pốt đánh sang toàn tuyến biên giới Tây Nam, Quân khu 9 đã không bị rơi vào tình trạng “bỏ trống địa bàn” vì không có quân thường trực.
Tháng 5-1981, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 36-NQ/QUTW về tổ chức Quân tình nguyện Việt Nam và thành lập Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia (Bộ tư lệnh 719), trực thuộc Bộ Quốc phòng. Khi triển khai thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW, trên cương vị Tư lệnh Mặt trận 719, đồng chí Lê Đức Anh đã kiên quyết đề xuất: Riêng ở chiến trường Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam vẫn duy trì chế độ đảng ủy. Đồng chí cho rằng: “Chúng ta phải nhất quán, một chủ trương quân sự, một hoạt động quân sự không bao giờ là quân sự đơn thuần, mà hoạt động quân sự là hoạt động chính trị, phục vụ mục đích chính trị. Người chỉ huy quân sự là làm chính trị, phục vụ chính trị, phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của tổ chức đảng. Dứt khoát cái đó!”. Thực tiễn đã chứng minh đây là một đề xuất đúng đắn, bảo đảm cho sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng và phù hợp với thực tế nhiệm vụ của các đơn vị ở Mặt trận 719 vào thời điểm đó.
Ngày 7-12-1986, đồng chí Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Khi đi thị sát thực tế tình hình biên giới phía Bắc, đồng chí đã ngay lập tức quyết định điều chỉnh các đơn vị chủ lực lui về tuyến 2 để đưa dân quân, bộ đội địa phương và Bộ đội Biên phòng lên tuyến 1. Trước quyết định này, đồng chí Tư lệnh Quân khu 2 đề nghị Tổng Tham mưu trưởng ra chỉ lệnh bằng văn bản. Ngay lập tức, đồng chí đã giao đồng chí Phi Long-Phó cục trưởng Cục Tác chiến, viết lệnh. Với thái độ kiên quyết, trách nhiệm, Tổng Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đã thực hiện điều chỉnh sơ bộ bố trí lực lượng, làm cho thế phòng thủ biên giới của bộ đội ta có chiều sâu và vững chắc hơn.
Đất nước hòa bình, mặc dù đang trong thế bao vây của các thế lực thù địch, nhưng Đại tướng Lê Đức Anh đã kiên quyết thực hiện giảm mạnh quân số và điều chỉnh thế bố trí chiến lược. Đây là một quyết định táo bạo, thể hiện tầm nhìn chiến lược. Theo Đại tướng: Quân đội ta là sản phẩm của đấu tranh giành độc lập và là công cụ để bảo vệ hòa bình. Nay đất nước đã hòa bình “cần phải giảm hai phần ba quân số để tập trung sức xây dựng đất nước về mọi mặt. Tuy nhiên, giảm quân số bộ đội thường trực, điều chỉnh chiến lược không có nghĩa là làm cho Quân đội ta yếu đi hoặc coi thường nguy cơ chiến tranh. Trái lại, phải xây dựng cho Quân đội ta mạnh hơn bao giờ hết, làm cho đất nước có sức mạnh bảo vệ mình hơn hẳn trong các cuộc chiến tranh vừa qua”. Thực hiện quyết định trên, quân số thường trực của Quân đội ta giảm từ 1,5 triệu xuống còn 45 vạn (từ 9 quân đoàn giảm xuống còn 4 quân đoàn). Gánh nặng ngân sách quốc phòng được giải tỏa.
Nói về Đại tướng Lê Đức Anh, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cho rằng: “Ngần ấy thời gian biết anh Sáu Nam, có lúc cùng chiến trường, có lúc cùng ở cấp lãnh đạo đất nước, Anh là cán bộ tham mưu tầm cỡ, một vị tướng chỉ huy cương nghị, bản lĩnh và dám chịu trách nhiệm”.
2. Một cán bộ cách mạng có tác phong làm việc trách nhiệm, tâm huyết, mềm dẻo nhưng rất cương quyết
Trước những khó khăn chung của đất nước do bị tàn phá sau chiến tranh, trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí Lê Đức Anh quyết định chỉ giữ lại Sư đoàn 330 thường trực, còn đưa Sư đoàn 8 và Sư đoàn 4 đi làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế; tổ chức đào tạo cán bộ quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang; kiểm kê quản lý và sử dụng chặt chẽ, hiệu quả toàn bộ tài sản, kể cả số vũ khí, cơ sở vật chất thu được của địch. Những quyết định trên không gây biến động lớn về tổ chức biên chế mà còn tạo được sự ổn định vững chắc cả về con người, tổ chức và xã hội trên địa bàn Quân khu 9. Do vậy, khi quân Pôn Pốt gây hấn, lực lượng vũ trang Quân khu 9 đã đánh bại địch, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
Năm 1976, trước âm mưu của các thế lực phản động, thù địch lôi kéo Nhân dân tiến hành bạo loạn hòng lật đổ chính quyền ở Trà Vinh, đồng chí Lê Đức Anh chủ trương không đưa lực lượng quân sự xuống dẹp bạo loạn mà phải giải quyết vấn đề mềm dẻo, khôn khéo, nhưng cương quyết, dứt khoát, không để đổ máu. Ông đã cùng Tỉnh ủy Trà Vinh tìm hiểu những sai trái, lệch lạc trong đội ngũ cán bộ, từ đó tiến hành kiểm điểm, sửa sai, xử lý nghiêm khắc đối với những cán bộ vi phạm. Với cách xử lý khôn khéo, cương quyết đó, đồng chí đã cùng lãnh đạo tỉnh Trà Vinh dẹp được bạo loạn, giữ vững ổn định chính trị.
Quá trình chỉ đạo giúp cách mạng Campuchia, đồng chí luôn trăn trở làm sao để Bạn mạnh lên, từng bước tự đảm đương được sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước và máu của cán bộ, chiến sĩ ta đỡ đổ. Chính vì vậy, đồng chí đã chỉ đạo xây dựng tuyến phòng thủ biên giới (K5) dài 800km, góp phần chia cắt chiến lược, hạn chế và ngăn chặn sự xâm nhập của địch từ Thái Lan vào nội địa Campuchia, để ở trong nội địa, ta và Bạn kết hợp tiến công truy quét làm tan rã một bộ phận quan trọng sinh lực địch.
Là một cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, Đại tướng Lê Đức Anh có gần 50 năm gắn bó với Quân đội, với các lực lượng vũ trang, Nhân dân trên các chiến trường. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và gần 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia, Đại tướng rất tâm huyết với công việc “Tổng kết kinh nghiệm chiến tranh cách mạng”, để lý giải tính đúng đắn của cách mạng Việt Nam, đồng thời rút ra bài học cho công cuộc giữ nước mai sau. Cuối nhiệm kỳ Đại hội VI của Đảng, Đại tướng đã đề đạt nguyện vọng xin không ứng cử vào Quốc hội khóa IX và xin rút khỏi danh sách đề cử vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VII, để chuyên trách công tác tổng kết kinh nghiệm chiến tranh. Tuy nhiên, trước yêu cầu sự nghiệp cách mạng, ý nguyện của đồng chí không được Bộ Chính trị chấp thuận.
3. Một nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa, phong cách đổi mới, nhanh nhạy, bám sát thực tiễn, luôn đặt lợi ích quốc gia dân tộc trên hết
Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược, nhạy bén, linh hoạt trong xử lý các tình huống phức tạp. Sau khi trực tiếp tham gia chỉ huy giải phóng miền Nam, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng Pôn Pốt và hồi sinh đất nước, đến khi giữ cương vị Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh tiếp tục là một trong những người chèo lái đưa đất nước ta dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Đời sống Nhân dân từng bước cải thiện, quan hệ quốc tế được mở rộng, vị thế của Việt Nam trên thế giới được nâng cao.
Trước những vấn đề lớn, phức tạp, Đại tướng luôn trăn trở, đề xuất được những giải pháp phù hợp, hiệu quả. Đại tướng đã từng tâm sự: “Thực hiện đường lối đổi mới tại Đại hội VI năm 1986, tôi đang làm Bộ trưởng Quốc phòng thì được Bộ Chính trị giao cho việc tìm cách nào đó để phá thế bao vây cấm vận của Mỹ. Lúc đó, giữa Việt Nam và Hoa Kỳ không có một kênh tiếp cận nào cả nên rất khó làm. Vả lại, chiến tranh mới kết thúc hơn 10 năm, sự hận thù vẫn còn sâu sắc lắm. Không thể tiếp cận với nhau bằng chính trị, kinh tế, vậy thì phải tìm ở lĩnh vực khoa học-kỹ thuật”.
Từ những trăn trở, tìm tòi, Đại tướng đã tìm ra bước đi khôn khéo với Chiến dịch “Phẫu thuật nụ cười” và “Tìm kiếm người Mỹ mất tích - MIA” để mở ra đột phá khẩu trong việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Kết quả những bước phát triển lịch sử trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, góp phần vào sự phát triển thịnh vượng của mỗi nước và hòa bình ổn định ở khu vực ngày nay, đã minh chứng tầm nhìn chiến lược và công lao đóng góp của Đại tướng.
Không chỉ được giao trọng trách mở ra việc bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ, Đại tướng Lê Đức Anh còn tham gia giải quyết vấn đề bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc. Ngay sau khi được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Chính trị giao cho Đại tướng Lê Đức Anh “mở đầu” việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Đại tướng đã vào TP Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, tổ chức gặp mặt bà con Hoa kiều Chợ Lớn để trao đổi về việc cần đưa quan hệ giữa hai dân tộc trở lại bình thường. Đại tướng cũng có các cuộc gặp với Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy để bàn chuyện bình thường hóa quan hệ hai nước và tiền trạm sang Trung Quốc... Sau các hoạt động đó của Đại tướng cùng các kênh đối ngoại khác, tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư Đỗ Mười, Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm Trung Quốc. Hai bên đã ký kết Hiệp định chính thức bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và hai Đảng, khép lại 15 năm đối đầu căng thẳng.
Nhớ lại những thời điểm quyết định đầy cam go và đối mặt với không ít những quan điểm trái chiều, Đại tướng bày tỏ quan điểm: “Nhiều người cho tôi là “thân Trung Quốc”, rồi là “thân Mỹ”, tôi chỉ cười. Nhưng, từ đây tôi mới rút ra một điều rằng, quan hệ với Trung Quốc và với Mỹ là hai mối quan hệ ngoại giao quan trọng nhất của nước Việt Nam, nên trong quan hệ với mỗi nước đó ta cần suy nghĩ rất kỹ, và dĩ nhiên phải đứng trên lập trường độc lập và lợi ích dân tộc của ta. Lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia và chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc phải là tối thượng”(11). Với Đại tướng, đó đơn giản là một lẽ sống, một điểm tựa để ông quyết định phải-trái, đúng-sai và khi đã tin, đã quyết là theo đuổi đến cùng.
Đại tướng Lê Đức Anh-một nhân vật lịch sử, một nhà lãnh đạo tài năng kiệt xuất, có đạo đức khiêm nhường-khi phải đối mặt với những tình thế khó khăn buộc phải ra quyết định. Bằng quan điểm lập trường giai cấp vững vàng, tầm nhìn sâu, rộng và năng lực tư duy sáng tạo, hành động quyết liệt với tấm lòng vì nước, vì dân, Đại tướng vẫn bình thản, tìm được phương cách giải quyết đúng đắn, phù hợp. Phong cách lãnh đạo đổi mới, nhanh nhạy, bám sát thực tiễn, linh hoạt trong xử lý các tình huống phức tạp trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc của Đại tướng đã để lại dấu ấn sâu sắc.
Đánh giá về Đại tướng, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười nhận định: “Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta. Ở Anh, quan điểm giai cấp rất vững vàng và rõ ràng. Trong thời kỳ giữ cương vị Chủ tịch nước, để góp phần ổn định và phát triển kinh tế, vai trò Chủ tịch nước của anh Lê Đức Anh lúc này rất quan trọng”.
4. Một vị tướng giản dị, gần gũi và sâu sát
Quá trình công tác, dù ở bất kỳ cương vị nào được phân công, Đại tướng Lê Đức Anh cũng rất sâu sát, tận tụy trong công việc, gần gũi với cấp dưới, sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi, luôn quan tâm, chăm lo đến cán bộ, chiến sĩ. Là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng đã trực tiếp đến thăm, kiểm tra nhiều đơn vị cơ sở. Thấy đời sống của bộ đội còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, thậm chí có biểu hiện phát sinh tư tưởng tiêu cực, Đại tướng đã chỉ đạo cấp ủy, chỉ huy các đơn vị tập trung mọi nguồn lực chăm lo đời sống bộ đội để anh em có sức khỏe, ổn định tư tưởng, xác định quyết tâm bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc. Chỉ hơn một tháng, sau “Sự kiện Gạc Ma năm 1988”, trên cương vị cao nhất của Quân đội, Đại tướng đã trực tiếp đi thị sát quần đảo Trường Sa, nắm tư tưởng cán bộ, chiến sĩ và động viên bộ đội vững vàng tay súng, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Đất nước hòa bình, nhưng Đại tướng luôn trăn trở về đời sống của cán bộ, chiến sĩ quân đội, nhất là các đồng chí từng trực tiếp chiến đấu, chịu nhiều hy sinh gian khổ, nhưng cuộc sống vẫn còn rất khó khăn. Đại tướng Lê Đức Anh chỉ đạo dành một phần đất doanh trại chưa sử dụng, giải quyết nhà ở, đất ở cho cán bộ quân đội, giúp anh em yên tâm công tác, gắn bó, xây dựng đơn vị.
Là một trong những cán bộ lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, nhưng với cuộc sống đời thường, Đại tướng lại rất giản dị, sâu sắc, nhân văn, được đồng chí, đồng đội và Nhân dân yêu mến, bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Ở miền châu thổ sông Cửu Long, người ta gọi Đại tướng Lê Đức Anh với cái tên thật gần gũi “Bác Sáu Nam”. Bởi suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, dù ở cương vị nào, ông cũng luôn giản dị, chân thành, để lại dấu ấn tốt đẹp trong lòng người dân Nam Bộ.
Một lần vào thị sát hai tỉnh miền Tây Nam Bộ là Kiên Giang và Cần Thơ, phát hiện ở đây có nhiều người dân mất hết ruộng đất canh tác, Chủ tịch nước Lê Đức Anh trực tiếp gặp gỡ, hỏi han những nông dân này vì sao mất ruộng để tìm hiểu căn nguyên. Đồng thời, chỉ đạo lãnh đạo tỉnh cho nông dân vay tiền và bằng nhiều cách giúp họ chuộc đất, đem lại cuộc sống ấm no cho Nhân dân. Sau này, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang phải thừa nhận với ông: “Tôi sống sát dân mà không hiểu dân!”.
Đại tướng cũng trăn trở trước những mất mát, hy sinh to lớn của Nhân dân trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Trên cương vị Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh chỉ đạo Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, phối hợp với Bộ Quốc phòng rà soát, xây dựng kế hoạch, đề xuất chủ trương phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.
Ngày 29-12-1994, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, hàng trăm Bà mẹ Việt Nam anh hùng được tôn vinh tại Quảng trường Ba Đình lịch sử. Cũng từ đây, xuất hiện các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, “Toàn dân chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với nước”... Những phong trào đó trở thành nếp sống mang đậm tính nhân văn, truyền thống văn hóa “Uống nước nhớ nguồn” của các tầng lớp Nhân dân trong cả nước.
Đối với quê hương, Đại tướng Lê Đức Anh luôn gần gũi, chân tình, sâu sắc và nặng nghĩa tình. Mặc dù tham gia hoạt động cách mạng từ thời niên thiếu, xa quê, nhưng Đại tướng luôn nhớ về quê hương với một tình cảm rất sâu đậm. Mỗi lần về quê, Đại tướng thường đi thăm bà con lối xóm, ân cần thăm hỏi cuộc sống, tình hình lao động sản xuất; động viên bà con, họ hàng, con cháu quê nhà chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật Nhà nước; tích cực lao động sản xuất để phát triển quê hương ngày càng giàu đẹp.
Là vị tướng chỉ huy nghiêm khắc, nhưng trong đời thường, Đại tướng Lê Đức Anh là người sống giản dị và vô cùng thanh bạch. Từ khi ra Hà Nội giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, rồi được bầu làm Chủ tịch nước, ông vẫn sống và làm việc trong căn nhà công vụ N8 giữa Trạm khách của Bộ Quốc phòng. Từ đồ dùng trong nhà đến bữa ăn, quần áo mặc và nếp sinh hoạt hằng ngày của ông vẫn luôn thanh đạm như một người dân Việt bình thường khác.
Khi chiến tranh nổ ra, đây là thử thách cao nhất đối với con người. Chính những thử thách nghiệt ngã của các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc cùng sự rèn luyện nghiêm khắc, tự giác của bản thân đã hun đúc nên phong cách, con người Đại tướng Lê Đức Anh. Đó là vị tướng của chiến trường, tư duy chiến lược sắc sảo, tầm nhìn sâu rộng trong những vấn đề chiến lược của đất nước, của Quân đội; một nhà lãnh đạo trách nhiệm, tâm huyết, luôn đặt lợi ích quốc gia dân tộc và vị thế của đất nước lên trên hết, đồng thời luôn sống giản dị, chân tình, dễ gần. Đại tướng thực sự là một học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày nay, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường; đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đem lại nhiều cơ hội thuận lợi để phát triển, nhưng cũng không ít khó khăn. Để tiếp tục chèo lái con thuyền cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, đòi hỏi người lãnh đạo, chỉ huy không chỉ có tâm mà phải có tầm. Do vậy, học tập phong cách lãnh đạo, chỉ huy của Đại tướng Lê Đức Anh vẫn mãi là vấn đề rất cần thiết.
Thượng tướng NGUYỄN TRỌNG NGHĨA
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị
Trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại tướng Lê Đức Anh thuộc thế hệ cán bộ cách mạng tiền bối. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của ông gắn liền với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng, đổi mới đất nước và làm nhiệm vụ quốc tế giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Trải qua hơn 80 năm hoạt động cách mạng, với tài năng thiên bẩm và tinh thần cống hiến không biết mệt mỏi, Đại tướng Lê Đức Anh được Đảng, Nhà nước và Quân đội giao nhiều cương vị, trọng trách. Dù ở cương vị nào đồng chí cũng luôn đem hết tinh thần, nghị lực và trí tuệ cống hiến cho sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt, vào những thời điểm gay go, quyết liệt, có tính bước ngoặt, đồng chí luôn nêu cao tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không lùi bước trước mọi khó khăn, thử thách để hoàn thành nhiệm vụ, là nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam.
1. Đồng chí Lê Đức Anh - Người chiến sĩ cộng sản kiên trung
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng tại xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, ông nội của đồng chí là một sĩ phu từng tham gia Phong trào Cần Vương chống Pháp. Ngay từ khi còn nhỏ, đồng chí Lê Đức Anh đã thấu hiểu sự nghèo đói, lam lũ, cùng khổ của những người dân lao động dưới ách thống trị của thực dân, từ đó sớm giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1937, khi mới 17 tuổi, đồng chí tham gia phong trào dân chủ ở Phú Vang, Thừa Thiên Huế; tháng 5/1938, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, tích cực tham gia hoạt động tuyên truyền cách mạng. Đầu năm 1938, ở nước Pháp, Chính phủ của Đảng Xã hội bị đổ, phái hữu lên nắm quyền. Sự biến động về chính trị này lập tức ảnh hưởng trực tiếp đến các nước thuộc địa của Pháp, trong đó có Việt Nam. Tại đây, thực dân Pháp tiến hành một cuộc khủng bố, bắt bớ quyết liệt khiến nhiều đảng viên và người yêu nước bị bắt. Tháng 10/1939, thực dân Pháp tiến hành cuộc khủng bố ở Thừa Thiên, hầu hết các đồng chí đảng viên ở huyện Phú Vang bị bắt, hệ thống cơ sở bị vỡ, phong trào cách mạng bị tổn thất nặng nề. Trước tình hình đó, tổ chức cộng sản chủ trương: “tất cả đảng viên rút vào hoạt động bí mật, tự thân di tản để bảo toàn lực lượng, khi có thời cơ thì tìm cách bắt liên lạc với tổ chức tiếp tục hoạt động cách mạng". Đồng chí Lê Đức Anh phải lánh vào Hội An - Quảng Nam, lên Đà Lạt, rồi xuống Lộc Ninh. Thời gian này, để kiếm sống và tìm cách bắt liên lạc với tổ chức cách mạng, đồng chí phải làm những công việc rất vất vả như quét dọn nhà thuê, đánh máy chữ hay chế biến thực phẩm, nhưng trong ông vẫn nung nấu tinh thần cách mạng, chờ thời cơ để bắt liên lạc với tổ chức và trở lại hoạt động. Trực tiếp làm việc ở đồn điền cao su Lộc Ninh, thấu hiểu nỗi cùng cực của những người phu bị bóc lột sức lao động một cách thậm tệ, đồng chí Lê Đức Anh đã tiến hành tuyên truyền, giác ngộ cách mạng và tìm mọi biện pháp để củng cố đời sống vật chất, tinh thần cho những phu cao su và thắp lên trong họ lòng tự tôn dân tộc. Bằng những hoạt động không biết mệt mỏi, năm 1942, đồng chí bắt liên lạc được với tổ chức đảng, tích cực trở lại tham gia hoạt động cách mạng. Đầu năm 1943, đồng chí được bổ sung vào Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, được phân công phụ trách phong trào ở Lộc Ninh và vùng phía bắc của tỉnh. Tháng 02/1944, khi Chi bộ Đảng ở Lộc Ninh được thành lập, đồng chí Lê Đức Anh được giao làm Bí thư Chi bộ và phụ trách vấn đề dân tộc thiểu số. Thực hiện nhiệm vụ Tỉnh ủy giao, trên cương vị là Bí thư Chi bộ, đồng chí Lê Đức Anh đã khẩn trương gây dựng phát triển lực lượng, đẩy mạnh tuyên truyền cách mạng trong công nhân và nhân dân vùng Hớn Quản, chuẩn bị đón thời cơ phát động công nhân và đồng bào các dân tộc vùng lên khởi nghĩa.
Giữa năm 1944, từ chủ trương của Xứ ủy là xúc tiến việc thành lập các đoàn thể Mặt trận Việt Minh ở Nam Bộ, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một đề ra phương châm: Nơi nào đã phục hồi cơ sở đảng thì tổ chức các hội cứu quốc, sau đó phát triển đến các nơi khác. Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, sau một thời gian, đồng chí Lê Đức Anh đã lãnh đạo Chi bộ Lộc Ninh gây dựng cơ sở, thành lập “nhóm trung kiên”, đến đầu năm 1945, thành lập được một số hội cứu quốc.
Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, giành quyền cai trị Đông Dương. Trước thời cơ cách mạng mới, Đảng ta đề ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tại Lộc Ninh, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng cách mạng trung kiên trong các nghiệp đoàn để chuẩn bị cho việc đấu tranh vũ trang. Với sự tích cực, sâu sát của đồng chí Lê Đức Anh, đến tháng 8/1945, ở Lộc Ninh, lực lượng quần chúng đã hình thành các hội cứu quốc, thanh niên tiền phong, các đội thanh niên bán vũ trang, đội tự vệ... Cũng trong thời gian này, đồng chí được phân công chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền ở các đồn điền cao su và hai huyện Hớn Quản và Bù Đốp của tỉnh Bình Phước. Trên cơ sở nắm vững địa bàn và chủ trương khởi nghĩa của Đảng, đồng chí tích cực nghiên cứu, nắm chắc tình hình, chỉ đạo các địa phương mở rộng phong trào cứu quốc, tổ chức cho quần chúng đấu tranh, kết hợp với đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ, du kích, xây dựng căn cứ cách mạng, tạo cơ sở để tiến hành chiến tranh du kích, khởi nghĩa từng phần ở những nơi có điều kiện, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến. Sáng ngày 24/8/1945, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Lê Đức Anh, hàng nghìn công nhân các làng, đồn điền cao su Lộc Ninh cùng nông dân các địa phương nhất tề nổi dậy, nhanh chóng chiếm các trụ sở hành chính, giành chính quyền ở Lộc Ninh, Bù Đốp, Hớn Quản, sau đó kéo xuống Thủ Dầu Một tham gia Tổng khởi nghĩa.
Thắng lợi của nhân dân Lộc Ninh, Bù Đốp, Hớn Quản trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là kết quả của quá trình đấu tranh kiên cường, bất khuất của những người cộng sản và quần chúng cách mạng, trong đó nổi bật là vai trò của đồng chí Lê Đức Anh. Trong cuốn Hồi ký của mình, ông viết: “Nhớ lại những năm tháng đầy thử thách, cam go, khi bị kẻ thù khủng bố, đàn áp gắt gao, những lúc cách mạng gặp khó khăn, thử thách, song nhờ bám thực tế, chủ động sáng tạo, dựa vào dân, bám chắc vào dân nên tôi đã vượt qua khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ".
2. Nhà chỉ huy quân sự có tài thao lược, vị tướng tài ba của Quân đội nhân dân Việt Nam
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí Lê Đức Anh được cử tham gia quân đội. Trong suốt hơn 47 năm hoạt động trong quân đội (1945-1992), từ chức vụ Chính trị viên Chi đội đến Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, cuộc đời binh nghiệp của đồng chí Lê Đức Anh gắn với nhiều chiến trường từ Nam ra Bắc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả trên chiến trường nước bạn. Nhưng dù ở cương vị nào, đồng chí cũng luôn thể hiện là một vị chỉ huy nhạy bén, quyết đoán, bám sát thực tiễn, dám chịu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành và giành nhiều thắng lợi quan trọng. Đầu năm 1946, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ Chính trị viên Chi đội 1, đơn vị hoạt động trên chiến trường trải dài từ Lái Thiêu đến các huyện Châu Thành, Tân Uyên, Bến Cát, Dầu Tiếng, Hớn Quản của tỉnh Thủ Dầu Một. Mặc dù bị địch càn quét, khủng bố gắt gao, bộ đội thiếu vũ khí, lương thực, thuốc men, nhưng đồng chí Lê Đức Anh cùng Ban Chỉ huy đã lãnh đạo Chi đội 1 tổ chức nhiều trận đánh giành thắng lợi lớn, gây cho địch những thiệt hại nặng nề. Từ tháng 10/1948 đến năm 1950, đồng chí lần lượt được giao đảm trách các chức vụ: Tham mưu trưởng các Khu 7, Khu 8 và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn - những chiến trường cam go quyết liệt nhất ngay từ những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến. Trên cương vị, chức trách là Tham mưu trưởng, đồng chí luôn chủ động tham mưu đối với việc xây dựng các trung đoàn chủ lực tập trung và trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch, trận đánh lớn như: Trận đánh diệt tháp canh Cầu Bà Kiên (tháng 3/1948), Chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát (tháng 01/1950)... Tháng 5/1951, Trung ương Cục quyết định phân chia lại chiến trường, giải thể ba khu 7, 8, 9, sáp nhập 20 tỉnh của Nam Bộ thành 11 tỉnh, chia Nam Bộ thành hai phân liên khu và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, đồng chí Lê Đức Anh được giao trọng trách Tham mưu trưởng Phân liên khu Miền Đông, gồm 5 tỉnh: Gia Ninh, Thủ Biên, Bà Chợ, Mỹ Tho, Long Châu Sa. Bằng tài năng quân sự và những kinh nghiệm từ thực tiễn chiến đấu, đồng chí đã bám sát đơn vị, động viên xây dựng quyết tâm, cùng với quân và dân miền Đông Nam Bộ đập tan chính sách của chính quyền Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong việc thực hiện bình định, bao vây lấn sâu vào vùng căn cứ của ta, tạo ra những tiền đề quan trọng để quân và dân Nam Bộ chia lửa với chiến trường Bắc Bộ trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Từ cuối năm 1952 đến giữa năm 1954, đồng chí Lê Đức Anh nhận nhiệm vụ ra Bắc để báo cáo với Trung ương tình hình chiến trường Nam Bộ, báo cáo kinh nghiệm đánh đồn và diệt tháp canh của địch, đồng thời tham gia lớp học chính trị do Trung ương tổ chức, rồi lại trở vào Nam tiếp tục hoạt động.
Sau ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, đồng chí Lê Đức Anh tập kết ra Bắc. Với kinh nghiệm dạn dày trận mạc và kiến thức sâu rộng về tổ chức lực lượng vũ trang, từ tháng 5/1955 đến năm 1963, ông được bổ nhiệm giữ các chức vụ: Cục phó Cục Tác chiến, Cục trưởng Cục Quân lực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ tháng 8/1963 đến năm 1964, ông được bổ nhiệm làm Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên các cương vị mới này, ông luôn tận tâm, tận lực với công việc và có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang theo hướng chính quy hiện đại trong những năm miền Bắc hòa bình (1954-1964). Nhờ làm tốt công tác tổ chức lực lượng, tác chiến, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng với các thế hệ cán bộ Bộ Tổng Tham mưu công tác trong giai đoạn này góp phần đưa quân đội ta từ chỗ chỉ đơn thuần là bộ binh, vũ khí, trang bị thiếu thốn, lạc hậu trở thành một quân đội tương đối chính quy, gồm nhiều quân binh chủng, sư đoàn, trung đoàn, được trang bị thống nhất hiện đại vào cuối năm 1964.
Từ năm 1964 đến năm 1968, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn quyết liệt nhất, là người giàu kinh nghiệm trên chiến trường miền Nam, ông được Trung ương cử quay lại chiến trường để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào đấu tranh với bí danh Sáu Nam, giữ chức Tham mưu trưởng, rồi Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam. Ở cương vị mới, ông cùng với các đồng chí trong Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền lãnh đạo, chỉ huy quân và dân miền Nam xây dựng, củng cố vững chắc niềm tin dám đánh, dám thắng Mỹ; góp phần vào đánh bại các cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966, 1966-1967 và đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 giành thắng lợi bước ngoặt, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán và từng bước rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, sau năm 1968, chiến trường miền Nam trở nên khốc liệt hơn trước sự đánh phá ác liệt của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, lực lượng vũ trang và cơ sở cách mạng ta bị tổn thất lớn. Trước yêu cầu khôi phục, củng cố và phát triển phong trào cách mạng Tây Nam Bộ, từ năm 1969 đến năm 1974, ông được điều về làm Tư lệnh Quân khu 9. Dưới sự chỉ huy của ông và tập thể Bộ Tư lệnh, thực lực cách mạng Tây Nam Bộ từng bước được khôi phục và phát triển, hệ thống căn cứ địa được củng cố; lực lượng vũ trang Quân khu 9 phối hợp chặt chẽ với các lực lượng khác kiên cường trụ bám địa bàn, đánh địch chia lửa chiến trường cùng quân và dân cả nước. Một trong những ví dụ tiêu biểu nổi trội thể hiện tài năng, bản lĩnh của Đại tướng Lê Đức Anh là trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, ông đã hạ quyết tâm, chỉ đạo quân và dân Quân khu kiên quyết giáng trả kịp thời các hành động nống, lấn của địch sau Hiệp nghị Pari trong bối cảnh chiến trường toàn miền ngưng chiến. Đây là cơ sở quan trọng củng cố vững chắc cho quyết tâm, phương pháp bạo lực cách mạng của Đảng tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 21 (khóa III). Chính bởi thành tích này, ông được thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng.
Từ cuối năm 1974 đến năm 1975, trước yêu cầu của sự nghiệp giải phóng miền Nam, với tài năng quân sự nổi trội, ông được Trung ương điều trở lại làm Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam (Đoàn 232) đánh vào Sài Gòn. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng chí đảm trách chỉ huy và lãnh đạo trực tiếp cánh quân tiến công trên hướng tây - tây nam Sài Gòn (Đoàn 232), một trong năm cánh quân của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Đây là nơi có địa hình khó tiến công vì là đồng bằng, sông ngòi chằng chịt và sình lầy nhưng là một hướng tiến công rất quan trọng để nhanh chóng chia cắt quân địch trên tuyến quốc lộ số 4, không để chúng co cụm về cố thủ ở Cần Thơ. Đoàn 232 do đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy đã thực hiện thành công các nhiệm vụ chính là: Chia cắt các lực lượng Sài Gòn và miền Đông với lực lượng vùng đồng bằng sông Cửu Long; tấn công Biệt khu Thủ đô và Tổng nha Cảnh sát, sau đó hợp điểm cùng các cánh quân khác tại Dinh Độc Lập vào trưa ngày 30/4 lịch sử. Miền Nam được giải phóng hoàn toàn, Sài Gòn giữ được gần như nguyên vẹn, sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta toàn thắng, trong đó có công lao, những đóng góp và tên tuổi của Đại tướng Lê Đức Anh.
Sau ngày đất nước thống nhất, từ tháng 5/1976 đến năm 1985, trước yêu cầu ổn định, củng cố, phát triển các quân khu Nam Bộ và ứng phó với hoạt động chống phá của các lực lượng phản động Pôn Pốt - Iêng Xary, ông lại được Trung ương lần lượt cử giữ chức Tư lệnh Quân khu 9, rồi Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Chỉ huy trưởng Cơ quan tiền phương Bộ Quốc phòng tại Mặt trận Tây Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện, Phó Trưởng ban, rồi Trưởng ban Lãnh đạo chuyên gia Việt Nam tại Campuchia. Trên những cương vị mới, ông cùng với tập thể lãnh đạo, chỉ huy ổn định vững chắc tình hình các quân khu 7, 9; tổ chức sử dụng lực lượng hợp lý, chỉ huy kiên quyết giáng trả những hành động gây chiến của bọn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary, tiến lên phối hợp chặt chẽ với các lực lượng của Bộ, của bạn đánh đổ hoàn toàn chế độ độc tài Pôn Pốt - Iêng Xary, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Từ tháng 12/1986 đến năm 1991, Ông được cử giữ chức Tổng Tham mưu trưởng, sau đó là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Là một vị tướng kinh qua trận mạc, một nhà chỉ huy xuất sắc, có tầm nhìn chiến lược và xử lý linh hoạt các tình huống phức tạp, trên các cương vị mới, Đại tướng Lê Đức Anh đã cùng với các đồng chí trong Quân ủy Trung ương và Thủ trưởng Bộ Quốc phòng có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, an ninh của quốc gia những năm đầu đất nước bước vào sự nghiệp đổi mới đầy khó khăn, thử thách. Với chủ trương xây dựng quân đội tinh, gọn, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao, đồng chí Lê Đức Anh đã góp phần quan trọng vào việc điều chỉnh lực lượng vũ trang, bố trí lại thế trận chiến tranh nhân dân, nhất là ở vùng biên giới, hải đảo, địa bàn chiến lược... để tập trung cho phát triển đất nước trong tình hình mới, phù hợp với hoàn cảnh thực tế lúc bấy giờ nhưng vẫn bảo đảm sức mạnh chiến đấu, quốc phòng, an ninh được củng cố, chủ quyền lãnh thổ quốc gia được giữ vững.
3. Nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và Nhà nước trong những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước
Với tài năng và uy tín đã được khẳng định, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991), Đại tướng Lê Đức Anh tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng. Tháng 9/1992, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá IX, Đại tướng Lê Đức Anh được bầu giữ chức Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên cương vị là Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh đã sát cánh cùng tập thể Bộ Chính trị đề xuất nhiều quyết sách quan trọng để chỉ đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng và sự bao vây, cấm vận, chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Đồng chí đã dành nhiều thời gian cùng Trung ương Đảng, Quốc hội xây dựng hệ thống luật pháp, bổ sung, sửa đổi Hiến pháp cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ mới của cách mạng, bảo đảm cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng; đồng thời, tích cực đẩy mạnh hợp tác với một số nước trên thế giới để tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế đối với Việt Nam.
Trên cương vị là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng, an ninh, thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, với tình cảm sâu nặng và ý thức trách nhiệm lớn lao, đồng chí Lê Đức Anh thường xuyên quan tâm, kiểm tra công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị quân đội, công an; đồng thời chỉ đạo quyết liệt vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng và là một trong những người đưa ra ý tưởng xây dựng khu vực phòng thủ, các khu kinh tế - quốc phòng trên địa bàn chiến lược mà hiện nay vẫn đang triển khai thực hiện. Đồng chí cũng luôn đặc biệt chú trọng đến việc bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị của quân đội và đời sống của cán bộ, chiến sĩ trước thực trạng các doanh trại quân đội dột nát. Đồng chí đã yêu cầu tăng cường kinh phí xây dựng, sửa chữa doanh trại và có các biện pháp cụ thể, thiết thực bảo đảm đời sống cho cán bộ, chiến sĩ. Những tư duy và quyết sách của đồng chí thể hiện tầm nhìn xa, trông rộng của một vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước xuất sắc. Đặc biệt là khi đứng trước những tình thế khó khăn, bước ngoặt của cách mạng, khi cần quyết sách những vấn đề chiến lược của đất nước, với năng lực, tư duy sáng tạo và hành động quyết liệt, không quản ngại khó khăn, đồng chí Lê Đức Anh luôn quyết đoán, tìm cách giải quyết đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với xu thế thời đại và yêu cầu thực tiễn đất nước đặt ra. Nói về điều này, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình khẳng định: “Đồng chí Lê Đức Anh, một con người điềm đạm, ít nói nhưng suy nghĩ nhiều, sâu và có tính quyết đoán".
Trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao, xử lý và giải quyết các mối quan hệ quốc tế, quán triệt sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, đồng chí Lê Đức Anh luôn tích cực nghiên cứu cách thức, phương pháp, bước đi để thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ với một số nước, một số đối tác, đặt nền móng cho chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Đảng, Nhà nước ta, nhưng luôn giữ vững lập trường và đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết. Đồng chí đề xuất đưa ra nhiều giải pháp quan trọng, mở ra bước đột phá trong việc bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam với Mỹ qua những chương trình như: “MIA - Cơ quan tìm kiếm người nước ngoài mất tích trong chiến tranh Việt Nam” hay “Phẫu thuật nụ cười trẻ thơ”... Với những bước đi thích hợp trong giải quyết mối quan hệ quốc tế, trong thời gian đồng chí Lê Đức Anh là Chủ tịch nước, mặc dù nền kinh tế đất nước đứng trước những khó khăn, thử thách hết sức cam go, lạm phát ở mức cao, bao vây, cấm vận chưa được gỡ bỏ... nhưng đất nước vẫn có sự chuyển mình trên con đường đổi mới, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, quan hệ quốc tế được mở rộng, độc lập dân tộc được giữ vững, vị thế của Việt Nam từng bước được củng cố và nâng cao trên trường quốc tế.
Trên cương vị là Chủ tịch nước, một trong những vấn đề mà đồng chí Lê Đức Anh luôn đặc biệt quan tâm là làm sao các cơ quan nhà nước phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, phải thực sự là người đại diện cho quyền lợi và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Trong những lần đi thăm và làm việc với các địa phương, bên cạnh biểu dương những thành tích mà địa phương đã đạt được, đồng chí còn luôn yêu cầu các địa phương phải luôn lưu ý đến việc thực hiện chủ trương: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”. Ông cũng rất quan tâm công tác, chính sách hậu phương quân đội và việc giải quyết tồn đọng về chính sách sau chiến tranh. Ông đã định hướng cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Quốc phòng rà soát, xây dựng kế hoạch, đề xuất chủ trương phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” nhằm tôn vinh, ghi công sự cống hiến của các bà, các mẹ cho độc lập, tự do của Tổ quốc và giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau. Sau này, trên cương vị là Cố vấn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và kể cả khi đã nghỉ công tác, đồng chí Lê Đức Anh vẫn thường xuyên quan tâm đến lực lượng vũ trang, nghiên cứu và đề xuất nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc, có tầm chiến lược sâu rộng về công tác quân sự, quốc phòng cho Đảng và Nhà nước ta.
Có thể khẳng định, với gần 100 tuổi đời, trong đó có hơn 80 năm tham gia hoạt động cách mạng, phát triển từ trong phong trào yêu nước, từ Chính trị viên Chi đội trở thành Nguyên thủ quốc gia, ở cương vị nào, đồng chí Lê Đức Anh cũng luôn thể hiện là con người của hành động, là một chiến sĩ cộng sản kiên trung, một nhà chỉ huy thao lược, vị tướng tài ba của Quân đội nhân dân Việt Nam, nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và Nhà nước trong những năm đầu đất nước đổi mới. Được tôi luyện, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, luôn có mặt ở những nơi khó khăn, ác liệt nhất, ở các chiến trường từ Nam ra Bắc cũng như làm nhiệm vụ quốc tế trên chiến trường Campuchia, đồng chí Lê Đức Anh luôn quyết đoán, mạnh dạn, táo bạo, dám nghĩ, dám làm và chịu trách nhiệm trước dân, trước Đảng và Nhà nước; luôn đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc lên trên hết. Những suy nghĩ và hành động của ông luôn thể hiện sự trăn trở, trách nhiệm của một vị tướng, một nhà lãnh đạo đối với đất nước, quân đội và dân tộc. Đồng chí Lê Đức Anh còn là một tấm gương mẫu mực về sự trung thành với lý tưởng của Đảng và phẩm chất đạo đức của người cách mạng. Cuộc đời, sự nghiệp và những đóng góp của đồng chí đối với Đảng, Nhà nước, quân đội và dân tộc là vô cùng lớn lao, là tấm gương sáng để lớp lớp thế hệ trẻ học tập và làm theo; đồng thời cũng để lại những kinh nghiệm quý đòi hỏi chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, làm sâu sắc thêm những cống hiến, đóng góp của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc và vận dụng trong thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thiếu tướng, TS. NGUYỄN HOÀNG NHIÊN
Đồng chí Lê Đức Anh là một vị tướng trận mạc, một nhà chỉ huy chiến thuật tài tình và linh hoạt xử lý các tình huống phức tạp. Sinh ra và lớn lên ở Thừa Thiên Huế, nhưng đồng chí Lê Đức Anh lại có nhiều năm hoạt động cách mạng ở miền Đông Nam Bộ. Là một chiến sĩ cách mạng kiên cường, đồng chí tích cực phấn đấu, rèn luyện ý chí, tài năng, không ngừng trưởng thành và có những đóng góp quan trọng vào thắng lợi của cách mạng ở miền Đông Nam Bộ và sự trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 5/1978, đồng chí Lê Đức Anh được Trung ương Đảng điều động về giữ chức vụ Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, trong bối cảnh ở biên giới Tây Nam cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc diễn ra ngày càng ác liệt; trong nội địa, các thế lực thù địch không ngừng móc nối, tìm cách phá hoại, âm mưu lật đổ Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên cơ sở thấu triệt chủ trương, đường lối của Đảng, vận dụng linh hoạt và phát huy sức mạnh tổng hợp của cuộc chiến tranh nhân dân, đồng chí Lê Đức Anh cùng Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã lãnh đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang (LLVT) Quân khu 7 hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Trên cương vị này, đồng chí Lê Đức Anh đã lãnh đạo, chỉ huy LLVT Quân khu 7 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xây dựng lực lượng, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn Quân khu. Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, đồng chí Lê Đức Anh cùng với Đảng ủy Quân khu chỉ đạo tổ chức đợt sinh hoạt chính trị quán triệt Nghị quyết 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa IV “Về tình hình nhiệm vụ mới”. Nội dung chính của nghị quyết xác định tập đoàn phản động Pôn Pốt - Têng Xary là kẻ thù, chỉ rõ mặt mạnh yếu của địch, từ đó đề ra đường lối quân sự, phương châm chỉ đạo tác chiến của Quân đội nhân dân Việt Nam trong điều kiện mới. Căn cứ nghị quyết của Trung ương Đảng, đồng chí Lê Đức Anh cùng Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 ban hành nghị quyết lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị, địa phương tập trung xây dựng LLVT và thực hiện nhiệm vụ quân sự - quốc phòng, chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch trong nội địa; kiên quyết đánh địch tập kích, thực hành phản công, kết hợp với tổ chức đón nhận, ổn định đời sống cho Nhân dân Campuchia chạy sang Việt Nam tị nạn và giúp bạn xây dựng, phát triển LLVT cách mạng.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình, đồng chí Lê Đức Anh cùng Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 thống nhất đề nghị Bộ Tổng Tham mưu khôi phục lại một số đơn vị đã giải thể của Quân đoàn 4 và điều động Quân đoàn 3 đứng chân hoạt động trên địa bàn của Quân khu 7. Phê chuẩn đề nghị của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 7, Bộ Tổng Tham mưu quyết định điều động toàn bộ lực lượng còn lại của Quân đoàn 3 ở địa bàn Quân khu 5 lên Bắc Tây Ninh. Đối với LLVT Quân khu 7, đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo các đơn vị, địa phương tập trung củng cố, xây dựng lực lượng và thế trận phòng thủ; đồng thời tiến công tiêu diệt địch, vừa mở rộng đánh chiếm địa hình có lợi, vừa tiến hành tổng kết rút kinh nghiệm huấn luyện tại chỗ. Sau khi cùng cố, kiện toàn tổ chức, từ tháng 6/1978 đến tháng 11/1978, đồng chí Lê Đức Anh cùng Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 tổ chức lực lượng tiến công địch, giành lại thế chủ động, phản công đánh địch ra khỏi biên giới, chiếm lại Đường 7, giữ vững địa bàn, củng cố thế trận chiến tranh nhân dân kết hợp với xây dựng lực lượng, xây dựng căn cứ vùng giải phóng; tạo thế, tạo lực, chuẩn bị cho tổng tiến công đánh trả sự xâm lược và thực hiện liên minh chiến đấu giúp Bạn, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam.
Trong nội địa, cuộc đấu tranh cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh diễn biến phức tạp. Các lực lượng phản động quốc tế cấu kết, dựng lên chiến dịch vu cáo Việt Nam “xua đuổi, bài xích và khủng bố Hoa”. Các phần tử phản động người Hoa đưa ra những luận điệu xuyên tạc, bia đặt nhằm dụ dỗ, lừa gạt, dọa dẫm Hoa kiều, làm cho người Hoa nghi ngờ, oán ghét người Việt Nam, bỏ sản xuất, làm ăn trở về cố hương. Để giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội, đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo cơ quan, đơn vị nắm chắc số cán bộ, chiến sĩ người gốc Hoa và có quan hệ ảnh hưởng với người Hoa; gặp gỡ từng cá nhân giải thích rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước ta, giúp họ phân biệt đúng sai và xác định thái độ làm đúng theo đường lối của Đảng. Đồng thời, đồng chí chỉ đạo LLVT các tỉnh, thành phố triển khai kế hoạch phòng thủ chống bạo loạn, chuẩn bị các phương án đánh địch, nhất là ở Thành phố Hồ Chí Minh, vùng bờ biển và vùng dân cư phức tạp; thường xuyên tổ chức các đợt truy quét lực lượng phản động gây rối phá hoại trong nội địa. Thực hiện chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, LLVT Quân khu tiến hành truy quét, bảo vệ, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, hỗ trợ và tham gia đặc lực vào công cuộc cải tạo và xây dựng chủ kiện sinh sống ổn định cho hàng vạn người dân Campuchia.
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương về việc giúp Bạn xây dựng lực lượng cách mạng, đồng chí Lê Đức Anh cùng Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 xác định hai nhiệm vụ chủ yếu cho LLVT Quân khu: Thứ nhất, kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ chiến đấu với nhiệm vụ giúp bạn. Các đơn vị phải có trách nhiệm cứu giúp người Campuchia tị nạn chạy sang đất Việt Nam ở vùng biên giới và Nhân dân Campuchia ở vùng mới giải phóng; thứ hai, các đơn vị, cơ quan được giao nhiệm vụ giúp Bạn phải có trách nhiệm giúp bạn xây dựng thực lực cách mạng, làm nòng cốt cho lực lượng cách mạng Campuchia.
Để thực hiện tốt hai nhiệm vụ này, từ tháng 6/1978, đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo các sự đoàn của Quân khu 7 được tổ chức biên chế ban dân vận. Trong bạn có cán bộ chuyên trách, có phiên dịch tiếng Campuchia để làm nhiệm vụ giúp Bạn. Cùng thời gian này, đồng chí chỉ đạo tổ chức các bộ phận đón tiếp, giúp đỡ những người dân Campuchia sang tị nạn trên địa bàn các tỉnh biên giới và tiếp tục tổ chức các đội trinh sát thọc sâu để tuyên truyền, móc nối lực lượng nổi dậy đang hoạt động trong nội địa Campuchia. Ngày 5/6/1978, đồng chí Lê Đức Anh ký Thông báo số 136/TB gửi các đơn vị trong LLVT Quân khu yêu cầu các đơn vị xác định “đây là thời cơ thuận lợi cho việc thực hiện kế hoạch tấn công mở rộng bàn đạp và giúp cách mạng K”. Từ tháng 8/1978, LLVT Quân khu 7 đã khấn trương giúp bạn xây dựng LLVT cách mạng. Các căn cứ địa lúc đầu phải tạm xây dựng trên đất Việt Nam, gần biên giới hai nước. Tháng 10/1978, Bạn tập hợp các cán bộ cách mạng chân chính lập ra đơn vị đầu tiên gồm 125 người, đặt tên là “LLVT đoàn kết cứu nước Campuchia”, sau đó đơn vị này chuyển thành khung huấn luyện. Bạn đến các trại tị nạn người Campuchia chọn các thanh niên khỏe mạnh, hăng hái , đưa về huấn luyện và tổ chức LLVT. Cuối tháng 11/1978, các đơn vị của Quân khu 7 chọn được 9.368 người Campuchia có trình độ năng lực, sức khỏe, tổ chức thành 15 tiểu đoàn, 75 đội công tác và 1 đội văn công. Cùng trong thời gian này, đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo tổ chức căn cứ huấn luyện ở Long Giao, Đồng Nai, cử đồng chí Phùng Đình Ấm (Ba Cung) và một số đồng chí giúp Bạn huấn luyện, đào tạo cho bạn trên 300 cán bộ từ cấp tiểu đội đến cấp tiểu đoàn và 56 y tá. Đây là LLVT cách mạng nòng cốt đầu tiên của Nhân dân Campuchia.
Trong quá trình giúp bạn xây dựng lực lượng, đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo LLVT Quân khu 7 liên tục đánh địch và tăng cường công tác nắm tình hình, chuẩn bị mọi mặt để khi thời cơ đến thì giúp bạn giải phóng đất nước. Từ ngày 15/11 đến ngày 20/12/1978, các LLVT Quân khu 7 đã cùng Nhân dân vùng biên giới Tây Nam đánh trả mạnh mẽ, phản công quyết liệt, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch trên lãnh thổ Việt Nam, có nơi ta đã đẩy địch về sâu trong đất Campuchia. Đến ngày 20/12/1978, ta đã đẩy lùi toàn bộ quân địch ra khỏi biên giới thuộc địa bàn Quân khu 7.
Ngày 2/12/1978, tại vùng giải phóng Snuol, Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia ra đời, kêu gọi Nhân dân và chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức dân chủ thế giới đang đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội hãy tích cực ủng hộ và giúp đỡ mọi mặt cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của Nhân dân Campuchia. Đáp lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia , LLVT Quân khu 7 và các đơn vị của Bộ cùng với LLVT cách mạng Campuchia thực hiện cuộc phản công chiến lược trên toàn tuyến biên giới, tiến công giải phóng Thủ đô Phnom Penh (7/1/1979), đánh đổ chế độ độc tài phản động Pôn Pốt - lông Xary, cứu Nhân dân Bạn thoát khỏi thảm họa diệt chủng, đồng thời loại trừ hiểm họa xâm lược ở biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
Có thể khẳng định, trong chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, giúp Bạn làm cuộc cách mạng hồi sinh đất nước, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng , đồng chí Lê Đức Anh cùng Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 kịp thời đề ra chủ trương và biện pháp lãnh đạo, chỉ huy, nhanh chóng xác định kẻ thù, tìm ra phương thức tác chiến phù hợp; luôn gắn chiến đấu với xây dựng, huấn luyện. Đồng thời, khẩn trương củng cố, kiện toàn tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phát triển đảng viên; giữ vững nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phát huy tinh thần quân sự dân chủ, truyền thống của Quân khu 7 và từng đơn vị, nêu cao tinh thần chiến đấu kiên quyết, bền bỉ kiên cường, dũng cảm hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, góp phần đánh bại âm mưu xâm lấn gây chiến tranh của tập đoàn phản động Pôn Pốt – Iêng Xary, bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam của Tổ quốc, giúp bạn làm cuộc cách mạng hồi sinh đất nước. Cùng với chỉ huy chiến đấu bảo vệ biên giới, đồng chí Lê Đức Anh lãnh đạo, chỉ đạo LLVT Quân khu 7 tiếp tục khắc phục hậu quả chiến tranh, truy quét tàn quân, trấn áp lực lượng phản cách mạng, quản huấn cải tạo các đối tượng trước đây làm việc cho chính quyền, quân đội Sài Gòn, tham gia xây dựng chính quyền nhân dân và bảo vệ trật tự an ninh. Các mặt công tác khối phục kinh tế ổn định và xây dựng đời sống: cứu đói, giúp đỡ nhân dân hồi hương lập nghiệp, xây dựng vùng kinh tế mới, bài trừ tư sản mại bản, truy quét các tệ nạn xã hội, hướng dẫn sản xuất, tổ chức lưu thông phân phối, xây dựng nền văn hóa giáo dục mới ... đã thu được kết quả bước đầu rất căn bản. Tình hình các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội trên địa bàn Quân khu 7 từng bước đi vào ổn định.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh gắn với những mốc son trong lịch sử dân tộc Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Đồng chí đã đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc ta. LLVT Quân khu 7 mãi ghi nhớ và tự hào về đồng chí - Vị Tư lệnh tài ba. Đồng chí đã để lại những bài học quý về chuẩn bị lực lượng, xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh và khu vực phòng thủ, về nghệ thuật tác chiến, thực hiện nghĩa vụ quốc tế và liên minh chiến đấu với LLVT cách mạng và Nhân dân Campuchia. Những bài học đó được Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 vận dụng vào quá trình lãnh đạo, chỉ huy LLVT các cấp, thực hiện nhiệm vụ xây dựng tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc, xây dựng tuyến phòng thủ biên giới trên địa bàn Quân khu 7, để tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong kiện mới, góp phần bảo vệ vững chắc chủ tạo môi trường hòa bình ổn định cho phát triển, xây dựng đất nước Việt Nam xã hội điều dân chủ, công bằng, văn minh.
| TRUNG TƯỚNG TRẦN HOÀI TRUNG Chính uỷ Quân khu 7 |
Trong chiến tranh, người chỉ huy giỏi luôn biết lúc nào tấn công, lúc nào phòng thủ, lúc nào “lui một bước để tiến ba bước”. Đại tướng Lê Đức Anh là một người như thế.
Kiên quyết nổ súng để thống nhất đất nước
Sau khi hiệp định Paris được ký kết (27/1/1973), chính quyền Sài Gòn ngang nhiên vi phạm hiệp định, ráo riết thực hiện kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ”, đẩy mạnh bình định lấn chiếm.
Trước tình hình đó, nếu chấp hành lệnh “5 cấm chỉ”: cấm tấn công vũ trang, cấm bao vây đồn bót, cấm đánh địch bung ra, cấm pháo kích, cấm làm xã ấp chiến đấu” thì sẽ mất đất, mất dân.
Lúc đó cấp trên có nhận định rằng, có “2 khả năng” phát triển của tình hình: Khả năng đấu tranh trong hòa bình và khả năng tiếp tục chiến tranh trở lại, trong đó nhấn mạnh khả năng buộc đối phương thi hành hiệp định Paris, khả năng này tăng lên trên cơ sở cho rằng sức mạnh của xu thế hòa bình, hòa hợp dân tộc có thể dẫn đến “cao trào cách mạng thực sự và có thể làm tan rã từng bộ phận ngụy quân”. Lệnh “5 cấm chỉ” chính là đi theo xu hướng đấu tranh trong hòa bình.
Song dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, sự chỉ huy trực tiếp, quyết đoán và dám chịu trách nhiệm của Tư lệnh Lê Đức Anh, quân và dân Quân khu 9 đã kiên quyết nổ súng đánh trả, bẻ gãy các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, giữ vững và mở rộng vùng đóng quân.
Tư lệnh Quân khu 9 Lê Đức Anh bị dọa đưa ra tòa án binh vì hành động chống lệnh này. Mặc dù chống lệnh nhưng Quân khu 9 không những giữ được đất, giữ được dân mà còn mở rộng được vùng giải phóng. Hơn nữa, tuy Quân khu 9 đã không thực hiện đúng lệnh của cấp trên nhưng thực hiện đúng nghị quyết 15 (1959) của Ban chấp hành Trung ương Đảng với phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là bạo lực cách mạng nhằm thống nhất nước nhà.
Kết quả hoạt động của Quân khu 9 đã giúp Trung ương ban hành nghị quyết 21 (1974) có nội dung: Con đường các mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Nội dung khẳng định Đảng ta tiếp tục thực hiện nghị quyết 15 trước đây là phải đấu tranh vũ trang. Thực tế chiến trường của Quân khu 9 đã giúp tạo nên bước ngoặt của đấu tranh thống nhất đất nước. Thực hiện nghị quyết 21 đã làm xoay chuyển cục diện chiến trường, tạo đà cho các chiến thắng khác và chúng ta đã giành thắng lợi hoàn toàn.
Nếu như không có nghị quyết 15, nếu như năm 1973 chúng ta không kiên quyết tiếp tục thực hiện nghị quyết 15, có lẽ đất nước chúng ta vẫn còn chìm trong đau khổ của chia cắt.
Giải ván cờ thế: Biên giới phía Bắc - Biển Đông - chiến trường Campuchia
Vào thời điểm những năm 1987-1989, chúng ta ở trong tình thế 3 bề thọ địch: biên giới phía Bắc, Biển Đông và chiến trường Campuchia. Chưa kể, chúng ta bị bao vây, cấm vận về kinh tế, bị cô lập về chính trị, ngoại giao. Giải quyết bất kỳ việc nào cũng phải đặt trong mối quan hệ của 3 vấn đề này.
Ngừng bắn trước, đưa quân chủ lực ra tuyến sau để ổn định tình hình biên giới
Năm 1986, Đại tướng Lê Đức Anh được trở về Bộ Quốc phòng từ chiến trường Campuchia. Sau khi được bổ nhiệm làm Tổng tham mưu trưởng, ông đã đi thị sát dọc biên giới phía Bắc.
Sau khi nắm tình hình biên giới, theo lời kể của Đại tướng Phạm Văn Trà và Trung tướng Hoàng Nghĩa Khánh, Đại tướng Lê Đức Anh đã yêu cầu các chốt của ta ngừng bắn trả địch mà tiến hành địch vận là chính, trong đó có việc bắn pháo truyền đơn, phát loa sang Trung Quốc nhằm làm dịu tình hình. Sau một thời gian, bên kia không bắn pháo sang ta nữa và tình hình ổn định dần.
Tiếp đó, ông ra lệnh rút một số chốt tiếp cận đối phương về phía sau rồi rút từng phần các đơn vị chủ lực về tuyến hai để đưa dân quân, bộ đội địa phương và bộ đội biên phòng lên tuyến một.
Cán bộ chỉ huy các cấp, từ cấp quân khu, lúc đó rất lo ngại, không dám cho quân dưới quyền lui xuống nhưng Đại tướng Lê Đức Anh rất kiên quyết và lấy trách nhiệm cá nhân đảm bảo cho quyết định này. Trước hành động thiện chí của ta, đối phương cũng rút dần các chốt cắm trên đất ta. Quyết định của Đại tướng Lê Đức Anh mang tầm chiến lược, táo bạo và có thể nói có một không hai nhưng rất sáng suốt và đúng đắn.
Với tình hình biên giới căng thẳng như vậy, quyết định lùi quân chủ lực về phía sau là quyết định sinh tử. Đại tướng Lê Đức Anh đã đánh giá đúng tình hình, hiểu rõ mối quan hệ Việt-Trung, nắm chắc hiện trạng Campuchia và tin tưởng vào sức mạnh chiến đấu của quân đội ta khi ra một quyết định tạo ra bước ngoặt của cuộc chiến và khởi đầu cho bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Biển Đông: Mở rộng điểm đóng giữ, kiên quyết đánh trả nhưng không mắc mưu địch khiêu khích.
Năm 1987, thời gian Đại tướng Lê Đức Anh làm Bộ trưởng Quốc phòng, tình hình Biển Đông vô cùng phức tạp.
Đối với Trường Sa, có 6 bên tuyên bố chủ quyền, trong đó 5 bên đóng giữ tại đây. Việt Nam, Philippines, Trung Quốc, Malaysia, Đài Loan (Trung Quốc) có quân đội đóng tại Trường Sa. Brunei tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa nhưng không có quân đội đóng tại đây.
Đến hết năm 1986, có 4 bên đóng giữ 21 thực thể địa lý (gọi tắt là đảo) tại quần đảo Trường Sa.
Việt Nam đóng giữ 9 đảo, trong đó có 5 đảo có từ trước 30/4/1975 (Trường Sa, Song Tử Tây, Nam Yết, Sinh Tồn và Sơn Ca). Năm 1978, Việt Nam đóng giữ thêm 4 đảo (An Bang, Sinh Tồn Đông, Phan Vinh và Trường Sa Đông).
Philipines kiểm soát 7 đảo: 5 đảo vào năm 1971-1973, 2 đảo năm 1977-1978. Malaysia kiểm soát 3 đảo vào năm 1983-1984. Đài Loan kiểm soát 2 đảo.
Từ cuối năm 1986, Trung Quốc và Maylaysia gia tăng các hoạt động tại khu vực. Trung Quốc tăng số lần tàu chiến, tàu vận tải trinh sát, thăm dò tại Trường Sa. Ngày 31/12/1986 Malaysia đến đóng giữ bãi Kỳ Vân và uy hiếp các đảo khác gần đảo Thuyền Chài.
Trước tình hình đó, trong năm 1987, Bộ trưởng Quốc phòng hai lần xuống làm việc với Bộ tư lệnh Hải quân, vùng 4 Hải quân để giao nhiệm vụ bảo vệ Trường Sa, đóng giữ các đảo chìm. Ngày 5/3/1987 ta đã đóng giữ đảo Thuyền Chài.
Ngày 6/11/1987, Đại tướng Lê Đức Anh ký mệnh lệnh số 1679/ML-QP “Đưa lực lượng ra đóng giữ các bãi cạn chưa có người, không chờ xin chỉ thị cấp trên, trước mắt đưa ngay các lực lượng ra đóng giữ Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ. Khai thác và phát huy khả năng của các lực lượng vũ trang, các ngành, các địa phương để chi viện từ bờ ra đảo xa. Nếu đối phương xâm phạm đảo hoặc dùng vũ lực uy hiếp thì đánh trả và luôn cảnh giác, tỉnh táo, không mắc mưu địch khiêu khích”.
Mệnh lệnh của Bộ trưởng rất rõ ràng: Mở rộng điểm đóng giữ, kiên quyết đánh trả nhưng không mắc mưu địch khiêu khích.
Thực hiện mệnh lệnh trên, từ đầu năm 1988 đến 15/3/1988, ta đóng giữ thêm 11 đảo: Đá Tây, Tiên Nữ, Đá Lát, Đá Lớn, Đá Đông, Tốc Tan, Núi Le, Cô Lin, Len Đao, Đá Nam và Đá Thị, nâng tổng số đảo lên 21, gấp trên hai lần giai đoạn trước đó. Riêng trong ngày 14/3, ta đóng giữ Cô Lin và Len Đao trong tam giác Co Lin - Len Đao - Gạc Ma.
Năm 1988, Trung Quốc cũng tăng đột biến các hoạt động tại Trường Sa và đã đóng giữ 6 điểm, trong đó có Gạc Ma trong xung đột ngày 14/3.
Như vậy, trong các năm 1987-1988, Việt Nam, Trung Quốc và Malaysia đã gia tăng các điểm đóng quân trên quần đảo Trường Sa. Các bên đóng giữ các điểm phần lớn là không tiếng súng. Chỉ duy nhất có nổ súng khi tranh chấp đóng giữ tại Gạc Ma và Cô Lin. Chúng ta đã kiềm chế, không mắc mưu khiêu khích của đối phương nên đã không xảy ra xung đột lớn. Ngay sau sự kiện Gạc Ma - Cô Lin - Len Đao, Việt Nam đã đóng giữ thêm 2 đảo Đá Nam và Đá Thị mà không xảy ra xung đột nào.
Rút toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam về nước
Tháng 9/1989, Việt Nam rút những đơn vị cuối cùng của quân tình nguyện tại Campuchia về nước.
Trong tình thế hiểm nghèo của giai đoạn này, chúng ta đã làm được những việc rất lớn, những việc quan hệ chặt chẽ với nhau. Biển Đông mà xảy ra xung đột lớn sẽ dẫn tới căng thẳng ở biên giới. Nếu biên giới phía Bắc không yên thì việc rút toàn bộ quân khỏi Campuchia là mạo hiểm. Nếu không từng bước rút quân khỏi Campuchia thì cũng khó ổn định biên giới phía Bắc.
Năm 1987, Việt Nam bắt đầu rút quân từ Campuchia về nước theo kế hoạch, khi bạn đã tự đảm đương được. Năm 1989, khi biên giới phía Bắc và Biển Đông không còn căng thẳng, chúng ta rút hết quân khỏi Campuchia.
Với các quyết định mưu lược, táo bạo, với những cách khôn khéo và thiện chí, Việt Nam đã làm được những điều dường như không tưởng. Năm 1988 đã không còn tiếng súng trên biên giới Việt-Trung sau gần 10 năm giao tranh.
Trên Biển Đông đã không xảy ra xung đột lớn, Việt Nam mở rộng các điểm đóng quân tại Trường Sa. Đất nước Campuchia đã hồi sinh, biên giới Tây Nam trở thành biên giới an toàn và hữu nghị. Hòa bình một lần nữa đã được lập lại, chúng ta bước vào giai đoạn mới của phát triển đất nước. Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Quốc phòng đã có đóng góp to lớn vào thành quả này.
Mưu lược và dũng cảm, Đại tướng Lê Đức Anh đã đưa ra những quyết định chính xác cho từng trường hợp một và làm xoay chuyển thế cuộc. Để thống nhất đất nước, ông kiên quyết nổ súng tấn công. Vì một nền hòa bình lâu dài, ông ra lệnh ngừng bắn trước. Để tránh xung đột lớn trên Biển Đông dẫn đến hậu quả khôn lường cả trên biển lẫn trên bộ, ông có mệnh lệnh không mắc mưu khiêu khích của địch nhưng phải kiên quyết đánh trả khi bị tấn công, và quan trọng nhất là phải mở rộng điểm đóng giữ.
Trong thế kỷ 20, Việt Nam đã trải qua 4 cuộc chiến tranh. Đại tướng Lê Đức Anh là một trong số rất ít người lính đã đi đến kết thúc của cả 4 cuộc chiến tranh, 2 cuộc chiến giải phóng dân tộc và 2 cuộc chiến bảo vệ đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và chỉ đạo của cấp trên, ông đã có những quyết định làm xoay chuyển tình thế trong chiến tranh chống Mỹ, trong 2 cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc giai đoạn 1977-1989.
Các nghiên cứu về cuộc đấu tranh thống nhất đất nước đã có tương đối nhiều và đầy đủ. Tuy nhiên, nghiên cứu lịch sử quân sự, chính trị, ngoại giao về chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, giúp bạn tại Campuchia; về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc và thực thi chủ quyền ở Biển Đông của chúng ta còn chưa nhiều, chưa sâu. Bài viết này chỉ là những nét phác họa về các vấn đề trên. Rất mong chúng ta đi sâu và rộng vào những đề tài này giúp các thế hệ về sau hiểu hơn và ngày càng tự hào về chiến công, về những kỳ tích mà thế hệ cha ông đã tạo nên.
LÊ MẠNH HÀ
TS, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ
Tóm tắt: Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà lãnh đạo, một vị tướng trận mạc, một nhà chỉ huy xuất sắc của Đảng, Nhà nước, Quân đội và Nhân dân Việt Nam. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Đại tướng đã trải qua nhiều chức vụ khác nhau. Dù ở cương vị nào, với tư chất thông minh, tư duy chiến lược sắc bén, biện chứng và hệ thống, lại mẫn cảm về chính trị và quân sự, đồng chí đều nhận thức chính xác tình hình, chủ động đề xuất chủ trương và tổ chức thực hiện thành công nhiều nhiệm vụ đặc biệt khó khăn. Trong bài viết này, tác giả chỉ khái quát một số hoạt động mang dấu ấn của Đại tướng tại chiến trường Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược .
Sinh ra và lớn lên ở Thừa Thiên Huế, nhưng phần lớn quãng đời hoạt động cách mạng của đồng chí Lê Đức Anh là ở chiến trường Nam Bộ. Năm 1942, từ Đà Lạt, đồng chí xin vào làm thuê tại đồn điền cao su Lộc Ninh (nay thuộc tỉnh Bình Phước). Tại đây, đồng chí tích cực tham gia hoạt động cách mạng, sau đó làm Bí thư Chi bộ Đồn điền, Bí thư Huyện ủy lâm thời Hớn Quản. Sau đó, đồng chí nhập ngũ, lần lượt trải qua các chức vụ: Chính trị viên Chi đội Vệ quốc đoàn Thủ Dầu Một, Tham mưu trưởng Khu 8 , Khu Sài Gòn - Chợ Lớn , Tham mưu trưởng Khu 7, Phó Tham mưu trưởng Nam Bộ, Tham mưu trưởng Phân liên khu miền Đông Nam Bộ - trong đó có thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn - trong kháng chiến chống thực dân Pháp là chiến trường sau lưng địch, nơi chúng tập trung bình định, thực hiện chiến lược “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Đồng chí Lê Đức Anh đã cùng cấp ủy đảng và Bộ Tư lệnh Khu, Bộ Tư lệnh Phân liên khu đề ra chủ trương, lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng vũ trang (LLVT) xây dựng và chiến đấu, công tác phù hợp với đặc điểm và nhiệm vụ chiến lược của chiến trường.
Quyết định điều chỉnh xây dựng đơn vị chủ lực đến cấp tiểu đoàn
Một trong những đóng góp nổi bật của đồng chí Lê Đức Anh ở chiến trường Nam Bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp là xác định chủ trương chỉ đạo xây dựng LLVT tập trung qui mô nhỏ.
Vấn đề xây dựng LLVT luôn là một trong những nội dung cốt lõi trong tiến hành chiến tranh cách mạng. Ở Nam Bộ, LLVT cách mạng chỉ thực sự ra đời sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đó là những đơn vị tự vệ chiến đấu được thành lập nhằm trấn áp lực lượng phản động, bảo vệ chính quyền nhân dân, do tổ chức Đảng và Ủy ban nhân dẫn cách mạng tổ chức. Kháng chiến bùng nổ, đại bộ phận LLVT cách mạng được kiện toàn tổ chức trong một hệ thống chỉ huy thống nhất và xây dựng thành các chi đội Giải phóng quân (sau gọi là chi đội Vệ quốc đoàn). Toàn Nam Bộ được tổ chức thành 3 khu (7, 8, 9) và 28 chi đội, không kể lực lượng dân quân du kích (DQDK) ở địa phương. Mỗi chi đội có qui mô tương đương một trung đoàn ngày nay. Năm 1948, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Nam Bộ lần thứ nhất (16 - 20/12/1947) về “tập trung xây dựng các đơn vị vũ trang mạnh”, bộ tư lệnh các khu ở Nam Bộ quyết định xây dựng các trung đoàn trên cơ sở phát triển nâng cao về chất các chi đội hoặc hợp nhất nhiều chi đội có sẵn. Riêng Bộ đội Bình Xuyên được giải thể, chia lực lượng về các trung đoàn mới được thành lập. Theo đó, toàn Nam Bộ có tổng cộng 22 trung đoàn, đặt dưới sự chỉ huy của Ban Quân sự Nam Bộ, nhưng chủ yếu hoạt động trên địa bàn của từng tỉnh.
Bước sang năm 1949, Trung ương Đảng chủ trương “Trọng tâm công tác trong lúc này là tiếp tục xây dựng các bộ đội chủ lực, tập trung cán bộ, tập trung vũ khí và phương tiện thông tin liên lạc cho những đơn vị có nhiệm vụ đánh vận động chiến”, và các đơn vị chủ lực cấp sư đoàn của Quân đội ta lần lượt ra đời trên chiến trường Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Thực hiện chủ trương trên, ngày 18/11/1949, Bộ Tư lệnh Nam Bộ ra Mệnh lệnh số 137 thành lập các liên trung đoàn trên cơ sở hợp nhất các trung đoàn cũ. Theo đó, toàn Nam Bộ có 8 liên trung đoàn. Tiếp đó, để phối hợp với Chiến dịch Biên Giới, các khu 7, 8, 9 và Sài Gòn - Gia Định mở các chiến dịch Trà Vinh, Bến Cát, Long Châu Hà ... Để có lực lượng chủ lực mạnh tham gia các chiến dịch, thực hiện Huấn lệnh của Bộ Tổng Tư lệnh “tiến tới thực hiện được trong năm nay việc tập trung một phần lớn các đơn vị phân tán để xây dựng ít nhất được 4 trung đoàn mạnh cho toàn Nam Bộ “chủ lực của ba khu và chủ lực của Bộ Tư lệnh Nam Bộ ”, Bộ Tư lệnh Nam Bộ chỉ đạo giải thể các liên trung đoàn để thành lập các trung đoàn chủ lực. Theo đó, toàn Nam Bộ có 4 trung đoàn chủ lực được thành lập Trung đoàn Đồng Nai (hoạt động trên địa bàn miền Đông Nam Bộ), Trung đoàn Đồng Tháp (hoạt động trên địa bàn các tỉnh Đồng Tháp Mười), Trung đoàn Cửu Long (hoạt động trên địa bàn giữa sông Tiền và sông Hậu), Trung đoàn Tây Đô (hoạt động trên địa bàn Hữu ngạn Hậu Giang). Đây là những đơn vị chủ lực được tổ chức đến mức cao nhất ở chiến trường Nam Bộ.
Do phải tập trung bồi dưỡng đôn số cán bộ, chiến sĩ cũ lên xây dựng các đơn vị trung đoàn, liên trung đoàn, rồi trung đoàn chủ lực, lực lượng DQDK ở cơ sở bị thiếu hụt. Phong trào chiến tranh du kích ở địa phương gặp nhiều khó khăn. Trong lúc đó, hoạt động tác chiến tại các chiến trường ở các khu 7, 8, 9 và Sài Gòn - Chợ Lớn chỉ diễn ra ở qui mô cấp đại đội, tiểu đoàn. Trước tình hình trên, Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đã đề nghị Bộ Tư lệnh Nam Bộ, Xứ ủy Nam Bộ và trực tiếp cá nhân Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn về việc chỉ nên xây dựng đến cấp tiểu đoàn chủ lực, còn lại tập trung phát triển LLVT địa phương. Trong dự thảo hồi ký “Cuộc chiến nhìn từ chiến trường”, đồng chí Lê Đức Anh viết: “Ngay cả các chiến dịch Mỹ Tho, Cầu Kè, Bến Cát I, Cao Lãnh, Trà Vinh, Sóc Trăng I, Bến Tre, Bến Cát II, Long Châu Hà I, Long Châu Hà II, Sóc Trăng II, đều chỉ do bộ tư lệnh từng khu thực hiện, lực lượng không quá một trung đoàn, mục tiêu chủ yếu không nhằm tiêu diệt lớn mà chỉ thực hiện nhiệm vụ đánh hao sinh lực địch, phá vỡ hệ thống đồn bót, tháp canh, mở rộng vùng giải phóng, vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng địch. Đề xuất của Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đã được Xứ ủy, tiếp đó là Trung ương Cục miền Nam chấp nhận, thể hiện trong nghị quyết về xây dựng LLVT từ tháng 5/1951: mỗi phân liên khu xây dựng 2 - 3 tiểu đoàn chủ lực, mỗi tỉnh xây dựng 1 tiểu đoàn tập trung, mỗi - huyện có 1 đại đội bộ đội địa phương, mỗi xã có 1 trung đội DVDK. Theo đó, toàn Nam Bộ có 8 tiểu đoàn chủ lực phân liên khu, 11 tiểu đoàn tập trung tỉnh.
Thực tiễn cách mạng ở Nam Bộ những năm 1951 - 1954 đã chứng minh quan của Tham mưu trưởng Lê Đức Anh về việc 3 tổ chức LLVT theo hướng nhỏ gọn, giải thể các trung đoàn chủ lực, chỉ tổ chức đến cấp tiểu đoàn là đúng đắn. Trong Mật điện số 294/VF/TTL gửi Bộ Tư lệnh Nam Bộ về “Những điểm chính trong khi đặt kế hoạch 5 công tác Thu Đông 1952 và 6 tháng đầu năm 1953”, Tổng Tư lệnh đánh giá: “ Nói chung, chủ trương nắm vững phương châm du kích chiến là chính, sửa chữa hiện tượng tập trung chủ lực quá sớm và mạnh dạn phân tán một bộ phận chủ lực về địa phương là một chủ trương đúng”.
Mỗi cơ quan là một “huyện đội”, “xã đội”
Đầu năm 1964, trở về miền Nam trên một chiếc “tàu không số” sau khi thôi giữ chức vụ Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng chí Lê Đức Anh giữ cương vị Tham mưu trưởng, rồi Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (Bộ Tư lệnh Miền). Tại đây, đồng chí đã cùng Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền lãnh đạo, chỉ đạo các LLVT nhân dân B2 xây dựng và chiến đấu, làm nên những sự kiện quân sự lớn, có ý nghĩa làm thay đổi cục diện chiến trường cho đến khi kết thúc cuộc chiến tranh. Sáng kiến đầu tiên của đồng chí là xây dựng các cơ quan kháng chiến trên vùng căn cứ không có dân thành các “huyện đội”, “xã đội”.
Khi quân đội nhà nghề với đầy đủ trang bị vào loại tối tân bậc nhất lúc bấy giờ của Mỹ và 5 nước đồng minh (Hàn quốc, Thái Lan, Australia, Philippines, New Zealand) vào trực tiếp tham chiến tại miền Nam Việt Nam, thực hiện hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 - 1966, 1966 - 1967) với qui mô lớn chưa từng có, vấn đề đặt ra là chúng ta có dám đánh Mỹ không? đánh được không? và đánh bằng cách nào? Từ thực tiễn chiến trường, triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư (3/1966) của Trung ương Cục miền Nam về “ Đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, xây dựng LLVT lớn mạnh, phát triển phong trào chiến tranh du kích rộng khắp, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực Mỹ và ngụy” và sự chỉ đạo của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam về phương châm đánh Mỹ “bám thắt lưng địch mà đánh”, Tham mưu trưởng Miền Lê Đức Anh đã đề xuất với Quân ủy - Bộ Tư lệnh Miền và được giao trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng chiến trường, xây dựng lực lượng đánh địch tại hướng miền Đông Nam Bộ - địa bàn thu hút, tiêu diệt lớn sinh lực địch (miền Tây Nam Bộ là địa bàn tập trung đánh địch bình định).
Để tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, phát huy phong trào chiến tranh du kích theo Nghị quyết Hội nghị chiến tranh du kích toàn miền Nam lần thứ III,
nhằm chống lại có hiệu quả các cuộc hành quân qui mô lớn của quân đội viễn chinh Mỹ, cần có nhân dân trên địa bàn. Trong lúc đó, khu vực đứng chân của các cơ quan đầu não kháng chiến như Trung ương Cục miền Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mục tiêu “tìm diệt” chủ yếu của quân đội Mỹ - lại là khu vực rất ít dân hoặc hầu như không có dân. Trước tình hình trên, Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đã chỉ đạo tổ chức các khu vực đứng chân của cơ quan và LLVT kháng chiến thành các “huyện đội”. Theo đó địa bàn đứng chân của các cơ quan Trung ương Cục miền Nam được tổ chức thành 6 “huyện đội”; địa bàn đóng quân của Bộ Chỉ huy Miền được tổ chức thành 7 “huyện đội”. Dưới “huyện đội” là các “xã đội”. “Huyện đội”, “xã đội” đều thành lập ban chỉ huy quân sự. Các nhân viên là dân quân, du kích và được trang bị vũ khí (kể cả súng phòng không 12,7mm, súng chống tăng B - 40 , B - 41 đòi hỏi được huấn luyện kỹ thuật sử dụng) . 13 “huyện” đặt dưới sự chỉ huy thống nhất gọi là “Tỉnh đội”, do Tham mưu trưởng Miền Lê Đức Anh làm “Tỉnh đội trưởng”. Hệ thống “quân sự địa phương” nói trên đã tạo thành thế trận chiến tranh nhân dân trên toàn căn cứ địa Bắc Tây Ninh. Chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh đã góp phần quan trọng làm nên những thắng lợi to lớn trong các chiến dịch phản công đánh bại những cuộc hành quân của địch, đặc biệt chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Junction City - cuộc hành quân trên bộ lớn nhất của quân đội Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
Kiên quyết giữ vững tư tưởng tiến công
Mặc dù giành được thắng lợi hết sức to lớn về mặt chiến lược trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968), nhưng sau đó, cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn, tổn thất. Tại chiến trường Khu 9, vùng căn cứ địa đông dân bị địch bình định lấn chiếm gần hết, lực lượng cách mạng phần lớn bị mất sức chiến đấu và bật ra khỏi địa bàn, quân chủ lực phải rút sang bên kia biên giới. Sau khi cùng Chính ủy Phạm Hùng và Tư lệnh Miền Hoàng Văn Thái ra Hà Nội báo cáo tình hình miền Nam với Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Đức Anh về lại chiến trường B2 và được cử làm Tư lệnh Quân khu 9. Ông đã cùng Bí thư Khu ủy kiêm Chính ủy Quân khu 9 Võ Văn Kiệt kiện toàn lực lượng, củng cố nội bộ, chỉ huy LLVT trở về bám trụ và tiến công địch, từng bước củng cố và chuyển hóa thế trận ở đồng bằng sông Cửu Long theo hướng có lợi cho ta.
Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký kết (27/1/1973), đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, chỉ huy chính quyền và quân đội Sài Gòn (QĐSG) sử dụng bạo lực phản cách mạng tiến hành lấn chiếm và bình định, sẵn sàng gây lại chiến tranh lớn, mưu toan phục hồi vùng chúng kiểm soát trên toàn miền Nam Việt Nam. Sau khi ký Hiệp định, trong năm 1973, Mỹ tiếp tục đưa vào miền Nam Việt Nam một khối lượng lớn vũ khí trang bị và dự trữ vật tư chiến tranh. Nhờ đó, chính quyền Thiệu ra sức phát triển quân đội, đồng thời lợi dụng điều khoản ngừng bắn để ồ ạt mở các cuộc hành quân “tràn ngập lãnh thổ”, chiếm lại các căn cứ lõm, nống ra vùng giáp ranh, uy hiếp các hành lang vận chuyển, đẩy chủ lực Quân Giải phóng ra xa vùng chúng kiểm soát, ráo riết thực hiện chương trình “bình định đặc biệt”, củng cố bộ máy kìm kẹp ở cơ sở. Hành động của địch gây cho lực lượng kháng chiến rất
nhiều khó khăn. Đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ lúng túng trong việc thi hành Hiệp định, dẫn đến để mất đất, mất dân.
Riêng tại chiến trường Quân khu 9, Tư lệnh Lê Đức Anh kiên quyết chỉ đạo các LLVT giữ vững thế tiến công địch. Ngay sau ngày Hiệp định Paris được ký kết, đồng chí Lê Đức Anh, Tư lệnh Quân khu cùng Bí thư Khu ủy kiêm Chính ủy Quân khu 9 Võ Văn Kiệt trên cơ sở nhận định địch sẽ không thi hành Hiệp định, tiếp tục gây chiến tranh, đã chỉ đạo các đơn vị vũ trang tiếp tục chiến đấu, giành thắng lợi lớn Long Mỹ, Tam Bình, Trà Ôn, mở rộng hành lang từ Căn cứ U Minh lên Cần Thơ. Ngày 3/2/1973, Khu ủy Khu 9 tổ chức Hội nghị Ban Thường vụ mở rộng quyết nghị đề nghị lên Trung ương Cục miền Nam: Tiếp tục tiến công địch, kiên quyết đánh trả các hành động lấn chiếm, phối hợp chặt chẽ với mũi đấu tranh chính trị và binh vận. Các trung đoàn chủ lực của Khu và Miền được giữ lại tiếp tục chiến đấu, làm chỗ dựa cho LLVT và Nhân dân địa phương đánh địch bình định lấn chiếm, làm nên chiến thắng Chương Thiện đánh bại cuộc hành quân của 75 lượt tiểu đoàn địch (1973).
Kinh nghiệm trong thành công về hoạt động quân sự ở Tây Nam Bộ được phổ biến rộng rãi thông qua bản thông báo của Bộ Tư lệnh Miền: “Quân khu 9 đã đánh giá đúng âm mưu ngoan cố phá hoại hiệp định, phá hoại hòa bình của địch, dự kiến được những thủ đoạn xảo quyệt của chúng nên đã chỉ đạo các LLVT có biện pháp đối phó thích hợp, kịp thời uốn nắn những tư tưởng lệch lạc, suy nghĩ đơn giản, ảo tưởng hòa bình, thiếu cảnh giác, trông chờ Ủy ban Quốc tế và Ban Liên hiệp quân sự bốn bên đi kiểm tra. Khu ủy đã đánh giá đúng những mặt yếu mới của địch, nhất là tinh thần sa sút, nên đã có kế hoạch tấn công quân sự, kết hợp tấn công chính trị, binh vận ở cơ sở tương đối tốt ”.
Xe tăng và pháo binh cơ động chiến đấu trên địa hình đồng bằng sông nước
Sau bước 1 kế hoạch mùa khô 1974 - 1975 với thắng lợi quân sự của LLVT ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, đặc biệt sau Chiến dịch Đường 14 - Phước Long, cuối tháng 1/1975, Trung ương Cục miền Nam khẳng định: LLVT B2 có đủ khả năng tự giải phóng các địa phương trên địa bàn. Từ khẳng định trên, Trung ương Cục thông qua bước 2 kế hoạch mùa khô 1974 - 1975 do Bộ Tư lệnh Miền đề xuất gồm ba điểm: 1. Giải phóng đại bộ phận nông thôn đồng bằng, mở thông hành lang từ Tây Ninh ở xuống Quân khu 8, Quân khu 9, chia cắt a tuyến Đường số 4 nối Sài Gòn với đồng bằng sông Cửu Long; 2. Hoàn thành một bước quan trọng ý định chiến lược chuẩn bị cho đòn quyết chiến chiến lược đánh vào thành phố Sài Gòn; 3. Đánh địch vừa tạo thế trận, vừa nhằm tiêu diệt sinh lực của chúng (đánh quy 2 - 3 sư đoàn chủ lực QĐSG, làm giảm 1/3 quân số bảo an, dân vệ. Để mở hành lang hướng Tây Nam Sài Gòn theo kế hoạch nêu trên, Bộ Tư lệnh Miền quyết định thành lập một đơn vị chủ lực có qui mô cấp quân đoàn. Để giữ bí mật, đơn vị lấy phiên hiệu Đoàn 232, tương tự nhiên hiệu các đoàn hậu cần khu vực được thành lập trước đó trên chiến trường B2. Ngay sau khi thành lập, Đoàn 232 khẩn trương củng cố tổ chức đơn vị, đồng thời triển khai thực hiện nhiệm vụ mở hành lang trên hướng Tây Nam Sài Gòn , đánh địch từ Tây Ninh xuống Kiến Tường, làm chủ vùng phía Tây sông Vàm Cỏ Đông, tạo thế sẵn sàng tiến công Tân An, chặn cắt Đường số 4 (nay là Đường số 1, nối Thành phố Hồ Chí Minh xuống Tây Nam Bộ).
Sau những thắng lợi liên tiếp từ Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng đến chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, đầu tháng 4/1975, trên cơ sở ý kiến đề xuất của Bộ Tư lệnh Miền, Bộ Chính trị Trung ương Đảng hoàn chỉnh kế hoạch giải phóng Sài Gòn; và ngày 8/4/1975, công bố quyết định thành lập - Bộ Chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định (từ ngày 14/4/1975 mang tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh). Thực hiện kế hoạch trên, Đoàn 232 đổi tên thành Binh đoàn cánh Tây Nam do Trung tướng Lê Đức Anh (Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Miền, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh) làm Tư lệnh. Ngoài Tiểu đoàn pháo binh 28 (có đại đội pháo 105mm), Tiểu đoàn xe tăng 23 (loại PT85) của Sư đoàn 5, Binh đoàn được bổ sung một số đơn vị bộ binh và 1 tiểu đoàn xe tăng T54, 1 tiểu đoàn pháo 130mm, 6 khẩu pháo cao xạ và một số đơn vị binh chủng kỹ thuật khác.
Địa bàn tác chiến của Đoàn 232 chủ yếu là đồng bằng sông nước, sình lầy, sông rạch chằng chịt, không thích hợp với cách đánh sử dụng đội hình lớn, tập trung và đặc biệt khó khăn trong tổ chức hành quân cơ động lực lượng. Tư lệnh Lê Đức Anh chủ trương tổ chức đội hình tiến công gồm cả các đơn vị binh chủng nặng như xe tăng, đại bác. Đồng chí chỉ đạo các đơn vị pháo binh tháo rời các bộ phận của pháo đưa xuống thuyền, xuồng ba lá vượt Đồng Tháp Mười; chỉ đạo đơn vị xe tăng bịt kín các chi tiết hở trên xe để vừa hành quân trên bờ kênh, xuôi theo sông Vàm Cỏ đến vị trí tập kết.
Bằng cách cơ động nói trên, đến ngày 9/4/1975, các đơn vị của Binh đoàn kịp thời nổ súng tiến công Chi khu Mộc Hóa, áp sát Thủ Thừa và Tân An. Sư đoàn 5 tiến công hệ thống đồn bót địch ở phía Bắc Đường số 4, giải phóng một vùng rộng lớn dọc bờ sông Vàm Cỏ Tây và kênh Bo Bo. Sư đoàn 9 và Trung đoàn 16 đưa toàn bộ binh khí kỹ thuật đến đầu cầu phía Tây sông Vàm Cỏ Đông. Sư đoàn 3 áp sát Đức Hòa - Hậu Nghĩa, hoàn thành nhiệm vụ chia cắt chiến lược, mở bàn đạp sẵn sàng đánh chiếm các mục tiêu được phân công. Ngày 26/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn. Từ hướng Tây và Tây Nam, Binh đoàn cùng các đơn vị phối thuộc và LLVT địa phương chặn cắt Đường số 4, tiến công thị xã Hậu Nghĩa, Chi khu Đức Hòa, Chi khu Đức Huệ, Thị xã Tân An, Chi khu Thủ Thừa, tiếp đó tiến vào đánh chiếm Biệt khu Thủ đô và các mục tiêu khác trong thành phố Sài Gòn.
Còn rất nhiều những dấu ấn trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước sau này được làm nên bởi trí tuệ, mồ hôi, xương máu của quân và dân ta trong từng thời điểm lịch sử cụ thể. Ở đó, Đại tướng Lê Đức Anh giữ trách nhiệm lãnh đạo chỉ đạo, chỉ huy, vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng LLVT, đấu tranh vũ trang và nghệ thuật tác chiến trong thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Trong bản thảo cuốn hồi ký lịch sử chưa kịp gửi xuất bản, Đại tướng Lê Đức Anh viết: “Cuộc đời giống như một cuộc hành trình dài mà chúng ta không thể biết trước những gì sẽ xảy ra. Hồi nhỏ, chỉ ước rằng mình có thể đặt chân trên con đường sẽ xảy ra ấy. Thế rồi, thật may mắn, tôi đã đi và được can dự vào những sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước”. Sự “can dự của ông, cả tư duy và hành động, luôn phản chiếu một tầm nhìn sắc sảo, chiến lược và để lại nhiều dấu ấn khó phai mờ trong lịch sử dân tộc.
| HỒ SƠN ĐÀI Đại tá, PGS, TS, nguyên Trưởng phòng Khoa học Quân sự Quân khu 7, nguyên Thư ký giúp việc của đồng chí Lê Đức Anh |
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã xuất hiện những cán bộ lãnh đạo xuất sắc của cách mạng, những tướng lĩnh tài ba, song toàn cả về chính trị và quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong số đó, có những con người mà phẩm chất, bản lĩnh và tư duy ở tầm chiến lược của họ đã góp phần làm "xoay chuyển tình thế", đưa cách mạng Việt Nam vượt qua khó khăn, tiến lên giành được những thắng lợi to lớn. Đại tướng Lê Đức Anh là một trong những người như thế.
1. Ba chiến dịch làm xoay chuyển tình thế khó khăn
Cuộc đời binh nghiệp của Đại tướng Lê Đức Anh trải qua hàng trăm trận đánh, trong đó có ba chiến dịch lớn do ông đề xuất ý tưởng tác chiến, trực tiếp chỉ huy giành thắng lợi, làm thay đổi cục diện chiến trường.
Chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Junction City của Mỹ và quân đội Sài Gòn (1967)
Năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ bị phá sản. Chính phủ của Tổng thống Johnson quyết định tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, đưa 18.000 quân Mỹ và quân Đồng minh vào miền Nam Việt Nam thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Tháng 2/1967, Mỹ huy động 45.000 quân, tổ chức cuộc hành quân Junction City nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan lãnh đạo kháng chiến của ta ở Chiến khu Dương Minh Châu (Bắc Tây Ninh).
Được giao chỉ huy lực lượng tại chỗ đánh địch, đồng chí Lê Đức Anh đã có từ duy hết sức độc đáo, sáng tạo: Tạo thế chiến tranh nhân dân trên một địa bàn không có dân. Với quân số chiến đấu tại chỗ khoảng 10.000 người (trong đó có 5.000 cán bộ, nhân viên cơ quan quân - dân - chính), đồng chí Lê Đức Anh đã tổ chức các “ấp đội”, “xã đội” và “huyện đội” chiến đấu. Bộ đội vừa khẩn trương xây dựng trận địa, vừa tích cực huấn luyện kỹ, chiến thuật. Cách tổ chức thế trận “Chiến tranh nhân dân trên một địa bàn không có dân” là một bất ngờ lớn đối với quân địch. Ta vừa vô hiệu hóa ý đồ phân tuyến của địch, hạn chế đến mức tối đa uy lực phi pháo của chúng, vừa thực hiện phân tán, căng kéo lực lượng địch, tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực tập trung đánh những đòn mạnh vào bên sườn và phía sau đội hình quân địch. Sau 52 ngày đêm chiến đấu ác liệt, ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 14.000 tên địch (chủ yếu là quân Mỹ); phá hủy 992 xe quân sự, 112 khẩu pháo, bắn rơi và phá hủy 160 máy bay, đánh thiệt hại nặng nhiều đơn vị tinh nhuệ của Mỹ, bảo vệ được căn cứ kháng chiến của ta.
Chống chiến dịch “ Tràn ngập lãnh thổ ” của địch
Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris được ký kết. Trên chiến trường miền Nam, bộ đội ta, sau nhiều ngày tháng chiến đấu ác liệt, căng thẳng, xuất hiện tư tưởng muốn tranh thủ nghỉ ngơi; mặt khác, có quan điểm cho rằng nếu nổ súng sẽ vi phạm Hiệp định, quân Mỹ đang rút về nước sẽ lấy cớ quay trở lại miền Nam Việt Nam. Trong khi đó, Tổng thống chính quyền Sài Gòn lớn tiếng tuyên bố: “Ngưng chiến không ngừng bắn. Không thi hành Hiệp định Paris!” và ráo riết đôn quân, lấn đất, giành dân, tiến hành chiến dịch “Tràn ngập lãnh thổ”. Riêng trên địa bàn Quân khu 9, hai đồng chí Lê Đức Anh và Võ Văn Kiệt cùng Đảng ủy Quân khu vẫn kiên quyết lãnh đạo và chỉ huy quân, dân đồng bằng sông Cửu Long phát huy sức mạnh của ba thứ quân, hiệp đồng chặt chẽ trong việc kết hợp ba mũi giáp công (quân sự - chính trị - binh, địch vận) liên tục tổ chức chiến đấu, đánh bại các đợt gần 800.000 dân và nhiều vùng đất rộng tiến công “Tràn ngập lãnh thổ” của 75 tiểu đoàn quân địch, giải phóng hơn 400 ấp với lớn. Tình hình trở nên phức tạp khi ngay trong Bộ Chỉ huy Miền có quan điểm cho rằng Quân khu 9 đã “xé rào”, vi phạm Hiệp định Paris và đề nghị đưa đồng chí Lê Đức Anh ra Tòa án binh... Đúng lúc đó, đồng chí Lê Duẩn và Bộ Chính trị có điện, lần lượt gọi hai đồng chí Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh ra Trung ương báo cáo. Sau khi nghe hai đồng chí báo cáo tình hình, Trung ương đã biểu dương và phát động toàn chiến trường học tập Khu 9, kiên quyết tiến công trừng trị quân địch lấn chiếm, vi phạm Hiệp định Paris. Ngay sau đó, đồng chí Lê Đức Anh được Đảng và Nhà nước thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng.
Chiến dịch giải phóng Phước Long
Năm 1974, được giao đảm nhiệm cương vị Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, đồng chí Lê Đức Anh khẩn trương chỉ đạo xây dựng Kế hoạch tác chiến mùa khô 1974 - 1975. Đồng chí đề xuất tổ chức hai hướng tiến công: Một là, bao vây và đánh địch ở núi Bà Đen (Tây Ninh) nhằm căng kéo và thu hút Sư đoàn 25 địch từ Củ Chi tới Gò Vấp để nới lỏng và giải tỏa một phần lực lượng địch trên tuyến vành đai bảo vệ Sài Gòn; hai là, giải phóng Đường 14 từ Đồng Xoài lên giáp Quảng Đức để mở rộng căn cứ của Miền. Muốn mở Đường 14 thi phải diệt cho được mục tiêu chủ yếu là Căn cứ Đồng Xoài... Hội nghị Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền đã nhất trí cao với đề xuất của đồng chí Lê Đức Anh.
Bước vào thực hành tác chiến, khi quân ta nổ súng tiến công địch trên núi Bà Đen, lập tức Sư đoàn 25 địch vội vàng lên ứng cứu đúng như nhận định của đồng chí Lê Đức Anh. Trên hướng thứ hai, khi ta tiến công Chị khu Đồng Xoài, bộ phận đặc công của Sư đoàn 7 (do đồng chí Lê Nam Phong làm Sư đoàn trưởng) gỡ gần xong hàng rào thì cấp trên có lệnh: Không đánh Đồng Xoài trước. Nhận chỉ thị của trên, đồng chí Lê Đức Anh lệnh mở xong hàng rào thì cài lại, đánh dấu vị trí cửa mở, giữ nguyên lực lượng lui ra bao vây; sử dụng Trung đoàn 271 tăng cường tiến công Chi khu Bù Đăng. Đồng chí nói: “Đánh được Bù Đăng rồi thì ta sẽ đánh Đồng Xoài, như vậy không trái với chỉ thị của cấp trên”. Những ngày tiếp sau, quân ta liên tục đánh chiếm các vị trí Bù Đăng, Bù Na, Đồng Xoài, Bà Rá ... nhất là khi mất Đồng Xoài thì quân địch hoang mang, dao động lớn. Chớp thời cơ, đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy các mũi nhanh chóng tiến công đánh chiếm tỉnh lỵ Phước Long. Sau 24 ngày đêm tiến công quyết liệt, ta tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch, thu nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh; giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long với hơn 500.000 dân. Chiến thắng Đường 14 - Đồng Xoài - Phước Long đã làm nức lòng quân - dân cả nước, được đánh giá là “đòn trinh sát chiến lược đắt giá” vì lần đầu tiên ta giải phóng hoàn toàn một tỉnh mà quân đội Sài Gòn phản kích yếu ớt, còn quân Mỹ (đã rút theo Hiệp định Paris) không dám quay trở lại.
2. Đề xuất, tổ chức thực hiện điều chỉnh bố trí chiến lược, giảm quân số thường trực gắn với nâng cao mức sống cho bộ đội
Ngày 7/12/1986, đồng chí Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngay sau đó, đồng chí lên thị sát dọc biên giới phía Bắc. Trở về Hà Nội, đồng chí báo cáo với đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ba vấn đề: Một là, hiện ta đưa hết chủ lực lên áp sát đường biên, bố trí đội hình như này là sợ địch chứ không phải bố trí để đánh thắng; hơn nữa, Tây Nguyên đang để trống, lực lượng giữ biển đảo rất mỏng, như vậy rất nguy hiểm; ta phải bố trí lại đội hình phòng thủ biên giới, có chiều sâu vững chắc hơn; hai là, đời sống bộ đội trên vùng biên rất kham khổ, nên đã phát sinh vi phạm kỷ luật dân vận, nhiều cán bộ chỉ báo cáo phần tốt, còn khuyết điểm thì giấu nhẹm; ba là, thăm dò thì “lính đối phương chỉ lên trời ”, có nghĩa là cấp trên lệnh thì họ bắn, chứ họ không muốn đánh nhau. Đồng tiền ta đang mất giá vì lạm phát, đời sống bộ đội rất khó khăn trong khi ngân sách quốc phòng đang là gánh nặng cho nền kinh tế vốn đang suy kiệt... Để tháo gỡ tình hình này, phải giảm quân số và điều chỉnh lại thế bố trí chiến lược. Ý kiến này được các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Nguyễn Văn Linh cho là xác đáng, nhưng lưu ý phải cân nhắc và tính toán thận trọng.
Cuối tháng 12/1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đồng chí Lê Đức Anh được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị; sau đó được bổ nhiệm Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Cuối tháng 2/1987, cuộc họp “Bộ Chính trị hẹp” hai ngày đã diễn ra tại Nhà Con Rồng - Sở Chỉ huy Bộ Quốc phòng. Tại Hội nghị, đồng chí Bộ trưởng Lê Đức Anh đã báo cáo tình hình Quân đội, tình hình biên giới phía Bắc; đồng thời đề xuất bố trí lại đội - hình, thế trận phòng thủ và cải thiện đời sống cho bộ đội. Đề xuất của đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh được Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhất trí thông qua.
Điều chỉnh bố trí chiến lược
Với cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Lê Đức Anh bắt đầu thực hiện điều chỉnh bố trí chiến lược với tư tưởng chủ đạo là: “Bất cứ thế lực nào muốn thôn tính Việt Nam thì phải đánh lâu dài, không thể đánh thắng ta ngay tức khắc”. Bước đầu điều chỉnh sơ bộ trên tuyến biên giới, đưa bộ đội địa phương và dân quân du kích lên tuyến một, các đơn vị chủ lực lui xuống tuyến hai để thế trận phòng thủ có chiều sâu. Đến khi quan hệ Việt Nam - Trung Quốc có những dấu hiệu tích cực thì tiến hành điều chỉnh lớn và cơ bản. Cùng với việc điều chỉnh bố trí các đơn vị của các quân khu, các quân chủng, binh chủng kỹ thuật; cơ cấu biên chế tổ chức và nhiệm vụ chức năng các học viện, nhà trường trong toàn quân cũng được điều chỉnh thích hợp.
Giảm quân số thường trực gắn với nâng cao mức sống cho bộ đội
Ý tưởng giảm quân số thường trực được cả hai đồng chí Lê Đức Anh và Nguyễn Văn Linh nung nấu từ trước, nhưng đến thời điểm này mới đủ điều kiện thực hiện. Bởi, không thể kéo dài tình trạng ngân sách quốc phòng chiếm 25 % tổng thu nhập quốc dân (chưa tính đến trang bị), trong khi nền kinh tế đang trong tình trạng suy kiệt và khủng hoảng trầm trọng, lạm phát tới 774,7 %. Giảm quân số thường trực làm nhẹ gánh nặng chi phí quốc phòng là trực tiếp góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước mà Đảng ta khởi xướng. Lúc này Bộ Chính trị không đặt ra mức giảm bao nhiêu mà giao “Bộ Quốc phòng cứ tính toán làm sao cho vừa”. Đồng chí Lê Đức Anh đưa ra con số giảm trên 60 % số quân thường trực và xin từ 15 % đến 18 % ngân sách thu trong nước chứ không phải tổng thu ngân sách, càng không phải tổng thu nhập quốc dân. Được sự nhất trí của Bộ Chính trị, đồng chí Lê Đức Anh khẩn trương chỉ đạo các cơ quan Bộ Quốc phòng xây dựng kế hoạch và lộ trình cắt giảm quân số, nhưng đảm bảo sức mạnh được tăng cường. Vấn đề gánh nặng ngân sách quốc phòng được giải quyết một cách cơ bản. Đi đối với việc giảm quân số, giảm ngân sách quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đề nghị với Đảng và Nhà nước có chính sách cụ thể để cải thiện đời sống cho bộ đội và giải quyết việc làm cho số quân nhân phục viên do giảm quân thường trực.
Tổ chức phòng thủ biển, đảo
Đồng chí Lê Đức Anh từng tâm sự: “Biên giới phía Bắc nóng bỏng vậy mà tôi chỉ đi thị sát được hai lần, trong khi tôi ra Trường Sa và vô Cam Ranh tới bốn lần vì tôi nhận rõ việc phòng thủ biển, đảo đang nổi lên hai vấn đề cấp thiết, đó là: Phải hoàn thiện việc bố trí lực lượng trên các đảo thuộc quần đảo Trường Sa và tìm cách thu hồi sớm quân cảng Cam Ranh”. Ngay từ cuối tháng 2/1987, đồng chí Lê Đức Anh chỉ thị cho Quân chủng Hải quân đưa lực lượng ra đóng giữ bãi đá ngầm Thuyền Chài, đồng thời trình Trung ương kế hoạch giữ đảo. Đồng chí đề nghị Trung ương cho kinh phí và vật tư để bộ đội công binh hải quân thi công các chất và nhà giàn ở những đảo chìm, nổi theo thủy triều. Ngày 20/3/1987, đề nghị trên được Ban Bí thư phê chuẩn; ngày 9/4/1987, Hội đồng Bộ trưởng nhất trí giải quyết vật tư, tài chính cho công việc này .
3. Đề xuất giúp Việt Nam khẳng định, nâng cao vị thế trên trường quốc tế
Cũng trong cuộc họp “Bộ Chính trị hẹp” diễn ra cuối tháng 12/1986 tại Nhà Con Rồng - Sở Chỉ huy Bộ Quốc phòng, đồng chí Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh đã nêu những suy nghĩ của mình về Mỹ, Trung Quốc, Liên Xô, các nước ASEAN và đề nghị Việt Nam cần gia nhập ASEAN để nâng cao tinh thần độc lập, tự chủ, làm cho quốc tế cảm thấy Việt Nam không lệ thuộc vào nước lớn. Những nội dung trên được Hội nghị bàn bạc, thống nhất, trở thành chủ trương lớn của Bộ Chính trị Trung ương Đảng: Xúc tiến thăm dò và tích cực hoạt động ngoại giao để triệt tiêu sự đối đầu căng thẳng và tiến tới bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, phá thế bao vây cấm vận của Mỹ; tích cực hoạt động ngoại giao để gia nhập ASEAN...
Đề xuất thu hồi, dân sự hóa quân cảng Cam Ranh
Sau khi báo cáo, được đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Bộ Chính trị đồng ý , đồng chí Lê Đức Anh tới gặp và trao đổi với Trưởng đoàn Cố vấn Liên Xô, đề nghị Bạn không đưa vũ khí hạt nhân và các phương tiện mang đầu đạn hạt nhân vào quân cảng Cam Ranh. Ngay sau đó, ta ký với các nước ASEAN thỏa thuận “Khu vực Đông Nam Á là khu vực phí hạt nhân, không có vũ khí hạt nhân”, được dư luận thế giới hoan nghênh. Khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp Nga tiếp tục duy trì sự có mặt ở Cam Ranh, nhưng hoạt động quân sự giảm dần. Ta đàm thoại kiên trì, khôn khéo để Nga đồng ý rút khỏi Cam Ranh trước thời hạn 4 năm. Sau đó, một số nước lớn, kể cả Mỹ, có thông qua vài nước ASEAN môi giới để thuê lại cảng Cam Ranh với giá cao, nhưng ta đều từ chối. Việc làm này của ta đã tạo thuận lợi trong thực hiện chủ trương tiến tới bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Mỹ và gia nhập ASEAN.
Tiến tới bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
Được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ, tháng 3/1987, đồng chí Lê Đức Anh vào Thành phố Hồ Chí Minh, phối hợp với Ban Hoa vận của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức gặp đại diện bà con Hoa kiều ở Chợ Lớn. Sau đó, đồng chí ra Hà Nội, mời Đại sứ Trung Quốc tới Nhà khách Bộ Quốc phòng dùng cơm và trao đổi. Tại hai cuộc tiếp xúc nói trên, đồng chí Lê Đức Anh khẳng định sự giúp đỡ chí tình và hiệu quả của Đảng, Chính phủ và Nhân dân Trung Quốc nói chung, sự đóng góp trực tiếp của bà con Hoa kiều tại Sài Gòn nói riêng cho hai cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Tình hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc là truyền thống tốt đẹp, bền vững và lâu dài. Chúng ta cần có ý kiến để lãnh đạo hai bên khôi phục tình hữu nghị trở lại tốt đẹp như xưa. Sau đó, trong chuyến đi thăm Singapore (7/1990), Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đã “đánh tiếng”: “Sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với Việt Nam”. Cuối tháng 7/1991, Bộ Chính trị cử đồng chí Lê Đức Anh làm phái viên của Bộ Chính trị sang bàn bạc những vấn đề cụ thể việc bình thường hóa quan hệ hai nước. Tiếp đó, từ ngày 5 đến ngày 10/11/1991, Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt dẫn đầu sang thăm
chính thức Trung Quốc. Hai bên ra Thông cáo chung và ký kết Hiệp định chính thức quan hệ bình thường giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc trên cơ sở 5 nguyên tắc chung sống hòa bình, đồng thời ký kết cả quan hệ bình thường giữa hai Đảng, khép lại 15 năm đối đầu căng thẳng.
Tiến tới bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Mỹ và gia nhập ASEAN
Đồng chí Lê Đức Anh đề xuất chọn con đường tiếp cận từ hoạt động khoa học để bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Mỹ: Cử Thiếu tướng, bác sĩ Nguyễn Huy Phan, giáo sư đầu ngành y học phẫu thuật chỉnh hình, đi Mỹ trao đổi về nghiệp vụ, mời đoàn bác sĩ Mỹ trong tổ chức “Phẫu thuật nụ cười” sang nước ta. Sau bước mở đầu thành công bằng con đường khoa học, bước tiếp theo, ta tạo thuận lợi cho phía Mỹ trở lại Việt Nam tìm người Mỹ mất tích và hài cốt lính Mỹ chết trong chiến tranh (gọi tắt là POW và MIA). Từ ngày 16 đến ngày 21/11/1992, Chính phủ Mỹ cứ tiếp một đoàn do Thượng nghị sỹ John Kerry dẫn đầu sang Việt Nam. Ngày 18/11/1992, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Lê Đức Anh tiếp tục khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam coi POW/MIA là vấn đề thuần túy nhân đạo; Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục hợp tác với Mỹ thực hiện các thỏa thuận giữa hai chính phủ và mong hai bên tích cực hợp tác giải quyết sớm vấn đề này. Tháng 4/1991, Mỹ mở văn phòng tại Hà Nội liên quan đến vấn đề MIA. Tháng 2/1992, thành lập Lực lượng đặc nhiệm tìm kiếm hỗn hợp về MIA. Tháng 7/1993, Tổng thống Mỹ Bill Clinton mở đường cho các tổ chức tài chính
quốc tế bao gồm IMF và World Bank cung cấp tín dụng cho Việt Nam. Ngày 3/2/1994, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố chấm dứt lệnh cấm vận thương mại kéo dài 19 năm đối với Việt Nam. Ngày 12/7/1995, hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao và mở văn phòng liên lạc tại Washington và Hà Nội. Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN.
Đến đây, những mục tiêu lớn trong chủ trương đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta đã hoàn tất: Tháo ngòi nổ, chấm dứt xung đột biên giới phía Bắc và bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc; gỡ bao vây cấm vận và bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Mỹ; gia nhập ASEAN. Hoàn thành ba mục tiêu trên, không những Việt Nam đã thoát ra khỏi vòng xoáy của các nước lớn mà còn đưa vị thế của nước ta lên một tầm cao mới trên trường quốc tế.
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tri ân, tưởng nhớ công lao của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Có thể khẳng định, suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Đại tướng Lê Đức Anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó. Với nhãn quan chính trị sắc sảo, nhạy bén, tư duy chiến lược của một nhà chính trị, quân sự tài ba, Đại tướng Lê Đức Anh đã có những quyết định quan trọng, kịp thời, chính xác, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, góp phần đưa cách mạng Việt Nam tạo chuyển biến thay đổi cục diện chiến lược, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
| KHUẤT BIÊN HOÀ Đại tá, nguyên Thư ký giúp việc của đồng chí Lê Đức Anh |
Khi đất nước Campuchia mới được giải phóng 7/1979, tình hình mọi mặt còn hết sức khó khăn. Để giúp bạn truy quét tàn quân địch, ổn định tình hình, từng bước khôi phục, xây dựng lại đất nước, nhiệm vụ cấp bách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là phải tăng cường phát triển chuyên gia ở Campuchia. Trên cơ sở hệ thống chuyên gia có từ trước và trong chiến tranh giải phóng, Việt Nam nhanh chóng huy động lực lượng cốt cán ở các ngành, địa phương để xây dựng hệ thống chuyên gia giúp bạn trên tất cả các mặt quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa ...
Bước vào năm 1982 , mặc dù đã nhiều lần kiện toàn tổ chức lực lượng chuyên gia ở Campuchia, song trong thực tế hoạt động vẫn tồn tại nhiều bất cập. Sau một thời gian nghiên cứu, ngày 3/5/1982, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Chỉ thị số 01 - CT/TƯ Về công tác chuyên gia Campuchia, xác định rõ hơn nhiệm vụ của lực lượng chuyên gia các cấp trong việc giúp cách mạng Campuchia, kiện toàn lại tổ chức chuyên gia, bảo đảm sự chỉ đạo tập trung thống nhất, chất lượng và hiệu quả phù hợp với bước trưởng thành của Bạn. Chỉ thị xác định: Quan hệ Việt Nam - Lào - Campuchia là quan hệ liên minh chiến đấu lâu dài. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước xã hội chủ nghĩa, lợi ích của ba nước gắn bó khăng khít với nhau. Việt Nam có trách nhiệm lớn trong việc giúp đỡ cách
mạng Campuchia. Đó vừa là nghĩa vụ quốc tế, vừa là nghĩa vụ dân tộc của chúng ta. Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với cách mạng Campuchia là toàn diện, trong đó sự giúp đỡ về chuyên gia là rất quan trọng.
Ngày 8/6/1982, Bộ Chính trị ra Quyết định số 132 - NQ/NS/TƯ về việc thành lập Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia tại Campuchia thay cho Ban Phụ trách công tác Campuchia được thành lập theo Quyết định số 19 - NQ/NS/TU ngày 24/8/1979 và Tổng Đoàn Chuyên gia giúp cách mạng Campuchia. Ban Lãnh đạo gồm 7 đồng chí, do đồng chí Lê Đức Anh làm Trưởng ban.
Sau khi ổn định tổ chức, đồng chí Lê Đức Anh cùng Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia ra Quy định Chế độ tổ chức làm việc, quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của Ban Lãnh đạo và các khối chuyên gia ở Trung ương. Về tổ chức bộ máy ở Trung ương: Các đoàn chuyên gia ở Trung ương, vừa có tính thống nhất vừa có tổ chức riêng, chia ra các khối chính trị, quân sự, kinh tế, thống nhất nhiệm vụ giúp bạn theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và được chia thành 3 khối: Khối chuyên gia chính trị; khối chuyên gia kinh tế; khối chuyên gia quân sự. Các đoàn chuyên gia đều trực thuộc Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia, sau khi thống nhất trong tập thể lãnh đạo khối, mới báo cáo Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia thông qua. Về tổ chức nội bộ, có Văn phòng, Vụ Tổ chức cán bộ và Cục Quản trị tài chính.
Ngày 22/7/1982, đồng chí Lê Đức Anh cùng Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia ban hành Quy định số 10/QĐ - TCCB, Quy định cơ cấu đoàn chuyên gia tỉnh, thành. Về chuyên gia dài hạn từ 3 năm trở lên, Ban Lãnh đạo quy định: Một đồng chí trưởng đoàn giúp bí thư tỉnh Bạn, một đồng chí phó trưởng đoàn kinh tế, giúp chủ tịch tỉnh; một đồng chí phó trưởng đoàn phụ trách tổ chức, tuyên huấn, dân vận giúp đồng chí trưởng ban tổ chức tỉnh; một đồng chí phó trưởng đoàn phụ trách an ninh, giúp đồng chí trưởng ty an ninh; một đồng chí phó trưởng đoàn phụ trách quân sự giúp đồng chí tỉnh đội trưởng. Chuyên gia dài hạn từ 2 đến 3 năm, gồm: một đồng chí tổng hợp; một đồng chí chuyên gia tuyên huấn; một đồng chí chuyên gia dân vận; một đồng chí chuyên gia kinh tế nông nghiệp; một đồng chí chuyên gia kinh tế thương nghiệp; hai đến bốn đồng chí chuyên gia an ninh. Về chuyên gia ngắn hạn, Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia thực hiện các hiệp định ký với Bạn. Cụ thể: Các đồng chí trong Ban Lãnh đạo đề nghị với Trung ương Đảng đưa sang 32 chuyên gia giáo dục; 20 chuyên gia tài chính; 7 chuyên gia lâm nghiệp... giúp các tỉnh Bạn có yêu cầu. Về chuyên gia cấp huyện, Ban Lãnh đạo tổ chức 27 tổ chuyên gia (mỗi tổ 4 đồng chí) để giúp mỗi tỉnh một huyện điểm, trong đó có một số tỉnh cần 2 tổ như: Bát Tam Bằng, Xiêm Riệp, Kôngpông Chàm, Prây Viêng, Kan Đan, Tà Keo.
Về phương thức giúp Bạn, Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia chỉ thị: Phải từng bước chuyển công việc để Bạn làm, tích cực bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cán bộ Bạn trong công tác thực tế. Đây được xác định là một vấn đề cơ bản trong công tác giúp bạn và ta đã đặt ra phương châm thực hiện “Bạn làm, ta giúp” ở những khâu công tác nhất định. Trước tình hình đất nước Campuchia sau ngày giải phóng, đòi hỏi ta và Bạn phải khẩn trương hơn, để tạo chuyển biến tốt hơn trên tất cả các mặt công tác và trong duy trì quan hệ giữa hai nước. Trong chỉ thị, Ban Lãnh đạo xác định: Việc giúp bạn từ năm 1982 có thể phân ra làm 3 loại việc lớn: 1. Giúp Bạn tổ chức, chỉ đạo thực hiện các mặt công tác; 2. Giúp Bạn nghiên cứu đường lối, chính sách và các chủ trương công tác lớn; 3. Giúp Bạn xây dựng tổ chức, xây dựng bộ máy, lựa chọn sắp xếp, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, xây dựng đảng, xây dựng đoàn thể quần chúng.
Về việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện các mặt công tác, đồng chí Lê Đức Anh đã tổ chức nhiều hội nghị để phân tích, đánh giá và đi đến nhận định: Đây là công việc Bạn có khả năng tự đảm nhiệm cao hơn cả, vì vậy việc này phải có kế hoạch chuyển nhanh để “Bạn tự làm, ta giúp”. Trong giúp Bạn, các đồng chí chuyên gia phải chú trọng các khâu: Quán triệt quan điểm, chủ trương chức triển khai thực hiện; đôn đốc kiểm tra, và tiến hành một số công việc cụ thể, như: tổ chức hội nghị giao ban, tổ chức thông tin, tổng hợp tình hình, ra thông tư, chỉ thị, làm báo cáo... Đối với việc nghiên cứu, xây dựng đường lối, chính sách, khả năng của Bạn còn hạn chế, chuyên gia ta cần chủ động giúp Bạn, tự mình làm rồi tham khảo ý kiến của bạn, cùng Bạn trao đổi, thảo luận những vấn đề cần thiết và trình bày với lãnh đạo Bạn, để Bạn quyết định.
Đối với công tác chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, Bạn còn nhiều hạn chế và thiếu kinh nghiệm, có nơi Bạn không muốn ta đi sâu vào vấn đề tổ chức, cán bộ và quan hệ nội bộ của Bạn. Đồng chí Lê Đức Anh đề xuất ý kiến với Ban Lãnh đạo: Phương thức giúp Bạn phải khéo léo, phải chú ý gợi ý, thuyết phục; có cái phải nghe Bạn, có cái phải đấu tranh có tình, có lý. Tuyệt đối không được buông lỏng Bạn để Bạn tùy tiện xử lý về vấn đề tổ chức, cán bộ, nhưng cũng không được để Bạn ngộ nhận là ta can thiệp vào công việc nội bộ của bạn, chi phối tổ chức, cán bộ của Bạn; cần phải thận trọng, tránh áp đặt.
Cuối năm 1982, hệ thống chuyên gia giúp Bạn tương đối hoàn chỉnh. Ở Trung ương, các đoàn chuyên gia được tổ chức theo cơ cấu mỗi bộ, ngành của Bạn có một đoàn chuyên gia của ta. Ở các tỉnh, thành phố của Campuchia, mỗi nơi đều có đoàn chuyên gia của ta trực tiếp giúp về mọi mặt.
Quá trình công tác trên đất Bạn, Trưởng ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia đã chỉ đạo chuyên gia ta đi sâu tìm hiểu đặc điểm tình hình, nắm vững đường lối, chính sách của Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia để giúp bạn có hiệu quả cao. Sự phối hợp giữa lực lượng chuyên gia ta với bạn ngày càng chặt chẽ hơn, quan hệ giữa ta và Bạn phát triển theo chiều hướng tiến bộ. Từ phương châm “ta hai, Bạn một”, chuyên gia Việt Nam đã giúp bạn tự đảm đương được nhiều mặt công tác, từ xây dựng lực lượng vũ trang đến củng cố chính quyền cách mạng, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân. Đến năm 1982, ta đã cơ bản thực hiện được mục tiêu “ta, Bạn cùng làm”, “ta một, Bạn một” và nỗ lực phấn đấu “Bạn hai, ta một ” để Bạn tự đảm đương phần lớn nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ vùng giải phóng, củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng.
Đối với nhiệm vụ của chuyên gia Việt Nam, Đảng ta chỉ rõ: “Các chuyên gia và cán bộ được Đảng và Nhà nước ta cử sang công tác ở nước bạn cần nhận rõ nghĩa vụ quốc tế cao cả và vinh dự của mình, hết sức gắn bó với sự nghiệp cách mạng của bạn, ra sức hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao... Hết sức tôn trọng chủ quyền và các quyết định của bạn, lắng nghe ý kiến của bạn, tìm hiểu thực tế và nắm vững đường lối, chính sách của bạn, vận dụng kinh nghiệm của ta để giúp bạn một cách phù hợp, tránh rập khuôn máy móc”. Tuy nhiên, “nhiều cán bộ chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc vị trí, yêu cầu nhiệm vụ của chuyên gia, biểu hiện ý thức trách nhiệm chưa cao, tinh thần chủ động sáng tạo và nhiệt tình chưa tốt nên hạn chế đến hiệu suất và chất lượng công tác giúp Bạn... Tình trạng rập khuôn máy móc, áp đặt và bao biện làm thay còn khá phổ biến ở nhiều chuyên gia, trên nhiều lĩnh vực công tác. Có lúc đánh giá trình độ của Bạn quá thấp, không tin Bạn có thể làm được. Đồng chí Lê Đức Anh, Trưởng ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia đã chỉ ra rằng: “Phải giúp Bạn mạnh lên tự đảm đương cuộc đấu tranh trong thế liên minh chiến lược, chiến đấu ba nước Đông Dương... Nguyện vọng của cán bộ Bạn là tha thiết muốn làm chủ lấy đất nước của mình. Ta cũng phải tha thiết đáp ứng nguyện vọng đó. Bao biện vừa sai về quan điểm tư tưởng, không đáp ứng nguyện vọng, biểu hiện của lười, ngại khó. Một chuyên gia khi về mà bạn chưa trưởng thành, chưa đảm đương được nhiệm vụ là không hoàn thành nhiệm vụ, dù đồng chí đó làm việc ngày đêm. Vì thế, cần giúp Bạn nâng cao phong trào cách mạng lên một bước mới, với chất lượng mới, phát huy quyền làm chủ của quần chúng”.
Quán triệt Nghị quyết 11 - NQ/TƯ ngày 14/5/1983 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam “Về trách nhiệm giúp Bạn mạnh lên, tự đảm đương cuộc đấu tranh với địch trong những năm tới”, đồng chí Lê Đức Anh cùng với Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia xác định: Đây là nhiệm vụ quan trọng, là yêu cầu cấp thiết; là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trong đó trực tiếp là bộ phận chuyên gia Việt Nam đang thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia. Do đó, cần phải xây dựng kế hoạch tiếp tục nhận, bồi dưỡng và phân công cán bộ chuyên gia dài hạn giúp cách mạng Campuchia: “Các ngành, các cấp phải chú ý cử chuyên gia có năng lực sang giúp bạn theo yêu cầu của đoàn chuyên gia ta tại Campuchia... Lựa chọn chuyên gia phải chú trọng chất lượng, có đầy đủ năng lực, kinh nghiệm công tác, nhiệt tình cách mạng, có tác phong, phương pháp công tác và sức khỏe tốt... Số lượng và thành phần do Đoàn Chuyên gia tại Campuchia bàn bạc với Ban Tổ chức Trung ương thực hiện theo Chỉ thị 01 của Ban Bí thư Trung ương Đảng”.
Đồng chí Lê Đức Anh cùng Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia tiếp tục nghiên cứu, đề xuất về nhiệm vụ tổ chức giúp Bạn, trong đó xác định việc kiện toàn hệ thống tổ chức chuyên gia nhằm thống nhất nhận thức về hệ thống tổ chức, nguyên tắc làm việc, làm chuyển biến sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân ta và bằng hành động thiết thực, kế hoạch, biện pháp cụ thể trong các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố có trách nhiệm giúp Campuchia đạt hiệu quả cao. Lực lượng chuyên gia Việt Nam giúp Campuchia được tổ chức ở hai cấp Trung ương và tỉnh ; chuyên gia huyện và một số cơ sở theo yêu cầu của bạn. Vì vậy, đồng chí Lê Đức Anh cùng Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia xác định: Trước mắt phải tăng cường đội ngũ chuyên gia giúp Bạn, phải có kế hoạch lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia giúp bạn từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm; đồng thời kiện toàn tổ chức chuyên gia đủ sức giúp bạn thực hiện ba mục tiêu chiến lược mà Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia đề ra.
Để đáp ứng yêu cầu giúp cách mạng Campuchia trong tình hình mới, Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam quyết định kiện toàn hệ thống tổ chức chuyên gia. Trước mắt, kiện toàn Ban Lãnh đạo cả về số lượng và chất lượng, nguyên tắc làm việc, bảo đảm tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Việc kiện toàn Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia phải đáp ứng yêu cầu công tác trước mắt và lâu dài, trước hết phải là những chuyên gia chiến lược có độ tuổi, sức khỏe ổn định từ 5 đến 7 năm, bảo đảm tính kế thừa liên tục ngay trong Ban Lãnh đạo. Về số lượng, đồng chí Lê Đức Anh cùng Ban lãnh đạo Đoàn Chuyên gia đề xuất số lượng từ 8 đến 11 người, trong đó có đồng chí kiêm nhiệm Trưởng đoàn chuyên gia, một số đồng chí chuyên trách không làm Trưởng đoàn chuyên gia. Tiếp đó, kiện toàn các đoàn chuyên gia Trung ương và các đoàn chuyên gia tỉnh, thành phố.
Để bổ sung số chuyên gia đã hoàn thành nhiệm vụ và trở về nước, Việt Nam tiếp tục cử nhiều chuyên gia sang giúp bạn theo hiệp định ký kết giữa các bộ, ngành, tỉnh, thành của Việt Nam và Campuchia. Ngày 5/4/1984, Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia đề ra kế hoạch tuyển chọn cán bộ sang giúp Campuchia. Theo đề nghị của Trưởng đoàn Chuyên gia, trong công tác chuyên gia phải chú trọng chất lượng (lập trường, tư tưởng, quan điểm, phẩm chất, năng lực) là chính và tùy theo sự trưởng thành của Bạn mà giảm số lượng chuyên gia dài hạn một cách tương ứng. Các ngành, các địa phương phải chịu trách nhiệm về cung cấp chuyên gia có chất lượng và đúng số lượng theo tiêu chuẩn và chỉ tiêu qui định. Đối với đội ngũ chuyên gia công tác trên đất Bạn trong thời gian dài phải được chọn lọc, đào tạo, bồi dưỡng chu đáo. Phải xây dựng quy hoạch chuyên gia, soát xét lại cơ cấu đội ngũ chuyên gia, chú trọng bồi dưỡng số chuyên gia hiện có, giữ tính ổn định từ 1984 đến năm 1987 và lâu dài hơn để có những chuyên gia thực sự có chất lượng đủ sức giúp Bạn sớm tự lập. Đối với những chuyên gia ngắn hạn thì tùy theo hiệp định hợp tác ký kết giữa hai bên mà các ngành bàn bạc với Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia để quyết định cho phù hợp. Phải có chính sách thỏa đáng hơn nữa đối với chuyên gia (đãi ngộ vật chất khi đang làm chuyên gia cũng như khi về nước công tác) và chính sách chăm sóc đời sống vật chất đối với gia đình chuyên gia, tạo điều kiện thuận lợi cho chuyên gia làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình. Sau một thời gian giúp Bạn, đồng chí Lê Đức Anh và Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia căn cứ vào sự trưởng thành của bạn và yêu cầu của cách mạng Campuchia tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh qui chế làm việc để chuyên gia làm việc theo đúng nhiệm vụ, quyền hạn vui định, có quan hệ đúng đắn trong khi làm việc với Bạn nhằm giúp đỡ bạn nhanh chóng trưởng thành, góp phần tích cực tăng cường mối quan hệ gắn bó, bình đẳng giữa Đảng và Nhà nước hai nước; đồng thời phát huy được trách nhiệm tập thể của các ngành, các địa phương có chuyên gia và bảo đảm quan hệ tốt trong đội ngũ chuyên gia của ta trên đất Bạn. Nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ chuyên gia, ngày 26/6/1984, Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia ra Quyết định số 165/ QĐ-BLĐ thành lập Trường Bồi dưỡng chuyên gia và cán bộ công tác tại Campuchia thuộc Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia tại Campuchia ở thành phố Phnôm Pênh (thay lớp bồi dưỡng chuyên gia tại Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh). Nhiệm vụ là xây dựng chương trình, kế hoạch bồi dưỡng chuyên gia, cán bộ hằng năm; quản lý, thực hiện tốt chương trình kế hoạch bồi dưỡng học tập cho chuyên gia, dạy và học tập, sinh hoạt cho học sinh, giáo viên, cán bộ, nhân viên và nhà trường.
Từ ngày 1 đến ngày 10/10/1984, tại Thành phố Hồ Chí Minh đã diễn ra Hội nghị Tổng kết công tác chuyên gia toàn Campuchia sau 5 năm thực hiện (1979 - 1984), dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị - Trưởng ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia. Hội nghị đánh giá ưu, khuyết điểm và đề ra nhiệm vụ cấp thiết của Đoàn Chuyên gia trong thời gian tới. Kết luận Hội nghị, đồng chí Lê Đức Anh nêu một số vấn đề quan trọng, trong đó nhấn mạnh: “Công tác tổ chức chuyên gia phải bám sát nhiệm vụ giúp bạn trong từng thời kỳ, biết xuất phát từ tình hình thực tế của bạn và đội ngũ cán bộ chuyên gia của ta để xây dựng cơ chế tổ chức phù hợp, điều động, bố trí, sử dụng cán bộ cho sát hợp, tránh những sai lầm thiếu sót lớn trong công tác cán bộ và sai lầm do tổ chức chuyên gia thiếu chặt chẽ, gây tác hại cho bạn. Về phương hướng công tác chuyên gia giúp bạn trong những năm 1984 - 1987, trước hết là tập trung tuyển chọn, tổ chức chuyên gia đủ các tiêu chuẩn, có kiến thức trên nhiều mặt, có năng lực, kinh nghiệm công tác. Ở trong nước đảm nhiệm cương vị tương đương với công việc phải giúp Bạn. Nhiệt tình cách mạng, có tình cảm quốc tế trong sáng; tổ chức kỷ luật, đạo đức, tác phong, phương pháp công tác và có sức khỏe tốt. Đồng thời, chú trọng xây dựng quy hoạch chuyên gia, bồi dưỡng trình độ chuyên gia và chính sách đối với chuyên gia”.
Sau Hội nghị Tổng kết, Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia chủ trương không điều hành công việc cụ thể, mà chỉ đề xuất ý tưởng để cán bộ Bạn tự quyết định và điều hành công việc. Từ năm 1984, trước tình hình cách mạng Campuchia ngày càng trưởng thành, Nhân dân Campuchia tự đảm đương được nhiệm vụ quan trọng ở cơ sở, phía Việt Nam lần lượt rút chuyên gia về nước (một số nơi Bạn yêu cầu , ta vẫn đề chuyên gia ở lại). Mặc dù số chuyên gia giảm, nhưng chất lượng của chuyên gia được tăng cường, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia trong giai đoạn cách mạng mới.
Nhìn chung, trong năm 1984, tổ chức biên chế chuyên gia làm nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia tiếp tục được củng cố, chấn chỉnh theo chức danh, tiêu chuẩn qui định, bao gồm 23 đoàn chuyên gia Trung ương, 20 đoàn chuyên gia tỉnh, thành phố. Về tổ chức, ta bỏ Ban Lãnh đạo các khối chuyên gia, giao các đồng chí trong Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia trực tiếp phụ trách các khối.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng hai nước, tháng 8/1985, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia họp bàn về hướng giải quyết vấn đề Campuchia. Ngày 5/9/1985, đồng chí Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia, đại diện Bộ Chính trị Việt Nam đã làm việc với các đồng chí đại diện Bộ Chính trị Campuchia, gồm: Hêng Xomrin, Tổng Bí thư; Hun Sen, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bu Thoong, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Đồng chí Lê Đức Anh khẳng định lại thời gian lực lượng vũ trang Campuchia tự đảm nhiệm và chuyên gia Việt Nam rút dần về nước, đồng thời đưa ra một số tình huống và cách xử trí. Các đồng chí Bộ Chính trị Campuchia đều nhất trí. Đồng chí Hêng Xomrin nêu rõ: “Sẽ cố gắng tìm mọi biện pháp thực hiện những việc mà hai Bộ Chính trị đã bàn”... Nhờ có sự giúp đỡ tích cực , to lớn , hiệu quả của Chuyên gia Việt Nam và sự nỗ lực lớn của các lực lượng cách mạng và Nhân dân Campuchia, sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và các lĩnh vực khác của Campuchia đã đạt được thành tựu đáng kể: Đất nước Campuchia được xây dựng từng bước ổn định. Hệ thống chính quyền cách mạng từ Trung ương đến cơ sở được củng cố, phát triển, đời sống Nhân dân có chuyển biến, đối ngoại được mở rộng, vị thế của Campuchia bước đầu được nâng cao trên trường quốc tế.
Như vậy, sau 5 năm giúp cách mạng Campuchia, đội ngũ chuyên gia Việt Nam có bước trưởng thành rõ rệt trong công tác giúp Bạn, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân Campuchia đánh giá cao. Với vai trò là Trưởng ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia từ năm 1982 đến năm 1986, đồng chí Lê Đức Anh có nhiều đóng góp quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo chuyên gia Việt Nam giúp cách mạng và nhân dân Campuchia xây dựng và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Đồng chí đã cùng với Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia có nhiều ý kiến đề xuất với Bộ Chính trị để xây dựng đội ngũ chuyên gia. Vì vậy, tổ chức biên chế của chuyên gia luôn được kiện toàn; cán bộ chuyên gia được đào tạo, bồi dưỡng về trình độ chuyên môn, nên nhiệm vụ chuyên gia giúp đạt hiệu quả ngày càng cao, góp phần vào sự lớn mạnh, trưởng thành của cách mạng Campuchia, tăng cường tình đoàn kết quốc tế giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia. Là cán bộ trưởng thành từ thực tiễn, được rèn luyện thử thách trong chiến đấu, được Đảng, Nhà nước Việt Nam giao trọng trách Trưởng ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia, đồng chí Lê Đức Anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế, để lại nhiều thành tựu và kinh nghiệm trong hợp tác giữa Việt Nam - Campuchia nói chung và hợp tác quân sự, quốc phòng nói riêng trong tình hình hiện nay.
| CHU VĂN LỘC, Đại tá, ThS, Viện chiến lược Quốc phòng LÊ THANH HẢI, Đại uý, ThS, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam |
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) của Nhân dân Việt Nam diễn ra trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN), phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và Nhân dân lao động ở các nước tư bản đã có những bước phát triển mạnh mẽ, cùng với đó là phong trào đấu tranh chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân, bảo vệ hòa bình thế giới... Đây là những nhân tố thuận lợi cơ bản thúc đẩy sự hình thành và phát triển vững chắc hậu phương quốc tế của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam (DTGPMN) Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những nhân tố thuận lợi cơ bản thì trong quá trình hình thành hậu phương quốc tế cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Mặt trận DTGPMN Việt Nam cũng phải đương đầu với không ít những khó khăn, thử thách mà chủ yếu là xuất phát từ bất hòa trong phong trào Cộng sản quốc tế, giữa một số đảng, một số nước XHCN; đặc biệt là mâu thuẫn giữa hai “trụ cột” Liên Xô, Trung Quốc và cả từ thiếu thông tin của một số nước dân tộc chủ nghĩa... Trong bối cảnh quốc tế phức tạp đó, trên cơ sở đường lối kháng chiến sáng suốt, sách lược đối ngoại đúng đắn của Đảng, trực tiếp là Trung ương Cục miền Nam, Mặt trận DTGPMN Việt Nam đã biến yếu tố quốc tế, yếu tố thời đại thành sức mạnh hiện thực của hậu phương quốc tế cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ trong hậu phương quốc tế, Mặt trận DTGPMN Việt Nam đã khai thác và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh đoàn kết của dân tộc và thời đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Tháng 5/1959, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra đời đã mở ra cục diện mới cho cách mạng miền Nam. Phong trào Đồng khởi phát triển mạnh mẽ và rộng khắp dẫn tới sự chuyển biến về chất đối với phong trào cách mạng miền Nam. Ngày 20/12/1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, Mặt trận DTGPMN Việt Nam được thành lập nhằm tập hợp mọi tầng lớp Nhân dân, không phân biệt giai cấp, đảng phái, tôn giáo, xu hướng chính trị cùng đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và các lực lượng tay sai phản động, thực hiện độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất đất nước.
Mặt trận DTGPMN Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước. Với đường lối đối ngoại hòa bình, trung lập, Mặt trận DTGPMN Việt Nam nhanh chóng ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp Nhân dân và giành được sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Khi cách mạng miền Nam chuyển sang khởi nghĩa vũ trang, Liên Xô và Trung Quốc - những trụ cột của hậu phương quốc tế đều tỏ ra không đồng tình, thậm chí hai “trụ cột” đó còn do dự và chấm công nhận Mặt trận DTGPMN Việt Nam. Tuy nhiên, bằng uy tín và bằng hiệu quả hoạt động thực tiễn của mình, Mặt trận DTGPMN Việt Nam đã cho thế giới thấy mình là đại diện xứng đáng cho các lực lượng yêu nước và cách mạng miền Nam. Năm 1962, Đoàn đại biểu Mặt trận DTGPMN Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu dẫn đầu sang thăm Liên Xô, Trung Quốc và một số nước như Tiệp Khắc, Hungary, Cuba, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Algeria, Indonesia. Thông qua chuyến đi này, cộng đồng quốc tế đã hiểu hơn ngọn cờ chính nghĩa của Mặt trận DTGPMN Việt Nam. Năm 1963, Trung Quốc, Liên Xô và các nước XHCN đều lần lượt công nhận Mặt trận DTGPMN Việt Nam, công khai ủng hộ và tán thành đường lối của Mặt trận. Thậm chí có nước bị Mỹ ràng buộc và lôi kéo như Indonesia của chính quyền Suharto cũng từ chối đứng về phía Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau nhiều nỗ lực, kiên trì bền bỉ, Mặt trận DTGPMN Việt Nam đã mở rộng và từng bước củng cố được hậu phương quốc tế, hình thành một mặt trận rộng lớn của Nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới đoàn kết với Việt Nam và ủng hộ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân Việt Nam.
Mặt trận DTGPMN Việt Nam ra đời khi mà trên thế giới đã có sự hiện diện của một số tổ chức trong phong trào dân tộc như Phong trào không liên kết, Tổ chức thống nhất châu Phi, Tổ chức đoàn kết Á - Phi - Mỹ La tinh... Nhiều thành viên của các phong trào đó đã ủng hộ Mặt trận DTGPMN Việt Nam. Trên các diễn đàn quốc tế, cùng với các nước XHCN, các nước trong phong trào dân tộc đều lên tiếng ủng hộ Việt Nam đánh Mỹ. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy một thực tế là “cái bóng và ảnh hưởng của Mỹ trên bàn cờ chính trị thế giới lúc bấy giờ quá lớn; vả lại nhiều nước ít nhiều còn có ràng buộc với Mỹ, do vậy, thái độ ủng hộ của họ dành cho Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân Việt Nam ít nhiều cũng bị chi phối, thậm chí có nước còn tỏ ra thận trọng, dè dặt như nhóm các nước đứng đầu Phong trào không liên kết.
Trong những năm 1960 - 1964, tuy sự ủng hộ về vật chất từ hậu phương quốc té dành cho Mặt trận DTGPMN Việt Nam cũng như dành cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân Việt Nam chưa nhiều, nhưng về chính trị và tinh thần là khá lớn. Trước hết, đó là sự công nhận Mặt trận DTGPMN Việt Nam, sự tán thành những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh của Mặt trận. Thứ hai, thái độ của các nước XHCN (đặc biệt là của Liên Xô và Trung Quốc) và của phong trào giải phóng dân tộc đối với Mặt trận DTGPMN Việt Nam đã tạo ra những sức ép nhất định đối với Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Thứ ba, đối với các nước lớn như Liên Xô và Trung Quốc, khi có những tính toán liên quan đến chiến tranh Việt Nam, họ không thể “phớt lờ” mà phải lưu ý tới sự hiện diện của Mặt trận DTGPMN Việt Nam như là người đại diện của phong trào chống Mỹ xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Thứ tư, hậu phương quốc tế của Việt Nam đánh Mỹ không chỉ bó hẹp trong phạm vi các nước XHCN và các nước dân tộc độc lập mà trở thành một mặt trận Nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam.
Sau “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” (8/1964), phong trào Nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược nhanh chóng phát triển mạnh mẽ và rộng khắp, đặc biệt là từ khi đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam Việt Nam, tiến hành “Chiến tranh cục bộ”.
Chưa đầy một tháng, sau khi những đơn vị quân Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng, ngày 22/3/1965, Mặt trận DTGPMN Việt Nam ra Tuyên bố năm điểm cực lực phản đối hành động chiến tranh mới của đế quốc Mỹ; nêu rõ lập trường, mục tiêu chiến đấu và quyết tâm của Nhân dân miền Nam Việt Nam, Bản tuyên bố khẳng định: 1. Đế quốc Mỹ là kẻ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, là kẻ gây chiến và xâm lược cực kỳ thô bạo; 2. Nhân dân miền Nam cương quyết đánh đuổi đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, thực hiện một miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất đất nước; 3. Quân Giải phóng miền Nam quyết hoàn thành đầy đủ nhất nghĩa vụ thiêng liêng của mình là đánh đuổi đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc; 4. Nhân dân miền Nam biết ơn sâu sắc sự ủng hộ nhiệt tình của Nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới và tuyên bố sẵn sàng tiếp nhận mọi sự giúp đỡ, kể cả vũ khí và mọi dụng cụ chiến tranh của bạn bè khắp năm châu; 5. Toàn dân đoàn kết, toàn dân vũ trang, tiếp tục anh dũng xông lên; quyết chiến, quyết thắng quân Mỹ và Việt gian bán nước.
Trên bình diện quốc tế, Tuyên bố 5 điểm của Mặt trận DTGPMN Việt Nam đã có tác động rất lớn trong việc củng cố hậu phương quốc tế của phong trào đấu tranh cách mạng miền Nam. Nó trở thành lời hiệu triệu tập hợp các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh của Nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược. Bản Tuyên bố đó một mặt vạch trần bản chất của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam do Mỹ tiến hành; mặt khác giải thích cho thế giới hiểu rõ tình hình và mục tiêu đấu tranh của phong trào cách mạng miền Nam cũng như vai trò không thể thiếu của Mặt trận DTGPMN Việt Nam. Qua đó, tranh thủ được sự ủng hộ của chính phủ và Nhân dân các nước trong Phong trào không liên kết, các nước Á - Phi - Mỹ La tinh; các lực lượng tiến bộ ở Mỹ và các nước phương Tây...
Có thể nói, cùng với bản Tuyên bố 4 điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (8/4/1965), Tuyên bố 5 điểm của Mặt trận DTGPMN Việt Nam đã tạo ra một bước ngoặt trong quá trình củng cố và mở rộng hậu phương quốc tế cho phong trào đấu tranh của Nhân dân miền Nam nói riêng, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung. Tuy nhiên, hậu phương quốc tế thời kỳ này cũng gặp phải không ít khó khăn và một số bất lợi. Nội bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có sự mâu thuẫn sâu sắc, đặc biệt là giữa hai “trụ cột” Liên Xô và Trung Quốc. Trong bối cảnh đó, Mặt trận DTGPMN Việt Nam đã khéo léo xử lý các mối quan hệ này một cách tế nhị nhằm thực hiện chính sách nhất quán, đoàn kết, tranh thủ tối đa các nước, trước hết là Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em khác. Mặt trận DTGPMN Việt Nam sẵn sàng nhận sự chi viện về vật chất và sự ủng hộ về tinh thần, tận dụng vai trò quan trọng của Liên Xô, Trung Quốc trên các diễn đàn quốc tế, trong các tổ chức dân chủ, hòa bình, trong phong trào giải phóng dân tộc... Nhưng Mặt trận cũng từ chối việc Liên Xô cử quân tình nguyện và đặt cố vấn bên cạnh Mặt trận DTGPMN Việt Nam ; từ chối đề nghị của Trung Quốc làm đường vận tải vào miền Nam ...
Với hành động leo thang chiến tranh của Mỹ, sau Tuyên bố 5 điểm của Mặt trận DTGPMN Việt Nam và Tuyên bố 4 điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (8/4/1965), hậu phương quốc tế đã được mở rộng trên nhiều mặt trận.
Đối với các nước XHCN, sự ủng hộ dành cho Mặt trận DTGPMN Việt Nam, cho Việt Nam đánh Mỹ xâm lược ngày càng tăng lên. Nếu như trong giai đoạn 1955 - 1960, Việt Nam mới chỉ nhận được từ các nước XHCN 4.105 tấn hàng hậu cần, 45.480 tấn vũ khí, trang bị, thì từ năm 1961 - 1964, con số đó là 70.295 tấn (230 tấn hàng hậu cần và 70.065 tấn vũ khí, trang bị); trong đó Liên Xô: 47.223 tấn, Trung Quốc: 22.952 tấn, 442 tấn của các nước XHCN khác. Trong những năm 1965 - 1968 tăng lên 517.393 tấn; 1969 - 1972 là 1.000.796 tấn.
Về chính trị, tinh thần, các nước XHCN đã tận dụng các diễn đàn quốc tế vạch trần thực chất của các “chiến dịch hòa bình” do Mỹ tung ra, bác bỏ yêu cầu “thương lượng không điều kiện” của Mỹ, ủng hộ sự có mặt của Mặt trận DTGPMN Việt Nam trong hội nghị để tìm giải pháp của vấn đề miền Nam Việt Nam; ủng hộ Mặt trận DTGPMN Việt Nam tham gia Hội nghị 4 bên ở Paris và đặc biệt là biểu thị sự đồng tình với Giải pháp 10 điểm mà Mặt trận DTGPMN Việt Nam đưa ra tại Hội nghị này.
Những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sự ủng hộ về vật chất từ phía các nước XHCN có phần giảm sút do ảnh hưởng bởi sự toan tính của Liên Xô và Trung Quốc trong quan hệ với Mỹ. Song, điều đó cũng không ảnh hưởng quá lớn bởi lúc này thế và lực của cách mạng Việt Nam, vai trò và uy tín của Mặt trận DTGPMN Việt Nam đã được củng cố vững chắc, ở trong nước cũng như trên trường quốc tế.
Trong khi đó, Lào và Campuchia coi cuộc kháng chiến ở miền Nam Việt Nam có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của chiến tranh cách mạng ở cả hai nước. Chính vì vậy mà Lào và Campuchia một mặt tích cực phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam tiến công vào kẻ thù chung; mặt khác, đảm đương vai trò hậu cứ cho các lực lượng cách mạng miền Nam Việt Nam. Đầu năm 1967, chính quyền Vương quốc Campuchia công nhận Mặt trận DTGPMN Việt Nam là đại diện chân chính duy nhất của Nhân dân miền Nam Việt Nam. Cùng với Mặt trận đoàn kết Đông Dương, Phong trào giải phóng dân tộc, các nước dân tộc độc lập trở thành đồng minh tự nhiên, quan trọng của Mặt trận DTGPMN Việt Nam. Khi đế quốc Mỹ leo thang mở rộng chiến tranh, không ít thành viên trong Phong trào không liên kết còn dao động và có chút “ngả nghiêng trong việc công nhận Mặt trận DTGPMN Việt Nam cũng như trong việc lên án một cách mạnh mẽ hành động leo thang chiến tranh của Mỹ, thì cùng với thời gian, họ đều đã “nhận ra sai lầm” và thể hiện sự gần gũi với Mặt trận DTGPMN Việt Nam cũng như bày tỏ sự ủng hộ Tuyên bố 5 điểm của Mặt trận. Chỉ riêng trong năm 1966, Mỹ đã ba lần thông qua một số nước trong Phong trào không liên kết nhờ vận động các nước ủng hộ lập trường của Mỹ, tẩy chay Mặt trận DTGPMN Việt Nam... nhưng cả ba lần đều bị thất bại. Ngay như chính quyền Senegal của Tổng thống Senghor - vốn khá gần gũi với chính quyền Sài Gòn - cũng đã quay sang công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (thành lập ngày 6/6/1969). Từ chỗ ngả nghiêng, lo ngại, các nước đó dần tin cậy và ủng hộ mạnh mẽ Mặt trận DTGPMN Việt Nam.
Năm 1970, Mặt trận DTGPMN Việt Nam được mời dự Hội nghị Cấp cao lần thứ ba của Phong trào không liên kết hợp ở Zambia. Tháng 8/1972, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước không liên kết hợp ở Guyana đã kết nạp Mặt trận DTGPMN Việt Nam là thành viên của tổ chức này.
Tuy sự giúp đỡ về vật chất, kỹ thuật còn khiêm tốn nhưng về mặt chính trị, tinh thần thì Phong trào giải phóng dân tộc của các nước dân tộc độc lập đã góp phần quan trọng mở rộng hậu phương quốc tế của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, của Mặt trận DTGPMN Việt Nam nói riêng.
Phong trào Nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược, ủng hộ Mặt trận DTGPMN Việt Nam đã nhanh chóng lan rộng và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Phong trào này thu hút đông đảo tổ chức, đối tượng tham gia; từ các tổ chức dân chủ hòa bình, công đoàn, phụ nữ, học sinh, sinh viên đến các tổ chức tôn giáo, xã hội... Tại nhiều nước đã hình thành các tổ chức ủng hộ, đoàn kết với Mặt trận DTGPMN Việt Nam, với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Phong trào Nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ, ủng hộ Mặt trận DTGPMN Việt Nam hình thành và phát triển nhờ tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến mà Nhân dân Việt Nam tiến hành, nhờ những chiến thắng của quân và dân Việt Nam trên chiến trường, nhờ uy tín và ảnh hưởng của Mặt trận DTGPMN Việt Nam trong nước cũng như trên trường quốc tế.
Phong trào Nhân dân Mỹ chống chiến tranh cũng là một trong những yếu tố cấu thành hậu phương quốc tế của Mặt trận DTGPMN Việt Nam. Phong trào này đã sớm phát triển sâu rộng trong qui mô toàn quốc mà tiêu biểu là “ Ủy ban phối hợp toàn quốc ” ra đời ngay sau khi chính quyền Mỹ quyết định đổ quân trực tiếp tham chiến tại miền Nam Việt Nam. Phong trào phản chiến ở Mỹ đã lôi cuốn hàng triệu người tham gia. Trong 2 năm (1967 - 1968), tại hơn 120 thành phố trên khắp nước Mỹ đã diễn ra “mùa Hè nóng bỏng”. Phong trào phản chiến ở Mỹ đã có sự tác động nhất định đến thái độ của chính giới Mỹ. Số nghị sĩ xuống đường phản đối chiến tranh Việt Nam ngày một tăng. Nhiều nghệ sĩ bày tỏ thái độ công nhận Mặt trận DTGPMN Việt Nam và đòi thương lượng đàm phán phải có sự tham gia của Mặt trận. Nhiều người dân Mỹ do thiếu thông tin hoặc bị lừa gạt, từ chỗ không thừa nhận, đã quay sang ủng hộ Mặt trận DTGPMN Việt Nam, thừa nhận họ là đại diện chân chính của Nhân dân miền Nam.
Tại Hội nghị bốn bên ở Paris (8/9/1969), Mặt trận DTGPMN Việt Nam đã đưa ra bản Đề nghị hòa bình 10 điểm. Bản đề nghị này không những được dư luận thế giới đồng tình ủng hộ mà còn tạo nên sức ép đối với Mỹ. Từ đó, uy tín và vai trò của Mặt trận DTGPMN Việt Nam trên trường quốc tế được đề cao mạnh mẽ. Ngoại trưởng Mỹ H.Kissinger cũng phải thừa nhận đây là một đòn ngoại giao sắc bén của Mặt trận, và rằng: “riêng việc tồn tại một kế hoạch hòa bình của Cộng sản mặc dù bản thân nó là một sự bất ngờ đã gây ra ngay lập tức sự phản ứng trong Quốc hội, trên các phương tiện truyền thông và trong dư luận công chúng. Họ gây sức ép với chính phủ đừng bỏ qua cơ hội đó”.
Tuy Mặt trận DTGPMN Việt Nam ra đời trong bối cảnh quốc tế cực kỳ phức tạp: Phong trào cách mạng thế giới trải qua nhiều thăng trầm, phong trào XHCN khủng hoảng về đường lối, bất đồng về quan điểm, sách lược đấu tranh; Phong trào không liên kết thời kỳ đầu có sự bất đồng về mục tiêu và phương hướng hành động, mâu thuẫn Xô - Trung phát triển gay gắt, thậm chí ngay cả trên “vấn đề Việt Nam”, giúp Việt Nam chống Mỹ... Mặc dầu vậy, với việc giương cao ngọn cờ đoàn kết quốc tế, Mặt trận DTGPMN Việt Nam sớm tạo dựng được một hậu phương quốc tế vững chắc. Mặt trận đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN; của Mặt trận đoàn kết Đông Dương, tranh thủ được sự ủng hộ của Nhân dân thế giới, kết hợp với phong trào phản chiến ở Mỹ... Tất cả những nhân tố đó đã hình thành nên một hậu phương quốc tế vững chắc cho Mặt trận DTGPMN Việt Nam, cho phong trào cách mạng miền Nam nói riêng, cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ , cứu nước của cả nước nói chung. Nhận xét về vai trò của Mặt trận DTGPMN Việt Nam trong việc hình thành và củng cố hậu phương quốc tế, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, nguyên Chủ tịch Mặt trận DTGPMN Việt Nam khẳng định: “Có lẽ rất ít phong trào giải phóng dân tộc trong thời đại chúng ta lại được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi, mạnh mẽ của Nhân dân thế giới như phong trào giải phóng miền Nam, nhất là sự đồng tình, hỗ trợ ngay tại sào huyệt của kẻ gây chiến. Không chỉ Nhân dân thế giới đoàn kết với Nhân dân miền Nam. Nhân dân Việt Nam mà một số chính phủ, một số giới chính trị ở một số nước chưa phải là XHCN đã có thái độ thiện cảm với Mặt trận DTGPMN Việt Nam, hoặc dè dặt trước chính sách của Mỹ. Mặt trận DTGPMN Việt Nam đã liên kết thành cả một phong trào Nhân dân thế giới vì hòa bình và công lý”.
| TRẦN NGỌC LONG Đại tá, PGS, TS, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam |
Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam là quân đội kiểu mới, quân đội của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Trải qua 76 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, QĐND Việt Nam đã khẳng định vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, qua đó hun đúc nên truyền thống quý báu: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Truyền thống và sức mạnh của QĐND Việt Nam bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó đoàn kết quốc tế là nhân tố quan trọng.
1. Đoàn kết quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc
Đoàn kết quốc tế là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng trong lãnh đạo xây dựng, phát triển QĐND Việt Nam. Quán triệt sự lãnh đạo của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, QĐND Vỉệt Nam đã thể hiện tình đoàn kết quốc tế mạnh mẽ, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp giúp QĐND Vỉệt Nam đánh thắng chiến tranh xâm lược của quân đội các nước có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh.
Tình đoàn kết quốc tế của QĐND Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc thể hiện trước tiên với Quân đội Giải phóng Nhân dân Lào. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên cơ sở pháp lý của Hiệp định thành lập liên quân Lào - Việt (30/10/1945) và thỏa thuận cấp cao giữa Việt Nam và Lào, QĐND Việt Nam đã từng bước cử lực lượng sang đoàn kết chiến đấu với LLVT cách mạng Lào. Từ ngày 30/10/1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định: “Các lực lượng quân sự của Việt Nam chiến đấu và công tác giúp Lào tổ chức thành một hệ thống riêng lấy danh nghĩa là Quân Tình nguyện”. Theo đó, các đoàn Quân Tình nguyện (QTN) 80, 81, 82, 83 ở Thượng Lào, Đoàn 280 ở Trung Lào và các đại đội, tiểu đoàn ở Hạ Lào đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, đoàn kết với Quân đội Lào Ítxala kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Năm 1953, bộ đội chủ lực và QTN Việt Nam phối hợp với các đơn vị Quân đội Lào Ítxala mở Chiến dịch Thượng Lào thắng lợi, tạo bước ngoặt cho cách mạng Lào. Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ, QTN Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị Quân đội Lào ítxala mở Chiến dịch Trung - Hạ Lào (12/1953 - 5/1954) và Chiến dịch Thượng Lào (1 - 2/1954) thắng lợi, góp phần chia lửa với chiến trường chính Việt Nam, trực tiếp góp phần vào thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ (7/5/1954), buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954), chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia.
Trong những năm 1954 - 1975, trước yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến chống kẻ thù chung, thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, QĐND Việt Nam luôn sát cánh đoàn kết chiến đấu với Quân đội Lào Ítxala chống đế quốc Mỹ xâm lược. Theo đó, Đoàn cố vấn quân sự 100 (7/1954), Đoàn Chuyên gia quân sự (CGQS) 959 (9/1959), Đoàn CGQS 463 (4/1963), Đoàn CGQS 565 (5/1965) lần lượt được thành lập, sang hoạt động tại Lào. Cùng với đó, các đoàn QTN 335, 763, 766, 866 sang giúp Bạn xây dựng căn cứ địa, lực lượng, phối hợp với LLVT Lào mở các chiến dịch... Trong từng thời kỳ, các đơn vị bộ đội chủ lực Việt Nam và bộ đội các tỉnh, các địa phương giáp Lào được cử sang phối hợp với Bạn mở những chiến dịch lớn thắng lợi, tạo bước ngoặt cho cách mạng Lào và tác động tích cực trở lại đối với cách mạng Việt Nam, trực tiếp góp phần đưa cách mạng Lào giành thắng lợi từng bước và đi đến thắng lợi hoàn toàn, dẫn tới sự ra đời cùa nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào vào ngày 2/12/1975.
Không chỉ đoàn kết quốc tế với Quân đội Lào, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, QĐND Việt Nam luôn đoàn kết chặt chẽ với LLVT cách mạng Campuchia; nổi bật là, khi Chiến dịch Điện Biên Phủ (13/3 - 7/5/1954) diễn ra, trên chiến trường Campuchia, đầu tháng 4/1954, Đại đội QTN Việt Nam 160 tiến lên Kongpong Chơnăng cùng với Đại đội 305 và dân quân du kích Campuchia hình thành một ban chỉ huy chung tổ chức đánh địch trên đường Prây Khme. Cũng trong tháng 4/1954, Đại đội QTN Việt Nam 180 nổ súng tiến công cứ điểm Krăng Đêvai. Tháng 4/1954, Đại đội 180 tiếp tục tiến đánh hải quân địch ở cảng Riêm... Đầu tháng 4/1954, toàn bộ Tiểu đoàn 302 - chủ lực Phân Liên khu miền Đông được điều sang chiến trường Campuchia làm nghĩa vụ quốc tế. Ngày 25/4/1954, Đại đội 40, Tiểu đoàn 302 tiêu diệt đồn An Sông (Prâyveng) do một trung đội Commăngđồ đóng giữ. Ngày 26/4/1954, Tiểu đoàn 302 tiến công các đồn Păngcànnhây, Kốt Cho và TàNốt... Những thắng lợi đó không chỉ làm cho thế và lực của cách mạng Campuchia lớn mạnh, mà còn đóng góp quan trọng vào thang lợi Chiến dịch Điện Biên Phủ của Nhân dân Việt Nam.
Bước sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, sự phối hợp hiệu quả giữa LLVT hai nước là nhân tố quan trọng góp phần chiến thắng kẻ thù chung. Từ tháng 4 đến tháng 6/1970, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và LLVT cách mạng Campuchia đánh bại cuộc hành quân “tìm diệt” của 100.000 quân Mỹ, quân đội Sài Gòn, quân đội Lon Nol, được không quân, thiết giáp và pháo binh yểm trợ. Tháng 1/1971, quân đội Sài Gòn mở cuộc hành quân “Toàn thắng NB-1971” tiến công vào các tỉnh Đông Bắc Campuchia. Tuy nhiên, cuộc hành quân này đã bị các đơn vị vũ trang Quân Giải phóng miền Nam, các đơn vị vũ trang cách mạng Campuchia đánh bại. Tiếp đó, tháng 8/1971, các đơn vị vũ trang giải phóng miền Nam phối hợp cùng lực lượng cách mạng Campuchia đánh bại cuộc hành quân Chenla II của đối phương tại mặt trận phía Đông Campuchia. Sau khi đánh thắng các cuộc hành quân lớn của địch, quân và dân Campuchia dồn dập tiến công địch trên các trục lộ giao thông, chặn đường vận chuyển quân sự và mở chiến dịch vây hãm thủ đô Phnôm Pênh. Đặc biệt, phối hợp với cách mạng Việt Nam, đầu tháng 3/1975, lực lượng quân giải phóng Campuchia thực hiện cuộc tổng tiến công. Đến ngày 17/4/1975, quân giải phóng làm chủ hoàn toàn thủ đô Phnôm Pênh, giải phóng hoàn toàn Campuchia.
Như vậy, tình đoàn kết chiến đấu giữa QĐND Việt Nam với Quân đội Giải phóng Nhân dân Lào và các LLVT cách mạng Campuchia đã tạo nên sức mạnh to lớn, trực tiếp góp phần vào thắng lợi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân mỗi nước. Tuy nhiên, sức mạnh của QĐND Việt Nam thời kỳ này còn được tạo nên bởi tình đoàn kết quốc tế với quân đội các nước Trung Quốc, Liên Xô và Cuba...
Quan hệ đoàn kết quốc tế với Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc được xây dựng và phát triển từ khá sớm. Trên cơ sở của tình đoàn kết ấy, từ ngày 10/6 đến ngày 5/7/1949, hai bên phối họp tổ chức thắng lợi Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn. Sau gần một tháng tiến công và hoạt động, bộ đội ta ở Mặt trận phía Tây đã cùng với Quân Giải phóng Trung Quốc đánh tiêu diệt và làm tan rã nhiều đơn vị quân Quốc dân Đảng; đánh chiếm và bức rút các vị trí: Thủy Khẩu, La Hồi, Hạ Đống, Lôi Bình, Thượng Thạch, Ninh Minh..., giải phóng hàng vạn dân. Trong khi đó, ở Mặt trận phía Đông, bộ đội ta và Bạn đã bức rút và giải phóng 10/12 thị trấn lớn nhỏ, mở rộng và củng cố căn cứ địa Thập Vạn Đại Sơn... Trong cuộc họp, Bộ Tư lệnh hai bên tổng kết chiến dịch đánh giá: “Thắng lợi về quân sự đã quan trọng, nhưng thắng lợi về chính trị còn lớn hơn nhiều”(3). Có thể nói, bằng công sức và xương máu, bộ đội ta đã trực tiếp góp phần xây đắp tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước; góp phần tuy nhỏ, nhưng rất quý và vẻ vang vào sự nghiệp giải phóng Trung Quốc.
Ngày 1/10/1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, quan hệ đoàn kết giữa cách mạng hai nước nói chung, giữa quân đội hai nước nói riêng tiếp tục được đẩy mạnh. Đặc biệt, trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Việt Nam đã nhận được viện trợ từ Trung Quốc, bổ sung cho các đơn vị, phục vụ công tác huấn luyện và nâng cao sức mạnh sẵn sàng chiến đấu của QĐND Vỉệt Nam.
Tình đoàn kết quốc tế của QĐND Việt Nam còn được biểu hiện sinh động với Quân đội Liên Xô. Những vũ khí, trang bị Liên Xô viện trợ đã góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của QĐND Việt Nam, trực tiếp góp phần vào thắng lợi của các chiến dịch lớn, đặc biệt là các hoạt động tác chiến trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sự giúp đỡ của Liên Xô đối với cách mạng Việt Nam nói chung và QĐND Việt Nam nói riêng thể hiện trên ba lĩnh vực chủ yếu là viện trợ quân sự; giúp đào tạo, huấn luyện cán bộ và cử CGQS. Năm 1961, Hải quân Liên Xô chuyển giao cho Hải quân nhân dân Việt Nam 12 tàu phóng ngư lôi và 4 tàu chống tàu ngầm. Tháng 1/1961, Liên Xô cử đoàn CGQS sang giúp Việt Nam xây dựng quân, binh chủng; giúp QĐND Việt Nam đào tạo cán bộ tại các trường quân đội (Liên Xô). Ngày 6/7/1965, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô ban hành quyết định về việc thành lập Đoàn CGQS Liên Xô tại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đến cuối năm 1974, Quy chế “CGQS Liên Xô” được thay bằng Quy chế “Cố vấn quân sự Liên Xô”... Nhìn chung, sự viện trợ quân sự của Liên Xô đã giúp nâng cao tiềm lực và hiệu quả chiến đấu của QĐND Việt Nam. Đây là sự giúp đỡ quí giá, góp phần quan trọng vào thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Một nội dung nổi bật thể hiện tình đoàn kết quốc tế của QĐND Vỉệt Nam trong những năm đấu tranh giải phóng dân tộc là đoàn kết chặt chẽ với Bộ Các LLVT cách mạng Cuba. Ngày 2/12/1960, Cuba trở thành nước đầu tiên ở Tây bán cầu thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với sự kiện nổi bật là đặt Đại sứ quán Cộng hòa Cuba tại Hà Nội, trong đó có Cơ quan Tùy viên quân sự. Ngày 4/1/1964, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 02/QP, thành lập Phòng Tùy viên quân sự thuộc Đại sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại La Habana - thủ đô Cộng hòa Cuba, thực hiện chức năng tham mưu, trao đồi và tìm hiểu những vấn đề liên quan đến quân sự, quốc phòng theo sự chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chính phủ, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Từ đây, quan hệ đoàn kết giữa QĐND Việt Nam với Bộ Các LLVT cách mạng Cuba bước sang một trang sử mới. Theo đó, từ năm 1964 đến năm 1975, Bộ Các LLVT cách mạng Cuba đã cử nhiều lượt cán bộ chuyên gia sang giúp Việt Nam một số lĩnh vực và tham gia kháng chiến cùng quân dân Việt Nam. Đặc biệt là chuyến thăm cùa Thủ tướng Fidel Castro tới tuyến lừa Quảng Bình, Quảng Trị (9/1973), ông khẳng định rằng: “Tình đoàn kết của chúng ta, sự ủng hộ của chúng ta, niềm tin của chúng ta đối với Nhân dân Việt Nam và ban lãnh đạo Việt Nam là vô điều kiện và tuyệt đối”. Đáp lại, phía Việt Nam tích cực chia sẻ kinh nghiệm kháng chiến của quân, dân Việt Nam cho phía Cuba, từ đó thúc đẩy mối quan hệ đoàn kết hữu nghị giữa hai nước.
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, QĐND Việt Nam đã từng bước xây dựng và tăng cường tình đoàn kết quốc tế, góp phần làm cho QĐND Việt Nam ngày càng lớn mạnh, khả năng tác chiến được nâng cao, phối hợp chiến đấu hiệu quả, trực tiếp góp phần vào thắng lợi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam cũng như cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
2. Đoàn kết quốc tế trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Chiến tranh qua đi, bước vào giai đoạn cách mạng mới, QĐND Việt Nam và QĐND Lào tiếp tục thắt chặt tình đoàn kết, bảo đảm cho quan hệ quân sự, quốc phòng thực sự trở thành một trong những trụ cột của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào. Trên cơ sở định hướng của thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng về quốc phòng, Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Lào thường xuyên tiến hành các cuộc gặp trao đổi, phối hợp giúp đỡ lẫn nhau về xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và chuyên môn. Hằng năm, Việt Nam cử CGQS sang làm nhiệm vụ quốc tế, xây dựng các ké hoạch và lập phương án tác chiến giúp Lào. Về đào tạo cán bộ, ngoài chương trình đào tạo dài hạn, Bộ Quốc phòng Việt Nam thường xuyên tổ chức các lớp học ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các đơn vị của Quân đội Lào. Hai bên đã hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong công tác tuyên truyền về mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và Quân đội hai nước; đẩy nhanh tiến độ tìm kiếm, qui tập và hồi hương hài cốt liệt sĩ QTN và CGQS Vỉệt Nam hy sinh trong các thời kỳ chiến tranh tại Lào.
Đối với Quân đội Hoàng gia Campuchia, sau khi giúp Nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng vào ngày 7/1/1979, từ năm 1979 đến năm 1982, thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả, QTN Việt Nam cùng LLVT cách mạng Campuchia liên tiếp mở các cuộc tiến công truy quét tàn quân Pôn Pot ở khu vực biên giới phía Tây, Tây Nam và trong nội địa. Sau khi đánh đuổi được tàn quân Pôn Pốt, theo đề nghị của Bạn, QTN và CGQS Việt Nam phối hợp với quân dân Campuchia triển khai xây dựng tuyến phòng thủ dài hơn 600km giáp với biên giới Thái Lan... Đến tháng 4/1988, Bộ Chính trị Việt Nam quyết định bàn giao các công việc và đẩy nhanh tiến độ rút QTN và CGQS ở Campuchia về nước. Từ ngày 21 đến 26/9/1989, toàn bộ QTN và CGQS Việt Nam đã rút về nước, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Campuchia, góp phần thắt chặt tinh đoàn kết giữa QĐND Việt Nam với Quân đội Hoàng gia Campuchia.
Hiện nay, quan hệ hợp tác quân sự, quốc phòng giữa hai nước tiếp tục được thúc đẩy. Trên cơ sở thỏa thuận từ những cuộc gặp cấp cao giữa lãnh đạo Bộ Quốc phòng hai nước, các cơ quan, đơn vị Bộ Quốc phòng hai bên đã phối hợp triển khai đúng, đủ các nội dung trong những nghị định thư ký kết về hợp tác quốc phòng song phương, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị Việt Nam - Campuchia đi vào chiều sâu, thiết thực, được lãnh đạo Chính phủ, Bộ Quốc phòng hai nước đánh giá cao. Đồng thời, công tác trao đổi đoàn các cấp được duy trì và thực hiện theo đúng kế hoạch, bảo đảm hiệu quả, góp phần củng cố sự tin tưởng giữa quân đội hai nước; công tác tuyên truyền giáo dục của các cơ quan chuyên môn được chú trọng, giúp cán bộ, chiến sĩ Quân đội hiểu rõ hơn về tình đoàn kết gắn bó, hữu nghị truyền thống giữa hai nước, hai quân đội đã kề vai, sát cánh trong các chiến tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Đối với LLVT Liên bang Nga, trước khi Liên Xô tan rã, năm 1988, Việt Nam và Liên Xô thành lập Trung tâm Nhiệt đới Việt - Xô (Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga ngày nay). Điều này thể hiện, dù tình hình quốc tế, khu vực và tình hình hai nước có nhiều biến động, nhưng quan hệ hợp tác chiến lược giữa Việt Nam - Liên Xô trước đây cũng như Liên bang Nga ngày nay vẫn duy trì và phát triển. Với ý nghĩa đó, trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, quan hệ hợp tác quân sự, quốc phòng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Liên bang Nga được đẩy mạnh, triển khai mạnh mẽ cả về bề rộng lẫn chiều sâu, mang lại hiệu quả thiết thực, củng cố sự tin cậy về chính trị giữa hai nước, phù hợp với sự phát triển của mối quan hệ “Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Liên bang Nga”. Bên cạnh đó, việc trao đổi đoàn các cấp, các cơ chế hợp tác như “Đối thoại chính sách quốc phòng”, “Nhóm làm việc” luôn được duy trì; hợp tác kỹ thuật quân sự thông qua cơ chế ủy ban Liên chính phủ ngày càng hiệu quả; hợp tác đào tạo luôn là điểm sáng trong quan hệ quốc phòng; hợp tác giữa các quân binh chủng với những nội dung ngày càng phong phú, đa dạng, trong đó hợp tác Hải quân là hình mẫu của hợp tác cấp đơn vị. Đặc biệt, hai bên đã phối hợp tổ chức và triển khai thành công các hoạt động hợp tác quốc phòng trong khuôn khổ “Năm chéo Việt Nam - Nga 2019 - 2020”...
Với Bộ Các LLVT cách mạng Cuba, sau năm 1975, hai bên tăng cường trao đổi kinh nghiệm về chiến tranh nhân dân, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc trước sự bao vây, cấm vận của kẻ thù. Trong giai đoạn 1985 - 1992, theo yêu cầu của Cuba, QĐND Việt Nam cử nhiều lượt CGQS địa phương, chuyên gia một số chuyên ngành quân sự sang giúp Bộ Các LLVT cách mạng Cuba xây dựng hệ thống phòng thủ các cấp và huấn luyện bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của LLVT cách mạng Cuba. Những năm gần đây, xuất phát từ thế mạnh và nhu cầu của mỗi bên, quan hệ giữa QĐND Việt Nam với Bộ Các LLVT cách mạng Cuba tiếp tục được đẩy mạnh, thể hiện qua các chuyến thăm lẫn nhau của lãnh đạo Bộ Quốc phòng hai nước như của Bộ trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Tổng Tham mưu trưởng, Phó Tổng Tham mưu trưởng; Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị... Cùng với đó là những chuyến thăm của lãnh đạo các đơn vị, các tổng cục, quân khu, quân đoàn, quân binh chủng, các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu của hai bên. Đặc biệt, Việt Nam và Cuba đã tổ chức thành công nhiều cuộc “Đối thoại chính sách quốc phòng”. Tính đến năm 2020, Việt Nam và Cuba đã tổ chức được ba cuộc “Đối thoại chính sách quốc phòng”. Tại các cuộc đối thoại, hai bên trao đổi về tình hình mỗi nước cũng như các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm; đánh giá việc triển khai nội dung hợp tác quốc phòng mà hai bên đã thống nhất; tích cực thúc đẩy hợp tác quân y trên cơ sở thỏa thuận ký kết.
Đi cùng với quan hệ đoàn kết quốc tế nêu trên, trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, QĐND Vỉệt Nam chủ trương mở rộng và nâng cao hiệu quả các mối quan hệ quốc phòng song phương, đồng thời tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc phòng đa phương. Đặc biệt, quán triệt sâu sắc đường lối, nguyên tắc, quan điểm, phương châm chỉ đạo, chính sách đối ngoại và chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước; trực tiếp là Nghị quyết số 22-NQ/ TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị, “về Hội nhập quốc tế”; Nghị quyết số 28-NQ/ TW ngày 25/10/2013 của Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI), “về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, QĐND Việt Nam đã tiếp tục triển khai đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công tác đối ngoại quốc phòng; tăng cường hội nhập quốc tế về quốc phòng, qua đó đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nội dung, hình thức quan hệ, hợp tác quốc phòng được mở rộng trên nhiều lĩnh vực, với nhiều đối tác, trong đó có những nội dung mang tính đột phá, đóng góp hiệu quả vào công cuộc phát triển kỉnh tế - xã hội, giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới, nâng cao tiềm lực và sức mạnh của QĐND Việt Nam.
Đặc biệt, tháng 12/2013, “Đề án Quân đội tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ngay sau đó, Trung tâm Gìn giữ hòa binh Việt Nam được thành lập (27/5/2014). Để đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ công tác, Trung tâm Gìn giữ hòa bình Việt Nam được nâng cấp thành Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam (1/2018), song song với việc tổ chức chuyển giao Tổ Công tác liên ngành về Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc từ Bộ Ngoại giao sang Bộ Quốc phòng. Sau 5 năm (2014 - 2019), Việt Nam đã triển khai hàng trăm quân nhân tham gia gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, trong đó có 43 lượt sĩ quan đi làm nhiệm vụ trên cương vị cá nhân và 126 sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp thuộc biên chế cùa hai Bệnh viện Dã chiến cấp 2 tại Phái bộ Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Nam Sudan. Tại địa bàn Phái bộ, các sĩ quan Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Trong số hơn 30 lượt sĩ quan kết thúc nhiệm kỳ công tác, 7 sĩ quan hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Liên hợp quốc đánh giá cao và tặng Huân chương “Vì sự nghiệp hòa bình”. Đánh giá hiệu quả công tác của sĩ quan Vỉệt Nam tại các Phái bộ Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng ban Chỉ đạo về việc Vỉệt Nam tham gia gìn giữ hòa bình Liên họp quốc, khẳng định: QĐND Việt Nam luôn rất chủ động, sẵn sàng, thích ứng tốt với nhiệm vụ giúp đỡ các nước khác củng cố hòa bình, tái thiết đất nước. Điều này được thể hiện trong 5 năm vừa qua, các sĩ quan của Việt Nam lên đường làm nhiệm vụ ở các cương vị khác nhau đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Trải qua 76 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, trực tiếp là sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, QĐND Việt Nam đã thể hiện tốt tinh thần đoàn kết quốc tế, qua đó không ngừng củng cố và nâng cao sức mạnh chiến đấu, trực tiếp góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong thời kỳ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Thực tiễn đoàn kết quốc tế của QĐND Việt Nam để lại một số kinh nghiệm quý báu:
Một là, luôn quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng để tăng cường đoàn kết, hợp tác với quân đội các nước, qua đó nâng cao sức mạnh của QĐND Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng qua các thời kỳ lịch sử.
Hai là, vận dụng sáng tạo tư tưởng “Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào xây dựng quan hệ đoàn kết quốc tế với quân đội các nước.
Ba là, luôn phát huy bản chất, truyền thống quý báu, đặc biệt là phẩm chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” khi thực hiện đoàn kết với quân đội các nước trong thực hiện nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, kết hợp giữa đẩy mạnh đoàn kết quốc tế với phát huy nội lực để xây dựng QĐND Việt Nam ngày càng lớn mạnh, trưởng thành, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.
Những kinh nghiệm được đúc kết mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, cần được chắt lọc, vận dụng trong tăng cường đoàn kết quốc tế giữa QĐND Việt Nam với quân đội các nước, góp phần nâng cao sức mạnh toàn diện của QĐND Việt Nam, không ngừng phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, xứng đáng là “Quân đội anh hùng của dân tộc anh hùng”.
| HÀ XUÂN CƯỜNG Thượng tá, ThS, Trường Sĩ quan Lục quân 1 |
Tóm tắt: Trong khoảng 20 năm đầu thế kỷ XIX, khu vực biên giới Tây Nam Việt Nam được củng cố cả về quản lý hành chính và hệ thống phòng vệ. Vương triều Nguyễn đã chủ động giải quyết các mối quan hệ giữa Việt Nam, Cao Miên (Campuchia) và Xiêm La (Thái Lan) một cách mềm dẻo, linh hoạt, theo xu hướng càng về sau càng kiên quyết, cứng rắn hơn. Trải qua hai đợt hoạt động quân sự vào năm Canh Ngọ (1810) và năm Quý Dậu (1813) ở vùng biên giới Tây Nam, vua Gia Long đã giúp Cao Miên giữ vững vương triều, mạnh mẽ cảnh cáo vương triều Xiêm La trước những động thái quân sự của nước này, mở rộng ảnh hưởng của vương triều Nguyễn và quốc gia Việt Nam trong các mối quan hệ khu vực.
1. Vùng biên giới Tây Nam và hệ thống phòng vệ thời Gia Long
Sau sự kiện sáp nhập vùng đất Tầm Phong Long (An Giang) vào lãnh thổ Đàng Trong năm 1757, vừng biên giới Tây Nam nước ta cơ bản được xác lập. Trải qua gần nửa thế kỷ củng cố, cho đến khi vương triều Nguyễn được thành lập (1802), khu vực biên giới Tây Nam đã tương đối ổn định, thuộc địa phận tran Hà Tiên và các dinh Phiên Trấn, Vĩnh Trấn, Trấn Định.
Năm 1808, vua Gia Long lập Gia Định Thành cai quản toàn bộ vùng đất phía Nam. Lúc này, Gia Định Thành tiếp giáp với các quốc gia Cao Miên, Ai Lao (Lào) và Xiêm La. Sách Gia Định Thành thông chỉ của Trịnh Hoài Đức biên soạn vào đầu thế kỷ XIX cho biết giới hạn của Gia Định Thành: Phía Tây Bắc giáp với vùng Sơn Man nước Cao Miên, phía Tây từ nước Lào đến phủ Sơn Bộ của Cao Miên và phía Nam giáp với Cao Miên, có 4 đạo trấn giữ là Quang Hóa, Tuyên Uy, Tân Châu và Châu Đốc, lấy sông Tiền, sông Hậu làm hào tự nhiên và kéo dài tiếp với đất 5 phủ của trấn Hà Tiên là Linh Quỳnh, Chân Sum, Sài Mạt, cần Bột và Vụng Thơm.
Dưới thời Gia Long, từ năm 1808 đến năm 1820, vùng biên giới Tây Nam thuộc địa phận các trấn Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Cũng theo ghi chép của Trịnh Hoài Đức cho biết địa giới hành chính vùng biên giới Tây Nam bao gồm: Tổng Dương Hòa thuộc huyện Bình Dương, tổng Bình Cách và tổng Thuận Đạo thuộc huyện Thuận An, đều thuộc trấn Phiên An; tổng Kiến Phong, huyện Kiến Đăng, phủ Kiến An thuộc trấn Định Tường; tổng Vĩnh Trinh, huyện Vĩnh An, phủ Định Viễn, và huyện Vĩnh Định, đều thuộc trấn Vĩnh Thanh; trấn Hà Tiên.
Nhằm xác lập và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của nước Việt Nam mới thống nhất, vua Gia Long tiến hành củng cố, xây dựng hệ thống đồn bảo, tuyển binh, điều động binh lính, xây dựng hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, kiên trì bảo hộ Cao Miên, tích cực tìm hiểu thực lực binh bị của Xiêm La. Các hoạt động quân sự của vương triều Nguyễn tại vùng biên giới Tây Nam thời Gia Long gắn liền với những biến động trong mối quan hệ Việt Nam - Cao Miên - Xiêm La ở hai thập kỷ đầu thế kỷ XIX.
Trong 10 năm đầu trị vì, vua Gia Long luôn chủ trương duy trì mối quan hệ giao hảo với quốc gia láng giềng Xiêm La. Sách Xiêm La sự tích cho biết: “Hoàng đế hết sức cân nhắc đến tình hòa hiếu láng giềng với Xiêm La. Từ đó, thường sai người sang cảm tạ và tặng quà. Đến khi chinh chiến thắng trận, báo tin cho biết. Mỗi khi thấy sứ giả của ta đến cảm tạ, người Xiêm đều dâng sản vật địa phương”. Các tư liệu thư tịch chính thống của nhà Nguyễn như Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam liệt truyện... cũng xác nhận mối quan hệ tốt đẹp thông qua hàng loạt các hoạt động ngoại giao, thông thương buôn bán, cứu trợ giữa Việt Nam và Xiêm La trong thời kỳ này.
Mặc dù có nhiều ưu ái trong các mối quan hệ bang giao với Xiêm La, trong bối cảnh quan hệ khu vực ngày càng phức tạp, nguy cơ đối đầu vì vấn đề Cao Miên ngày càng lộ rõ, vua Gia Long và triều đình Huế cũng sớm nhận thức được những nguy cơ tiềm ẩn từ phía Xiêm La. Chính vì thế, đối với vùng biên giới Tây Nam, triều Nguyễn không ngừng nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực phòng bị.
Trước hết, triều đình Huế tiến hành xây dựng chế độ tuyển binh và điều động binh lính đối với Gia Định Thành nói chung và các trấn khu vực biên giới Tây Nam nói riêng. Tháng Giêng năm Quý Hợi (1803), vua Gia Long cho tiến hành duyệt tuyển tại các dinh từ Quảng Bình trở vào Nam với mục đích “thải người già, điền người tráng, phân biệt nơi đông đúc, nơi thưa thớt”. Trên thực tế, đây vừa là hình thức điều tra nhân khẩu, vừa là biện pháp bổ sung lực lượng quân đội tại các địa phương. Đồng thời, Gia Long tiến hành chiêu tập dân Gia Định xiêu tán, đưa thư yêu cầu Cao Miên trao trả hết người Việt về nước. Lệ định tuyển binh đối với các trấn, đạo của Gia Định Thành đã được đặt ra từ năm 1812, cơ bản giảm nhẹ hơn so với Bắc Thành và các trấn do triều đình trực tiếp quản lý. Theo đó, Gia Định Thành cứ 8 đinh lấy 1 lính, riêng hạng biệt nạp như các trại đồn điền thì 3 đinh lấy 1 lính.
Trong điều động binh lính, vua Gia Long kiên trì thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”. Năm 1802, triều đình Huế cho chiểu tập dân xiêu tán, lập các trại đồn điền ở Gia Định, để khi có việc thì sung làm lính, lúc vô sự cho về làm ruộng. Từ năm 1812, 11 cơ lính của các trấn Gia Định, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh được chia làm 5 ban, qui định luân phiên 1 ban tại ngũ, 4 ban về quê quán nghỉ ngơi; binh lính hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang chia làm 3 ban, gồm 1 ban tại ngũ, 2 ban nghỉ ngơi. Riêng đối vói trấn Hà Tiên, ngoài số hương binh (binh lính người địa phương), vua Gia Long còn bổ sung số lượng lính thú lấy từ các trấn Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, môi trấn 50 lính cùng 4 viên cai đội, thay phiên nhau 6 tháng đi thú một lần.
Bên cạnh việc tăng cường lực lượng quân đội, đặt ra qui định điều động binh lính, vua Gia Long còn chú trọng công tác bố phòng, củng cố hệ thống đồn bảo. Từ cuối thế kỳ XVIII, sau khi tiếp nhận vùng đất Tầm Phong Long, chính quyền chúa Nguyễn đã dựng lên các đồn thủ dọc biên giới Tây Nam theo hai tuyến đường bộ và đường thủy. Trên đường bộ là các đạo thủ Quang Hóa (nay thuộc tỉnh Tây Ninh), Tuyên Uy (nay thuộc tỉnh Long An), Thông Bình (nay thuộc tỉnh Long An), Hùng Ngự (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp) nối tiếp nhau. Trên đường thủy, các đồn thủ được lập hai bên bờ sông Cửu Long, tại vị trí thủ sở các đạo Tân Châu (nay thuộc Cù Lao Giêng, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang), Châu Đốc (nay thuộc tỉnh An Giang) và Đông Khẩu (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Đến thời Gia Long, hệ thống đồn thủ này tiếp tục được duy trì và củng cố. Đồn Xiêm Binh được thiết lập năm 1787; đến năm 1810 đổi thành đồn Oai Viễn, nằm tại khu vực ngã ba sông Trà Ôn (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long) trở thành đồn thủ quan trọng bậc nhất, nơi tập kết binh lực của nhà Nguyễn để chi viện cho khu vực biên giới Tây Nam khi có việc xảy ra.
2. Đợt hoạt động quân sự nẳm Canh Ngọ (1810)
Từ cuối thế kỷ XVIII sang đầu thế kỳ XIX, Xiêm La luôn duy trì sự khống chế đối với triều đình Cao Miên. Vương triều Xiêm La thường xuyên giữ các hoàng tử Cao Miên ở kinh đô Vọng Các (Bangkok, Thái Lan) làm con tin. Vị hoàng tử nào được lựa chọn nối ngôi đều phải được vua Xiêm La đồng thuận mới cho về nước. Năm 1805, quan nhiếp chính Pok chết - Đây là người được sự hậu thuẫn của Xiêm La để nắm quyền ở Cao Miên. Nam 1806, vua Xiêm La là Rama I làm lễ phong vương cho một vị hoàng tử Cao Miên mới 15 tuổi trở thành vị vua mới của Cao Miên, tức Ang Chan n (hay Nặc Ông Chăn, Nặc Ong Chân hoặc Nặc Chân). Sau đó, Ang Chan n rời Xiêm La trở về kinh đô Oudong (U Đông, nay thuộc tỉnh Kampong Speu, Campuchia) để trị vì đất nước Cao Miên. Cũng trong thời gian này, do chính sách ngoại giao hòa hiếu với Việt Nam, triều đình Xiêm La cho rằng biên giới phía Đông đã ổn định, có thể rảnh tay đối phó với quân Miến Điện (Myanmar) ở phía Tây.
Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa Cao Miên và Xiêm La vẫn luôn tồn tại, đặc biệt trong vấn đề Xiêm La chiếm đóng Bắc Tầm Bôn (Battambang, Campuchia) và Xiêm Riệp (Siam Reap, Campuchia) của Cao Miên từ năm 1795. Học tập chính sách của vua Chey Chetta trước đây, Ang Chan II cũng thực hiện chế độ “chư hầu kép”, nhằm làm giảm mức độ ảnh hưởng của Xiêm La ở Cao Miên. Năm 1807, Ang Chan II cử sứ bộ đến kinh thành Huế dâng lễ vật và xin được tấn phong. Vua Gia Long chấp thuận, cử phái bộ sang kinh đô Oudong của Cao Miên để sắc phong cho Ang Chan II làm vua Cao Miên. Sứ bộ Việt Nam đã được Ang Chan II tiếp đón rất long trọng. Liên quan đến sự kiện này, sách Cao Miên sự tích cho biết thêm: “Thói tục của Man là anh em tranh giành lẫn nhau, không dựa vào ta thì dựa vào bên ngoài là Xiêm, không dựa vào Xiêm thì lại dựa vào bên trong là ta. Nặc Chân đáng được lên ngôi vì là trưởng, nhưng em trai là ba tên Nguyên, Yêm, Đon nhờ vào kẻ bên ngoài là Xiêm; Xiêm thường ép Chân chia đất, cho Nguyên làm Nhị vương, Yêm làm Tam vương, Chân không chịu làm theo”. Nhận định trên cho thấy việc thiết lập mối quan hệ thần phục của Cao Miên đối với vương triều Nguyễn có vai trò chủ động, tự nguyện của quốc vương Cao Miên trong tình thế chịu sức ép phải chia sẻ quyền lực từ phía Xiêm La.
Để tăng cường khả năng khống chế đối với Cao Miên, vua Xiêm La tự ý phong nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình Oudong cho một số quý tộc quan lại Khơme, hậu thuẫn cho Bắc Tầm Bôn cát cứ, yêu cầu vua Ang Chan phân chia quyền lực cho những người em... Chính vì vậy, năm 1810, vua Ang Chan II quyết định loại trừ hai viên Đại thần phụ chính nhận sự tấn phong của Xiêm La là Cao La Hâm Mang và Trà Tri Biện. Sự kiện này trở thành bước ngoặt thay đổi mối quan hệ giữa Cao Miên với Xiêm La và Vỉệt Nam đương thời.
Tháng 9 năm Canh Ngọ (1810), vua Ang Chan II cử sứ giả sang thông báo tình hình và ngỏ ý cầu viện nhà Nguyễn. Nhận thấy sự căng thẳng giữa hai nước láng giềng, vua Gia Long lập tức ra lệnh cho Gia Định Thành tăng cường phòng bị, lập các đội hương binh tại tất cả các trấn, đạo; tập trung chế tạo áo trận, sửa sang khí giới, chế luyện thuốc đạn, dự trữ lương thảo... Đồng thời, Đô thống chế Lê Văn Phong, Phó Đô thống chế Nguyễn Văn Trí, Chưởng cơ Nguyễn Văn Giám được cử đem quân đi tuần ở biên giới Tây Nam để tạo thanh thế ủng hộ Cao Miên. Tổng trấn Gia Định Thành là Nguyễn Văn Nhân điều động lực lượng gồm 2.000 biền binh, 30 thuyền chiến, 15 thuyền đi biển đến thẳng Tân Châu (Cù Lao Giêng, An Giang) đóng giữ, sẵn sàng cứu viện cho Cao Miên.
Theo Xỉêm La sự tích, vào tháng 11 năm Canh Ngọ (1810), “người Xiêm nghe tin Ốc nha của Cao Miên là bọn Cao La Hâm Mang và Trà Tri Biện (hai người này vốn dĩ nhận sự tấn phong của Xiêm, là Đại thần phụ chính của Cao Miên) bị Nặc Ong Chân giết chết, rất không hài lòng về việc đó, bèn sai bọn Phi nhã Long Mang tiến quân đến đóng ở Bắc Tầm Bôn. Nặc Ong Chân sợ, xin ta cho quân sang bảo hộ”. Tình hình diễn biến có chiều hướng gia tăng căng thẳng. Quân Xiêm tiến đóng ở Bắc Tầm Bôn. Quân Vỉệt Nam đóng giữ ở vùng biên giới Tân Châu (An Giang). Vua Ang Chan II nhiều lần đề nghị triều Nguyễn cử quân sang bảo hộ Cao Miên. Sách Đại Nam thực lục cho biêt vua Gia Long đã cử Tổng trấn Gia Định Thành là Nguyễn Văn Nhân làm Kinh lược sứ, đem quân vượt biên giới sang chi viện cho Cao Miên, lại đích thân ban hành 6 điều cấm lệnh nhằm hạn chế các hành động mưu lợi riêng, sách nhiễu cư dân bản địa. Tuy nhiên, lúc này, lực lượng quân đội nhà Nguyễn sang Cao Miên chỉ nhằm mục đích gây thanh thế để hỗ trợ vua Ang Chan II, chứ không chủ động phát binh, đụng độ với quân Xiêm La. Trong bức thư gửi vua Xiêm La, vua Gia Long nhấn mạnh: “Ta sở dĩ sai tướng sang bảo hộ, ngay từ đầu không phải kiếm lợi về đất đai, chỉ là cứu giúp tai nạn mà thôi, hãy suy nghĩ kỹ việc này”. Cuối cùng, cả hai nước đều bãi binh, rút quân về. Do yêu cầu của Ang Chan II, vua Gia Long đồng ý cử Quản lãnh binh Nguyễn Văn Tồn chỉ huy 1.000 binh lính đồn Oai Viễn ở lại Cao Miên. Tuy nhiên, lực lượng đồn trú này đến tháng 3 năm Tân Mùi (1811) cũng rút về.
3. Đợt hoạt động quân sự năm Quý Dậu (1813)
Lực lượng đồn trú của Việt Nam rút về chưa được bao lâu, đến tháng 12 năm Tân Mùi (1811), em trai vua Ang Chan II là Nặc Ong Nguyên chạy đến Phủ Túc (nay thuộc tỉnh Pursat, Campuchia) cầu viện quân Xiêm La. Tháng 3 năm Nhâm Thân (1812), quân Xiêm La chia thành 5 đạo tấn công Cao Miên. Vua Ang Chan II thua trận, bị đánh bật khỏi thành La Bích (nay thuộc tỉnh Kampong Chhnang, Campuchia), rút chạy đến vùng biên giới Việt Nam - Cao Miên, sau đó được Nguyễn Văn Thụy hộ tống về thành Gia Định. Sách Xiêm La sự tích cho biết vua Xiêm La lập tức cử sứ giả đưa thư sang yêu cầu nhà Nguyễn phối họp xử trí, đưa Ang Chan II trở về Cao Miên. Trước tình thế này, vua Gia Long chứng tỏ là một nhà chính trị khôn ngoan, dày dạn kinh nghiệm ứng phó. Ông đã khéo léo phối họp với triều đình Xiêm La cùng tổ chức đưa vua Ang Chan II trở về Cao Miên, khôi phục vương quyền, khiến cả người Xiêm La và người Cao Miên đều phải tâm phục khẩu phục.
Sách Xiêm La sự tích ghi chép về cuộc hồi hương này của vua Ang Chan II vào tháng 4 năm Quý Dậu (1813) như sau: Vua Gia Long “xuống chiếu ra lệnh cho quan trấn giữ Gia Định Thành là Lê Văn Duyệt và Ngô Nhơn Tĩnh điều động nhiều thuyền chiến đưa Nặc Ong Chân về nước. Xiêm sai Phi nhã Ma A Ha Mặc dẫn phái đoàn sứ giả của Xiêm đi theo”. Cao Miên sự tích cho biết “quan giữ thành Gia Định dẫn hơn 10.000 binh thuyền, hẹn kết hợp cùng người Xiêm đưa Chân về nước”. Đại Nam thực lục ghi chép lực lượng hộ tống bao gồm hơn 13.000 quân.
Trong cuốn sách Le Royaume du Cambodge (Vương quốc Campuchia) xuất bản ở Paris (Pháp) năm 1883, Jean Moura khảo cứu các tài liệu của Việt Nam, Campuchia và Thái Lan đã mô tả chi tiết đợt hoạt động quân sự vào năm 1813 này. Theo đó, vua Gia Long cử Lê Văn Duyệt chỉ huy một lực lượng hùng hậu gồm 2.000 quân đi trước mở đường, 20.000 quân đi cùng để hộ tống vua Ang Chan II về nước. Đoàn hộ tống khởi hành từ đầu tháng 5 năm Quý Dậu (1813), đến ngày 15 tháng 5 năm Quý Dậu thì đến Oudong. Tại đây, vua Ang Chan II được các quan lại triều đình Cao Miên chào đón và khôi phục địa vị, cũng không gặp bất cứ trở ngại nào từ phía Xiêm La. Jean Moura cho biết thêm: “Các viên tướng Xiêm bị bất ngờ về sức táo tợn và sức hành binh của người An Nam, nhất là họ thấy lực lượng của người An Nam đưa sang quá to lớn nên họ không dám chống cự lại”. Cuối cùng, Jean Moura đã tỏ ra đầy thán phục: “Chưa bao giờ có cuộc trở lại ngôi vua lại được tiến hành dễ dàng đến thế”.
Đợt hoạt động quân sự của vương triều Nguyễn ở Cao Miên vào năm Quý Dậu (1813) là một mũi tên đã bắn trúng ba đích ngắm. Thứ nhất, vua Gia Long không phải hao binh tổn tướng mà vẫn giúp đưa Ang Chan II trở lại ngôi vua Cao Miên, từ đó gia tăng vị thế của Việt Nam đối với Cao Miên. Thứ hai, với lực lượng quân đội hùng hậu được đưa sang Cao Miên, vua Gia Long cũng tỏ cho người Xiêm La thấy được phần nào sức mạnh quân sự cùa Việt Nam, đưa ra lời cảnh cáo ngầm trước những âm mưu chính trị và động thái quân sự của nước này. Thứ ba, như nhận định của Jean Moura đưa ra vào năm 1883 khi cho rằng “cuộc giành lại ngôi báu này đã làm cho Hoàng đế Gia Long nổi tiếng là người khôn khéo và cũng gây ảnh hưởng rất lớn cho ông trên tất cả các dân tộc ở miền Nam Đông Dương”, thông qua sự kiện này, thanh thế của vương triều Nguyễn đã vượt ra khỏi tầm của các quốc gia láng giềng để lan tỏa mạnh mẽ trong toàn khu vực.
Rút kinh nghiệm từ cuộc hành quân sang Cao Miên năm Canh Ngọ (1810), lần này, vua Gia Long cho đắp thành Nam Vang (nay thuộc Thủ đô Phnom Penh, Campuchia), dời vua Ang Chan n và triều đình Cao Miên từ thành La Bích về thành Nam Vang để kéo xa khoảng cách với Xiêm La; đồng thời, xây thành Lô Yêm để chứa lương thực, cung cấp tiền bạc, thóc lúa; cử Nguyễn Văn Thụy giữ chức Bảo hộ Cao Miên, chỉ huy hơn 1.000 quân đóng giữ thành Nam Vang, bảo vệ vua Ang Chan II. Sau đó, đại quân nhà Nguyễn rút về Gia Định, tiếp tục duy trì lực lượng thủy binh và bộ binh đóng giữ những khu vực quan trọng ở vùng biên giới Tây Nam. Đến tháng 7 năm Quý Dậu (1813), Xiêm La cũng bãi binh, rút khỏi Cao Miên. Với sự áp đảo về lực lượng quân sự và hoạt động binh bị, nhà Nguyễn đã khiến triều đình Xiêm La phải nhượng bộ frong van đề Cao Miên.
Trong khoảng 20 năm đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long đã giải quyết mối quan hệ Việt Nam - Cao Miên - Xiêm La một cách mềm dẻo, linh hoạt. Tuy nhiên, những hoạt động quân sự càng về sau càng kiên quyết, cứng rắn hơn đã cho thấy vị thế quốc gia trong khu vực ngày càng cao và tầm nhìn của vị vua mở đầu triều Nguyên trong vấn đề phòng thủ biên cương. Trong phần tổng kết cuộc đời của vị vua khai sáng triều Nguyễn, bộ chính sử triều Nguyễn là Đại Nam thực lục đã đánh giá về những đóng góp của vua Gia Long trong việc duy trì mối quan hệ với các quốc gia trong khu vực là “cẩn thận phòng nước Xiêm, yêu nuôi nước Cao Miên, vỗ về nước Vạn Tượng, uy danh lừng phương xa, nhân đức trùm nước nhỏ, quy mô cũng đã xa rộng lắm”.
| BÙI THỊ BÍCH NGỌC - ThS, Khoa Lịch sử, Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội NGUYỄN DUY ĐIỆP - Thiếu tá, ThS, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
|
Trung đoàn 141 - Đoàn Hoài Ân (Sư đoàn 3, Quân khu 1) được thành lập ngày 11/12/1950. Trải qua 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành (1950 - 2020), cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn luôn tuyệt đối với trung thành với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, nêu cao tinh thần đoàn kết, vượt qua khó khăn, gian khổ hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với danh hiệu đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân mà Đảng và Nhà nước trao tặng. Sau thắng lợi của Chiến dịch Biên Giới (Thu Đông 1950), Trung ương Đảng và Chính phủ ta chủ trương thành lập thêm những đơn vị chủ lực nhằm phát huy quyền chủ động chiến lược vừa giành được. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, ngày 11/12/1950, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký Quyết định số 64 QĐ/A thành lập Trung đoàn 141 tại thôn Đồng Quế, xã Xuân Trạch, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, gồm 3 Tiểu đoàn bộ binh 11, 428, 16. Đồng chí Nam Long được cử làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Anh Bảo làm Chính ủy. Vào thời gian này, Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy quyết định thành lập Đại đoàn bộ binh 312, bao gồm: Trung đoàn 209, Trung đoàn 141 (vừa thành lập) và Trung đoàn 165 (đang hoạt động tại mặt trận biên giới) và một số cơ quan, đơn vị trực thuộc.
Chỉ 15 ngày sau khi thành lập, trong đội hình Đại đoàn 312, Trung đoàn 141 nhận lệnh tham gia Chiến dịch Trung Du (Trần Hưng Đạo) và lập chiến công xuất sấc, tiêu diệt gọn 1 tiểu đoàn tinh nhuệ của địch ở Xuân Trạch (27/12/1950). Chiến thắng Xuân Trạch mở đầu trang sử vẻ vang của Trung đoàn 141. Tiếp đó, Trung đoàn 141 tham gia nhiều chiến dịch, như: Hoàng Hoa Thám (23/3 - 7/4/1951), Hòa Bình (10/12/1951 - 25/2/1952), Tây Bắc (14/10 - 10/12/1952). Đặc biệt, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ (13/3 - 7/5/1954), Trung đoàn 141 được Đảng ủy Đại đoàn 312 tin tưởng giao nhiệm vụ tiến công Cụm cứ điểm Him Lam mở màn chiên dịch(1). Những chiến công của Trung đoàn đã góp phẩn làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp ký Hiệp định Giơnevơ. Kết thúc Chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung đoàn 141 vinh dự được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì; nhiều cán bộ, chiến sĩ được tặng Huân chương Quân công và Chiến công cùng các danh hiệu, phần thưởng cao quý khác.
Sau Chiến dịch Điện Biên Phủ, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 141 trực thuộc Sư đoàn 312 (đổi tên gọi từ Đại đoàn 312) tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Trung đoàn đã tham gia xây dựng các công trình trọng điểm của quốc gia: Khôi phục tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn; công trình thủy nông Bắc Hưng Hải; nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo; nhà máy sứ Hải Dương; khu công nghiệp Việt Trì; khu gang thép Thái Nguyên; mỏ Apatít Lào Cai; nông trường Mộc Châu - Sơn La, Điện Biên...
Đầu năm 1966, Bộ Quốc phòng quyêt định điều động Trung đoàn 141 (Trung đoàn 141A) của Sư đoàn 312 vào hoạt động tại chiến trường miền Đông Nam Bộ; đông thời giao Sư đoàn 312 thành lập Trung đoàn 141 mới (Trung đoàn 141B).
Đầu năm 1968, Bộ Quốc phòng quyết định điều động Trung đoàn 141B (Sư đoàn 312) vào Nam chiến đấu, hoạt động tại chiến trường Khu 5, biên chế trực thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu 5 (1968 - 5/1970), sau chuyển sang trực thuộc Sư đoàn 2 (6/1970 - 6/1973), rồi Sư đoàn 3 - Sao Vàng (từ tháng 7/1973 đến nay). Trong quá trình hoạt động, Trung đoàn 141B thường xuyên có mặt tại những địa bàn trọng điểm, như: Thừa Thiên Huế, Quảng Nam - Đà Nang, Quảng Ngãi, Đường 9 - Nam Lào, lập nhiều chiến công xuất sắc. Từ tháng 7/1973 đến tháng 3/1975, Trung đoàn phối hợp chặt chẽ cùng lực lượng vũ trang và Nhân dân địa phương chiến đâu giữ vững vùng giải phóng huyện Hoài Ân (tỉnh Bình Định) và từ đây vinh dự được mang tên “Đoàn Hoài Ân”. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Trung đoàn tham gia giải phóng Phan Rang, Bà Rịa - Vũng Tàu. Quá trình xây dựng, chiến đấu, chiến thắng của Trung đoàn 141 là quá trình mỗi cán bộ, chiến sĩ góp sức xây đắp nên truyền thống tự hào của đơn vị: “Đoàn kết - Anh dũng - Chiến thắng”. Với những thành tích đã đạt được, Trung đoàn 141 - Đoàn Hoài Ân vinh được Đảng, Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (8/9/1975). Nhiều tập thể, cá nhân cũng được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, quân và dân cả nước bước vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trung đoàn 141 trong đội hình Sư đoàn 3 được Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tham mưu điều động về làm lực lượng cơ động trực thuộc Quân khu 3(1976- 1978), Quân khu 1 (từ 1978 đến nay), thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, làm nòng cốt xây dựng thế trận quốc phòng vững mạnh trên địa bàn. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc (1979), Trung đoàn 141/Sư đoàn 3 là một trong những đơn vị làm nhiệm vụ tuyến đầu, phòng ngự trên hướng chù yếu tại Mặt trận Lạng Sơn. Được sự chi viện của cấp trên (Sư đoàn 3 và Quân khu 1), sự hỗ trợ phối hợp của các đơn vị bạn cùng sự giúp đỡ của cấp ủy, chính quyền, Nhân dân địa phương, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 14Ỉ đã anh dũng chiến đấu, góp phần bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.
Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, Trung đoàn 141 - Đoàn Hoài Ân là đơn vị chủ lực đủ quân thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đâu và cơ động chiến đấu theo mệnh lệnh của Sư đoàn 3/Quân khu 1, đồng thời thực hiện tốt nhiệm vụ phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ... và các nhiệm vụ đột xuất khác. Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn không ngừng phát huy truyền thống đơn vị Anh hùng, đoàn kết, khắc phục khó khăn, chủ động sáng tạo, tự lực tự cường, có bản lĩnh chính trị vững vàng tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tỗ quốc và Nhân dân. Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn đã quán triệt, thực hiện tốt Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 87 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Tích cực đồi mới nâng cao chất lượng huấn luyện và khả năng sẵn sàng chiến đấu, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc, quan điểm, phương châm huấn luyện sát thực tế chiến đấu; thực hiện huấn luyện đi đôi với rèn luyện kỷ luật, xây dựng nếp sống chính quy, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội. Những năm qua, phong trào thi đua xây dựng “Môi trường văn hóa”; phong trào xây dựng, quản lý doanh trại chính quy “Sáng - Xanh - Sạch - Đẹp”; phong trào “Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy” và Cuộc vận động “Quản lý, khai thác vũ khí trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông” đạt kết quả tốt. Triển khai thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua “Đoàn Hoài Ân chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Đoàn Sao Vàng chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau”. Hằng năm, Trung đoàn tổ chức từ 5 đến 6 lượt đại đội hành quân dã ngoại làm công tác dân vận, tham gia xây dựng nông thôn mới, xây dựng địa bàn, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nơi đóng quân. Tiêu biểu, đơn vị đã tham gia làm đường giao thông nông thôn, giúp đỡ các gia đình chính sách trên địa bàn các xã: Quyết Thắng, Hòa Lạc, Hữu Liên của huyện Hữu Lũng (Lạng Sơn); Bằng Mạc, Thượng Cường, Lâm Sơn, Nhân Lý, Chi Lăng của huyện Chi Lăng (Lạng Sơn). Bên cạnh đó, Trung đoàn cũng tổ chức thực hiện có hiệu quả các mô hình “Chi bộ 4 tốt, 3 không”, “Ba đề cao, năm chống”, “Chuyện tốt ở Đại đội”, “Lá thư từ Sư đoàn 3 Sao Vàng” góp phần giữ vững trận địa chính trị tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ.
Công tác xây dựng Đảng luôn được chú trọng, nguyên tắc lãnh đạo được giữ vững, kết hợp chặt chẽ xây dựng rèn luyện đội ngũ đảng viên với đội ngũ cán bộ, xây dựng tổ chức Đảng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng không ngừng được nâng cao. Hằng năm, các tổ chức Đảng đều đạt trong sạch vững mạnh và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; Trung đoàn được Thủ trưởng Sư đoàn 3, Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Quân khu 1 ghi nhận là một trong những đơn vị tiêu biểu trong thực hiện Phong trào Thi đua quyết thắng; nhiều năm liền được Thủ tướng Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Quân khu khen thưởng, công nhận là “Đơn vị huấn luyện giỏi”, “Đơn vị vững mạnh toàn diện”, “mẫu mực, tiêu biểu”. Với những thành tích đã đạt được, năm 2010, Trung đoàn được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba.
Những năm tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực còn có nhiều diễn biến mới phức tạp, khó lường. Bên cạnh xu thế hòa bình, hợp tác phát triển thì cạnh tranh chiến lược, xung đột cục bộ, sắc tộc, tôn giáo vẫn có thể diễn ra. Suy thoái kinh tế thế giới có thể kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng. Các thách thức an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu (như đại dịch COVID-19) và Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục tác động mạnh mẽ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ nhằm chống phá cách mạng nước ta. Cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng diễn ra ngày càng quyết liệt. Tình hình trên đặt ra những vấn đề mới, đòi hỏi Trung đoàn phải tập trung lãnh đạo nâng cao toàn diện chất lượng huấn luyện, sức mạnh tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu. Thực hiện Nghị quyết số 28, Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) về “Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn phát huy truyền thống đoàn kết tốt, nỗ lực khắc phục khó khăn, quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và Quân đội giao phó. Trước mắt, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, thường xuyên quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Quân khu và Sư đoàn; cụ thể hóa bâng các chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chương trình, kế hoạch đúng đắn, sát hợp trên từng lĩnh vực công tác, từng nhiệm vụ cụ thể. Triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, coi trọng chất lượng, mang lại hiệu quả thiết thực.
Hai là, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Trung đoàn lần thứ XI (nhiệm kỳ 2020 - 2025) đã đề ra, tập trung thực hiện tốt 3 khâu đột phá: 1. Nâng cao chất lượng huấn luyện toàn diện, khả năng sẵn sàng chiến đấu và xử trí kịp thời các tình huống; 2. Tạo sự chuyển biến vững chắc trong rèn luyện kỷ luật, xây dựng chính quy và bảo đảm an toàn đơn vị; 3. Đề cao trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp.
Ba là, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống đơn vị, truyền thống Quân đội cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ; giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; quyết tâm phấn đấu xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện mẫu mực, tiêu biểu, xứng đáng với truyền thống của Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.
Chào mừng Kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Trung đoàn 141 - Đoàn Hoài Ân Anh hung (11/12/1950 - 11/12/2020), 76 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2020), hướng đến chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, cán bộ, chiến sĩ toàn đơn vị tiếp tục kế thừa, phát huy truyền thống vẻ vang, ra sức học tập, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chiến đấu, sẵn sàng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; thiết thực góp phần xây dựng Sư đoàn, xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
| LÊ THANH TÙNG Thượng tá, Chính uỷ Trung đoàn 141, Sư đoàn 3. Quân khu 1 |
Cuba là một quốc gia nằm ở vùng biển Caribê, án ngữ lối vào vịnh Mexico, giữa Bắc, Trung và Nam Mỹ. Mặc dù cách xa nhau nửa vòng trái đất, nhưng Việt Nam và Cuba đã "tìm thấy nhau” ở nhiều điểm tưong đồng. Trong những năm Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng với tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em” Đảng, Chính phủ và Nhân dân Cuba đã dành cho Việt Nam sự giúp đỡ to lớn cả về vật chất và tinh thần. Tấm lòng đó được thể hiện qua câu nói nổi tiếng của Fidel Castro: “Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”. Vượt qua những khó khăn, thử thách của chiến tranh, bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), cách mạng Việt Nam và Cuba phải đối mặt vói muôn vàn khó khăn do chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ. Tuy nhiên, với mối quan hệ thủy chung vốn có, hai dân tộc vẫn trước sau như một, như Chủ tịch Fidel Castro từng khẳng định: “Quan hệ giữa chúng ta ngày càng tốt đẹp, phải nói rằng chưa bao giờ có chuyện không vui giữa chúng ta. Quan hệ giữa Cuba và Việt Nam là quan hệ tốt nhất, còn cao hơn quan hệ hữu nghị và nói chung là quan hệ gia đình, chúng ta là anh em trong những giờ phút khó khăn nhất. Còn hiện nay, chúng ta là những người anh em ruột thịt”.
Sự gắn kết thủy chung, son sắt giữa hai dân tộc được đánh dấu bằng sự kiện ngày 2/12/1960, Cuba và Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Kể từ đây, mối quan hệ toàn diện giữa hai nước không ngừng được củng co và phát triển.
Trong những năm Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ở Cuba đã hình thành phong trào Nhân dân Cuba đoàn kết, ủng hộ sự nghiệp cách mạng của Nhân dân Việt Nam. Phong trào đó “Giống như những dòng sông nhỏ, phát sinh từ những vùng đất xa nhau và trong một thời gian dài phải trải qua bao thác ghềnh... để rồi cho đến một ngày kia chúng nhập vào dòng sông lớn và hùng vĩ của cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa đã làm cho những người cộng sản Việt Nam và Cuba xích lại gần nhau hơn thông qua những chuyên thăm cấp cao giữa hai đảng, hai chính phủ. Từ ngày 29 đến ngày 31/10/1966, Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Cuba do Tổng thống Osvaldo Dorticos Torrado dẫn đầu thăm hữu nghị Việt Nam. Trải qua 7 phiên họp, hai bên đã chia sẻ cho nhau những chủ trương, đường lối chiến lược, sách lược rất cơ bản của cách mạng hai nước. Đặc biệt là chuyến thăm của Thủ tướng Fidel Castro tới tuyến lửa Quảng Bình, Quảng Trị (9/1973). Tại đây, khi tận mắt chứng kiến những hậu quả chiến tranh, sự tàn phá ác liệt của bom đạn Mỹ, Fidel Castro đã trăn trở phải làm cái gì đó cho Việt Nam. Ông xúc động: “Làm sao có thể biện bạch cho những tội ác đó? Làm sao có thể giải thích rằng chúng đã rải trên khắp cánh đồng Việt Nam những quả mìn giết người ở những nơi mà dù đứng ở góc độ nào hoặc phương diện nào mà xét thì những chỗ đó cũng không hề là mục tiêu quân sự... Ông khẳng định: “Tình đoàn kết của chúng ta, sự ủng hộ của chúng ta, niềm tin của chúng ta đối với Nhân dân Việt Nam và ban lãnh đạo Việt Nam là vô điều kiện và tuyệt đối”. Ngày 17/9/1973, Việt Nam - Cuba ra Tuyên bố chung thể hiện sự nhất trí giữa hai Đảng, hai Nhà nước, theo đó Nhân dân Cuba kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh của Nhân dân Việt Nam trong giai đoạn mới. Sau chuyến thăm Việt Nam, tinh thần, tư tưởng của đồng chí Fidel Castro đã truyền cảm hứng và tác động mạnh mẽ tới Nhân dân Cuba, tạo ra hoạt động ngoại giao Nhân dân giữa hai nước phát triển, trở thành phong trào đoàn kết hữu nghị, ủng hộ và giúp đỡ nhau hết sức có hiệu quả, góp phần to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng mỗi nước. Cuba dành hẳn một kênh của đài phát thanh phát chương trình tiếng Anh (6 buổi/ tuần) để tuyên truyền cho Nhân dân khu vực Bắc Mỹ và vùng biển Caribê hiểu rõ bản chất cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ. Trong những năm chiến tranh, Cuba đã tặng Việt Nam nhiều mặt hàng thiết yếu như thuốc chữa bệnh, đường, bông nhân tạo, dây thừng (Henne quen) để neo đậu tàu, thuyền (mặt hàng rất quý hiếm lúc bấy giờ). Nếu không có nguồn viện trợ này, Việt Nam sẽ phải bỏ ra một lượng ngoại tệ khá lớn để mua từ các nước tư bản.
Bên cạnh sự giúp đỡ bằng vật chất, Cuba còn đưa hàng trăm bác sĩ, kỹ sư, công nhân cùng nhiều máy móc hiện đại sang giúp Việt Nam xây dựng cơ sở hạ tầng như bệnh viện, trường học, bưu điện, đường sá, nông trường... Nhiều đoàn cán bộ cấp cao và chuyên gia quân sự Cuba sang thăm và làm việc tại Việt Nam. Đã có những bác sĩ Cuba anh dũng hy sinh khi thực hiện nhiệm vụ cứu chữa thương, bệnh binh ở chiến trường. Những con tàu Cuba bất chấp bom đạn và phong tỏa của Mỹ vẫn mang hàng cứu trợ tới Việt Nam, trong đó nhiều thủy thủ Cuba đã anh dũng hy sinh. Cuba còn giúp Việt Nam phát triển khoa học kỹ thuật, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp như chăn nuôi bò sữa và gà công nghiệp. Sự giúp đỡ của Cuba đối với Việt Nam hoàn toàn vô tư, trong sáng trên tinh thần phát huy lợi thế của Cuba để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của Việt Nam. Thậm chí có lúc Cuba đã viện trợ quá khả năng của mình. Trong giai đoạn 1961 - 1975, Cuba viện trợ giúp ta là chính. Thực tế, Cuba đã nhiều lần xóa nợ mậu dịch cho Việt Nam.
Sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của Đảng, Nhà nước và Nhân dân Cuba đối với Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là vô cùng quý giá. Đáp lại tình cảm của Nhân dân Cuba, đồng thời cũng thể hiện lòng biết ơn đối với Đảng, Nhà nước, Nhân dân Cuba anh em, đồng chí Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã thăm chính thức Cuba (7/1972) và sau đó là chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng (3/1974). Những chuyến viếng thăm cấp cao của đại diện Đảng, Chính phủ hai nước là những mốc quan trọng trong quá trình phát triển mối quan hệ, để hai nước thống nhất về quan điểm, lập trường, tích cực ủng hộ nhau tại các diễn đàn trong nước, khu vực và quốc tế... đồng thời thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa hai nước ngày càng toàn diện.
Sau khi Việt Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975) và bắt tay vào công cuộc xây dựng CNXH, Cuba vẫn chịu sự bao vây, cấm vận cùa Mỹ. Mặc dù vậy, vượt lên bao khó khăn, tình đồng chí, anh em của những người vô sàn lại tiếp tục được vun đắp trong những điều kiện, hoàn cảnh mới. Đảng, Chính phủ và Nhân dân hai nước luôn xác định mối quan hệ chính trị tốt đẹp, thủy chung, trong sáng là tài sản vô giá cần được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, góp phần tích cực vào hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong giai đoạn 1985 - 1992, theo yêu cầu của Cuba, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cử nhiều lượt chuyên gia quân sự sang giúp Bộ Các lực lượng vũ trang cách mạng Cuba xây dựng hệ thống phòng thủ các cấp và huấn luyện bộ đội địa phương, dân quân tự vệ nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu cùa lực lượng vũ trang cách mạng Cuba.
Để thắt chặt tình đoàn kết của hai dân tộc, hai bên xác định cần tăng cường hơn nữa các cuộc tiếp xúc cấp cao thường xuyên giữa lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước nhằm trao đổi kinh nghiệm; tiếp tục hợp tác chặt chẽ về quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác và phối hợp trên các diễn đàn quốc tế, đa phương, nhất là diễn đàn tại Liên hợp quốc; đẩy mạnh hoạt động ngoại giao Nhân dân góp phần làm cho Nhân dân hai nước hiểu nhau hơn nữa, đoàn kết chặt chẽ và ùng hộ nhau trong sự nghiệp cách mạng chung; giáo dục thế hệ trẻ về tình đoàn kết giữa hai dân tộc, từ đó ý thức được trách nhiệm của mình trong việc giữ gìn và phát triển truyền thống giữa hai nước...
Thực hiện các mục tiêu trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước, các chuyến thăm, làm việc của lãnh đạo cấp cao cũng như các đoàn đại biểu của các bộ, ngành tiếp tục được triển khai. Tháng 4/1985, Bộ trưởng Ngoại giao Cuba, ông Isidoro Malmierca Pcoli thăm Việt Nam, sau đó là chuyến thăm của Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Juan Almeida Bosque vào tháng 12/1985. Tháng 9/1987, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Antonio Rodnguez chính thức sang thăm Việt Nam. Về phía các nhà lãnh đạo Việt Nam có chuyến thăm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (12/1975), sau đó là chuyến thăm của đồng chí Xuân Thủy, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương (1978); Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh (1982); Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng Tố Hữu (1984); Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Chủ nhiệm ủy ban Kế hoạch Nhà nước Võ Văn Kiệt (1985), đặc biệt là chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (4/1989)...
Có thể nói, từ năm 1975 đến năm 1991, những chuyến thăm và hội đàm giữa các đoàn đại biểu cấp cao của hai nước chủ yếu là thảo luận và tìm giải pháp tăng cường hợp tác toàn diện giữa hai nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh, nhưng chủ yếu là kinh tế và văn hóa, xã hội.
về kinh tế: Hai bên tích cực trao đổi thương mại thông qua việc xuất, nhập khẩu các hàng hóa phục vụ đời sống dân sinh. Mặt hàng chủ lực của Cuba xuất sang Việt Nam là đường (trung bình 70.000 tấn/năm). Việt Nam xuất sang Cuba các loại hàng hóa: gạo, đỗ các loại, than đá, xe đạp, săm lốp xe đạp, quạt điện, đồ nhựa.
Về văn hóa, giáo dục, y tế: Hai bên tăng cường các đoàn nghệ thuật biểu diễn, trao đổi các loại sách báo, trao đổi kinh nghiệm hoạt động văn hóa nghệ thuật, cử cán bộ mỗi nước sang học tập lẫn nhau. Đặc biệt, lĩnh vực y tế là thế mạnh của Cuba, nên Bạn đã giúp Việt Nam những tài liệu chuẩn hóa về thuốc, về công nghiệp dược và sản xuất thuốc kháng sinh...
Đến cuối những năm 80, đầu 90, thế kỷ XX, một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ đã làm đảo lộn cục diện đời sống chính trị - kinh tế quốc tế. Ở Cuba, từ tháng 10/1990, kinh tế, chính trị lâm vào khó khăn do chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ. Bên cạnh đó, sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, đặc biệt là sự tan rã của Liên Xô, đã tác động rất lớn đến đời sống kinh tế, chính trị của Cuba. Trước những khó khăn đó Cuba phải tuyên bố “Thời kỳ đặc biệt trong hòa bình”. Ở Việt Nam, cuối những năm 80 của thế kỷ XX đã tiến hành đổi mới và bước đầu đạt được những thành tựu, nhưng đất nước vẫn còn nhiều khó khăn...
Bất chấp mọi biến động chính trị, kinh tế, Cuba và Việt Nam vẫn luôn sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH. Trong bối cảnh quốc tế mới, lãnh đạo và Nhân dân hai nước tiếp tục thắt chặt tình đoàn kết, hữu nghị, quan tâm tăng cường hợp tác, phát huy thế mạnh, tiềm năng để mang lại lợi ích thiết thực cho công cuộc xây dựng và phát triển ở mỗi nước. Trên tinh thần đó, từ năm 1991 đến nay, hai bên đã có nhiều đoàn cấp cao sang thăm lẫn nhau.
Về phía Cuba, các đoàn lãnh đạo cấp cao sang thăm Việt Nam như: Chù tịch Fidel Castro (12/1995 và 2/2003), Bộ trưởng Ngoại giao R.Robaina (3/1999), chuyến thăm của Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Carlos Lage (12/1999), Bộ trưởng Ngoại giao Pilipe Petez Roque (2/2001; 4/2007), Phó Chủ tịch Raul Castro (4/2005), Chủ tịch Quốc hội Ricado Alarcon de Quesada (6/2007), Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bruno Rodriguez Parrilla (12/2009), Joaquin Quintas Sola, Thứ trưởng Bộ Các lực lượng vũ trang cách mạng Cuba (9/2012)...
Về phía Việt Nam có các chuyến thăm của Thủ tướng Võ Văn Kiệt (6/1993), Chủ tịch nước Lê Đức Anh (10/1995), Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu (7/1999), Chủ tịch nước Trần Đức Lương (4/2000; 11/2004), Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình (2001), Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Tấn Dũng (12/2001), Thủ tướng Phan Văn Khải (10/2002), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (8/2003; 3/2006), Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (3/2004; 6/2007)... Đặc biệt, chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (4/2018), đồng chí đã thay mặt Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam tuyên bố xóa nợ cho Cuba.
Những chuyến thăm cấp cao giữa hai nước là nguồn cổ vũ động viên mới, tô thắm thêm truyền thống hữu nghị sắt son, thủy chung và mở ra những triển vọng tốt đẹp cho quan hệ ngoại giao hai nước, đặc biệt là quan hệ thương mại và hợp tác viện trợ của Việt Nam cho Cuba. Trước những khó khăn của Bạn trong tình hình mới, mỗi năm Việt Nam bán hữu nghị cho Cuba 100.000 tấn gạo và là bạn hàng cung cấp gạo ổn định cho Cuba. Trong các chuyến thăm Cuba của đoàn cán bộ cấp cao, Việt Nam đã tặng Bạn hàng nghìn tấn gạo và nhiều vật chất khác... Mối quan hệ nghĩa tình trước sau như một của Cuba - Việt Nam, Việt Nam - Cuba đã được Thủ tưởng Võ Văn Kiệt khẳng định: “Giờ đây trong lúc khó khăn của CNXH, Việt Nam và Cuba vẫn gan bó thủy chung trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp cách mạng của mỗi nước và vì CNXH. Đó là tình đoàn kết chỉ có thể có được giữa hai dân tộc cách mạng, giữa hai đảng trung thành vô hạn với chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH”; Chủ tịch Quốc hội Cuba cũng khẳng định: “Trong mọi hoàn cảnh, Cuba luôn có Việt Nam, vì chúng ta là đồng chí, chúng ta là anh em”. Hiện nay, trong quan hệ thương mại, Việt Nam xuất sang Cuba chủ yếu là gạo, dệt may, giày dép, máy tính, đồ điện tử, gỗ và cà phê. Tính đến tháng 1/2018, Việt Nam trở thành đối tác thương mại lớn thứ hai ở châu Á đầu tư vào Cuba, sau Trung Quốc, giao thương giữa hai nước vượt quá 500 triệu đôla Mỹ.
Bên cạnh quan hệ kinh tế, chính trị xã hội thì quan hệ quốc phòng - an ninh giữa hai nước cũng được coi trọng. Trên cơ sở kế thừa mối quan hệ quốc phòng, an ninh trong các giai đoạn trước đây, hai nước cũng cử các đoàn cán bộ cấp cao của Bộ Quốc phòng để hội đàm những vấn đề về xây dựng lực lượng vũ trang; các biện pháp thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai bộ quốc phòng và các vấn đề quốc tế mà hai bên cùng quan tâm. Đặc biệt, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã trao đổi với Bạn những kinh nghiệm về tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội; kinh nghiệm về chiến tranh Nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; kinh nghiệm liên quan đến các vân đề phòng chống các loại tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, cùng nhau chia sẻ thông tin, hợp tác phòng chống tội phạm xuyên quốc gia và khủng bố quốc tế. Hiện nay, quan hệ hợp tác quân sự, quốc phòng giữa hai nước tiếp tục được thúc đẩy. Trên cơ sở thỏa thuận từ những cuộc gặp gỡ cấp cao giữa lãnh đạo Bộ Quốc phòng hai nước, các cơ quan, đơn vị Bộ Quốc phòng hai bên đã phối hợp triển khai đúng, đủ các nội dung trong những Nghị định thư ký kết về Hợp tác quốc phòng song phương, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị Việt Nam - Cuba đi vào chiều sấu, thiết thực và hiệu quả.
Sự tương đồng về chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, về vai trò lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng Cộng sản Cuba và Đảng Cộng sản Việt Nam làm cho hai nước tự nguyện thiết lập quan hệ, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau một cách bình đẳng cùng có lợi. Nhân dịp Kỷ niệm 30 năm ngày thành lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Cuba, Đại diện lâm thời Cuba, bà Maria Micacla Ramirez khẳng định: “Ngày nay cũng như ngày hôm qua, hai dân tộc của Jose Marti và Fidel và của Chủ tịch Hồ Chí minh mãi mãi đoàn kết bên nhau bởi sự gắn bó lịch sử và bởi những nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản và quốc tế, sẽ tiếp tục cùng nhau đấu tranh và chia sẻ thăng lợi tiến tới một tương lai tươi sáng, tiến tới việc xây dựng thắng lợi hoàn toàn CNXH và chủ nghĩa cộng sản”. Niềm tin vào sự tất thắng của CNXH sẽ là nguồn động lực để hai nước mãi mãi “vừa là đồng chí, vừa là anh em”.
| NGUYỄN VĂN LƯỢNG Đại tá, TS, Trưởng phòng Kế hoạch, quản lý khoa học và đào tạo, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam |
Đầu năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết, nhưng chính quyền Sài Gòn vẫn ngang nhiên, ráo riết thực hiện kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ", đẩy mạnh bình định lấn chiếm. Mặc dù chưa có chủ trương của trên về tiến công quân sự, nhưng với nhãn quan chính trị, nhận định, đánh giá đúng tình hình, tinh thần trách nhiêm cao, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, Tư lệnh Quân khu Lê Đức Anh cùng tập thể Khu ủy Khu 9 đã kiên quyết lãnh đạo, chỉ huy quân và dân Quân khu 9 chiến đấu ngoan cường, đánh bại 75 tiểu đoàn địch hành quân lấn chiếm Chương Thiện cùng với kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ" của chúng. Đây là chiến công đặc biệt xuất sắc của đồng chí Lê Đức Anh. Vớí chiến công này cùng những thành tích trước đó, ngày 16/4/1974, đồng chí Lê Đức Anh và tập thể Khu ủy Khu 9, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 và quân, dân đồng bằng sông Cửu Long được Chủ tịch nước thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng. Tạp chí Lịch sử quân sự trân trọng trích, giới thiệu hồi ký "Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng" của đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh.
Hiệp định Paris công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam chính thức được ký kết ngày 27/1/1973, có hiệu lực từ 7 giờ ngày 28/1/1973. Ngày 29/3/1973, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam làm lễ cuốn cờ về nước. Hiệp định qui định quân Mỹ rút, các lực lượng vũ trang còn lại của “hai bên Việt Nam” ở nguyên tại chỗ. Như vậy, ta đã đánh bại âm mưu “phân tuyến” của đối phương, bộ đội ta không phải “tập kết” ra một nơi (như Hiệp định Genève 1954), mà ngược lại, ta duy trì trên chiến trường thế xen kẽ “da báo”, một thực trạng rất có lợi cho ta, bất lợi cho địch.
Quân và dân ta rất phấn khởi khi Hiệp định Paris được ký kết. Nhưng sau khi Hiệp định được ký kết, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước của chúng ta diễn ra thật lạ, có thể nói đó là những ngày “dở trăng dở đèn”. Tôi nhớ lúc ấy, từ Trung ương, từng kiện tài liệu gửi vào Nam hướng dẫn, phổ biến các qui định, các hình thức thực hiện hòa hợp dân tộc, thống nhất nước nhà. Trên các làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam hầu như lúc nào cũng hát vang bài Đường chủng ta đi rất đỗi tự hào, phấn chấn và ngân vang bài thơ Việt Namỉ Máu và Hoa với những câu đầy ấn tượng: “Mặt đất bình yên giấc trẻ thơ”, “Đã tắt hôm nay lửa chiến trường”... Nhưng thực tế, không hề có lấy một phút “tắt lửa chiến trường” và máu của đồng bào, chiến sĩ ta ở miền Nam chưa có một phút ngừng rơi. Khi ta lấy được tài liệu mật của địch và qua theo dõi các động thái của chúng, ta càng thấy rõ âm mưu phá hoại Hiệp định của địch. Những kẻ cầm quyền hiếu chiến trong chính giới Mỹ và chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn thấy rằng, tuy Mỹ phải rút quân, nhưng quân đội Sài Gòn còn 1,1 triệu với 13 sư đoàn chủ lực, lại được Mỹ viện trợ tối đa về quân sự và kinh tế nên vẫn nuôi ảo vọng sẽ thắng ta bằng chiến lược “Vỉệt Nam hóa chiến tranh”. Bởi vậy, nếu theo văn bản Hiệp định thì 7 giờ sáng 28/1/1973, hai bên ngừng bắn, nhưng chính ngày đó Tổng thống chính quyền Sài Gòn công khai tuyên bố trong diễn văn của mình là “Ngừng chiến, không ngừng bắn, không thi hành Hiệp định Paris!”; và Thiệu đã gào thét chỉ đạo cấp dưới tiếp tục hành quân bình định, tiếp tục đánh và giết, tiếp tục kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”.
Ngày 29/1/1973 (24 giờ sau ngừng bắn), Bộ Tư lệnh Quân khu 9 họp đánh giá địch ngoan cố tiếp tục chiến tranh và chỉ thị các đơn vị kiên quyết đánh địch vi phạm Hiệp định. Ngày 2/2/1973, Thường vụ Khu ủy xác định: “Địch không thi hành Hiệp định, ta phải tiếp tục chiến đấu giữ vững thành quả, trước mắt phải kiên quyết trừng trị địch vi phạm Hiệp định”.
Từ sau tháng 1/1973, Mỹ ký Hiệp định Paris, phải rút hết quân Mỹ, quân chư hầu ra khỏi miền Nam, nhưng âm mưu cơ bản của chúng là vẫn tiếp tục dùng chính quyền và quân đội Sài Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, tiếp tục chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt, làm tay sai cho Mỹ.
Địch không thi hành những điều khoản trong Hiệp định không có lợi cho chúng, mà tiếp tục “một kiểu chiến tranh mới” - “lấn chiếm” và “bình định” - bằng quân đội và chính quyền Sài Gòn với viện trợ và cố vấn Mỹ để kiềm chế ta hòng giành thắng lợi cuối cùng. Chỉ trong một thời gian ngắn, Mỹ đã viện trợ ồ ạt cho Sài Gòn(1), tăng nhanh quân số và phòng vệ dân sự, đồng thời Mỹ duy trì một lực lượng không quân, hải quân răn đe ở Đông Nam châu Á. Chúng tiến hành các cuộc hành quân lấn chiếm, bình định theo kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” hòng xóa thế trận chiến tranh nhân dân xen kẽ của ta, đẩy lực lượng ta ra khỏi vùng đồng bằng đông dân...
Sau khi ký Hiệp định Paris, ta chủ trương đẩy mạnh và kết hợp các hoạt động chính trị, quân sự, ngoại giao, đấu tranh buộc địch phải thi hành các điều khoản đã ký. Lúc đàu chủ trương đó là đúng, nhưng trong quá trình Mỹ và chính quyền Sài Gòn công khai, trắng trợn phá hoại Hiệp định, trong chỉ đạo của ta có ý nhấn sách lược trước mắt là cố gắng đưa cách mạng miền Nam tiến lên bằng con đường hòa bình. Tuy nhiên, có những đồng chí lãnh đạo khi giải thích ở một số chiến trường còn quá nhấn mạnh “giữ vững hòa bình là nhiệm vụ trung tâm số một hiện nay”.
Một số ý kiến chỉ đạo không đúng đó lại được phổ biến xuống cơ sở khi trên chiến trường ta đang có nhiều khó khăn về thực lực (tổn thất năm 1972 chưa kịp bổ sung sau thời gian chiến đấu liên tục...). Thực tế ấy đã làm cho một số nơi chần chừ, để địch lấn chiếm, bình định, ta mất dân, mất đất. Chỉ sau vài tháng thi hành Hiệp định, thực tế chiến trường đã bộc lộ ngày càng rõ ý đồ và hành động phá hoại của địch cũng như sơ hở và tổn thất của ta. Tháng 5/1973, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cùng các đồng chí lãnh đạo chiến trường đã kịp thời nhận định tình hình mới và thống nhất chủ trương mới: Trong khi địch đang dùng hành động quân sự đánh ta, ta cần kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đấu tranh pháp lý... không phòng ngự đơn thuần... tiến công quân sự của ta bằng phản công.
Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương còn nghiêm khắc kiểm điểm: Vì sao từ đầu năm 1973, quân Mỹ đã rút ra, lực lượng địch trên chiến trường đã giảm một bộ phận quan trọng cả về bộ binh và binh chủng kỹ thuật, mà địch vẫn giành được chủ động tiến công, ta phải bị động đối phó, có nơi mất đất mất dân như vậy?. Đó là do ta có khuyết điểm chứ không phải do địch mạnh... lúc đầu ta đánh giá không hết khả năng thực hiện âm mưu của địch... lại thiếu chủ trương nhất quán từ đầu về vị trí, nội dung của tiến công quân sự. Địch tiến công mà ta cứ ngồi yên, có nơi còn rút lui, thì rõ ràng là địch mạnh lên, mà ta yếu đi...
Ngày 2/2/1973, tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Vùng 4 chiến thuật quân đội Sài Gòn, phổ biến cho các sĩ quan thuộc quyền trong cuộc họp kín tại cần Thơ: “Trên hòa bình, dưới chiến tranh; ngoài hòa hợp, trong bình định” và đề ra chỉ tiêu đến ngày 26/3/1978 phải chiếm hết những vùng đất ở miền Tây Nam Bộ. Cùng lúc, chính quyền Thiệu công khai ban hành luật phát xít, như: Xừ bắn những ai công khai hoan hô hòa bình, xử bắn lính bỏ trốn, bỏ tù các gia đình có con đi lính bỏ trốn, cấm tụ tập bàn tán hòa bình, cấm đi lại vùng giải phóng... Chúng ráo riết thực hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, cắm cờ giành đất, giành dân trong 48 giờ trước khi Hiệp định có hiệu lực, đồng thời đẩy mạnh bình định lấn chiếm. Kế hoạch bình định ở trọng điểm Tây Nam Bộ, năm 1978 của địch gồm ba đợt: Đợt 1, bình định lấn chiếm Chương Thiện; đợt 2, bình định lấn chiếm u Minh; đợt 3, bình định lấn chiếm Cà Mau.
Riêng kế hoạch bình định lấn chiếm Chương Thiện, chúng chia làm hai bước: Bước 1, từ tháng 2 đến tháng 5/1973 lấy lại các vùng đã mất trước khi có Hiệp định và lấn chiếm các vùng quan trọng nhất; bước 2, I từ tháng 6 đến tháng 10, tiếp tục thực hiện I kế hoạch bình định năm 1973 ở những nơi chưa làm được.
Vì sao địch chọn Chương Thiện làm trọng điểm bình định đột phá?
Chương và Thiện là tên người thân cùa Trần Lệ Xuân (vợ của Ngô Đình Nhu). Ngô Đình Diệm quyết định thành lập ra cái tỉnh mới “Chương Thiện” này và ngày 24/12/1960, Lâm Lễ Trinh, Bộ trưởng Nội vụ của Diệm làm lễ ra mắt tỉnh mới. Nhưng ý nghĩa không phải là cái tên mà ở vị trí của vùng đất này. Đây là vùng ruột các tỉnh Nam sông Hậu. Thị xã Vị Thanh là trung tâm tỉnh, gồm các huyện: Phụng Hiệp, Long Mỹ, Ngang Dừa (thuộc cần Thơ), Gò Quan và Giồng Riềng, Ngã Năm Vĩnh Thuận (thuộc Rạch Giá). Mỹ và chính quyền Sài Gòn đánh giá cao vị trí chiến lược của vùng này cả trước mắt cũng như lâu dài. Còn ta xác định đây là vùng đông dân (480.000 dân), nhiều lúa, địa bàn cơ động trọng yếu nằm giữa và giáp ranh các tỉnh: cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá và nối liền với hành lang biên giới - Đường 1C. Địa hình Chương Thiện phần lớn là ruộng chen lẫn vườn dọc theo kênh. Sông rạch đã chia cắt địa hình Chương Thiện thành nhiều khu vực. Ta đứng chân được ở Chương Thiện có nghĩa là làm chủ được địa bàn cơ động của cả miền Tây Nam Bộ gắn liền với Nam Bộ và Campuchia. Chính vì vị trí quan trọng của Chương Thiện nên trong suốt cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, ta và địch tranh chấp quyết liệt địa bàn này. Ngay từ giữa năm 1957, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tổ chức ra khu tập trung ấp chiến lược điển hình nhất ở Nam Bộ mà chúng gọi là “Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu”, đồng thời tổ chức “Biệt khu Ư Minh” đóng tại Vị Thanh. Diệm - Nhu cho rằng địa bàn này “tién khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”. Còn Nguyễn Văn Thiệu thì cho rằng “Sống là đây mà chết cũng là đây!”. Thị xã Vị Thanh luôn luôn là căn cứ của một trung đoàn chủ lực quân đội Sài Gòn. Địch chọn Chương Thiện còn có một lý do phụ khác là chúng quyết lấn chiếm lại vùng này vì ta mới “mở” trước khi có Hiệp định Paris.
Tôi nhớ lúc đó có ông già ở Hỏa Lựu đến tìm gặp Trung đoàn 1. Khi gặp tôi, ông nói: “Các chú không đánh thì nó không bao giờ chịu thi hành Hiệp định đâu. Các chú đánh đồn bốt nào, tui sẽ dẫn đường cho các chú”.
Âm mưu của quân thù đã rõ. Lòng dân cũng đã rõ. Tôi nghiệm ra một điều là trong đấu tranh cách mạng, đánh giá đúng tình hình địch - ta là yếu tố có ý nghĩa quyết định để từ đó đề ra đường lối, chủ trương phù họp. Ta muốn thi hành Hiệp định Paris nhưng địch không chịu thực hiện, ta phải đấu tranh bắt buộc chứng thi hành. Tuy nhiên, ta phải tính xem có thể bắt buộc chúng thi hành được không? Rút kinh nghiệm xương máu khi thi hành Hiệp định Genève 1954, Mỹ - Diệm đã công khai tuyên bố không thừa nhận Hiệp định, chúng dùng súng đạn để đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng của Nhân dân ta, thẳng tay tàn sát những người yêu nước, nhưng ta vẫn sử dụng biện pháp đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định nên đã bị tổn thất lớn. Tình hình này kéo dài suốt sáu năm trời. Vì vậy, khi tôi đề xuất ý kiến, Khu ủy đã hoàn toàn nhất trí chủ trương phải phát huy thắng lợi của Hiệp định Paris, huy động sức mạnh tổng họp để trừng trị quân địch vi phạm Hiệp định.
Ngày 28/1/1973, Hiệp định Paris có hiệu lực. Theo qui định, hai bên ngừng bắn tại chỗ, nhưng thực tế chiến tranh vẫn tiếp diễn trên khắp đồng bằng sông Cửu Long. Quân đoàn 4, Quân khu 4 địch tiếp tục nổ súng tiến công lấn chiếm, tiếp tục kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, tăng cường phản kích với mức độ đánh phá, càn quét ác liệt hơn trước. Tại vùng trọng điểm Chương Thiện, địch tổ. chức lấn chiếm quyết liệt ở Tây Vị Thanh và Đông Bắc Long Mỹ.
Đầu tháng 3/1973, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 xác định nhiệm vụ trung tâm của Quân khu là: Phá kế hoạch bình định, buộc địch phải thực hiện Hiệp định. Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu đã điện xin ý kiến của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Trung ương Cục, về mặt quân sự xin ý kiến của Bộ Chỉ huy Miền; đồng thời quyết tâm đẩy mạnh phong trào tiến công và phân công trừng trị quân địch vi phạm Hiệp định Paris; trước mắt đẩy lùi và làm thất bại kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, lấn chiếm và bình định Chương Thiện của chúng... chúng tôi quyết định triển khai theo kế hoạch mà Khu ủy đã thông qua. Ta đã biết rõ địch, nay phải đề cao cảnh giác, kiên quyết không để mất đất, mất dân; đẩy mạnh binh vận làm tan rã địch; vừa tuyên truyền thắng lợi của Hiệp định, vừa củng cố và phát triển lực lượng, sẵn sàng đánh trả trong khuôn khổ Hiệp định cho phép nếu địch tiến công. Phải luôn chủ động đánh địch để bảo vệ Hiệp định. Chủ trương nghị quyết này đã được phổ biến cho các tỉnh và các ngành trong Quân khu.
Giữa tháng 3/1973, địch mở cuộc hành quân cấp quân đoàn với lực lượng 30 tiểu đoàn, tổ chức đội hình thành nhiều cánh, đồng loạt đánh vào Tây Nam Long Mỹ. Chúng dự kiến trong vòng 7 ngày lấn chiếm xong các mục tiêu qui định và hình thành tuyến ngăn chặn từ Ngang Dừa đến Vĩnh Chèo, bịt cửa u Minh, đẩy ta ra khỏi Chương Thiện. Các đơn vị của ta đã bố trí triển khai đánh địch từ xa đến gần, thực hiện chia cắt từng cánh quân địch.
Trung đoàn 10 ngăn chặn và đẩy lùi cánh quân địch tiến công ở Giao Đu. Trung đoàn 1 tiêu diệt 1 tiểu đoàn (thuộc Trung đoàn 16, Sư đoàn 9), chặn cánh quân lấn chiếm Lái Hiếu. Bộ đội địa phương, du kích và các cơ quan Quân khu chặn mũi địch lấn chiếm khu vực Khuông Ninh, Rọc Dứa. Quân địch chỉ đóng được đồn ở kênh thứ 13 nhưng bị đánh khựng lại, không thực hiện được tuyến ngăn chặn Ngang Dừa - Vĩnh Chèo. Pháo binh Quân khu bắn chìm 3 tàu tên sông Cái Lớn, đặcj công đánh chìm 5 tàu tại bến Gò Quan. Bộ, đội ta thực hiện áp sát các chi khu Long Mỹ, Ngang Dừa, Giồng Riềng làm công tác binh vận phân hóa quân chủ lực và bảo an dichj Các chị, các mẹ dùng xuồng ba lá chèo vàoj đồn bốt kêu gọi binh lính địch bỏ ngũ. Nhiều má vừa nhủ vừa chất vấn: “Hòa bình rồi, tụi bay lại đánh nhau là sao? Bộ không thích về đoàn tụ với vợ con ba má sao?”... Và khi lính rã ngũ thì các má, các chị chở họ về quê, Hên tục mỗi ngày ta đã làm rã ngũ hàng trăm tên.
Ta đánh đến ngày 20/4 thì các cánh quân của địch bị chặn đứng. Chúng chỉ đóng được hai đồn ở Phụng Hiệp, hai đồn ở Tây Nam Long Mỹ và một số chốt dã ngoại.
Cuối tháng 4/1973, địch điều thêm lực lượng bảo an vào Chương Thiện, đưa tổng số lên tương đương 46 tiểu đoàn để tiếp tục thực hiện kế hoạch bình định, lấn chiếm. Song, khi chúng tôi đang tổ chức đánh địch quyết liệt, thì Bộ Chỉ huy Miền ra Chỉ thị (số 02) nêu phương châm “lấy đấu tranh chính trị làm cơ sở, đấu tranh vũ trang làm hậu thuẫn...” và chỉ thị Quân khu 9 rút 2 trung đoàn về căn cứ u Minh để chỉnh huấn. Bộ Chỉ huy Miền còn hai lần điện yêu cầu T3 (mật danh Quân khu 9) phải thấy tình hình mới, phải có biện pháp mới và phê bình T3 không thi hành chủ trương của Trung ương Cục, đồng thời, thông báo cho toàn Miền.
Trước tình hình đó, anh Võ Văn Kiệt - Bí thư Khu ủy đã thống nhất với tôi, một mặt quyết đánh ghìm giữ địch ở Chương Thiện, không rút trung đoàn ở tuyến trước về; đồng thời triệu tập ngay cán bộ lãnh đạo và chỉ huy các tỉnh đội từ phía Nam sông Hậu, thông báo và lệnh cho các tỉnh tiếp tục thực hiện chủ trương của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 9, chờ lệnh mới. Tôi và anh Kiệt chủ trì phiên họp hỏa tốc với các tỉnh thông báo tình hình, nêu rõ chủ trương của Ban Thường vụ Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu. Hội nghị nhất trí cao hai nội dung: Một là, mệnh lệnh trên hết lúc này trong toàn Quân khu là kiên quyết phá bằng được âm mưu phá hoại Hiệp định Paris của Mỹ - Thiệu, không được để mất đất, mất dân, không có bất cứ mệnh lệnh nào cao hơn; hai là, Khu ủy và Quân khu chịu trách nhiệm trước cấp trên; các tỉnh phải chấp hành nghiêm mệnh lệnh của Quân khu và tư lệnh chiến trường.
Sau hội nghị, anh Kiệt xúc động nói với tôi: Trong tình hình nước sôi lửa bỏng mà ý kiến trên dưới lại thống nhất cao và nhanh như vậy, chứng tỏ cán bộ của các địa phương sâu sát với hơi thở cuộc sống ở chiến trường, đặc biệt họ có ý chí và lòng tin tuyệt đối với chỉ huy Quân khu...
Cuối tháng 5/1973, trên Miền có Hội nghị tổng kết công tác đấu tranh chính trị và binh vận. Đoàn Cán bộ tổng kết của Trung ương và Trung ương Cục nhắc nhở các nơi khác thực hiện “năm cấm” (cấm bao vây đồn bốt, cấm “gỡ” đồn bốt, cấm đánh địch bung ra, cấm pháo kích và cấm xây dựng ấp, xã chiến đấu). Cùng thời gian đó, Đoàn Đại biểu binh vận và thanh niên của Khu 9 đi R (Miền) dự hội nghị tiếp thu chủ trương của trên, Trung ương Cục cho phép về thẳng cơ sở phổ biến (không cần thông qua Ban Thường vụ Khu ủy), cho rằng, hiện tại lấy đấu tranh chính trị, binh vận làm gốc, nơi nào tiến công quân sự là sai lầm. Anh Trung, Khu ủy viên phụ trách công tác binh vận vừa đi họp trên Miền về...
Tôi tin tưởng rằng anh Phạm Hùng - Bí thư Trung ương Cục và Bộ Chính trị sớm muộn cũng nhận định được tình hình, sẽ xử lý đúng, nên trả lời anh Trung: “Được, anh cứ yên tâm đi!... Tôi phải đánh đã... Chủ trương này là của Khu ủy, anh cũng phải chấp hành!”.
Đến ngày 30/8/1973, tức là hết thời hạn đợt 2 lấn chiếm bình định U Minh, quân địch vẫn không chiếm được Chương Thiện, chưa đánh phá được U Minh. Vùng giải phóng Căn cứ U Minh của ta vẫn ổn định. Cục diện chiến trường chưa hề thay đổi theo ý đồ của chúng.
Bước hai của địch từ tháng 6 đến tháng 10/1973, chúng tiếp tục thực hiện mục tiêu cúa bước một, vì đợt 1 chúng chưa thực hiện được việc bình định lấn chiếm Chương Thiện. Một lần nữa, tháng 10/1973, địch vẫn không thực hiện được kế hoạch. Địch cay cú tập trung lực lượng đến 75 tiểu đoàn, chuẩn bị cuộc hành quân (tháng 11) đánh vào Chương Thiện. Cách đánh của chúng là dùng bom, pháo đánh ác liệt để dọn bãi cho trực thăng đổ cấp tập hàng nghìn quân xuống một lúc, càn quét, cày ủi địa hình kìm giữ dân, tiến hành đóng đồn bốt, kết hợp với các điểm dã ngoại, lấy đó làm điểm, làm bàn đạp để lấn chiêm loang dần ra.
Tháng 6/1973, địch đánh giá việc lấn chiếm Chương Thiện không phát triển được, nên tăng thêm 7 tiểu đoàn bảo an của các tỉnh Bến Tre, Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong, nâng tổng số đơn vị cấp tiểu đoàn lên đến 68 tiểu đoàn vào khu vực Chương Thiện. Các đơn vị trong Quân khu liên tục chiến đấu, diệt nhiều tiểu đội, trung đội địch. Tuy nhiên, đến ngày 30/8/1973, địch lấn chiếm được vùng Ba Hồ và tuyến sông Cái Bé, đồng thời đóng đồn ở vùng tuyến sông Cái Lớn, ngăn chặn đường hành lang vận chuyển thủy của ta từ u Minh lên phía trước. Tình hình đó gây cho ta nhiều khó khăn, các đơn vị phải hành quân mang vác bộ, đi vòng qua nhiều đồn bốt.
Tháng 7/1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 21 phân tích toàn diện tình hình và ra Nghị quyết về “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới”. Nghị quyết xác định: “Cách mạng miền Nam phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, nhưng phải căn cứ vào từng thời kỳ, hoàn cảnh cụ thể từng vùng, thậm chí từng cuộc đấu tranh mà vận dụng hình thức đấu tranh và chiến thuật tiến công hoặc phòng ngự một cách linh hoạt, sắc bén, đồng thời giữ vững và phát triển lực lượng về mọi mặt của ta,... làm cho lực lượng so sánh giữa ta và địch ngày càng thay đổi có lợi cho ta”. Hội nghị nhấn mạnh: “Cách mạng miền Nam có thể phải trải qua nhiều bước quá độ và chỉ có thể giành được thắng lợi bằng con đường bạo lực cách mạng: Tiến hành khởi nghĩa dựa trên lực lượng chính trị và lực lượng quân sự, hoặc là trong trường hợp chiến tranh lớn trở lại thì tiến hành chiến tranh cách mạng để giành thắng lợi hoàn toàn”.
Trung tuần tháng 8/1973, Khu ủy họp Hội nghị mở rộng để quán triệt tinh thần Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương. Hội nghị nhất trí với Trung ương về đánh giá tình hình và đề ra nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Cuối tháng 8/1973, Quân khu triển khai học tập tinh thần, nội dung Hội nghị lần thứ 21 đến cấp trung đoàn và các cơ quan Quân khu. Cán bộ rất phấn khởi vì thấy từ đây trên dưới nhất trí trong đánh giá tình hình và có phương hướng đúng đắn với cuộc cách mạng ở miền Nam. Các quân khu bạn được lệnh phản công. Ở Quân khu 9, một tình thế mới xuất hiện: Địch yếu đi, ta tiến công liên tục, không còn tình cảnh bị động đối phó như trước nhà.
Ngày 3/9/1973, tôi viết báo cáo gửi Bộ Tư lệnh Miền và Trung ương về tình hình của Quân khu trong tám tháng kể từ sau khi có Hiệp định Paris. Đánh giá tình hình chung, ở Quân khu 9, đồng bằng sông Cửu Long nói chung và có thể ở cả miền Nam, hoàn toàn không phải là xung đột vũ trang từng vụ, từng nơi. Địch cố tình gây căng thẳng để củng cố lực lượng, thực hiện âm mưu xóa bỏ từng phần tiến tới xóa bỏ hoàn toàn thành quả của cách mạng miền Nam. Để thực hiện âm mưu cơ bản đó, địch đã thực sự duy trì tình trạng chiến tranh, thực hiện chương trinh bình định trong điều kiện có Hiệp định hòa bình. Đem so sánh trạng thái chiến tranh đang diễn ra với thời kỳ “Chiến tranh cục bộ” thì thấp hơn nhiều, song so với thời kỳ “Chiến tranh đặc biệt” thi cường độ, chiều sâu, bề rộng và tính chất ác liệt hơn nhiêu. Thế nhưng quân địch không đủ khả năng mở rộng chiến tranh đồng thời ra khắp nơi, nên chúng thực hiện hòa hoãn ở nơi này, tập trung khả năng đánh nơi khấc... Chống sẽ không thi hành Hiệp định. Cứ nhừ vậy thì chiến tranh sẽ kéo dài trong tình hình bất lợi cho ta, địch sẽ lạm chủ được vùng nông thôn. Neu xảy ra như vậy thì ta phải mở lại mệt cuộc tiến công chiến lược như năm 1972, tổn thất xương máu sẽ nhiều hơn, mà cách mạng sẽ đâm chân tại chỗ mệt lân nữa, tình hình sẽ phức tạp hơn hồi năm 1968 - 1970. Nhận thức tình hình như vậy, tôi đề nghị lên trên:
1. Tình hình trước mắt vẫn có chiến tranh trong điều kiện có Hiệp định hòa bình. Nội dung chủ yếu của chiến tranh mà địch tiến hành là bình định lấn chiếm, giành dấn, giành đất, đánh phá lực lượng cách mạng, củng cố, xây dựng lực lượng phản cách mạng.
2. Hiện ở hầu hết vùng đồng bằng sông Cửu Long, địch đang dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, bằng biện pháp phát xít chiến tranh để đánh vào dân, kìm kẹp dân. Như thế sẽ khó thực hiện phương thức đấu tranh chính trị là chủ yếu, quân sự đánh có mức độ. Do đó, đề nghị phương châm chiến lược trước mắt ở chiến trường miền Nam là quân sự, chính trị kết hợp với pháp lý của Hiệp định. Đến khi nào địch chịu ngừng bắn về cơ bản thì sẽ thay đổi phương châm, về phương châm hành động hằng ngày, đề nghị thêm chữ tiến công để đủ nội dung tư tưởng cách mạng tiến công. Tiến công địch để giành dân, giành quyền làm chủ; giành dân, giành quyền làm chủ đề tiến công địch. Ở đồng bằng sông Cửu Long thêm hai chữ “giành đất”.
3. Về hướng tiến công, đề nghị hướng tiến công chủ yếu là vùng tranh chấp đông dân, nhiều của, kết hợp với thọc sâu chuyển biến vùng kim kẹp, kết hợp với giữ vững củng cố, xây dựng vùng giải phóng.
4. Về phương thức tiến công, đề nghị đánh nhỏ, đánh vừa, đánh để giành dân, lấn đất, chưa cần đánh nổi cộm, chưa cần mở chiến dịch tập trung nổi cộm, đồng thời chuẩn bị những chiến dịch lớn, những đợt tiến công lớn để khi cần thì tiến hành đánh thật đau.
5. Về đối tượng tiến công của ba thứ quân (gồm cả chủ lực cấp trên) là đánh thẳng vào quân kìm kẹp địa phương của địch, đánh thẳng vào cơ sở hạ tầng của địch, kết hợp với đánh tiêu diệt từng tiểu đoàn chủ lực, các đầu não chỉ huy và các kho dự trữ của địch đang trực tiếp hành quân. Đề nghị bố trí các binh chủng nặng như pháo binh, xe tăng... các đơn vị bộ binh dự bị ở trong vùng giải phóng, các trung đoàn và sư đoàn bộ binh đều chuyển ra vùng tranh chấp, vùng đông dân, thực hành kết hợp tác chiến, huấn luyện và binh vận, sản xuất cải tạo địa hình.
6. Về công tác binh vận, đề nghị lấy đánh vận động làm tan rã liên tục, làm cho thành phần binh sĩ địch liên tục không ổn định làm nội dung chủ yếu, kết hợp với kiên trì xây dựng cơ sở cách mạng trong quân đội địch để làm nòng cất cho binh biến khởi nghĩa trong tương lai.
7. Về lực lượng chính trị, đấu tranh chính trị trước mắt là đấu tranh bung về ruộng vườn, đấu tranh để chống bắt lính, đấu tranh chống vơ vét cướp bóc, đấu tranh để làm tan rã binh lính địch và thường xuyên phối hợp với lực lượng vũ trang đấu tranh để giành và giữ quyền làm chủ. Trên cơ sở đó, xây dựng, cùng cố từng bước lực lượng chính trị, chuân bị cho khởi nghĩa vũ trang và tiến hành vũ trang khởi nghĩa.
Những đề nghị trên đây cũng là nội dung chỉ đạo của Quân khu 9 trong phạm vi địa phương mình từ sau ngày 28/1/1973.
Đầu tháng 9/1978, địch vẫn tiếp tục kế hoạch bình định lấn chiếm. Lần này, chúng chỉ yêu cầu lấn chiếm Chương Thiện và phong tỏa U Minh. Trước hết là hòa hoãn với khu vực mới lấn chiếm ở vùng Ba Hồ, đồng thời mở mũi lấn chiếm xuống Tây Nam Long Mỹ. Cùng lúc, địch đề ra kế hoạch cướp lúa. Hai kế hoạch này chồng lên nhau, chúng gọi là “Kế hoạch Trần Khánh Dư”, về bố trí sử dụng lực lượng, địch vẫn duy trì Sư đoàn bộ binh 7 ở khu vực Tiền Giang, chủ yếu yểm trợ lấn chiếm Vùng 4 Kiến Tường, Sư đoàn 9 yểm trợ cướp lúa ở Bạc Liêu và Sóc Trăng, Sư đoàn 21 chịu trách nhiệm các tỉnh Chương Thiện, Rạch Giá và Cà Mau. Ở các vùng kìm và đô thị, chúng phát động chiến dịch gọi là “quét lá rừng” nhằm đánh phá cơ sở cách mạng và bắt lính.
Trên cơ sở nắm được ý đồ và kế hoạch của địch, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 quyết tâm đánh bại kế hoạch lấn chiếm và cướp lúa của chúng, về phương thức hoạt động, Quân khu chủ trương: Chống lấn chiếm kết hợp với chống cướp lúa, kiên định nguyên tắc bám trụ vững chắc kết hợp cơ động tiến công. Địa bàn trọng điểm của Quân khu vẫn là vùng ruột Hậu Giang (Chương Thiện). Các tỉnh phải hình thành cho được kế hoạch tiến công rộng khắp, căng kìm địch không để cho chúng dồn lực lượng về trọng điểm của Quân khu.
Trung tuần tháng 9, các trung đoàn đang tổ chức chỉnh huấn cho cán bộ trung, sơ cấp thì được tin địch hành quân lấn chiếm Tây Nam Long Mỹ và phong tỏa U Minh, thời gian có thể từ ngày 12 đến 15/9. Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định mở đợt tiến công địch. Đợt hoạt động bắt đầu từ Đoàn 10 tiến công đồn Chùa Miên và Xeo Chích (sát Tây Chi khu Ngã Năm). Hai ngày sau, địch đưa 2 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 16/Sư đoàn 9 và 1 chi đoàn thiết giáp đến giải tỏa. Cùng lúc, bộ đội địa phương huyện Thạnh Trị và du kích xã hoạt động mạnh ở vùng Mỹ Quới bao vây các đồn Láng Sơn, Mỹ Tho thuộc quân bảo an của Chi khu Ngã Năm đi giải tỏa. Tin tức các địa phương liên tiếp báo cáo về: Từ ngày 10 đến ngày 13/9, Tiểu đoàn 2 bộ đội địa phương tỉnh Sóc Trăng tiến công Căn cứ số 1, đánh Tiểu đoàn bảo an 428 đi cứu viện suốt máy ngày liền; sau đó, gài thế đánh một ưận phục kích, làm thiệt hại nặng Tiểu đoàn bảo an 428, buộc chúng phải băng đồng tháo chạy... Trung đoàn 15, Sư đoàn 9 địch phải đổ quân đối phó.
Cùng thời gian trên, chúng tôi lệnh cho Trung đoàn 1 tiến công mạnh khu vực Lái Hiếu và cho một bộ phận thọc sâu, lấn sát thị xã Vị Thanh, buộc địch phải đưa một tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 21 và một chi đoàn xe M113 lên chi viện cho Vị Thanh. Ở khu vực Giồng Riềng, do tác động của Trung đoàn 20, địch phải đưa Trung đoàn 31 Sư đoàn 21 và chi đoàn xe M113 đến giải tỏa. Các tỉnh trong quân khu đều tiến công căng kìm địch, làm cho kế hoạch lấn chiếm và cướp lúa của địch bị phá vỡ, chúng phải phân tán lực lượng đối phó với ta khắp nơi.
Tháng 10/1973, địch lại chuẩn bị hành quân ở Tây Nam Long Mỹ, đồng thời có một cánh quân đánh vào U Minh ở khu vực Nam sông Cái Lớn. Chúng tập trung đến các tuyến xuất phát hành quân như Hỏa Lựu, Gò Quao, Long Mỹ. Riêng tại Chi khu Gò Quao có đến 4 sở chỉ huy cấp trung đoàn.
Ngày 6/10/1973, địch chưa kịp hành quân thì Quân khu tập trung pháo đánh mạnh vào Chi khu Gò Quao, cả 4 sở chỉ huy đóng ở đây đều bị thiệt hại nặng, hư 1 tàu tại bến. Đêm sau, ta sử dụng đặc công đánh bồi lạm chìm 5 tàu nữa. Địch phải giải quyết hậu quả, đưa số còn sống sót và binh lính bị thương về Vị Thanh.
Trung đoàn 10 ở Tây Nam Long Mỹ tiến công diệt bốn đồn ở xã Vĩnh Thuận Đông (sát chi khu), đồng thời pháo kích, uy hiếp mạnh trung tâm hành qụân ở Chi khu Long Mỹ. Địch vội vã điều Trung đoàn 15 Sư đoàn 9 đang đối phó với ta ở Sóc Trăng về giữ Chi khu Long Mỹ. Trung đoàn 20 kìm chân địch ở tuyến sông Cái Bè, đánh 4 trận, tập kích liên tục vào Trung đoàn 9 thiết giáp, diệt 4 chi đoàn xe M113 và đánh thiệt hại nặng 2 chi đoàn khác (phá hủy 22 xe M113).
Một lần nữa, trong tháng 10/1973, địch vẫn không thể thực hiện được kế hoạch. Đầu tháng 11/1973, địch điều thêm lực lượng hải quân Trần Hưng Đạo số 44, từ căn cứ Cát Lái (Sài Gòn) tăng cường cho hải quân Vùng 4 chiến thuật; rút thêm nhiều tiểu đoàn bảo an ở các tỉnh Ben Tre, Gò Công, An Giang, Châu Đốc, nâng tổng số tiểu đoàn ở khu vực Chương Thiện lên đến 75 tiểu đoàn (75 tiểu đoàn và tương đương, kể cả các tiểu đoàn bộ binh, pháo binh, giang đoàn...) chuẩn bị cho cuộc hành quân tháng 11 đánh vào Chương Thiện. Ngoài ra, địch còn tăng thêm dự trữ đạn pháo vào U Minh, Sóc Trăng và Bạc Liêu. Quân khu 9 phải đương đầu với thử thách mới hết sức nặng nề và quyết liệt.
Ngày 6/11/1973, Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy họp, chủ trương: Phát huy thế chủ động và tư tưởng tiến công, kiên quyết bẻ gãy cuộc hành quân tháng 11 của địch, bảo vệ căn cứ, đồng thời tích cực chuẩn bị kế hoạch để chuyển sang tiến công trong mùa khô tới...
Dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh, các lực lượng vũ trang Quân khu 9 đã anh dũng chiến đấu. Điển hình là Trung đoàn 1, bộ đội ta đứng chân trên hai bờ kênh, hai bên là đồng trống, 1.000 quân đấu với trên 10.000 quân địch cộng với phi pháo, tàu thuyền, chất độc hóa học tăng cường. Lúc đó, tôi nói: Bom đạn ác liệt thế này, chết là chuyện thưởng, sống mới kỳ! về sau anh em cứ nhắc lại mãi câu này. Anh em đã dùng chiến thuật vận động là chủ yếu để đánh địch, kết hợp với quần chúng, các má, các chị làm binh vận, kêu gọi quân lính rã ngũ.
Khi địch dùng trực thăng đổ bộ cấp tập 15.000 quân xuống Ba Hồ (Giồng Riềng), Trung đoàn 20 chịu trách nhiệm hướng này, bị địch uy hiếp mạnh. Trung đoàn 20 đã tự rút lui, bỏ Ba Hồ, mặt trận này bỗng nhiên bị bỏ trống. Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu đã khiển trách Ban Chỉ huy Trung đoàn 20, ra lệnh và hướng kế hoạch cho trung đoàn trở lại bám địa bàn Ba Hồ. Trung đoàn 20 chỉ rút ra có mấy ngày mà trở lại rất khó khăn, gian khổ, nhưng trung đoàn vẫn thực hiện đúng kế hoạch. Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu ra lệnh cho tất cả lực lượng trên chiến trường toàn khu đẩy mạnh hoạt động, nhất là các cánh quân ở Lái Hiếu, Nam - Bắc sông Măng Thít thuộc Vĩnh - Trà... để hỗ trợ cho trọng điểm Chương Thiện nói chung, cho Trung đoàn 20 nói riêng.
Cuộc hành quân tháng 11/1973 của địch bi bẻ gãy hoàn toàn. Từ đây địch chấm dứt bình định lấn chiếm Chương Thiện.
ĐẠI TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH
Trong vòng 10 năm (1979 -1989), Quân Tình nguyên Việt Nam đã nỗ lực vượt qua vô vàn khó khăn để giúp quân và dân Campuchia đánh tan 200.000 quân Pôn Pốt, chặn đứng âm mưu quay trở lại chính trường của chúng, giữ vững và phát triển thành quả cách mạng. Nghĩa cử cao cả đó đã được Quốc vương, nhiều chính khách và Nhân dân Campuchia trân trọng, đánh giá rất cao. Trong sự kiện lịch sử đó, có công lao to lớn của Đại tướng Lê Đức Anh, Tư lệnh Quân Tình nguyện, Trưởng ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia. Nhân dịp Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Đại tướng Lê Đức Anh, Tạp chí Lịch sử quần sự trân trọng giới thiệu ký ức của hai nhân chứng lịch sử qua cuộc phỏng vấn bằng tiếng Khơme tại Vương quốc Campuchia, được thực hiện bởi nữ đạo diễn, nhà báo Lê Phong Lan.
Dư luận thế giới đã lên án gay gắt, trong thời gian dài nạn diệt chủng của tập đoàn phản động Pôn Pốt - lêng Xary. Nhưng mãi đến tháng 12/2011, trong phiên tòa quốc tế, những tên cầm đầu mới bị đưa ra xét xử với các tội danh: Diệt chủng, tội ác chống nhân loại, tội ác chiến tranh. Những tội ác đó đã nói lên sự thật về chế độ diệt chủng Pôn Pốt - lêng Xaiy trong gần bốn năm cầm quyền. Đồng thời, khẳng định việc Quân Tình nguyện Việt Nam phải chiến đấu nhiều năm trên chiến trường Campuchia là cần thiết, là sống còn để giúp Nhân dân Campuchia bảo vệ thành quả cách mạng của mình; tính chính nghĩa cũng như ý nghĩa to lớn của chiến thắng ngày 7/1/1979 đối với hai dân tộc Việt Nam và Campuchia.
Đại tướng Bu Thoong: Đồng chí Lê Đức Anh - “Kiến trúc sư” của thời đại mới Campuchia.
Những ký ức về Đại tướng Lê Đức Anh - người đồng chí, người bạn chung chiến hào năm xưa được Đại tướng Bu Thoong tái hiện tại ngôi nhà riêng bằng gỗ ấm áp của mình tại phường Beongkonseng, thành phố Banlung, tỉnh Ratanakiri. Rất rõ ràng, mạch lạc, Đại tướng Bu Thoong kể:
Tôi không thể nào quên quá khứ, bởi vì quá khứ đã để lại quá đỗi khổ đau. Cho dù là 30 năm, 50 năm hay 100 năm chăng nữa, Nhân dân Campuchia vẫn không thể nào quên quãng thời gian phải sống dưới chế độ diệt chủng. Trong những năm tháng đó, cá nhân tôi luôn khắc ghi hình ảnh Đại tướng Lê Đức Anh và các tướng lĩnh, sĩ quan, chiến sĩ Quân Tình nguyện, cán bộ chuyên gia Việt Nam đã giúp chúng tôi giải phóng, bảo vệ, xây dựng Campuchia được như ngày nay. Chúng tôi luôn coi Đại tướng Lê Đức Anh là “kiến trúc sư” của thời đại mới Campuchia.
Những ngày đầu sau khi Phnom Penh giải phóng, đất nước Campuchia chưa có bộ máy quản lý xã hội (dù chỉ ở mức cần thiết tối thiểu). Tình hình xã hội hỗn loạn, mọi người đều cảm thấy bất an, lo sợ. Tàn quân Pôn Pốt vẫn ẩn náu trong từng phum, sóc, phân tán ở vùng rừng núi hẻo lánh, ép người dân đi theo để làm bia đỡ đạn và chờ thời cơ chống phá cách mạng. Chúng còn được một số nước lớn cung cấp vũ khí trang bị, lấy khu vực biên giới Thái Lan làm chỗ đứng chân để tiến hành các hoạt động quân sự. Song, đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh đã đánh giá chính xác tình hình ở địa bàn, với tinh thần quốc tế vô sản cao cả, sự cố gắng tích cực cao nhất để đề ra phương châm, quyết sách, biện pháp tiến hành hoạt động và đấu tranh phù hợp. Đặc biệt, đồng chí đã chỉ đạo quyết liệt cho Quân Tình nguyện Việt Nam phải trực tiếp tham gia quản lý trật tự xã hội và vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện trên các chiến trường. Với sự cố gắng của đồng chí Lê Đức Anh và cán bộ, chiến sĩ Quân Tình nguyện, chỉ một thời gian ngắn, tình hình Campuchia đi vào ổn định, một cơ sở xã hội hoàn toàn mới, an toàn hơn được định hình trên nền tro tàn dưới thời diệt chủng.
Đồng chí Lê Đức Anh - Tư lệnh Mặt trận luôn là người đi đầu, gương mẫu để bộ đội noi theo. Đồng chí là chỉ huy nghiêm khắc với chính mình và cấp dưới. Mọi cơ sở, các chiến sĩ Campuchia và Việt Nam trên mọi địa bàn đều là thế trận của đồng chí Lê Đức Anh. Tôi không thể quên khi có cơ hội gần nhau, tôi được đồng chí Lê Đức Anh mời ăn cơm, cùng nghe báo cáo tình hình từ các chuyên gia, các mặt trận. Đồng chí Lê Đức Anh là cán bộ có tác phong giản dị, gần gũi, chan hòa trong cuộc sống, sinh hoạt; nhưng những lời nói của đồng chí Lê Đức Anh là lời của bài học, tư duy chiến lược của một vị tướng. Lúc đó, tôi không nghĩ mình sẽ làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nhưng được sự động viên của đồng chí Lê Đức Anh, của các đồng chí tướng lĩnh, Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam, của chuyên gia, tôi đã tin tưởng và mạnh dạn đảm nhiệm trọng trách lớn lao ấy. Quan điểm “Không ai có thể làm thay cuộc hồi sinh Campuchia, bảo vệ thành quả cách mạng Campuchia bằng người Campuchia...” và sự cương quyết, giúp đỡ chí nghĩa, chí tình của Đại tướng Lê Đức Anh cùng Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia đã khiến chúng tôi tự tin và nỗ lực hơn rất nhiều. Cán bộ, chuyên gia Việt Nam đã hỗ trợ chính quyền cách mạng non trẻ Campuchia xây dựng, bồi dưỡng được đội ngũ cán bộ trung thành, có phẩm chất, từng bước trưởng thành về năng lực lãnh đạo, chỉ huy, dần dần tự đảm đương nhiệm vụ và trở thành những cán bộ lãnh đạo cốt cán của Chính phủ Campuchia cho đến bây giờ.
Trước ngày rút quân về nước, các đơn vị Quân Tình nguyện Việt Nam vẫn tiếp tục đến các phum, sóc giúp người dân tạo dựng nơi ăn chốn ở, đào kênh mương canh tác, làm đường đi lại, khám chữa bệnh, cấp thuốc men, lương thực, dạy các cháu nhỏ học... như với đồng bào, người thân của mình. Quân Tình nguyện Việt Nam trở về nước, để lại phía sau họ là những đường phố, làng mạc đang hồi sinh, yên bình và tràn đầy sức sống, hình ảnh hoàn toàn đối lập với những đường phố, làng mạc từng được mệnh danh là “địa ngục trần gian” hay “cánh đồng chết” 10 năm trước, dưới bàn tay cai tộ bạo tàn của Pôn Pốt - lêng Xary trong 3 năm 8 tháng 20 ngày. Những ngày tháng sau đó, trên mặt trận ngoại giao, hình ảnh ngọn cờ độc lập dân tộc, trung lập, không liên kết và hòa bình của Chính phủ Campuchia nhanh chóng phát huy vị thế trên trường quốc tế, đánh dấu bước khởi đầu của kỷ nguyên phát triển mới trên đất nước Chùa Tháp chúng tôi...
Hình ảnh, dấu ấn và sự cống hiến của đồng chí Lê Đức Anh, các nhà lãnh đạo Việt Nam, cũng như các đồng chí lãnh đạo Campuchia: Samdek Hengsamrin, Samdek Cheasim, Samdek Hunsen... vẫn luôn trường tồn với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam và Campuchia. Thời gian qua đi, nhưng tình hữu nghị của hai nước chúng ta (Việt Nam và Campuchia) sẽ mãi trường tồn, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững của mỗi nước.
Đức Đại Tăng thống Samdek Tep Vong: “Tà Sáu” - Người dẫn đầu “Đội quân nhà Phật” sang cứu giúp đất nước Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng.
Một phỏng vấn khác được thực hiện tại chùa Unalom, Thủ đô Phnom Penh, với nhân vật có ảnh hưởng rất lớn, đại diện cho Giáo hội Phật giáo Campuchia - Samdek Tep Vong. Trong cuộc phỏng vấn, vị Đức Đại Tăng thống Vương quốc Camphuchia bày tỏ sự cảm kích, nghẹn ngào khi nhắc tới Việt Nam và Đại tướng Lê Đức Anh...
Tôi là người trực tiếp chứng kiến sự khổ đau xảy ra trên đất nước Campuchia dưới chế độ Pôn Pốt, khi mà cái ác gieo rắc sự đói khát, bệnh tật, chết chóc không từ một ai, từ nam phụ đến lão ấu, từ trí thức đến dân thường, sư sãi... Tín ngưỡng, tôn giáo bị băng hoại, chùa chiền, trường học thành đống hoang tàn. Đó là sự khổ đau tột cùng trong lịch sử dân tộc Campuchia, kéo theo cả sự khổ đau của Nhân dân Việt Nam. Trên thế giới này không biết bao nhiêu kẻ mạnh, kẻ giàu, nhưng khi người Campuchia kêu cứu, chỉ duy nhất có người bạn láng giềng Việt Nam xả thân đến giúp. Khi Quân Tình nguyện Việt Nam xuất hiện, chúng tôi cảm nhận sâu sắc trong đầu rằng, đó chính là Đội quân nhà Phật. Tà Sáu là người đã dẫn đầu “Đội quân nhà Phật” sang cứu giúp đất nước Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Chỉ có Việt Nam mới làm được việc đó. Kinh Phật dạy rằng: Giúp người khác cũng là giúp chính mình; cứu một mạng người, hơn xây mười tòa tháp. Chính phủ và Nhân dân Việt Nam thật nhân ái, cao cả và nghĩa khí.
Quân Tình nguyện Việt Nam được dẫn dắt bởi ngài Đại tướng Lê Đức Anh, đã luôn có ý chí mãnh liệt để cứu giúp Nhân dân Campuchia đứng lên từ tột cùng đau khổ, nhưng nhiều cán bộ, chiến sĩ đã không thể trở về với đất mẹ Việt Nam! Sự hy sinh cao cả của bộ đội Việt Nam mang ý nghĩa nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Tôi và các chư tăng, phật tử vô cùng yêu thương, quý trọng ngài Đại tướng, coi ngài như một vị thánh đến độ thế để chúng tôi tiếp tục được sống. Ngài Đại tướng là người đã “sinh ra vua sư TepVong lần thứ hai”. Ngài như người anh ruột, người thầy, người cha làm cho vua sư TepVong được trân quý, đất nước Campuchia có được vị thế trên trường quốc tế như hiện nay. Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chính phủ Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam, trong đó có Tà Sáu đã giúp Nhân dân, Chính phủ, Quân đội Campuchia thật sự vững mạnh, có thể tự đảm nhiệm sứ mệnh dân tộc của mình.
Đó là lương duyên, phúc lộc của vua sư TepVong, của đất nước Chùa Tháp. Có Việt Nam, có Tà Sáu, người Campuchia chúng tôi giữ vững được thành quả cách mạng để tập trung xây dựng hệ thống chính trị, phục hồi phát triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống Nhân dân, thực hiện công cuộc hồi sinh dân tộc.
Bằng những từ bi hỉ xả của nhà Phật, chúng ta hãy cầu chúc cho những cán bộ, chiến sĩ Quân đội của hai nước Việt Nam và Campuchia, những người đã xả thân minh vì việc nghĩa, được siêu thoát nơi niết bàn... Năm tháng trôi qua, Việt Nam và Campuchia chúng ta vẫn luôn coi nhau như anh em một nhà, tôn trọng, đùm bọc, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển thịnh vượng trên mọi lĩnh vực. Tình đoàn kết, hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam - Campuchia sẽ mãi mãi trường tồn...
Những ký ức của người Campuchia về Đại tướng Lê Đức Anh, người dẫn đầu “Đội quân nhà Phật” sang cứu giúp dân tộc Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng là những tư liệu quý giá. Qua đó, giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn diện về Đại tướng Lê Đức Anh, một vị tướng tài ba, một nhà lãnh đạo xuất sắc, một nhân cách đức độ, giản dị, gần gũi của Quân đội nhân dân Việt Nam, một chiến sĩ cộng sản chân chính đã để lại những dấu ấn quan trọng và tình cảm tốt đẹp với các quốc gia, cộng đồng quốc tế. Hoạt động cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh tại đất nước Chùa Tháp đã góp phần tích cực vào việc tăng cường quan hệ hữu nghị Việt Nam - Campuchia, đưa mối quan hệ giữa hai nước bước sang thời kỳ mới, với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, trên cơ sở luật pháp quốc tế và lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc, đồng thời góp phần tạo điều kiện để giữ vững hòa binh, ổn định, mối quan hệ bình đẳng, hữu nghị giữa các nước trong khu vực và trên thế giới.
| ĐỖ CÁC ĐÔNG Thượng tá, Viện Lịch sử quân sự Việt nam (Biên dịch từ tiếng Khơme) |