Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư, Bộ Quốc phòng được giao chủ trì phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Văn phòng Chủ tịch nước và Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế tổ chức Hội thảo khoa học: Đồng chí Lê Đức Anh với cách mạng Việt Nam và quê hương Thừa Thiên Huế nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Đại tướng - Chủ tịch nước Lê Đức Anh, tại chính quê hương ông vào ngày 30/11/2020. Ban tổ chức Hội thảo đã nhận được 87 bài viết, tham luận của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp và các nhà khoa học trong và ngoài quân đội.
Để phục vụ cho cuộc Hội thảo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp với Ban tổ chức mà trực tiếp là Viện Lịch sử quân sự Việt Nam thuộc Bộ Quốc phòng tổ chức biên tập các bài viết, tham luận xuất bản thành sách mang tiêu đề: Đồng chí Lê Đức Anh với cách mạng Việt Nam và quê hương Thừa Thiên Huế.
Căn cứ vào nội dung các báo cáo khoa học và cân nhắc thận trọng nhiều yếu tố, chúng tôi sắp xếp cuốn sách thành ba phần theo các chủ đề sau đây:
Phần thứ nhất: Những vấn đề chung, gồm Phát biểu khai mạc Hội thảo của lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Phát biểu chào mừng của lãnh đạo Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế, Phát biểu chỉ đạo của đồng chí Võ Văn Thưởng - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Báo cáo đề dẫn của lãnh đạo Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và các bài viết của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Đào Việt Trung và một số bài viết của các tướng lĩnh cao cấp, lãnh đạo Bộ Quốc phòng, của các nhà khoa học là lãnh đạo các viện nghiên cứu lớn: Viện Sử học Việt Nam, Viện Lịch sử Đảng, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam...
Nội dung các bài viết, các bài phát biểu trong phần chung này của cuốn sách nhất quán với phân tích, nhận định, đánh giá Đại tướng - Chủ tịch nước Lê Đức Anh là vị tướng trận mạc, người chỉ huy thao lược và quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước có tầm cỡ, có đóng góp lớn cả về chính trị, an ninh - quốc phòng và đối ngoại trong giai đoạn đầu đổi mới đất nước, phá thế bao vây cấm vận, quá trình Việt Nam chủ động bình thường hóa quan hệ với các nước lớn và gia nhập ASEAN.
Phần thứ hai: Đồng chí Lê Đức Anh trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là trọng tâm của cuốn sách, tập hợp các bài viết của các tướng lĩnh, sĩ quan quân đội lãnh đạo, chỉ huy các tổng cục, các cục, các quân khu, quân đoàn, các binh chủng, các mặt trận, các nhà trường và bài viết của một số nhà khoa học chuyên nghiên cứu về lịch sử chiến tranh, lịch sử quân sự, lịch sử kháng chiến của dân tộc ta.
Nội dung phần này phản ánh tương đối toàn diện, khá đầy đủ và có chiều sâu về cuộc đời hoạt động cách mạng của Đại tướng - Chủ tịch nước Lê Đức Anh, những đóng góp mang tầm lịch sử của ông cho đất nước.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu nước, ông đã sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1938, khi mới 18 tuổi, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau một thời gian hoạt động ở quê nhà, để tránh sự khủng bố của địch, theo chủ trương của tổ chức, ông bí mật vào Hội An rồi lên Đà Lạt, xuống Đông Nam Bộ hoạt động trong các đồn điền cao su gây dựng phong trào cách mạng và tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở vùng đất đỏ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Ngày 23/9/1945, kháng chiến Nam Bộ bùng nổ, ông được điều vào quân đội, lần lượt đảm nhiệm các chức vụ chỉ huy từ đại đội, chi đội, trung đoàn rồi được đề bạt làm Tham mưu trưởng Quân khu 7, Quân khu 8, Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn và cuối cùng là quyền Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp.
Sau Hội nghị Giơnevơ năm 1954, ông được phân công tập kết ra Bắc, lần lượt đảm trách các chức vụ Cục phó Cục Tác chiến, Cục phó rồi Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu. Năm 1963, ông được đề bạt làm Tổng Tham mưu phó Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên những cương vị được giao, ông có công lao lớn trong việc xây dựng quân đội, xây dựng các công trình phòng thủ miền Bắc để sẵn sàng đánh trả khi đế quốc Mỹ dùng không quân và hải quân ném bom, bắn phá miền Bắc nước ta.
Năm 1964, trước yêu cầu của chiến trường, từ miền Bắc, ông được điều động vào làm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam và liên tục ở chiến trường Nam Bộ cho đến ngày toàn thắng. Hơn 10 năm trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy chiến trường Nam Bộ đã bộc lộ rõ tài năng và sự quyết đoán, dám chịu trách nhiệm của ông đối với cấp trên, với đồng bào, đồng chí. Năm 1969, khi chiến trường Tây Nam Bộ gặp khó khăn chồng chất, ông được Quân ủy - Bộ Chỉ huy Miền điều động về làm Tư lệnh Quân khu 9 để từng bước khôi phục lại lực lượng vũ trang và phong trào cách mạng ở địa bàn sông nước rất ác liệt và gian khổ này.
Sau Hiệp định Pari tháng 01/1973, ông đã cùng Bí thư Khu ủy Khu 9 Võ Văn Kiệt kiên quyết không thực hiện lệnh “5 cấm chỉ” để giáng trả quân đội Sài Gòn khi chúng xé bỏ Hiệp định, tung quân “tràn ngập lãnh thổ” đánh phá ác liệt vùng giải phóng của ta. Quyết định dũng cảm và táo bạo sát đúng với thực tế chiến trường của hai ông sau này được Trung ương đánh giá rất cao. Năm 1974, ông được trở lại làm Phó Tư lệnh Miền để chuẩn bị cho những đòn quyết định giải phóng miền Nam. Trên cương vị này, ông trực tiếp chỉ huy, chỉ đạo chiến dịch đường 14 - Phước Long, giải phóng thị xã Phước Long, xem đây như đòn trinh sát chiến lược thăm dò sức chiến đấu của quân đội Sài Gòn và khả năng quân Mỹ có can thiệp trở lại miền Nam khi quân ta đánh lớn hay không. Chính thắng lợi của chiến dịch này đã giúp Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 - 1976.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ông là Phó Tư lệnh kiêm Tư lệnh Đoàn 232 đánh chiếm Sài Gòn từ hướng tây – tây nam và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, ông được điều động trở lại địa bàn Quân khu 9 làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu, là địa bàn đầu tiên dọc tuyến biên giới với Campuchia trừng trị bọn Pôn Pốt xâm lược, quét chúng ra khỏi biên giới đất liền và cả các hải đảo ở vùng biển Tây.
Tháng 6/1978, ông lại được tin cậy điều động trở lại Đông Nam Bộ giữ trọng trách Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7 để chuẩn bị cho những chiến dịch lớn trừng trị bè lũ Pôn Pốt - Iêng Xary, đẩy chúng ra khỏi biên giới và giúp bạn đánh đổ chế độ diệt chủng, cứu dân tộc Campuchia khỏi thảm họa diệt chủng. Tháng 6/1981, ông được bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia; gần 7 năm gắn bó với chiến trường này ông đã có công lao lớn chỉ huy bộ đội quân tình nguyện và các đoàn chuyên gia quân sự giúp nhân dân Campuchia hồi sinh, giữ vững thành quả cách mạng.
Tháng 12/1986, ông về Tổng hành dinh làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam và đến tháng 02/1987 giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trên cương vị là người lãnh đạo, chỉ huy cao nhất của quân đội, ông đã có quyết định táo bạo rút các đơn vị chủ lực về tuyến hai, đưa bộ đội địa phương, dân quân du kích và bộ đội biên phòng lên tuyến một làm cho tình hình biên giới dịu đi. Ông cũng là người chủ trương trình Bộ Chính trị sắp xếp thế bố trí chiến lược của toàn quân, giảm quân số thường trực từ 1,5 triệu xuống còn 45 vạn, đỡ gánh nặng cho nền kinh tế, nâng cao đời sống cán bộ, chiến sĩ. Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ông chỉ đạo bộ đội hải quân tăng cường phòng thủ, mở rộng trú đóng trên các đảo đá chìm, giữ vững chủ quyền biển, đảo trên quần đảo Trường Sa và thềm lục địa phía Nam. Với tư duy sắc sảo của mình, ông được Bộ Chính trị giao trọng trách thăm dò và trực tiếp tiến hành nhiều công việc hệ trọng xúc tiến bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc, từng bước đưa đất nước gia nhập ASEAN.
Tháng 9/1992, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX, ông được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 1992 - 1997. Trên cương vị Nguyên thủ quốc gia, ông đã cùng Tổng Bí thư Đỗ Mười, Thủ tướng Võ Văn Kiệt và tập thể Bộ Chính trị lãnh đạo, điều hành đất nước vượt qua giai đoạn hiểm nghèo khi các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô lần lượt sụp đổ, tan rã, kiên định con đường đổi mới để tiến lên.
Phần thứ ba: Đồng chí Lê Đức Anh với quê hương Thừa Thiên Huế gồm một số bài viết của các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thừa Thiên Huế và Bí thư Huyện ủy Phú Lộc; cuối cùng là bài viết của đồng chí Lê Mạnh Hà, con trai của Đại tướng Lê Đức Anh. Đây là các bài viết rất sâu và xúc động về quê hương, gia đình, dòng họ của Đại tướng, tình cảm sâu nặng của ông với quê hương và của quê hương với người con ưu tú của mình.
Có thể nói, cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Lê Đức Anh với 99 tuổi đời, hơn 80 năm tuổi Đảng lần đầu tiên được nghiên cứu khá công phu, nghiêm túc trên nhiều chiều cạnh, qua Hội thảo khoa học lần đầu tiên về ông sẽ giúp ích rất nhiều cho các nhà nghiên cứu trong và ngoài quân đội về lịch sử cách mạng của dân tộc, cũng như những đóng góp của ông đối với cách mạng Việt Nam.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 11 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương, Văn phòng Chủ tịch nước và Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế!
Kính thưa các đồng chí lão thành cách mạng, các đồng chí tướng lĩnh, sĩ quan và đại diện gia đình Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh!
Kính thưa quý vị đại biểu, các nhà khoa học, cùng toàn thể các đồng chí!
Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh (01/12/1920 - 01/12/2020), hôm nay, Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Văn phòng Chủ tịch nước và Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế tổ chức Hội thảo khoa học: “Đồng chí Lê Đức Anh với cách mạng Việt Nam và quê hương Thừa Thiên Huế”.
Thay mặt Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Ban Chỉ đạo Hội thảo, tôi nhiệt liệt chào mừng các đồng chí đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, quý vị đại biểu, cùng toàn thể các đồng chí về dự cuộc Hội thảo quan trọng này. Chúc các đồng chí mạnh khỏe và thành đạt; chúc Hội thảo thành công tốt đẹp.
Kính thưa các đồng chí!
Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh (bí danh Nguyễn Phú Hòa, còn gọi là Chín Hòa, Sáu Nam), sinh ngày 01/12/1920 tại làng Trường Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương giàu truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng, thấu hiểu sự nghèo đói, lam lũ của người dân lao động cùng khổ dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến, đồng chí Lê Đức Anh đã sớm giác ngộ tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1937 và trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) khi mới 18 tuổi (năm 1938).
Hơn 80 năm hoạt động cách mạng không mệt mỏi, vượt qua bao cam go, thử thách khốc liệt của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dù ở bất kỳ cương vị công tác, điều kiện, hoàn cảnh nào, đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh luôn giữ vững ý chí, phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản, “hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”; không ngừng rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, sáng tạo, sắc sảo, quyết đoán và hành động quyết liệt trong mọi công việc, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, đồng chí Lê Đức Anh đã hoạt động trong các hội Ái Hữu tại Hội An, Đà Lạt, Lộc Ninh, Thủ Dầu Một và các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh, Quản Lợi, Xa Can, Xa Cát. Đầu năm 1945, đồng chí được giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng trung kiên trong các nghiệp đoàn, chuẩn bị đấu tranh võ trang. Đặc biệt, tháng 8/1945, đồng chí đã lãnh đạo công nhân cao su và đồng bào dân tộc ở Hớn Quản và Bù Đốp khởi nghĩa giành chính quyền thành công. Sau đó, đồng chí tham gia quân đội, bắt đầu cuộc đời binh nghiệp. Những năm đầu hoạt động cách mạng sôi nổi với bao khó khăn, thử thách đã tôi rèn đồng chí Lê Đức Anh trở thành người cộng sản, chiến sĩ cách mạng kiên trung của Đảng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc ta.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), đồng chí lần lượt đảm nhiệm các chức vụ từ cấp đại đội, chi đội, trung đoàn, đến Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8, Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn; Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Đồng chí đã bám sát thực tiễn, vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm, đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa bàn, theo phương châm “Dựa vào dân mà chiến đấu”, đã giành nhiều thắng lợi quan trọng trong các chiến dịch, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), đồng chí được Đảng giao các chức vụ: Cục phó Cục Tác chiến; Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu; Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam; Tư lệnh Quân khu 9; Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân hướng Tây - Tây Nam đánh vào Sài Gòn. Trên các cương vị, với tư chất của một nhà chỉ huy quân sự mưu lược, quyết đoán và dũng cảm, đồng chí đã tham gia hoạch định và tổ chức thực hiện thành công nhiều kế hoạch tác chiến chiến lược, như: cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968); cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Qua thực tiễn chiến trường, đồng chí đã tỏ rõ là một tài năng quân sự, nhà tham mưu chiến lược tài ba của Đảng và quân đội.
Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí đảm nhiệm các trọng trách: Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia; Trưởng ban lãnh đạo Đoàn Chuyên gia tại Campuchia; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương); là Ủy viên Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, VII và VIII; Bí thư Trung ương Đảng khóa VII; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa V, VI, VII và VIII; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ tháng 9/1992 đến tháng 12/1997); Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng (từ tháng 12/1997 đến tháng 4/2001); đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII và IX.
Trước những biến động phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực, đồng chí đã cùng Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân và nền quốc phòng toàn dân, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc, làm tròn nhiệm vụ quốc tế, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đồng chí cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước đề ra và chỉ đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đưa đất nước đạt được những thành tựu to lớn, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội; đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện, quốc phòng, an ninh được giữ vững và củng cố, mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Kính thưa các đồng chí!
Cuộc Hội thảo hôm nay là một trong những hoạt động kỷ niệm lớn, có ý nghĩa thiết thực của đất nước, quân đội trong năm 2020. Kết quả Hội thảo sẽ góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ nâng cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và lòng tự hào, tự tôn dân tộc; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xứng đáng là lực lượng nòng cốt cùng toàn Đảng, toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Với ý nghĩa sâu sắc đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội thảo khoa học “Đồng chí Lê Đức Anh với cách mạng Việt Nam và quê hương Thừa Thiên Huế”.
Trân trọng cảm ơn các đồng chí!
Trung tướng NGUYỄN TÂN CƯƠNG
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước!
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương; các tướng lĩnh, sĩ quan và đại diện lãnh đạo các tỉnh, thành phố!
Kính thưa các nhà khoa học!
Kính thưa quý vị đại biểu!
Hôm nay, chúng tôi rất vui mừng được đón tiếp các vị lãnh đạo, khách quý, các nhà nghiên cứu đã về tham dự Hội thảo khoa học “Đồng chí Lê Đức Anh với cách mạng Việt Nam và quê hương Thừa Thiên Huế”. Thay mặt lãnh đạo tỉnh, tôi xin được gửi đến quý vị đại biểu cùng toàn thể các đồng chí lời chào mừng nồng nhiệt, lời chúc sức khoẻ, hạnh phúc và thành công.
Kính thưa quý vị đại biểu!
Thừa Thiên Huế - vùng đất “địa linh nhân kiệt”, có bề dày lịch sử, văn hóa và truyền thống cách mạng vẻ vang. Nhiều người con ưu tú của quê hương đã trở thành những chiến sĩ cộng sản trung kiên, cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Trong đó, Đại tướng Lê Đức Anh - nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - là tấm gương sáng ngời về người chiến sĩ cộng sản kiên trung, bất khuất; suốt đời cống hiến, hy sinh vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học tại xã Lộc An, huyện Phú Lộc; lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, chứng kiến và thấu hiểu sự nghèo đói, lam lũ của người dân dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, phong kiến; với lòng yêu nước nồng nàn, đồng chí Lê Đức Anh đã sớm giác ngộ cách mạng và hăng hái tham gia hoạt động phong trào ở địa phương. Năm 18 tuổi, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, đồng chí đã được Đảng và Nhà nước giao giữ nhiều vị trí quan trọng: Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8, Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn; Quyền Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ; Tư lệnh Quân khu 9; Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh; Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Chỉ huy trưởng Tiền phương Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia; Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng khoá VII; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa V, VI, VII, VIII; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ tháng 12/1997 đến tháng 4/2001; Đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII và IX.
Trong quá trình tham gia cách mạng, đồng chí Lê Đức Anh đã hoạt động ở nhiều vùng, nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực, trải rộng trên cả ba miền đất nước và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia; được Đảng tin cậy giao phó nhiều trọng trách. Dù ở đâu, làm công việc gì, ở cương vị nào, đồng chí Lê Đức Anh cũng luôn hết lòng vì Đảng, vì dân; vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Là vị lãnh đạo tài ba, quyết đoán và dũng cảm, đồng chí Lê Đức Anh đã có những đóng góp quan trọng vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945; cùng với các đồng chí trong Quân ủy, Bộ Tư lệnh Miền hoạch định và tổ chức thực hiện thành công nhiều kế hoạch tác chiến chiến lược, như: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968; Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và Cuộc Tổng tiến công chiến lược năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đặc biệt, trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, đồng chí Lê Đức Anh đã trực tiếp chỉ huy chiến trường và giành nhiều thắng lợi quan trọng, góp phần bảo vệ biên giới thiêng liêng của Tổ quốc, cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và hồi sinh đất nước.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc, năm 1974, đồng chí Lê Đức Anh được Chủ tịch nước ký quyết định thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng. Năm 1980, đồng chí được thăng quân hàm từ Trung tướng lên Thượng tướng và lên Đại tướng vào năm 1984.
Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với vai trò Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí đã cùng Quân ủy Trung ương tham mưu cho Đảng, Nhà nước vận dụng đúng đắn đường lối chính trị, quân sự của Đảng, từng bước xây dựng kế sách giữ nước một cách toàn diện, củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện.
Trên cương vị Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều quyết sách quan trọng trong công tác đối nội, đối ngoại, góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, quốc phòng, an ninh được giữ vững và củng cố. Đồng chí đã góp phần quan trọng trong quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, nổi bật là quá trình xúc tiến việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ và Trung Quốc; ký kết nhiều hiệp định, điều ước quốc tế, để lại những dấu ấn quan trọng và tình cảm tốt đẹp với các quốc gia, cộng đồng quốc tế.
Phát triển từ trong phong trào yêu nước, trưởng thành từ một người lính, thấu hiểu hơn ai hết những mất mát, hy sinh để có ngày toàn thắng, đồng chí đã đề xuất ý tưởng phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và được Bộ Chính trị đồng ý. Ngày 10/9/1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh Quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước
“Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người tham gia hoạt động kháng chiến, người có công với cách mạng. Từ đó đến nay, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam được lan tỏa, hưởng ứng sôi nổi, rộng khắp trong cả nước.
Kính thưa các đồng chí !
Hơn 80 năm tham gia hoạt động cách mạng, 30 năm chỉ huy chiến đấu trên chiến trường Nam Bộ, gần 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia, đồng chí Lê Đức Anh là một người cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Là một vị tướng dày dạn trận mạc, có tầm nhìn chiến lược, xử lý linh hoạt trong mọi tình huống, đồng chí luôn có mặt trên các chiến trường ác liệt nhất, trong những thời điểm gay go nhất với nhiều trận đánh mang tính lịch sử, tạo ra những bước ngoặt lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Không chỉ là một nhà lãnh đạo tài năng, nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta, đồng chí Lê Đức Anh còn mang trong mình một tính cách chân tình, độ lượng, luôn dành tình cảm thương yêu và quan tâm chăm lo đời sống của đồng bào, đồng chí, chiến sĩ. Với gia đình, đồng chí là người chồng, người cha, người ông, người cụ mẫu mực, đức độ, giàu đức hy sinh và lòng nhân ái.
Với 99 tuổi đời, hơn 80 năm tuổi Đảng, Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã dành trọn cuộc đời cống hiến vì sự nghiệp cách mạng. Đồng chí đã đi xa nhưng sự đóng góp to lớn của đồng chí sẽ mãi là những trang sử vàng sáng chói, trường tồn cùng với thời gian, dân tộc.
Kính thưa quý vị đại biểu !
Thừa Thiên Huế là quê hương, nơi lưu giữ nhiều kỷ niệm thời thơ ấu của Đại tướng, cũng là nơi đã nuôi dưỡng, hun đúc tinh thần, ý chí cách mạng của đồng chí Lê Đức Anh. Đồng chí đã để lại trong lòng Đảng bộ và nhân dân Thừa Thiên Huế niềm tự hào, kính trọng và những tình cảm sâu đậm về một vị tướng tài đức vẹn toàn; vị Chủ tịch nước gần gũi, giản dị và thân thương.
Suốt cuộc đời của mình, đồng chí đã luôn dành thời gian và tình cảm đặc biệt đối với quê hương. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đồng chí nhiều lần trở lại Thừa Thiên Huế và gợi mở giúp quê hương khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội. Đồng chí luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải không ngừng chăm lo cho đời sống của nhân dân, của đồng bào, chiến sĩ; phải đoàn kết, đồng lòng tích cực xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, giàu mạnh.
Học tập và noi theo tấm gương của đồng chí Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh, những năm qua, Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế luôn đoàn kết, vượt qua những khó khăn, thử thách, quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và đã đạt được những kết quả quan trọng, toàn diện.
Đặc biệt, nhiệm kỳ 2015 - 2020, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn bởi thiên tai, dịch bệnh, Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế đã nỗ lực phấn đấu, vững bước đi lên và đạt những thành quả quan trọng trên các lĩnh vực. Những kết quả đó là tiền đề để Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 54-NQ/TW về xây dựng và phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Những thành tựu quan trọng trong những năm qua đã khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới của Đảng, các nghị quyết của Tỉnh ủy và Ban Thường vụ Tỉnh ủy; đánh dấu bước trưởng thành trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ và chính quyền, sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân, tạo tiền đề vững chắc để Thừa Thiên Huế phát triển nhanh và bền vững hơn trong giai đoạn tiếp theo.
Kính thưa các đồng chí !
Hội thảo hôm nay là một hoạt động có ý nghĩa chính trị sâu sắc trong chuỗi sự kiện kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Lê Đức Anh. Chúng tôi trân trọng cảm ơn các nhà khoa học, các quý vị đại biểu đã dày công nghiên cứu, có các tham luận, bài viết tập hợp tư liệu sống động về đồng chí, đóng góp quan trọng cho Hội thảo này.
Tin tưởng rằng, qua Hội thảo, chúng ta sẽ làm phong phú, sâu sắc thêm những thông tin về cuộc đời, sự nghiệp, tôn vinh những cống hiến to lớn của Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, nhân dân ta và của quê hương Thừa Thiên Huế. Từ đó, góp phần giáo dục, bồi đắp những giá trị đạo đức, truyền thống cách mạng, lòng yêu quê hương, đất nước, đặc biệt là trong thế hệ trẻ.
Một lần nữa, thay mặt lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế, chúc các đồng chí đại biểu, quý vị khách quý dồi dào sức khoẻ, hạnh phúc!
Chúc Hội thảo thành công tốt đẹp !
Xin trân trọng cảm ơn.
LÊ TRƯỜNG LƯU
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, các đồng chí lão thành cách mạng, các anh hùng và tướng lĩnh trong lực lượng vũ trang!
Thưa các đồng chí đại diện lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội, các ban, bộ, ngành Trung ương và tỉnh Thừa Thiên Huế!
Thưa các nhà khoa học cùng toàn thể quý vị đại biểu!
Hôm nay, với tình cảm và sự kính trọng, tôi rất xúc động tới dự và phát biểu tại Hội thảo khoa học quốc gia kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, tôi xin gửi tới các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, các đồng chí lão thành cách mạng, các anh hùng, các tướng lĩnh trong lực lượng vũ trang nhân dân, các đồng chí đại diện lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội, các ban, bộ, ngành Trung ương và tỉnh Thừa Thiên Huế, các nhà khoa học cùng toàn thể các vị đại biểu khách quý lời chào mừng nồng nhiệt nhất; chúc Hội thảo của chúng ta thành công tốt đẹp!
Thưa các đồng chí!
Đồng chí Lê Đức Anh (Bí danh: Nguyễn Phú Hòa; Sáu Nam), sinh ngày 01/12/1920, trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước, quê xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, phải chứng kiến cảnh người dân sống cơ cực, lầm than dưới ách áp bức, cai trị của thực dân, phong kiến, đã hun đúc trong đồng chí lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh cách mạng, đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc và ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Tự nguyện dấn thân theo con đường đấu tranh cách mạng, như bao người con của dân tộc cùng chí hướng, đồng chí Lê Đức Anh đã bước vào một hành trình đầy chông gai, thử thách, hy sinh với niềm tin vào thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp đấu tranh cách mạng dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, niềm tin vào tiền đồ tươi sáng của dân tộc, của đất nước.
Tích cực tham gia các phong trào yêu nước tại quê hương; tự học tập, tự giác ngộ về con đường cách mạng, đồng chí Lê Đức Anh đã nhanh chóng trưởng thành. Từ một thanh niên yêu nước, sớm tiếp thu và đi theo con đường cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Lê Đức Anh đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) khi vừa 18 tuổi.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Đức Anh đã được Đảng, Nhà nước và quân đội tin tưởng giao phó nhiều vị trí lãnh đạo chủ chốt, như: Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ, Cục phó Cục Tác chiến, Cục trưởng Cục Quân lực, Phó Tổng Tham mưu trưởng, Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, Tư lệnh Quân khu 9, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Chỉ huy trưởng Tiền phương Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia; Trưởng ban Lãnh đạo Đoàn chuyên gia giúp Campuchia; Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương); Ủy viên Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, VII và VIII; Bí thư Trung ương Đảng khóa VII; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa V, VI, VII và VIII; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ tháng 12/1997 đến tháng 4/2001;
Đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII và IX.
Trải qua nhiều vị trí lãnh đạo, hoạt động ở nhiều cương vị khác nhau, dù ở đâu, thực hiện nhiệm vụ gì, đồng chí Lê Đức Anh cũng không quản ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Với 99 tuổi đời, hơn 80 năm tuổi Đảng, cho đến giờ phút cuối của cuộc đời, đồng chí luôn giữ vững phẩm chất của người cộng sản kiên trung, là tấm gương sáng về phẩm chất của người cán bộ cách mạng, nêu cao đức hy sinh, lòng dũng cảm, sống trung thực, giản dị, gần gũi với cán bộ, chiến sĩ; luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc và quân đội lên trên hết, suốt đời chiến đấu, hy sinh vì lý tưởng độc lập dân tộc và xã hội chủ nghĩa.
Với công lao, cống hiến to lớn trong sự nghiệp cách mạng khó khăn, gian khổ, hy sinh nhưng vô cùng vẻ vang và tự hào của Đảng, của dân tộc, đồng chí Lê Đức Anh đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng; Huân chương Quân công hạng Nhất; Huân chương Chiến công hạng Nhất; Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.
Thưa các đồng chí!
Hội thảo khoa học hôm nay là một trong những hoạt động lớn, trọng tâm, có ý nghĩa thiết thực trong chuỗi các sự kiện Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của đồng chí Lê Đức Anh (01/12/1920 - 01/12/2020). Với ý nghĩa và tầm quan trọng của Hội thảo, tôi mong rằng những tham luận và ý kiến được trình bày tại Hội thảo sẽ góp phần bổ sung những thông tin, tư liệu để khẳng định sâu sắc cuộc đời, sự nghiệp cách mạng sôi nổi, phong phú của đồng chí Lê Đức Anh; tôn vinh và tri ân công lao, cống hiến to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta; qua đó, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo; giáo dục lý tưởng cách mạng, truyền thống yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; khích lệ các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ noi gương đồng chí Lê Đức Anh và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, tiền bối tiêu biểu của Đảng, cách mạng Việt Nam, ra sức học tập, lao động và cống hiến sức lực, trí tuệ để xây dựng quê hương đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Với ý nghĩa, mục đích như vậy, tôi xin nêu lên một số nội dung cần tập trung thảo luận, làm rõ trong cuộc Hội thảo quan trọng này:
Thứ nhất, tập trung thảo luận, khẳng định cuộc đời, sự nghiệp cách mạng gian khổ nhưng vẻ vang của đồng chí Lê Đức Anh gắn liền với sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, làm rõ công lao, cống hiến to lớn của đồng chí Lê Đức Anh đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đặc biệt là đối với thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng Pôn Pốt và trong sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, phân tích và làm sâu sắc hơn những quan điểm, tư tưởng của đồng chí Lê Đức Anh về những vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng và bảo vệ đất nước; đấu tranh cách mạng, cũng như sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm giành lại độc lập, tự do dân tộc, hòa bình, thống nhất đất nước; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phát triển khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân vững mạnh toàn diện; củng cố quốc phòng; mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước.
Thứ tư, khẳng định những giá trị tinh thần và bài học kinh nghiệm từ cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú và cuộc sống bình dị của đồng chí Lê Đức Anh, góp phần giáo dục, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, hun đúc niềm tự hào dân tộc, truyền thống cách mạng của quê hương Thừa Thiên Huế cho các thế hệ người Việt Nam, vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Thứ năm, thông qua kết quả Hội thảo, cần đẩy mạnh tuyên truyền về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng cũng như tấm gương học tập, phấn đấu, rèn luyện, cống hiến của đồng chí Lê Đức Anh cho đất nước, cho dân tộc; đồng thời tổ chức thêm các hoạt động thiết thực để mọi tầng lớp nhân dân hiểu thêm, hiểu rõ và tự hào về nhà lãnh đạo xuất sắc của cách mạng Việt Nam.
Thưa các đồng chí!
Với tình cảm, trách nhiệm và tinh thần khoa học, tôi tin tưởng rằng Hội thảo của chúng ta sẽ hoàn thành tốt các nội dung, nhiệm vụ nêu trên.
Cuối cùng xin kính chúc các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, các đồng chí lão thành cách mạng, các anh hùng, các tướng lĩnh trong lực lượng vũ trang nhân dân, các nhà khoa học cùng toàn thể các vị đại biểu, khách quý mạnh khỏe, hạnh phúc!
Trân trọng cảm ơn!
VÕ VĂN THƯỞNG
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng - Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước!
Kính thưa các đồng chí lão thành cách mạng!
Kính thưa các đồng chí tướng lĩnh, sĩ quan, các vị đại biểu, các nhà khoa học cùng thân nhân gia tộc Đại tướng Lê Đức Anh!
Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người chiến sĩ cộng sản kiên trung, luôn tận trung với Đảng, với nước, tận hiếu với nhân dân; một nhà lãnh đạo tài năng, có uy tín của Đảng và cách mạng Việt Nam; nhà chiến lược chính trị - quân sự và vị chỉ huy xuất sắc của quân đội, người con ưu tú của quê hương Thừa Thiên Huế.
Đồng chí Lê Đức Anh (bí danh Nguyễn Phú Hòa; Sáu Nam), sinh ngày 01/12/1920; quê xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế - mảnh đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống văn hóa và tinh thần đấu tranh cách mạng. Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, chứng kiến cuộc sống đói khổ, cơ cực, lầm than của người dân dưới chế độ thực dân, phong kiến đã hun đúc lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần đấu tranh bất khuất vì độc lập, tự do của dân tộc. Năm 17 tuổi, đồng chí được giác ngộ cách mạng, tham gia phong trào dân chủ ở Phú Vang, Thừa Thiên Huế, tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân đấu tranh chống sưu cao, thuế nặng, đòi tự do, dân chủ. Tháng 5/1938, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).
Từ năm 1939 đồng chí vào Hội An, Đà Lạt, Lộc Ninh, Thủ Dầu Một tham gia hoạt động trong các hội Ái hữu. Tháng 3/1944, đồng chí bắt liên lạc với tổ chức và được giao nhiệm vụ hoạt động trong các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh, Quảng Lợi, Xa Can, Xa Cát, tích cực tuyên truyền, giác ngộ, gây dựng phong trào cách mạng ở các đồn điền cao su. Hàng trăm phu cao su đã được đồng chí giác ngộ, tuyển chọn và kết nạp được bốn người vào Đảng Cộng sản Đông Dương, thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên ở Lộc Ninh do đồng chí làm Bí thư Chi bộ.
Đầu năm 1945, đồng chí được giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng trung kiên trong các nghiệp đoàn, chuẩn bị đấu tranh võ trang. Tháng 8/1945, đồng chí được phân công phụ trách chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền ở các đồn điền cao su và hai huyện Hớn Quản, Bù Đốp, tỉnh Bình Phước. Thời gian này, đồng chí tham gia quân đội, chỉ huy giành chính quyền ở Lộc Ninh, tham gia Tỉnh ủy lâm thời, phụ trách quân sự phía Bắc tỉnh Thủ Dầu Một.
Tháng 11/1946, đồng chí làm Chính trị viên Chi đội 1 (sau là Trung đoàn 301, đơn vị cấp trung đoàn đầu tiên ở Nam Bộ), Trung đoàn Ủy viên, Tỉnh ủy viên Thủ Dầu Một. Đồng chí cùng Ban Chỉ huy thường xuyên quan tâm, động viên, giáo dục cán bộ, chiến sĩ giữ nghiêm kỷ luật, nêu cao ý chí chiến đấu, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, giành được nhiều thắng lợi trên chiến trường. Với tài năng quân sự và những chiến công xuất sắc đó, tháng 10/1948, đồng chí được cấp trên lựa chọn giao đảm nhiệm cương vị Tham mưu trưởng Khu 7, Quân khu Ủy viên. Đến tháng 01/1949, đồng chí làm Tham mưu trưởng Khu 8, Quân khu Ủy viên. Đây là những địa bàn trọng điểm, nơi diễn ra những trận chiến đầy cam go, ác liệt. Phát huy tài năng, đồng chí đã tham mưu đúng, trúng cho Bộ Tư lệnh, chỉ đạo các lực lượng vũ trang vừa chiến đấu, vừa xây dựng, củng cố, phát triển lực lượng, nâng cao trình độ tác chiến, tổ chức đánh tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch.
Tháng 11/1949, đồng chí được cử làm Tham mưu trưởng Quân khu Sài Gòn - Chợ lớn, Quân khu Ủy viên. Trước tình hình quân Pháp liên tục mở các cuộc hành quân càn quét, uy hiếp vùng giải phóng phía đông và đông bắc Sài Gòn - Gia Định, đồng chí đã tham mưu, giúp Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ đạo, chỉ huy tiến công địch trên địa bàn huyện Bến Cát (Chiến dịch Bến Cát I, thuộc tỉnh Thủ Dầu Một, nay thuộc tỉnh Bình Dương) tiêu diệt một bộ phận quân Pháp, đánh cắt giao thông đoạn Bến Cát - Dầu Tiếng, mở rộng khu căn cứ Long Nguyên - Thanh Tuyền. Từ ngày 25 đến ngày 27/01/1950, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên địch, phá hủy 3 xe bọc thép, làm gián đoạn giao thông của địch.
Tháng 5/1950, các tỉnh Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn của Quân khu Sài Gòn - Chợ lớn sáp nhập trở lại Khu 7 (Sài Gòn và các huyện Thủ Đức, Gò Vấp, Bình Chánh tách ra thành lập Đặc khu Sài Gòn) đồng chí được cấp trên phân công làm Tham mưu trưởng Khu 7. Để phối hợp với chiến trường Bắc Bộ, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, đẩy mạnh chiến tranh du kích, cắt đứt giao thông tiến tới giải phóng khu vực Đường 7 và Đường 14, đồng chí tham mưu cho Bộ Tư lệnh Quân khu mở chiến dịch Bến Cát II. Chiến dịch kết thúc thắng lợi, loại khỏi vòng chiến đấu gần 800 tên địch, diệt và bức rút hàng chục đồn bốt, tháp canh, phá hủy 84 xe quân sự, 5 đầu máy xe lửa, 7 xuồng và tàu thủy, thu nhiều vũ khí, trang bị. Đây là một trong những chiến dịch lớn đầu tiên ở miền Đông Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp, đánh dấu bước trưởng thành quan trọng của lực lượng vũ trang Khu 7 về khả năng hiệp đồng tác chiến, sử dụng lực lượng và cách đánh linh hoạt, sáng tạo, đạt hiệu suất chiến đấu cao.
Tháng 01/1951, đồng chí được phân công làm Tham mưu phó, quyền Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Tháng 5/1951, Trung ương Cục quyết định phân chia lại chiến trường Nam Bộ, giải thể ba khu 7, 8, 9, chia Nam Bộ thành hai phân liên khu và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, đồng chí được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Phân liên khu miền Đông Nam Bộ. Đồng chí đã tham mưu, chỉ đạo quân và dân Phân liên khu miền Đông củng cố lực lượng, đẩy mạnh hoạt động tác chiến, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, đánh bại các cuộc càn quét, bình định của chúng, bảo vệ vững chắc căn cứ kháng chiến.
Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ đã đè bẹp ý chí xâm lược của thực Pháp. Tháng 7/1954, Hiệp nghị Giơnevơ được ký kết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi. Thi hành Hiệp nghị Giơnevơ, đồng chí tập kết ra Bắc. Tháng 5/1955, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Cục phó Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng chí đã có nhiều đóng góp quan trọng cùng Đảng ủy, Thủ trưởng Cục Tác chiến tham mưu cho Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh chỉ đạo các đơn vị huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng công trình phòng thủ bảo vệ miền Bắc, giữ vững vùng giải phóng ở miền Nam... điều chỉnh lực lượng, bổ sung, điều chỉnh kế hoạch tác chiến cho phù hợp với tình hình mới,
Từ tháng 10/1957 đến tháng 7/1963, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Cục Phó thứ nhất, rồi Cục trưởng Cục Quân lực, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng chí tham mưu cho Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh chỉ đạo điều chỉnh tổ chức biên chế theo hướng xây dựng quân đội chính quy, hiện đại, vừa đảm bảo nhiệm vụ xây dựng, sẵn sàng chiến đấu, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển của chiến tranh; tổ chức chi viện cho chiến trường miền Nam; tham mưu giúp bạn Lào xây dựng lực lượng vũ trang đáp ứng yêu cầu cách mạng.
Tháng 8/1963, đồng chí giữ chức Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Để tăng cường cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng miền Nam, tháng 8/1965, đồng chí được cấp trên bổ nhiệm giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Miền, Ủy viên Quân ủy Miền. Năm 1968, đồng chí giữ chức Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Miền, Ủy viên Quân ủy Miền. Đồng chí có nhiều đóng góp quan trọng cùng Quân ủy, Bộ Tư lệnh Miền lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, củng cố, phát triển lực lượng vũ trang, mở rộng vùng giải phóng, bảo vệ vững chắc căn cứ kháng chiến, đánh bại các cuộc hành quân càn quét, phản công chiến lược của địch, đánh bại cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti; lãnh đạo, chỉ đạo Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, tiêu hao, tiêu diệt lớn lực lượng, phương tiện chiến tranh của chúng, góp phần lần lượt đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh.
Từ năm 1969 đến năm 1973, đồng chí được giao cương vị Phó Bí thư Khu ủy, Tư lệnh Quân khu 9, đây là giai đoạn Khu 9 gặp muôn vàn khó khăn, thử thách, lực lượng vũ trang bị tổn thất nặng nề, phải rút khỏi vùng ven đô thị, đồng bằng, địch bình định lấn chiếm gần hết vùng giải phóng trước đây. Với tài năng chính trị - quân sự, tầm nhìn chiến lược, tư duy sắc sảo, phân tích, đánh giá chính xác tình hình, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đồng chí đã đóng góp nhiều công sức, trí tuệ, cùng Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng khối đoàn kết, củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị... từng bước vượt qua mọi khó khăn, hiểm nguy, đánh bại các thủ đoạn chiến thuật, chiến lược quân sự của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, khôi phục và phát triển phong trào kháng chiến trên địa bàn. Ngày 27/01/1973, Hiệp định Pari được ký kết. Song, với bản chất hiếu chiến, ngoan cố, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn trắng trợn vi phạm Hiệp định, hô hào “tràn ngập lãnh thổ”, chúng tiếp tục đẩy mạnh các cuộc tiến công, càn quét, lấn chiếm, bình định, chiến tranh tiếp diễn ác liệt. Với tư duy nhạy bén, hiểu rõ bản chất, âm mưu của địch, đồng chí cùng Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân Khu 9 tiếp tục chiến đấu, tiến công địch cả về quân sự, chính trị và binh vận, đánh bại kế hoạch lấn chiếm, bình định của địch, giữ được địa bàn then chốt, củng cố và mở rộng vùng giải phóng.
Năm 1974, đồng chí giữ chức Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Miền, Ủy viên Quân ủy Miền. Tháng 4/1974, đồng chí được Đảng, Nhà nước thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng. Đồng chí cùng Bộ Tư lệnh chỉ đạo, chỉ huy các đơn vị liên tiếp tiến công địch, giành nhiều thắng lợi lớn. Đặc biệt, là tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân địch ở Phước Long, giải phóng tỉnh Phước Long, đây là chiến thắng có ý nghĩa to lớn, là cơ sở để Trung ương Đảng hạ quyết tâm thực hiện chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976.
Năm 1975, đồng chí giữ chức Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam. Với tài thao lược, đồng chí chỉ huy các đơn vị đánh chiếm các mục tiêu đúng kế hoạch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần vào thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Tháng 5/1976, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Quân khu 9, Bí thư Quân Khu ủy. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (tháng 12/1976), đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 6/1978, đồng chí giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương. Tháng 01/1981, đồng chí được Đảng, Nhà nước thăng quân hàm Thượng tướng. Tháng 6/1981, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (tháng 3/1982), đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Ủy viên Bộ Chính trị. Tháng 12/1984, đồng chí được Đảng, Nhà nước thăng quân hàm Đại tướng. Trên cương vị được giao, đồng chí đã có nhiều công lao to lớn trong giải quyết các vấn đề sau chiến tranh, tạo sự ổn định, bảo đảm đời sống cho quân và dân trên địa bàn; lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang đánh lui quân Pôn Pốt xâm lược, bảo vệ vững chắc địa bàn được giao; phản công, tiến công đánh bại tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary, thực hiện nghĩa vụ quốc tế giúp cách mạng Campuchia xây dựng lực lượng vũ trang, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hồi sinh đất nước. Hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quốc tế cao cả, góp phần xây dựng, củng cố tình hữu nghị, đoàn kết giữa hai nước Việt Nam - Campuchia.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), đồng chí được tái cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị, giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 02/1987, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. Đồng chí đã tham mưu cho Bộ Chính trị và lãnh đạo, chỉ đạo điều chỉnh bố trí chiến lược, tổ chức, biên chế, xây dựng quân đội vững mạnh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giải quyết vấn đề biên giới, tăng cường phòng thủ biển, nhất là khu vực quần đảo Trường Sa... có nhiều đóng góp quan trọng trong bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Với tầm nhìn chiến lược, đồng chí đã ký nhiều mệnh lệnh về việc bảo vệ quần đảo Trường Sa, trên cơ sở đó, từ tháng 6/1989 đến tháng 11/1990, Quân chủng Hải quân đã khắc phục khó khăn, duy trì sự có mặt của Việt Nam trên thềm lục địa thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991), đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng. Tháng 9/1992, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX, đồng chí được bầu giữ chức Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6/1996), đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị, làm Thường vụ Bộ Chính trị. Tháng 12/1997, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư khoá VIII, đồng chí xin thôi tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thôi giữ chức Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng đến tháng 4/2001.
Trên cương vị Chủ tịch nước, đồng chí đã có nhiều công lao, cống hiến to lớn trong xây dựng, phát triển đất nước. Về đối nội, đồng chí đã ra sức phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi nguồn lực trong phát triển đất nước, đạt được nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp đổi mới đất nước, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; quan tâm, chăm lo công tác chính sách, ký Lệnh số 36/CTN, ngày 10/9/1994, công bố Pháp lệnh Quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công với cách mạng. Kể từ đó, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” được hưởng ứng sôi nổi, rộng khắp trong cả nước. Về đối ngoại, đồng chí có nhiều công lao trong xúc tiến bình thường hóa quan hệ với Mỹ, Trung Quốc, thúc đẩy Việt Nam gia nhập ASEAN, thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong suốt cuộc đời của mình, Đại tướng Lê Đức Anh đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đồng chí là một tấm gương sáng về phẩm chất của người cộng sản kiên trung, luôn một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, thể hiện đức hy sinh, lòng dũng cảm, trí thông minh, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sống giản dị, chan hòa, gần gũi với cán bộ, chiến sĩ, đồng bào, đồng chí, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh (01/12/1920 - 01/12/2020), thực hiện chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Văn phòng Chủ tịch nước, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: “Đồng chí Lê Đức Anh với cách mạng Việt Nam và quê hương Thừa Thiên Huế”. Tại Hội thảo này, chúng ta tiếp tục đi sâu nghiên cứu đầy đủ, toàn diện hơn nữa về Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh, tập trung khẳng định và làm sáng tỏ những vấn đề chủ yếu sau đây:
1. Truyền thống đấu tranh cách mạng và yêu nước của nhân dân Thừa Thiên Huế - quê hương của Đại tướng Lê Đức Anh.
2. Quá trình hoạt động cách mạng và những cống hiến xuất sắc của Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đối với cách mạng Việt Nam.
3. Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh - Người con ưu tú của quê hương Thừa Thiên Huế.
4. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh, vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Với quan điểm khách quan, khoa học, Ban Chỉ đạo tin tưởng Hội thảo khoa học: “Đồng chí Lê Đức Anh với cách mạng Việt Nam và quê hương Thừa Thiên Huế” sẽ thành công tốt đẹp. Qua đó, góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng vững mạnh, tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trân trọng cảm ơn.
Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương,
Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tôi chủ yếu hoạt động ở vùng tạm chiếm, ở Thành phố Hồ Chí Minh (lúc đó là Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn). Ông cụ thân sinh của tôi thì ở Chiến khu miền Đông Nam Bộ. Do chuyên môn của ông cụ, nên từ đầu kháng chiến, cụ được phân công vào ngành Công binh - lúc đầu là Trưởng ban Công binh miền Đông, sau là Trưởng ban Công binh Nam Bộ.
Ông cụ, một trí thức yêu nước, tính tình điềm đạm, hiền hậu, được đồng sự và anh em cùng công tác quý mến. Nhưng cụ không nghĩ mình có thể phấn đấu vào Đảng, lúc đó tôi đã vào Đảng Cộng sản rồi. Mấy năm sau, cụ vui mừng báo cho tôi là cụ đã được kết nạp vào Đảng. Hỏi anh em cùng công tác với cụ, tôi được biết việc này là do đồng chí Lê Đức Anh, lúc đó là Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ, người trực tiếp phụ trách ông cụ tôi, đánh giá được phẩm chất và sự cống hiến của cụ và đã thuyết phục được cụ gia nhập Đảng Cộng sản. Đồng chí Lê Đức Anh là một trong hai người giới thiệu cụ Nguyễn Đồng Hội (tức Bính, cha tôi) vào Đảng Cộng sản. Qua việc này, tôi có suy nghĩ tốt về đồng chí Lê Đức Anh. Tôi cho rằng, một đồng chí lãnh đạo Đảng phải có cách nhìn người thực chất như vậy thì mới có thể thu hút vào Đảng những người tốt, có năng lực, làm cho Đảng vững mạnh được.
Đến năm 1974, tôi mới gặp và trực tiếp nói chuyện với đồng chí Lê Đức Anh lần đầu tiên. Sau khi ký Hiệp định Pari, trở về nước, tôi vượt Trường Sơn về căn cứ Trung ương Cục miền Nam để chào và báo cáo công tác với các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam. Thời điểm đó chúng ta đang ráo riết chuẩn bị cho Chiến dịch mùa Xuân năm 1975. Sau khi gặp, làm việc với một số đồng chí lãnh đạo, tôi đến chào đồng chí Lê Đức Anh từ Khu 9 được điều về phụ trách Mặt trận miền Đông áp sát với Sài Gòn, là mặt trận nóng bỏng nhất lúc bấy giờ.
Để đi lại trong vùng chiến khu, phương tiện tốt nhất là xe Honda. Tôi được một đồng chí thanh niên “đèo” ngồi sau, một xe thứ hai đi sau bảo vệ.
Anh em cho biết đồng chí Lê Đức Anh đang ở một điểm chỉ huy gần núi Bà Đen. Tôi yêu cầu đến tận nơi, dù lúc đó quân địch từ núi Bà Đen bắn đạn ra không ngớt. Và tất nhiên lực lượng của ta đang bao vây núi Bà Đen cũng từng lúc nã pháo dữ dội.
Tôi rất xúc động khi đồng chí bảo vệ đưa tôi ra một ruộng trồng sắn trên triền đồi thoai thoải, nhìn thấy đồng chí Lê Đức Anh đang ngồi trên chiếc ghế đẩu thấp, ống nhòm ngắm về nơi chiến sự. Khi biết tôi đến, đồng chí Lê Đức Anh đứng lên niềm nở bắt tay tôi, thái độ bình thản và tươi cười như một nông dân đang làm vườn ra đón khách.
Cuộc nói chuyện không lâu vì mục đích khi đó của tôi là đến chào xã giao đồng chí và chúc mừng thành tích chiến đấu của quân dân ta trong những tháng trước. Cuộc gặp đó để lại trong tôi những ấn tượng tốt đẹp về đồng chí Lê Đức Anh. Đồng chí là hình ảnh của một tướng lĩnh vững vàng, quả cảm, tạo cho người ta lòng tin vào chiến thắng.
Được nghe về thành tích của đồng chí Lê Đức Anh ở Nam Bộ, rồi ở Khu 9 và sau này ở Campuchia, tôi nghĩ cả cuộc đời của đồng chí là trên trận mạc, đồng chí đã từng ở những điểm nóng nhất của cuộc chiến đấu. Đồng chí được tôi rèn trong môi trường đó và đã có những cống hiến xứng đáng cho đất nước.
Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tôi không có dịp gặp lại đồng chí. Đến năm 1992, khi tôi được bầu làm Phó Chủ tịch nước, mà Chủ tịch nước lại là đồng chí Lê Đức Anh, tôi mới có dịp hiểu thêm về đồng chí. Năm năm công tác bên cạnh đồng chí đã để lại cho tôi những kỷ niệm tốt đẹp và những bài học quý báu.
Đồng chí Lê Đức Anh, một con người điềm đạm, ít nói nhưng suy nghĩ nhiều, sâu và có tính quyết đoán. Trong công việc, đồng chí luôn luôn giữ vững nguyên tắc. Khi nhận nhiệm vụ Chủ tịch nước, đồng chí nói với chúng tôi: “Đảng lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối. Vì vậy, mọi việc hệ trọng của Đảng và Nhà nước, tôi sẽ bàn bạc và đề xuất với Bộ chính trị và tôi sẽ thực hiện các quyết định do tập thể Bộ Chính trị thông qua”. Trên thực tế đồng chí đã làm như vậy.
Khi đi xuống địa phương, đồng chí chịu khó lắng nghe, góp ý để các đồng chí lãnh đạo địa phương suy nghĩ, nghiên cứu. Đồng chí chỉ phát biểu chỉ đạo những vấn đề thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách.
Tôi nhớ một số mẩu chuyện anh em cùng đi công tác ở Tây Nguyên với đồng chí nói lại. Đồng chí Lê Đức Anh đã lưu ý các đồng chí lãnh đạo địa phương về tình hình đất đai với bà con các dân tộc thiểu số: Không nên để xảy ra tình trạng vì khó khăn hay vì không biết làm ăn mà bán đất đi, vì như vậy cuộc sống của họ lại càng khó khăn hơn, không đúng với chính sách của Đảng. Từ những vấn đề về kinh tế có thể dẫn đến vấn đề chính trị - xã hội. Từ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trở về, đồng chí cũng tỏ ra băn khoăn về việc một số nông dân không còn đất, nơi làm ra nhiều lúa gạo cho đất nước mà cuộc sống của bà con lại nghèo, trình độ dân trí thấp. Cần phải sớm giải quyết vấn đề đất đai, hỗ trợ cho nông dân nghèo.
Lúc đó, đồng chí phụ trách công tác quốc phòng, an ninh. Ở nhiều nơi, đồng chí có sự chỉ đạo rõ ràng, dứt khoát, không thể chỉ nghĩ đến kinh tế mà xem nhẹ an ninh đất nước. Trong suốt thời gian làm Chủ tịch nước, rồi làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, vấn đề đồng chí quan tâm, day dứt là tệ tham nhũng trong bộ máy của Đảng và Nhà nước. Trước một số sự việc tiêu cực mà đồng chí nắm được thông tin khá đầy đủ, đồng chí không những có ý kiến trực tiếp đến cơ quan đơn vị liên quan mà đôi khi còn công khai phê phán trên báo. Kết thúc nhiệm kỳ Chủ tịch nước, trong bài phát biểu trước Quốc hội, đồng chí nhấn mạnh đến chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân của các tiêu cực, tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa rời quần chúng. Về cán bộ, đồng chí thường nói với chúng tôi là phải đánh giá trên hành động thực tế của từng người.
Trong những năm công tác với đồng chí Lê Đức Anh, tôi cảm thấy gần gũi, đồng chí đã quan tâm đến những ý kiến đề xuất của tôi như là một cộng sự, do đó, tôi nghĩ tôi đã phát huy được phần nào sở trường và trách nhiệm của mình. Tôi được giao một số công tác về đối ngoại, đại diện cho Nhà nước, theo dõi đóng góp ý kiến cho công tác giáo dục và tham gia một số hoạt động xã hội.
Đến năm 1996, đồng chí Lê Đức Anh ốm nặng trong một thời gian tương đối dài, mọi người đều lo lắng. Nhưng rất may, đồng chí hồi phục lại được. Người thì cho là nhờ thuốc, nhờ thầy... Theo tôi, chị Lê, vợ đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều công chữa chạy và chăm sóc, nhưng còn một nguyên nhân rất quan trọng nữa là ý chí kiên cường đấu tranh chống lại bệnh tật của đồng chí. Tinh thần đó đã giúp đồng chí vượt qua thử thách. Sau này, có lúc nói chuyện với chúng tôi, đồng chí cũng nói ý đó: đấu tranh chống lại bệnh tật, cũng như đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược.
Trong nội bộ, thái độ của đồng chí Lê Đức Anh luôn rõ ràng, dứt khoát. Đồng chí vẫn giữ tác phong của người tướng lĩnh trên chiến trường, việc này không đơn giản vì có đụng chạm, nhưng khi cần thiết đồng chí vẫn kiên quyết làm.
Trong cuộc sống riêng tư, đồng chí vô cùng giản dị. Đồng chí và gia đình luôn sống “cuộc đời người lính”.
Đồng chí Lê Đức Anh xứng đáng với sự kính trọng của chúng ta, một tấm gương cần phải học tập.
Nguyễn Thị Bình
Nguyên Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chiến sĩ cách mạng kiên cường, một vị tướng tài ba, mưu lược, có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế. Đồng chí là nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, Nhà nước, luôn đổi mới, quyết đoán, nhanh nhạy, bám sát thực tiễn, dám chịu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và cũng rất giản dị, sâu sắc, nhân văn trong cuộc sống, được đồng chí, đồng đội và nhân dân yêu mến, bạn bè quốc tế đánh giá cao.
1. Đại tướng Lê Đức Anh - người chiến sĩ cách mạng kiên trung, nhà quân sự tài ba, quyết đoán
Đồng chí Lê Đức Anh sinh ra trong gia đình và trên quê hương giàu truyền thống yêu nước thuộc xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ở tuổi 17, đồng chí đã tiếp xúc với những người yêu nước, đọc báo chí tiến bộ, tìm hiểu về chủ nghĩa cộng sản và tham gia phong trào dân chủ đấu tranh đòi độc lập, tự do cho dân tộc tại Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Hoạt động cách mạng của đồng chí bắt đầu từ việc rải truyền đơn, treo cờ đỏ... đến việc tuyên truyền, vận động nhân dân, tham gia phong trào dân chủ, phụ trách tổ chức các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh. Năm 1938, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Mang trong mình lý tưởng phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do, vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, đồng chí luôn bám dân, bám địa bàn, hoạt động và xây dựng phong trào cách mạng ở nhiều địa phương từ Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, đến Lâm Đồng, Bình Dương, Bình Phước. Đầu năm 1945, đồng chí được giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng trung kiên trong các nghiệp đoàn, chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền ở các đồn điền cao su và hai huyện Hớn Quản, Bù Đốp, tỉnh Bình Phước.
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, trên bất kỳ cương vị nào, đồng chí Lê Đức Anh luôn có mặt ở những chiến trường trọng yếu, khó khăn, ác liệt. Trong mọi hoàn cảnh, đồng chí luôn vượt qua khó khăn, thể hiện phẩm chất của người chỉ huy mưu trí, dũng cảm, quyết đoán, bám sát thực tiễn, vận dụng sáng tạo quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng vào điều kiện cụ thể của chiến trường. Đồng chí là người kiên quyết đề nghị chỉ xây dựng lực lượng vũ trang đến cấp tiểu đoàn tại chiến trường Nam Bộ, theo phương châm “dựa vào dân mà chiến đấu” và thu được nhiều thắng lợi quan trọng trong các chiến dịch, góp phần cùng quân và dân cả nước kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trên chiến trường miền Nam những năm đầu đánh Mỹ, đảm nhiệm cương vị Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Miền, với tư chất của một nhà chỉ huy quân sự mưu lược, đồng chí đã đề xuất sáng kiến tổ chức lại chiến trường ở vùng không dân thành một tổ chức quân sự theo lãnh thổ, biến các cơ quan dân sự kháng chiến thành các đơn vị hành chính huyện, xã; mạnh dạn lấy vũ khí từ các kho đang cất giấu dọc biên giới Việt Nam - Campuchia trang bị cho các nhân viên dân sự, tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, góp phần đánh thắng các cuộc hành quân của quân Mỹ và ngụy quân Sài Gòn trong mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967.
Đảm nhiệm cương vị Tư lệnh Quân khu 9, trong bối cảnh hết sức khó khăn của cách mạng miền Nam sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Chính ủy Quân khu Võ Văn Kiệt đề ra chủ trương xốc lại tinh thần đoàn kết nội bộ, đưa lực lượng vũ trang trở lại địa bàn, tiến công địch, không để địch giành quyền chủ động lấn chiếm, bình định. Những quyết sách táo bạo, quyết đoán này đã tạo sự chuyển thế to lớn trên chiến trường Khu 9 và cả vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sau khi Hiệp định Pari được ký kết (01/1973), có những nơi xuất hiện nhận thức, quan điểm, tư tưởng chưa thật thống nhất, một số cán bộ có xu hướng thiên về đấu tranh bằng phương pháp hòa bình. Nhận rõ âm mưu và thủ đoạn của địch, với tư duy nhạy bén, quyết đoán, đồng chí đã cùng Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng vũ trang Quân khu vừa chấp hành Hiệp định, song kiên quyết giữ vững thế tiến công, chủ động đánh địch vi phạm Hiệp định Pari, đẩy lùi các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, không để mất đất, mất dân.
Năm 1974, trên cương vị Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, đồng chí Lê Đức Anh đã khẩn trương chỉ đạo xây dựng “Kế hoạch tác chiến mùa khô 1974 - 1975”, chỉ đạo các đơn vị chủ lực Miền huấn luyện và hoạt động tác chiến theo kế hoạch mới, nhất là tập huấn cách đánh công kiên. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Lê Đức Anh và Bộ Chỉ huy Miền, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng Phước Long, là cơ sở vững chắc để Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên cương vị Phó Tư lệnh Chiến dịch kiêm Tư lệnh cánh quân hướng tây - tây nam, một trong năm hướng tiến công của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng đánh vào thành phố Sài Gòn, là hướng tiến công khó khăn nhất, song bằng bản lĩnh và kinh nghiệm được đúc rút qua thực tiễn chiến đấu, đồng chí đã tham gia hoạch định và trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần cùng quân và dân ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trước những biến động phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực, trong điều kiện đất nước còn rất nhiều khó khăn, vừa phải tập trung mọi nguồn lực khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa phải đẩy mạnh xây dựng phát triển kinh tế theo đường lối đổi mới để sớm thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, với cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí đã cùng tập thể Quân ủy Trung ương, tham mưu cho Đảng, Nhà nước và trực tiếp chỉ đạo xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, đưa dân tộc Campuchia hồi sinh. Dấu ấn nổi bật trong thời gian giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là đồng chí đã đề xuất kế hoạch xây dựng quân đội tinh, gọn, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao và cắt giảm lực lượng vũ trang để tập trung cho phát triển đất nước; kịp thời điều chỉnh chiến lược phòng thủ đất nước trong tình hình mới, phù hợp với tình hình kinh tế đất nước mà vẫn bảo đảm sức mạnh để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
2. Đại tướng Lê Đức Anh - người chỉ huy thao lược trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả tại Campuchia
Trong thời gian 10 năm (1979 - 1989), Đại tướng Lê Đức Anh đã quán triệt, thực hiện nghiêm túc đường lối quốc tế trong sáng của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng “giúp bạn tức là mình tự giúp mình” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên cương vị Tư lệnh Quân tình nguyện, Trưởng ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia giúp Campuchia, đồng chí đã chỉ huy các đơn vị quân tình nguyện và cán bộ chuyên gia Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, hy sinh, gian khổ giúp quân và dân Campuchia, đánh tan 20 vạn quân Pôn Pốt và chặn đứng âm mưu quay trở lại chính trường của chúng, cứu dân tộc Campuchia khỏi họa diệt chủng, thực hiện công cuộc hồi sinh đất nước; đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững ổn định ở biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
Với quan điểm“Không ai có thể làm thay cuộc hồi sinh Campuchia, bảo vệ thành quả cách mạng Campuchia bằng người Campuchia”, đồng chí Lê Đức Anh đã chuẩn bị mọi mặt chu đáo cho các cuộc tiếp xúc với nước bạn, thường xuyên rèn luyện cho cán bộ, bộ đội tình nguyện tính tổ chức kỷ luật cao; nghiên cứu, đánh giá chính xác tình hình, đề ra biện pháp đấu tranh phù hợp, giúp bạn vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân, chống lại cuộc chiến tranh du kích phản cách mạng của tàn quân Pôn Pốt. Với sự chân thành, chí nghĩa, chí tình, nhưng không làm thay bạn của Đại tướng Lê Đức Anh và các lực lượng quân tình nguyện, chuyên gia Việt Nam đã hỗ trợ chính quyền cách mạng non trẻ Campuchia xây dựng, bồi dưỡng được đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị có phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, từng bước đảm đương được các vị trí đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, tái thiết đất nước, củng cố chính quyền và bảo vệ thành quả cách mạng. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, đoàn chuyên gia, quân tình nguyện Việt Nam đã giúp đất nước Campuchia nhanh chóng hồi sinh; nghĩa cử cao cả ấy đã được Quốc vương, nhiều chính khách và nhân dân Campuchia quý trọng, coi bộ đội tình nguyện Việt Nam là “đội quân nhà Phật!”, góp phần tích cực vào việc tăng cường mối quan hệ đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Campuchia.
3. Đại tướng Lê Đức Anh - nhà lãnh đạo xuất sắc,
có uy tín lớn với nhiều dấu ấn nổi bật thời kỳ đổi mới đất nước
Trải qua nhiều cương vị quan trọng, như: Ủy viên Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng khóa VII; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa V, VI; đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991), Đại tướng Lê Đức Anh tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị và được Quốc hội khóa IX (nhiệm kỳ 1991 - 1996) bầu giữ trọng trách Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là thời kỳ tình hình thế giới và trong nước có những thay đổi lớn, nhiều khó khăn, thách thức. Đất nước ta đang thực hiện công cuộc đổi mới và đã đạt được những thành tựu bước đầu, song phải đối mặt với rất nhiều khó khăn; nước ta vẫn bị bao vây cấm vận, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu tan rã, nguồn viện trợ không còn, nhiều vấn đề mới đặt ra cần phải xử lý, đặc biệt là yêu cầu bức thiết về bình thường hóa quan hệ với các nước lớn, hội nhập quốc tế, gia nhập các tổ chức quốc tế, khu vực... Là người được tôi luyện, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, tác phong sâu sát, nói đi đôi với làm, tư duy sáng tạo, đồng chí Lê Đức Anh đã chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước hoạch định nhiều vấn đề chiến lược của đất nước, đưa đất nước ta vượt qua khó khăn về kinh tế - xã hội, phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ quốc tế, giữ vững ổn định chính trị, chủ quyền biên giới quốc gia, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Trong công tác đối nội, đồng chí Lê Đức Anh luôn chủ động, tham mưu đề xuất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư các chủ trương, giải pháp lãnh đạo xây dựng, từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp. Một trong những điều đồng chí Lê Đức Anh luôn trăn trở là làm sao các cơ quan nhà nước phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, thực sự đại diện cho quyền lợi và đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân đúng với chủ trương “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Trong hoạt động thực tiễn, đồng chí đã nhiều lần trực tiếp đến thăm và làm việc với các địa phương, nắm bắt tình hình và lắng nghe ý kiến phản ánh của nhân dân; kịp thời chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các địa phương thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận lòng dân ngày càng vững chắc.
Trên cương vị Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng - An ninh, Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, với tình cảm sâu nặng và trách nhiệm, Đại tướng Lê Đức Anh thường xuyên đến thăm, kiểm tra, động viên cán bộ, chiến sĩ các đơn vị Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Luôn quan tâm chỉ đạo xây dựng, điều chỉnh thế bố trí chiến lược giữa các vùng, miền, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; là một trong những người đề xuất ý tưởng xây dựng khu vực phòng thủ, các khu kinh tế - quốc phòng trên địa bàn chiến lược mà hiện nay chúng ta đã và đang tiếp tục triển khai thực hiện. Những chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh thể hiện tư duy nhạy bén, sắc sảo, tầm nhìn chiến lược đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Cùng với đó, Đại tướng Lê Đức Anh cũng rất quan tâm, chú trọng đến bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị của quân đội và đời sống của cán bộ, chiến sĩ.
Trong công tác đối ngoại, Đại tướng Lê Đức Anh được coi là “kiến trúc sư” của việc triển khai các biện pháp chiến lược và chiến thuật trong lộ trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Mỹ và ASEAN, “phá vây” để hội nhập quốc tế, góp phần đặt nền móng cho chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Đảng, Nhà nước ta. Đồng chí đã cùng Bộ Chính trị chỉ đạo các bộ, ngành mở rộng quan hệ, giao thương với các nước, đồng thời trực tiếp gặp gỡ, trao đổi ý kiến với các nhà lãnh đạo nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế nhằm tăng cường mối quan hệ, hợp tác song phương, đa phương; tiến hành đàm phán, ký kết, phê chuẩn các hiệp định, điều ước quốc tế, thu hút đầu tư, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại, đưa đất nước ta từng bước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, quốc phòng, an ninh được giữ vững và củng cố, để lại những dấu ấn quan trọng và tình cảm tốt đẹp với các quốc gia, cộng đồng quốc tế; uy tín, vị thế của Việt Nam ngày càng nâng cao trên trường quốc tế.
4. Đại tướng Lê Đức Anh - tấm gương về đạo đức cách mạng, tận trung với nước, tận hiếu với dân
Đại tướng Lê Đức Anh là tấm gương về nghị lực phấn đấu, học tập, nâng cao tri thức về mọi mặt; sống giản dị, tiết kiệm, gần gũi, thủy chung, nhân ái; luôn có tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của nhân dân lên trên hết. Cuộc đời hoạt động cách mạng cùng những cống hiến xuất sắc của đồng chí là một tấm gương sáng về phẩm chất của người cán bộ cách mạng “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, một danh tướng xuất sắc của thời đại Hồ Chí Minh.
Đại tướng Lê Đức Anh là nhà lãnh đạo, chỉ huy luôn gần gũi, đồng cam cộng khổ, hết mình thương yêu cán bộ, chiến sĩ, gắn bó máu thịt với nhân dân, bám địa bàn, bám dân để đánh giặc, tìm mọi cách giảm thiểu hy sinh xương máu của cán bộ, chiến sĩ và khó khăn, mất mát của người dân. Đồng bào, chiến sĩ Nam Bộ luôn nhớ hình ảnh người chỉ huy tin vào dân, coi lòng dân, sức dân là thành lũy để bộ đội chiến đấu và chiến thắng; một tư lệnh luôn có mặt ở những nơi ác liệt nhất, ở vào những thời điểm quan trọng nhất.
Trên cương vị Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh luôn quan tâm công tác chính sách hậu phương quân đội, giải quyết tồn đọng sau chiến tranh. Năm 1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” để tặng hoặc truy tặng những bà mẹ đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; đồng thời cũng để giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng, truyền thống đạo nghĩa “Uống nước nhớ nguồn” cho các thế hệ mai sau. Khi còn đương chức và kể cả khi đã nghỉ công tác, Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh vẫn thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, đóng góp với Đảng, Nhà nước nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc, có tầm chiến lược về công tác quân sự, quốc phòng.
Cuộc đời của Đại tướng Lê Đức Anh gắn liền với những chiến thắng, những bước thăng trầm của lịch sử nước nhà trong đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Trên các cương vị công tác, dù ở bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, đồng chí cũng luôn tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng của người đảng viên cộng sản; luôn tận tụy, bản lĩnh; đem hết tài năng, trí tuệ, tham mưu, đề xuất và chỉ đạo thực hiện nhiều quyết sách quan trọng góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Yêu cầu về chấn chỉnh lực lượng quân đội phù hợp với tình hình thực tiễn đang đặt ra những vấn đề mới cần quan tâm giải quyết. Học tập, noi gương Đại tướng Lê Đức Anh, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục trau dồi bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; phát huy tinh thần cách mạng tiến công; không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện, trình độ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi tình huống. Tích cực chấn chỉnh tổ chức, lực lượng theo hướng tinh, gọn, mạnh, bảo đảm nâng cao sức mạnh chiến đấu, phù hợp với yêu cầu của nghệ thuật tác chiến hiện nay. Tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ, “thế trận lòng dân” vững chắc. Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng; ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến. Đẩy mạnh phòng chống “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Chúng ta mãi mãi nhớ về Đại tướng Lê Đức Anh với lòng kính trọng và tự hào về người đồng chí thân thiết, chí tình, chí nghĩa, một vị tướng tài ba, một nhà lãnh đạo xuất sắc, một nhân cách giản dị, gần gũi của quân và dân ta. Toàn quân nguyện tiếp tục học tập, noi gương đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh, mãi đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn; nêu cao truyền thống, bản chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, luôn đoàn kết, thống nhất, chủ động, sáng tạo, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của cha anh; xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định, phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đại tướng NGÔ XUÂN LỊCH
Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Đồng chí Lê Đức Anh (bí danh Nguyễn Phú Hòa; Sáu Nam) sinh ngày 01/12/1920, quê quán tại xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Được thừa hưởng truyền thống yêu nước của quê hương và gia đình, đồng chí đã sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1937, đồng chí tham gia phong trào dân chủ ở Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Tháng 5/1938, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 8/1945, đồng chí tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, đồng chí Lê Đức Anh là nhà chỉ huy quân sự tài ba, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, dày dạn kinh nghiệm trận mạc, có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và làm nhiệm vụ quốc tế cao cả.
Sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất, đồng chí được Đảng, Nhà nước giao nhiều trọng trách. Đặc biệt, những năm tháng giữ cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước, đồng chí luôn trăn trở, tìm tòi, tâm huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng để tái thiết đất nước, khởi xướng công cuộc đổi mới, phá thế bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước; cùng Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng thế trận “chiến tranh nhân dân” và nền quốc phòng toàn dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước[1]. Với lực lượng Công an nhân dân, đồng chí luôn gắn bó và chỉ đạo chặt chẽ.
Những năm tháng chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, đồng chí trực tiếp chỉ huy chiến trường và giành được nhiều thắng lợi quan trọng, góp phần bảo vệ biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. Tháng 8/1979, đồng chí Lê Đức Anh là Phó Trưởng ban thứ nhất phụ trách công tác K (Campuchia) và tháng 8/1980 đồng chí là Trưởng ban. Ban này đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị. Tháng 6/1982, Bộ Chính trị ra Quyết định số 132 về việc thành lập Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia tại Campuchia thay Ban Phụ trách công tác Campuchia. Theo đó, Ban lãnh đạo gồm 7 đồng chí do đồng chí Lê Đức Anh làm Trưởng ban. Trong hai năm 1979, 1980, với tinh thần “giúp bạn là mình tự giúp mình”, Đảng và Nhà nước ta đã điều động một số lượng lớn cán bộ sang làm chuyên gia giúp bạn. Đoàn chuyên gia Bộ Nội vụ Việt Nam (bí số là K79) do đồng chí Viễn Chi, Thứ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) làm Trưởng đoàn và các đồng chí Lê Đình Thảo, Trần Mão, Tư Hoàng, Vy Hồng Phong, Nguyễn Tâm giúp bạn xây dựng lực lượng an ninh. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, Đoàn chuyên gia Bộ Nội vụ Việt Nam cùng với các đoàn khác đã hoàn thành tốt nghĩa vụ quốc tế, đóng góp tích cực trong việc giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng của tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary, xây dựng lại đất nước Campuchia.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Công an và quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng, của Chính phủ, của vô sản chuyên chính. Vì vậy, càng phải đoàn kết chặt chẽ với nhau, giúp đỡ lẫn nhau”, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo cụ thể lực lượng Quân đội nhân dân phối hợp với lực lượng Công an nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, nhất là trong thời kỳ giúp đỡ Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng và trong thời kỳ đồng chí giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, phát huy những kết quả đã đạt được trong thực hiện nhiệm vụ của hai lực lượng, từ năm 1987 đến năm 1992 trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí tiếp tục quan tâm, chỉ đạo, phát huy và đẩy mạnh quan hệ phối hợp, hiệp đồng chiến đấu giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Nhờ đó, hai lực lượng luôn đoàn kết, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ; thường xuyên trao đổi thông tin, nắm tình hình trong nước, khu vực và trên thế giới; chủ động làm tốt công tác tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về các chủ trương, đường lối lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; đồng thời là lực lượng nòng cốt, trực tiếp triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối đó. Cùng với Quân đội nhân dân, lực lượng Công an nhân dân đã tích cực đổi mới, phối hợp đảm bảo an ninh, trật tự trên địa bàn, đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động xâm nhập phá hoại từ bên ngoài của các tổ chức phản động, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và Nhân dân. Kết quả phối hợp giữa hai lực lượng đã trở thành cơ sở, điều kiện để ngày 17/11/1992, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ ban hành Chỉ thị số 18/CT-LB về phối hợp giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình hình mới. Từ đây, công tác phối hợp giữa công an và quân đội ngày càng đi vào chiều sâu và đạt hiệu quả cao hơn. Sau này, khi đã nghỉ hưu và cả khi sức khỏe đã yếu nhưng mỗi khi lãnh đạo Bộ Công an, Bộ Quốc phòng đến thăm, ông vẫn căn dặn phải thường xuyên phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ vì quân đội với công an đều là lực lượng vũ trang.
Tháng 9/1992, đồng chí được Quốc hội tín nhiệm bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên cương vị mới, với tầm nhìn chiến lược, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tác phong sâu sát, đồng chí đã cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước đề ra và chỉ đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đưa đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong hồi ký của mình, đồng chí Lê Đức Anh viết: “Với cương vị và trách nhiệm của mình, tôi thường xuyên gặp gỡ trao đổi, bàn bạc với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao về những chủ trương, công việc lớn mang tầm chiến lược, những việc trước mắt đang đặt ra bức thiết phải giải quyết để bảo đảm công tác an ninh - quốc phòng và công tác đối ngoại hoạt động tốt, nhằm ổn định chính trị, quốc phòng - an ninh”.
Với cương vị là Chủ tịch nước, Ủy viên Bộ Chính trị, đồng chí đã cùng với Bộ Chính trị thảo luận, ban hành và chỉ đạo thực hiện hiệu quả nhiều chủ trương, chỉ thị, nghị quyết quan trọng về bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh; đồng thời, chỉ đạo hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ an ninh trật tự. Trong nhiệm kỳ công tác, theo quy định của Hiến pháp, đồng chí Lê Đức Anh đã ký lệnh công bố nhiều văn bản luật, pháp lệnh đã được Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua, trong đó, có nhiều văn bản liên quan đến lĩnh vực công tác bảo đảm an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng Công an nhân dân. Đồng thời, xuất phát từ nhận thức sâu sắc về hội nhập quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí đã chỉ đạo đàm phán, ký kết và phê chuẩn một số Công ước quốc tế về vấn đề an ninh, trật tự như: Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Ba Lan (1994), Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, ba Công ước về kiểm soát ma túy của Liên hợp quốc (Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961, Công ước về các chất ma túy năm 1971, Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và các chất hướng thần năm 1988). Những văn bản này đã tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho công tác phòng, chống tội phạm và hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả cao.
Bằng tình cảm sâu nặng cùng ý thức trách nhiệm lớn lao, trong thời gian làm Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng quốc phòng - an ninh, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, đồng chí Lê Đức Anh đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, trực tiếp chỉ đạo đối với các lực lượng nghiệp vụ, các mặt công tác và sự trưởng thành, phát triển của lực lượng Công an nhân dân, nhất là đối với công tác của lực lượng an ninh, tình báo.
Giữa những năm 1990, lực lượng công an xây dựng Pháp lệnh Tình báo. Trên cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước và phụ trách các vấn đề quốc phòng, an ninh, đối ngoại, khi Bộ Công an báo cáo, đồng chí đã trực tiếp cho ý kiến chỉ đạo về nhiều vấn đề, nhất là vấn đề hợp tác quốc tế về an ninh, tình báo. Sau khi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua, ngày 22/12/1996, Chủ tịch nước Lê Đức Anh ký Lệnh số 53L/CTN công bố Pháp lệnh Tình báo. Đây là văn bản quan trọng làm cơ sở cho hoạt động của lực lượng tình báo, trong đó có lực lượng Tình báo Công an nhân dân. Việc ban hành Pháp lệnh Tình báo không chỉ thể hiện sự đánh giá cao của Đảng, Nhà nước về vai trò, vị trí và những đóng góp quan trọng của Tình báo Công an nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, mà còn đặt ra cho lực lượng Tình báo Công an nhân dân nhiệm vụ chính trị nặng nề trong thời kỳ mới. Qua hơn 20 năm thực hiện, thực tiễn đã cho thấy những ý kiến chỉ đạo và quyết định của Chủ tịch nước Lê Đức Anh khi đó là vô cùng xác đáng, có tầm chiến lược, nhìn xa, khoa học và thực tiễn sâu sắc.
Đối với công tác an ninh, đồng chí cho rằng phải rất chủ động, phải nắm tình hình, phải đánh địch từ xa, phải tạo cho được các tuyến phòng thủ liên hoàn, chặt chẽ từ trong ra ngoài. Những lời căn dặn của Chủ tịch nước Lê Đức Anh thể hiện tầm nhìn, sự bao quát đối với công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Những lời căn dặn ấy đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị. Không chỉ chỉ đạo thấu suốt về mặt chủ trương, chiến lược về vấn đề bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đồng chí Lê Đức Anh còn trực tiếp chỉ đạo một số vụ án lớn, phức tạp.
Điển hình là năm 1989, lực lượng an ninh phát hiện một số đối tượng phản động người Việt lưu vong liên kết hình thành tổ chức phản động với danh xưng “Liên đảng cách mạng Việt Nam” để chống phá cách mạng nước ta. Các đối tượng ráo riết chuẩn bị thực hiện âm mưu phá hoại tại một số mục tiêu ở trong nước, kích động biểu tình, bạo loạn lật đổ chế độ. Với tinh thần chủ động, lực lượng an ninh đã nắm được toàn bộ kế hoạch và di biến động của các đối tượng trong nước. Trước tính chất nghiêm trọng, phức tạp của vụ án, sau khi nghe báo cáo diễn biến hằng ngày, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã trực tiếp kiểm tra, chỉ thị lực lượng quân đội phối hợp với lực lượng Công an nhân dân triển khai các biện pháp ngăn chặn kịp thời âm mưu, hoạt động của nhóm phản động này; góp phần giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam.
Là cán bộ lão thành cách mạng, được tôi luyện, vào sinh ra tử, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí luôn giữ vững ý chí, phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, không ngừng rèn luyện, nâng cao tri thức, sáng tạo, quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong mọi công việc. Là một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt tiêu biểu, đồng chí đã mang hết tâm huyết, đóng góp nhiều ý kiến quan trọng vào những vấn đề lớn của đất nước, luôn đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc và nhân dân lên trên hết. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, với bao hiểm nguy, khó khăn, thử thách, đồng chí Lê Đức Anh luôn hoàn thành xuất sắc trọng trách trước Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân; đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Suốt cuộc đời, đồng chí sống giản dị, thanh bạch dù ở bất kỳ hoàn cảnh, môi trường nào. Đồng chí Lê Đức Anh là tấm gương sáng để đồng bào, đồng chí, cán bộ, chiến sĩ, trong đó có cán bộ, chiến sĩ lực lượng Công an nhân dân yêu quý, học tập và noi theo. Đánh giá về đồng chí, Đảng, Nhà nước khẳng định: “Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà chính trị, quân sự tài năng, một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của đồng chí Lê Đức Anh (01/12/1920 - 01/12/2020), lực lượng Công an nhân dân luôn khắc ghi những công lao, đóng góp to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và của dân tộc. Trong điều kiện và hoàn cảnh mới, lực lượng Công an nhân dân nguyện kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của các thế hệ cha anh, của đồng chí Lê Đức Anh, tiếp tục phấn đấu, rèn luyện theo tấm gương của đồng chí để ngày càng đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Đại tướng, GS.TS. Tô Lâm
Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an
Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng tài ba, có bản lĩnh quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và quân đội. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng chí Lê Đức Anh để lại những ấn tượng sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và xây dựng, củng cố, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân.
Quyết tâm bám trụ, khôi phục thế và lực, đánh địch bình định từ năm 1969 đến trước Hiệp định Pari tháng 01/1973
Giữa năm 1969, đồng chí Lê Đức Anh về Quân khu 9 công tác trong bối cảnh lực lượng vũ trang Quân khu 9 tổn thất lớn sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, gần như mất sức chiến đấu. Riêng Trung đoàn 1 của tôi có 3.000 người mà tổn thất chỉ còn 600 người, không còn sức đánh nữa, dạt xuống tận U Minh. Lúc đó, Bí thư Khu ủy, Chính ủy Quân khu và Tư lệnh Quân khu cũng băn khoăn. Do quân số quá thiếu không bổ sung kịp, Quân khu 9 buộc phải giải tán Trung đoàn 2 để lấy quân số bổ sung cho Trung đoàn 1, nhưng Trung đoàn 1 cũng chỉ có quân số trên dưới 600 quân. Khi đó, quân địch càn quét, đánh phá dữ dội, mở rộng diện bình định lấn chiếm, hình thành hệ thống đồn bốt dày đặc khắp xã, ấp. Cuối năm 1969, địch bình định lấn chiếm gần hết các vùng giải phóng trước đây, chỉ còn căn cứ U Minh và khu giải phóng Rừng Đước phía Nam tỉnh Cà Mau. Địch tác động đến đâu, tình hình xáo trộn đến đó. Lực lượng chính trị sa sút nghiêm trọng. Có nơi buông trôi sự lãnh đạo, quần chúng tự động né tránh bom đạn chạy ra vùng địch kiểm soát. Khu 9 có 50/250 xã có một số đảng viên rời khỏi địa bàn; 40 xã, mỗi xã có từ 1 đến 2 đảng viên; lực lượng du kích xã, ấp toàn Khu từ 45.000 người đầu năm 1968 chỉ còn lại dưới 6.000 người vào cuối năm 1969.
Đang trong giai đoạn khó khăn nhất, Trung ương Cục cử hai đồng chí về tăng cường cho Quân khu 9 là đồng chí Tám Thuận (tức đồng chí Võ Văn Kiệt) về làm Bí thư Khu ủy Khu 9 thay đồng chí Nguyễn Thành Thơ và đồng chí Chín Hòa (tức đồng chí Lê Đức Anh), Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Miền về làm Tư lệnh Quân khu 9 thay đồng chí Đồng Văn Cống (giữa năm 1969, đầu năm 1970); đồng thời, Bộ Tư lệnh Miền tăng cường cho Khu 9 Trung đoàn 3, Sư đoàn 9. Trước tình hình địch càn quét dữ dội, đóng đồn bốt khắp nơi, Khu ủy rời về Năm Căn, tỉnh Cà Mau, nhưng đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Võ Văn Kiệt kiên quyết không đi, cho cơ quan giãn cách ra các vùng đầm nước, địch khó có thể đánh được. Bộ Tư lệnh Quân khu 9 quyết định bám trụ ở U Minh Thượng, đồng thời triển khai Bộ Tư lệnh tiền phương Quân khu ở Long Mỹ (Cần Thơ) sát đồn địch. Khu ủy có hỏi tại sao không di chuyển theo Khu ủy, các đồng chí trả lời sẽ không nắm được chiến trường, không nắm được tình hình sẽ không chỉ đạo, xử trí được kịp thời tình huống, ảnh hưởng tới phong trào chung. Lúc đầu hai đồng chí Võ Văn Kiệt và Lê Đức Anh ở cùng một chỗ. Chúng tôi thấy ở như vậy sẽ bất lợi nên tách hai ông ra. Đồng chí Võ Văn Kiệt ở cách đồn 13, xã Vĩnh Viễn 400 m. Đồng chí Lê Đức Anh ở đồn Hai Tụi, xã Vĩnh Viễn cách đồn đồng chí Võ Văn Kiệt ở khoảng 200 đến 300 m. Vì tinh thần quyết tâm bám trụ như vậy, nên sự chỉ đạo chiến trường của lãnh đạo, chỉ huy Khu 9 rất sát thực tế, rất sát thực tiễn chiến trường. Hai đồng chí Võ Văn Kiệt và Lê Đức Anh luôn sát cánh cùng nhau trong suốt những tháng, năm gian khổ ấy. Và sau này, như các đồng chí biết, đồng chí Lê Đức Anh giữ cương vị Chủ tịch nước, đồng chí Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng Chính phủ.
Hạ quyết tâm đánh địch nống, lấn góp phần khẳng định con đường giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sau ngày Hiệp định Pari có hiệu lực
Sau Hiệp định Pari, đúng vào ngày 27/01/1973, theo chỉ đạo của Trung ương Đảng, các quân khu ở miền Nam ngừng bắn, kể cả Quân khu 8, bây giờ thuộc về Quân khu 9 cũng triệt để thực hiện ngừng bắn, nhưng riêng lực lượng vũ trang Quân khu 9 không ngừng bắn. Đồng chí Lê Đức Anh, Tư lệnh Quân khu 9 khẳng định sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc không ngừng bắn. Đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo, chỉ huy tất cả các trung đoàn (khi đó tôi đã là cán bộ trung đoàn) không nghe đài, không được ngừng bắn; Chỉ huy Quân khu cho ngừng bắn mới được ngừng bắn. Thời điểm đó, quân đội Sài Gòn nống, lấn, phản kích quyết liệt, cắm cờ khắp nơi. Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền điện hỏi tại sao Quân khu 9 không thực hiện mệnh lệnh ngừng bắn. Đồng chí Lê Đức Anh trả lời: Quân địch đánh chúng tôi thì chúng tôi đánh lại. Nếu chúng tôi không đánh lại quân địch thì chúng tôi biết đi đâu. Các đồng chí còn rút sang vùng biên giới gần Campuchia, rút lên rừng chứ chúng tôi có rừng đâu mà chạy. Đồng chí Lê Đức Anh tổ chức đánh lại quân địch đúng theo chủ trương đó và đã thu được những thắng lợi quan trọng, giữ được căn cứ, mở rộng vùng giải phóng nên địch phản ứng quyết liệt, sử dụng 75 tiểu đoàn đánh Quân khu 9.
Tháng 10/1973, cấp trên triệu tập đồng chí Lê Đức Anh lên gặp để phê bình Quân khu 9 về đánh địch nống, lấn, nhưng đồng chí Lê Đức Anh cử đồng chí Phó Tư lệnh Quân khu lên báo cáo. Cấp trên đã phê bình Quân khu 9 không thực hiện mệnh lệnh ngừng bắn của Trung ương. Trên thực tế, do thực hiện quyết tâm đánh địch nống, lấn, bảo vệ thực lực, tính mạng và tài sản của nhân dân mà Quân khu 9 không chỉ giữ vững được vùng giải phóng mà còn mở rộng vùng giải phóng. Cuối năm 1973, Bộ Quốc phòng chỉ đạo các quân khu được giáng trả các hoạt động nống, lấn của quân đội Sài Gòn. Đây cũng là một hoạt động thăm dò, khẳng định xem chính quyền Mỹ có quay trở lại can thiệp vào miền Nam nữa hay không? Sau đó, Bộ Quốc phòng chỉ đạo miền Đông giải phóng tỉnh Phước Long nhưng Mỹ đã không quay trở lại. Trung ương Đảng ta có thêm cơ sở vững chắc ban hành Nghị quyết Trung ương 21 để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Như vậy, đồng chí
Lê Đức Anh là người dám chịu trách nhiệm về quyết định của mình, khẳng định bản lĩnh, tư duy tầm nhìn chiến lược, kinh nghiệm qua nhiều trận mạc, đánh giá đúng tình hình, hiểu rõ âm mưu của địch và đã được thực tiễn chiến trường khẳng định là làm đúng.
Năm 1974, quay lại chiến trường miền Đông Nam Bộ trên cương vị là Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh cùng tổ chức 5 mũi đánh vào Sài Gòn: Quân đoàn 4 từ Xuân Lộc, Đồng Nai đánh thẳng vào Sài Gòn với ý định Quân đoàn 4 xây dựng từ Nam Bộ đánh chiếm Dinh Độc lập bắt chính quyền Sài Gòn đầu hàng, nhưng do Quân đoàn 4 phát triển khó khăn ở Xuân Lộc, Đồng Nai nên phát triển đến độ thì dừng lại; Quân đoàn 2 từ Vũng Tàu vượt sông Đồng Nai đánh thẳng vào chiếm được Dinh Độc lập; Quân đoàn 1 đánh từ Tây Ninh vào mấy sư đoàn địch ở Bình Dương, Sóng Thần; Quân đoàn 3 từ Bình Dương đánh xuống chiếm được sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn; Đoàn 232 do đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy cùng Sư đoàn bộ binh 9 từ Long An đánh ngược lên chiếm được Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn. Thực tế, năm mũi Quân giải phóng miền Nam đánh vào Sài Gòn thì chỉ có ba mũi vào được. Tổ chức một mũi đánh có cả lực lượng tăng - thiết giáp từ vùng miền Đông sông nước thu được thắng lợi cũng là một quyết sách tác chiến mạnh dạn, táo bạo của đồng chí Lê Đức Anh.
Nỗ lực chuẩn bị lực lượng cho chiến tranh từ thời bình
Sau ngày đất nước giành được độc lập, hòa bình năm 1975, đồng chí Lê Đức Anh được Trung ương Đảng điều động trở lại làm Tư lệnh Quân khu 9. Khi về làm Tư lệnh Quân khu 9,
dự cảm sẽ xảy ra chiến sự với quân Pôn Pốt, nên ông cho thành lập Sư đoàn bộ binh 330, chọn 3 trung đoàn mạnh nhất của Quân khu 9 lúc đó đưa vào đội hình Sư đoàn 330. Trung đoàn 1 bộ binh U Minh là Trung đoàn ba lần anh hùng. Trung đoàn 1 của Quân khu 8, lúc này về Quân khu 9 gọi là Trung đoàn 2 và Trung đoàn 3 của Quân khu 9 hầu hết là người Nam Bộ. Riêng đối với Sư đoàn này, đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo cho chiến sĩ ra quân, còn giữ lại toàn bộ đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm trận mạc để làm “vốn” ứng phó với tình huống nếu xảy ra chiến tranh. Chính vì thế, khi quân Pôn Pốt gây hấn trên địa bàn Quân khu 9, thì Quân khu 9 có lực lượng đánh lại, vừa giữ được biên giới, khiến cho quân địch không thể tiến vào sâu được, thậm chí còn tiêu diệt được một sư đoàn quân Pôn Pốt ở núi Phú Cường. Thế và lực của Quân khu 9 mạnh lên, bộ đội và nhân dân thương vong, tổn thất ít. Trong bối cảnh đó, Quân khu 7 và Quân đoàn 4 tác chiến gặp nhiều khó khăn. Quân Pôn Pốt tiến sâu vào đất liền (huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh). Trước tình hình đó, Bộ Quốc phòng phải điều Trung tướng Lê Đức Anh lên làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7; rút Thượng tướng Trần Văn Trà đang làm Tư lệnh Quân khu 7 về làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; đưa Quân đoàn 3 vào thay thế Quân đoàn 4 giữ biên giới Quân khu 7. Bộ Quốc phòng tiếp tục điều động, bổ sung lực lượng cho Quân đoàn 4 và các đơn vị Quân khu 7.
Bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, quyết đoán trước những khó khăn
Ngày 15/12/1982, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 07-NQ/TW về việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, sự nghiệp quốc phòng và thực hiện chế độ một người chỉ huy trong Quân đội, thành lập Hội đồng quân sự, Hội đồng chính trị các cấp theo mô hình của Quân đội Liên Xô. Hai đồng chí Bộ trưởng và Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị không tham mưu được cho Bộ Chính trị. Khi Bộ Quốc phòng cử đồng chí Trung tướng Đặng Vũ Hiệp, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị sang phổ biến Nghị quyết 07 cho chúng tôi, đồng chí Đặng Vũ Hiệp vừa sang báo cáo, đồng chí Lê Đức Anh nói: Anh phải về ngay, không được ở lại đây một đêm, anh về báo cáo với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị rằng: Chúng tôi chưa thể chấp hành Nghị quyết này, vì hoàn cảnh chúng tôi đang làm nhiệm vụ chiến đấu, còn chiến đấu thì còn sự lãnh đạo của Đảng, nếu không có Đảng lãnh đạo thì bộ đội không chiến đấu được. Khi nào rút quân về nước, chúng tôi sẽ thực hiện chủ trương của Bộ Quốc phòng sau. Cuối cùng, đồng chí Lê Đức Anh đã đúng. Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đảng ta đã nhận thấy những hạn chế của Nghị quyết 07 nên hai đồng chí Bộ trưởng và Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị phải chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước về việc này. Chỉ đạo tác chiến của đồng chí Lê Đức Anh ở chiến trường Campuchia rất sát. Quân tình nguyện Việt Nam tổ chức đánh vào hầu hết các vị trí chủ chốt của tàn quân Pôn Pốt, khiến cho chúng không thể phục hồi.
Chỉ đạo, chỉ huy luôn luôn sâu sát, nhạy bén
Tháng 12/1986, đồng chí Lê Đức Anh từ chiến trường Campuchia về Bộ Tổng Tham mưu làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông trực tiếp lên Hà Giang, Vị Xuyên “nằm” trên đó 15 ngày. Ông rút ra nhận xét thấy cách đánh của quân ta như thế không ổn, cần có sự thay đổi trong chỉ đạo điều hành tác chiến cho phù hợp hơn. Sau ngày nhận chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tháng 02/1987, ông triệu tập tư lệnh các quân khu về Bộ Quốc phòng nói rằng: Cách đánh một nước lớn như vậy là “chọc tức họ” và giao nhiệm vụ cho Tổng cục Chính trị do đồng chí Thượng tướng Nguyễn Quyết phụ trách in một số truyền đơn nói lên công lao của Đảng, Chính phủ và nhân dân Liên Xô, Trung Quốc đã giúp đỡ to lớn cho nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến. Ta bắn truyền đơn về phía họ, thấy mấy ngày họ không nổ súng bắn về phía quân ta. Ông quyết định rút bộ phận tiếp xúc trước rồi đến bộ phận bắn tỉa, quân họ cũng không bắn đuổi theo. Tiếp theo, đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo điều chỉnh thế bố trí chiến lược toàn quân, trong đó đưa Quân đoàn 3 từ phía Bắc vào Tây Nguyên - địa bàn chiến lược trọng yếu của đất nước.
Nắm bắt, quán triệt và xử lý tình hình trước khi Liên Xô sụp đổ
Tháng 6/1990, đồng chí Lê Đức Anh triệu tập tất cả tư lệnh các quân khu về Bộ Quốc phòng quán triệt với nhận định hết sức kịp thời: Đề phòng Liên Xô sụp đổ. Liên Xô sụp đổ là cú sốc rất lớn, có thể một số nước xã hội chủ nghĩa cũng tan rã, có thể Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, các đồng chí nắm chắc quân đội, không cho cán bộ, chiến sĩ đi phép, ở lại chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu (lệnh cấm trại). Ông chỉ đạo dứt khoát, trong lúc này quân đội chỉ được chấp hành mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, không chấp hành mệnh lệnh của bất cứ ai cả, sợ nhiều người ra lệnh sẽ lúng túng. Ngày 19/8/1991, Liên Xô sụp đổ, Sài Gòn xảy ra lộn xộn, nhiều người đã từng là sĩ quan quân đội Sài Gòn đeo quân hàm, cầm cờ ba que chạy ngoài đường. Chính đồng chí Út Liêm đang làm Tư lệnh Quân khu 7 đã nói với một bộ phận sĩ quan quân đội Sài Gòn đó rằng, bộ đội Quân khu 7 là “Bộ đội Cụ Hồ” chỉ đi theo Cụ Hồ, nếu các ông gây rối, chúng tôi sẽ xử lý các ông. Ông ra lệnh cho Trung đoàn vệ binh bắt tất cả những tên ngụy quân đeo quân hàm nhốt ở doanh trại Quân khu 7. Một thời gian sau khi tuyên truyền, giáo dục, ta đã thả hết số này, đất nước ta hoàn toàn ổn định.
Luôn tỉnh táo, nhạy bén, quyết đoán, kịp thời
Năm 1988, khi tình hình đất nước còn nhiều khó khăn, Quân tình nguyện Việt Nam vẫn còn đang chiến đấu trên chiến trường Campuchia, chưa rút hết về nước thì hải quân Trung Quốc đột nhiên đánh chiếm 7 điểm đảo thuộc khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam, trong đó có 6 bãi đá ngầm không đóng giữ. Tại đảo Gạc Ma, lực lượng quân đội của hai phía Việt Nam và Trung Quốc cùng đến, nhưng phía Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để chiếm đảo vào ngày 14/3/1988. Sau khi hải quân Trung Quốc chiếm 7 điểm đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, đối phương nhận thấy đây là thời cơ tốt nhất để đánh chiếm 9 điểm đảo còn lại nên cho tàu chiến chạy xung quanh với mục đích tạo cớ hòng âm mưu chiếm 9 đảo nổi của ta. Trước tình hình khẩn cấp đó, Tư lệnh Quân chủng Hải quân đề nghị Bộ Quốc phòng cho nổ súng, đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra mệnh lệnh: Tuyệt đối không được nổ súng, chỉ khi nào đối phương đánh vào đảo thì kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ đảo. Không tạo được cớ, hải quân đối phương không dám mạo hiểm đánh chiếm các đảo. Việt Nam giữ được an toàn toàn bộ số đảo còn lại. Quyết định của đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến lược, nhãn quan chính trị sắc sảo, nhận định âm mưu của đối phương, tình hình, tiên lượng, dự báo chính xác để có quyết định đúng đắn.
Cuối cùng, có thể khẳng định, đồng chí Lê Đức Anh là một vị tướng tài ba, bản lĩnh, quyết đoán sáng tạo; dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Đại tướng Phạm Văn Trà
Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
VĂN PHÒNG CHỦ TỊCH NƯỚC CHỦ ĐỘNG THAM MƯU, PHỐI HỢP VÀ TỔ CHỨC PHỤC VỤ CÁC HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI THEO TẤM GƯƠNG CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC, ĐẠI TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH
Chủ tịch nước Lê Đức Anh là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú cùng những cống hiến xuất sắc của đồng chí Lê Đức Anh là một tấm gương sáng về phẩm chất của người cán bộ cách mạng “tận trung với nước, tận hiếu với dân”. Trên cương vị người đứng đầu Nhà nước, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng, góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng về kinh tế - xã hội, từng bước đưa nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, quốc phòng, an ninh được củng cố, giữ vững và nâng cao vị thế của quốc gia trên trường quốc tế.
Nếu như Đại hội lần thứ VI (12/1986), Đảng ta chủ trương thực hiện công cuộc đổi mới, thì Đại hội lần thứ VII (6/1991) là nhiệm kỳ triển khai công cuộc đổi mới một cách toàn diện, trọng tâm là đổi mới nền kinh tế, hình thành nền kinh tế nhiều thành phần; đưa kinh tế quốc doanh ra hoạt động theo cơ chế thị trường; tìm cách mở cửa với bên ngoài. Chính vì vậy, tháng 10/1992, ngay khi vừa được Quốc hội bầu làm Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã đặc biệt quan tâm đến công tác đối ngoại. Những thành quả trong công tác đối ngoại của đồng chí ở thời điểm này có ý nghĩa bước ngoặt, đặc biệt là trong việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Đây là một trong những dấu ấn quan trọng trong công tác đối ngoại của Chủ tịch nước Lê Đức Anh.
Ở thời điểm đó, xúc tiến việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ là một nhiệm vụ khó khăn, bởi hai nước vừa trải qua một cuộc chiến tranh dài với nhiều tổn thất to lớn. Trước tình hình đó, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã lựa chọn cách tiếp cận thông qua trao đổi, hợp tác khoa học và coi đây là nhiệm vụ chính trị để phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Chủ tịch chọn Thiếu tướng, GS.TSKH. bác sĩ Nguyễn Huy Phan, Phó Giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 - chuyên gia đầu ngành y học phẫu thuật chỉnh hình - làm “người mở đầu”. Khi đi dự Hội nghị khoa học quốc tế ở Pari, Giáo sư Phan đã trình bày công trình “phẫu thuật chỉnh hình” của mình, được các nhà khoa học đánh giá cao. Tại Hội nghị, các nhà khoa học Mỹ đã có lời mời Giáo sư Phan sang thăm Mỹ. Kết quả của các lần trao đổi sau đó, đoàn bác sĩ Mỹ đã sang Việt Nam phẫu thuật cho trẻ em khuyết tật của nước ta.
Sau bước mở đầu thành công bằng con đường khoa học, Nhà nước ta tiến hành bước tiếp theo là tạo điều kiện thuận lợi cho phía Mỹ trở lại Việt Nam tìm người Mỹ mất tích và hài cốt lính Mỹ chết trong chiến tranh. Đây là vấn đề Chính phủ Mỹ đặc biệt quan tâm trong cuộc chiến tranh Việt Nam, nên ngay sau khi kết thúc chiến tranh, Mỹ đã cử người sang Việt Nam để đối thoại nhằm giải quyết vấn đề này. Đây cũng là một trong những bước căn bản để ngày 03/02/1994, Tổng thống Mỹ Bill Clinton tuyên bố chấm dứt lệnh cấm vận thương mại kéo dài 19 năm đối với Việt Nam.
Trong nhiệm kỳ Đại hội lần thứ VII của Đảng, Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, thiết lập quan hệ với Mỹ. Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN. Đồng thời, Việt Nam có quan hệ với hầu hết các nước trên thế giới. Nhiều nước trên thế giới cũng mở rộng quan hệ hợp tác hai bên cùng có lợi với Việt Nam. Trên cương vị Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã tiếp xúc, hội đàm với một số nguyên thủ quốc gia khi đến thăm Việt Nam; đồng thời cũng thực hiện nhiều chuyến thăm hữu nghị đến các nước: sang Cộng hòa Pháp dự Lễ Kỷ niệm 50 năm Ngày chiến thắng phát xít và cùng với hơn 50 vị nguyên thủ quốc gia, thủ tướng và trưởng đoàn của 80 nước tham dự Lễ Kỷ niệm tại Quảng trường Khải hoàn môn và chứng kiến quốc kỳ Việt Nam được trang trọng kéo lên cùng với quốc kỳ của các nước; tham dự Lễ Kỷ niệm 50 năm thành lập Liên hợp quốc tại New York (Mỹ). Trong thời điểm này, Việt Nam đã có quan hệ với 167 nước trong tổng số 185 nước là thành viên của Liên hợp quốc. Chủ tịch nước Lê Đức Anh vinh dự trở thành nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Việt Nam tham dự một hội nghị đa phương mang tính toàn cầu.
Trên cương vị người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã thực hiện và triển khai một cách thận trọng, nghiêm túc, nhưng cũng hết sức tích cực chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa. Những hoạt động đối ngoại nói trên đã thu được những kết quả rất quan trọng. Qua những hoạt động của người đứng đầu Nhà nước đã làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn đất nước và con người Việt Nam, hiểu rõ và ghi nhận chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cùng có lợi. Kết quả hoạt động tích cực của công tác đối ngoại cùng với những thành tựu quan trọng của công cuộc đổi mới ở giai đoạn này đã thực sự nâng tầm vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Chủ trương của Đảng ta cũng là phương châm hành động: Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước và các dân tộc trên thế giới đã trở thành hiện thực.
Nhờ nắm vững đường lối đối ngoại, đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “thêm bạn bớt thù”, cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, “dĩ bất biến ứng vạn biến”2, đồng chí Lê Đức Anh đã xử lý rất thành công những vấn đề phức tạp trong quan hệ quốc tế, góp phần bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Mỹ và các nước trong khu vực, phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo môi trường hòa bình, ổn định để thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Phát huy thành tựu xây dựng, phát triển đất nước, đồng thời học tập tấm gương hết lòng, hết sức phụng sự đất nước, dân tộc của Chủ tịch nước Lê Đức Anh, trong những năm qua, Văn phòng Chủ tịch nước luôn xác định công tác đối ngoại là nhiệm vụ quan trọng, chủ động phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương, Văn phòng Tổng Bí thư và các cơ quan liên quan tham mưu, đề xuất, trình xin ý kiến Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước về chương trình đối ngoại, đón tiếp một số đoàn nguyên thủ quốc gia của các nước có kế hoạch thăm Việt Nam, phục vụ lãnh đạo Đảng, Nhà nước triển khai các hoạt động đối ngoại song phương, đa phương, bảo đảm thiết thực, tăng cường hợp tác hữu nghị, góp phần thực hiện hiệu quả đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước.
Trong nhiệm kỳ 2011 - 2016, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, nhưng chương trình công tác đối ngoại đã được triển khai tích cực và hiệu quả. Trong nhiệm kỳ, Chủ tịch nước đã dẫn đầu các đoàn đại biểu cấp cao của Nhà nước ta thăm cấp nhà nước tới 22 quốc gia trên thế giới; đón tiếp, hội đàm với 42 đoàn nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu các tổ chức quốc tế lớn thăm Việt Nam. Ngoài ra, Chủ tịch nước đã tham dự nhiều hội nghị, sự kiện quốc tế quan trọng như: Hội nghị cấp cao thường niên APEC, Hội nghị cấp cao Á - Phi, Lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Đại hội đồng Liên hợp quốc tại Hoa Kỳ; dự Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại tại Liên bang Nga...
Nhiệm kỳ 2016 - 2020, Chủ tịch nước đã đi thăm 19 quốc gia trên thế giới và đón tiếp, hội đàm với 26 đoàn nguyên thủ quốc gia thăm Việt Nam, tiếp 212 đoàn khách quốc tế đến chào xã giao. Phó Chủ tịch nước đã đi thăm 10 nước và dự một số sự kiện quan trọng của các nước như: Lễ Đăng quang của Quốc vương Brunây, Lễ Hỏa táng Nhà vua Thái Lan, Lễ Nhậm chức của Tổng thống và Phó Tổng thống Inđônêxia, đón 5 đoàn khách cấp cao nước ngoài thăm Việt Nam, tiếp 91 đoàn khách quốc tế đến chào xã giao. Trong các chuyến thăm nước ngoài của Chủ tịch nước và Phó Chủ tịch nước cũng như trong các chuyến thăm Việt Nam của nguyên thủ và lãnh đạo các nước, và trong các cuộc tiếp xúc với các đoàn khách nước ngoài, Chủ tịch nước và Phó Chủ tịch nước đã trao đổi, hội đàm, bàn về các vấn đề song phương và đa phương cùng quan tâm, góp phần thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và các nước, các đối tác quốc tế đi vào chiều sâu, trong đó, nhiều chuyến thăm đã mở ra một giai đoạn phát triển mới giữa Việt Nam với các nước như: chuyến thăm Trung Quốc, Hoa Kỳ năm 2013, chuyến thăm Nhật Bản năm 2014. Trong các chuyến thăm, lãnh đạo các nước đã đón tiếp đoàn Việt Nam ở mức nghi lễ cao, thể hiện sự coi trọng quan hệ hợp tác phát triển với Việt Nam, đánh giá cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Việt Nam cũng đã dành sự đón tiếp chu đáo và hết sức trọng thị với các đoàn khách nước ngoài, thể hiện tình cảm thân thiện và mến khách của đất nước và con người Việt Nam.
Ngoài ra, Văn phòng Chủ tịch nước cũng đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan làm tốt công tác chuẩn bị để Chủ tịch nước tham dự 3 hội nghị quốc tế và chủ trì một hội nghị quốc tế lớn tổ chức ở Việt Nam (APEC 2017). Phó Chủ tịch nước tham dự 8 hội nghị quốc tế quan trọng được tổ chức ở nước ngoài.
Bên cạnh các hoạt động chính thức tại các diễn đàn quốc tế, Chủ tịch nước và Phó Chủ tịch nước cũng đã tiếp xúc với nhiều nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo các nước trên thế giới, trao đổi về nhiều vấn đề hợp tác song phương, các vấn đề khu vực và quốc tế mà hai bên cùng quan tâm, góp phần đưa quan hệ giữa Việt Nam và các nước đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước. Đặc biệt, với vai trò chủ nhà “Năm APEC 2017 của Việt Nam”, Chủ tịch nước đã chủ trì thành công Hội nghị Cấp cao APEC 2017 với sự tham dự của nhiều nguyên thủ và lãnh đạo các nước trên thế giới, để lại dấu ấn sâu sắc đối với bạn bè quốc tế. Việt Nam cũng đã để lại ấn tượng tốt đẹp và nâng cao uy tín đối với cộng đồng quốc tế với việc được lựa chọn làm địa điểm tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần thứ 2 vào tháng 02/2019. Trong thời gian diễn ra Hội nghị, Chủ tịch nước đã có các cuộc hội kiến, hội đàm quan trọng với Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump và Chủ tịch Triều Tiên Kim Châng In, thúc đẩy quan hệ song phương với các nước và góp phần trong nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế vì hòa bình ở khu vực và thế giới.
Các hoạt động đối ngoại đã góp phần đưa đất nước phát triển đúng xu thế của thời đại, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Với các nước lớn, Việt Nam đã xây dựng được các khuôn khổ quan hệ ổn định, cùng có lợi, phù hợp với lợi ích của đất nước về lâu dài. Các nước lớn cũng đặt Việt Nam ở vị trí ngày càng cao trong chiến lược của họ ở khu vực và trên thế giới. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; có quan hệ đối tác chiến lược, toàn diện với 30 nước. Đồng thời, Việt Nam đã nỗ lực phát triển quan hệ ngày càng thiết thực với các nước láng giềng và bạn bè truyền thống.
Về kinh tế, Việt Nam đã trở thành mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế thông qua ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do, qua đó tạo ra những động lực to lớn cho phát triển. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đánh giá Việt Nam nằm trong số 20 nền kinh tế có đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu năm 2019. Mặc dù dịch Covid-19 đã và đang gây ra suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng Việt Nam vẫn tăng trưởng dương vào loại cao trong khu vực. Hội nhập quốc tế về chính trị - an ninh - quốc phòng, xã hội - văn hoá và các lĩnh vực khác ngày càng sâu sắc.
Quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm các chủ trương, nghị quyết của Đảng, đồng thời học tập tấm gương Chủ tịch nước Lê Đức Anh, những năm qua, cán bộ, công chức Văn phòng Chủ tịch nước luôn đoàn kết, thống nhất, nêu cao tinh thần trách nhiệm, nỗ lực phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ theo kế hoạch đề ra, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu, tổng hợp, phục vụ các hoạt động đối nội, đối ngoại của Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước.
Riêng năm 2019, Văn phòng đã phối hợp chuẩn bị tài liệu, công tác lễ tân, hậu cần phục vụ Tổng Bí thư, Chủ tịch nước và Phu nhân đón một số đoàn cấp cao nước ngoài thăm chính thức Việt Nam như: Đón Tổng thống Áchentina và Phu nhân; Chủ tịch Đảng Lao động Triều Tiên Kim Châng In; Quốc vương Brunây Hassanal Bolkiah; Hội đàm với Tổng thống Hoa Kỳ Donal Trump nhân dịp Hội nghị Thượng đỉnh Hoa Kỳ - Triều Tiên tại Hà Nội. Phục vụ Tổng Bí thư, Chủ tịch nước thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và thăm cấp nhà nước Vương quốc Campuchia; tiếp gần 20 đoàn khách quốc tế đến chào xã giao, trong đó có nhiều vị lãnh đạo quốc hội, chính phủ, các tổ chức chính trị - xã hội; tiếp 31 đại sứ nước ngoài trình quốc thư; bổ nhiệm 24 đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại các nước; phong hàm đại sứ cho 11 cán bộ của Bộ Ngoại giao.
Phục vụ Phó Chủ tịch nước đón Công chúa kế vị của Thụy Điển và Phu quân, Phó Tổng thống kiêm Chủ tịch Thượng viện Ấn Độ Venkaiah Naidu thăm chính thức Việt Nam; tiếp gần 30 đoàn khách quốc tế đến thăm, chào xã giao; tiếp 12 đại sứ các nước đến chào từ biệt; trao quyết định bổ nhiệm 16 đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại các nước trên thế giới; dự Hội nghị lòng tin châu Á tổ chức tại Tátgikixtan; dự Hội nghị Thượng đỉnh Phụ nữ toàn cầu tại Thụy Sỹ và thăm chính thức Cuba; dự Lễ Nhậm chức Tổng thống và Phó Tổng thống Inđônêxia; dự Hội nghị Cấp cao Phong trào không liên kết tại Agiécbaidan; dự và phát biểu tại Lễ Kỷ niệm Tết cổ truyền của Lào; chúc mừng Tân Nhật hoàng Naruhito nhậm chức tại Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam...
Các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong năm qua đã góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của nước ta trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới; củng cố, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm 2020, đại dịch Covid-19 bùng phát trên phạm vi toàn cầu và trở thành cuộc khủng hoảng toàn diện, tác động mạnh mẽ, sâu rộng làm đảo lộn mọi hoạt động trong đời sống quốc tế. Trước bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp ở trong nước và trên thế giới, việc triển khai các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã bị ảnh hưởng không nhỏ, nhiều hoạt động trong chương trình đối ngoại của Chủ tịch nước và Phó Chủ tịch nước đã phải tạm hoãn hoặc chuyển sang thời điểm khác phù hợp. Tuy nhiên, với sự tham mưu, đề xuất sáng tạo, linh hoạt của các cơ quan chức năng, công tác tổ chức kịp thời, hiệu quả của Văn phòng Chủ tịch nước, Chủ tịch nước đã có một số hoạt động đối ngoại quan trọng như phát biểu ghi hình trực tuyến tại Lễ Khai mạc Đại hội đồng Liên nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á lần thứ 41 (AIPA 41) tổ chức tại Hà Nội; phát biểu ghi hình trực tuyến tại Phiên Thảo luận chung cấp cao khóa 75 Đại hội đồng Liên hợp quốc... Các hoạt động đó đã thể hiện sự đóng góp quan trọng của Việt Nam trong năm 2020 khi Việt Nam giữ chức Chủ tịch ASEAN và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021. Chủ tịch nước đã tiến hành điện đàm với lãnh đạo một số nước lớn và láng giềng quan trọng như: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình; Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Bunnhăng Vôlachít; Chủ tịch Đảng Nhân dân Campuchia, Thủ tướng Campuchia Hunsen; Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin để trao đổi về vấn đề hợp tác song phương và đa phương, đặc biệt là hợp tác phòng, chống đại dịch Covid-19.
Bên cạnh các hoạt động đối ngoại Nhà nước chính thức, Chủ tịch nước và Phó Chủ tịch nước luôn quan tâm đến các hoạt động đối ngoại nhân dân, gặp gỡ, tiếp xúc với bà con kiều bào Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài trong các chuyến công tác nước ngoài hoặc qua các hoạt động đón Tết cổ truyền hằng năm tổ chức ở Việt Nam như Chương trình Xuân quê hương, góp phần to lớn vào việc động viên, kêu gọi bà con hướng về quê hương, Tổ quốc, xây dựng đất nước ngày càng tươi đẹp. Chủ tịch nước và Phó Chủ tịch nước cũng luôn quan tâm đến các cá nhân, tổ chức nước ngoài có công trong việc củng cố tình đoàn kết và thúc đẩy quan hệ hữu nghị tốt đẹp với Việt Nam bằng việc trao tặng các huân, huy chương cao quý của Việt Nam.
Các hoạt động đối ngoại quan trọng của Chủ tịch nước và Phó Chủ tịch nước đã để lại những ấn tượng hết sức tốt đẹp với bạn bè quốc tế, thể hiện Việt Nam là đất nước thân thiện, mến khách, luôn sẵn sàng hợp tác với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, góp phần bảo vệ hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Thành công đó có sự đóng góp không nhỏ của các cán bộ, công chức Văn phòng Chủ tịch nước.
Có thể nói, những thành quả to lớn trong công tác đối ngoại của Chủ tịch nước Lê Đức Anh là bài học quý giá để các thế hệ cán bộ, công chức, người lao động Văn phòng Chủ tịch nước nghiên cứu, trau dồi, học tập và vận dụng trong thực tiễn, góp phần tổ chức thực hiện hiệu quả các chương trình đối ngoại của Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước.
ĐÀO VIỆT TRUNG
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước
Đại tướng Lê Đức Anh là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người con ưu tú của quê hương Thừa Thiên Huế, người chỉ huy tham mưu chiến lược xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hơn 80 năm tham gia hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Đức Anh có gần 50 năm phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đảm nhiệm nhiều trọng trách của quân đội, của Đảng, Nhà nước. Dù ở hoàn cảnh nào đồng chí cũng luôn nỗ lực phấn đấu, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, đồng chí đã mang hết nhiệt huyết, đóng góp nhiều ý kiến quan trọng vào những vấn đề lớn của đất nước. Những phẩm chất nổi bật của một nhà lãnh đạo xuất sắc ở đồng chí Lê Đức Anh được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, vấn đề lớn, nhất là trong những điều kiện, hoàn cảnh đặc biệt, thể hiện rõ phẩm chất của một nhà chỉ huy tham mưu chiến lược xuất sắc:
Một là, những chủ trương, đề xuất tham mưu chiến lược xuất sắc trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
Trong hai cuộc kháng chiến, đồng chí trực tiếp chỉ huy các đơn vị chiến đấu trên nhiều cương vị, trong điều kiện vô vàn khó khăn ác liệt, song với tư chất người chỉ huy mưu trí, dũng cảm, kiên trung, tư duy quân sự tài ba, linh hoạt, đồng chí đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Tháng 11/1949, đồng chí được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Đến tháng 01/1950, Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn mở chiến dịch Bến Cát. Chiến dịch này, ngoài việc chỉ huy các đơn vị làm tốt công tác chuẩn bị, đồng chí còn phát huy tốt trí tuệ tập thể, tìm ra cách đánh hay để chiến dịch giành thắng lợi. Từ sáng kiến về đánh tháp canh bê tông cốt thép của địch đạt hiệu quả, đồng chí đã động viên anh em sáng tạo cách đánh dùng đạn lõm bắn thủng lỗ ở thành tháp canh, sau đó lao gậy đầu buộc bộc phá qua lỗ thủng đó vào bên trong tiêu diệt địch. Hay vận dụng 2 cách đánh đồn bằng phương pháp sử dụng đạn lõm, bộc phá để tiêu diệt lô cốt đầu cầu; hoặc sử dụng 2 mũi đặc công cùng tiến hành mở 2 cửa mở cho trận đánh đồn, gọi là “cách đánh đặc công”. Nhờ vận dụng linh hoạt, sáng tạo cách đánh, Chiến dịch Bến Cát nhanh chóng giành thắng lợi, đánh dấu bước sáng tạo, trưởng thành của lực lượng vũ trang Khu 7, đưa phong trào kháng chiến của quân và dân miền Đông Nam Bộ phát triển. Tháng 12/1952, đồng chí Lê Đức Anh được mời ra Bắc báo cáo kinh nghiệm đánh đồn, tháp canh của địch, được gặp và báo cáo thành tích với Chủ tịch Hồ Chí Minh về đánh tháp canh và đồn địch của bộ đội Nam Bộ. Những kinh nghiệm này được tuyên truyền, phổ biến, vận dụng rộng rãi trên khắp chiến trường, góp phần quan trọng cùng nhân dân cả nước đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đến thắng lợi.
Năm 1955, trên cương vị Cục phó Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu, đồng chí Lê Đức Anh được giao nghiên cứu, xây dựng kế hoạch phòng thủ bờ biển từ Quảng Ninh vào Quảng Bình. Đây là công trình mới, công phu và rất khó vì chưa ai làm, chưa ai biết. Sau khi đi khảo sát ở nước bạn về, đồng chí chủ trì cuộc họp nghiên cứu vận dụng vào điều kiện địa hình Việt Nam và thống nhất các nội dung báo cáo Bộ. Được Bộ nhất trí, đồng chí tổ chức phổ biến, hướng dẫn các quân khu xây dựng công trình theo bản thiết kế phù hợp với cách đánh đã được Bộ phê duyệt và trực tiếp chỉ đạo Quân khu Tả ngạn và Quân khu Hữu ngạn khẩn trương xây dựng các công trình ở căn cứ chiến lược và công trình cho những cơ quan trọng yếu, công trình ở vùng biển đảo. Các công trình nhanh chóng hoàn thành đã phát huy tốt tác dụng trong chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ra miền Bắc.
Đầu những năm 1960, cuộc kháng chiến ở miền Nam có những bước phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi sự chi viện ngày càng nhiều từ hậu phương lớn. Tổng Tham mưu trưởng giao Cục Quân lực nghiên cứu tổ chức tăng cường vận tải đường bộ và đường thủy để chi viện cho miền Nam. Trên cương vị Cục trưởng Cục Quân lực, đồng chí chỉ đạo các đơn vị khẩn trương triển khai tổ chức lực lượng vận tải, mở cơ sở đóng tàu biển ở nước bạn. Sau một thời gian ngắn, tàu trọng tải 500 tấn đầu tiên hạ thủy, bổ sung vào “Đội tàu không số” theo đường Hồ Chí Minh trên biển, chi viện hiệu quả cho chiến trường miền Nam. Bên cạnh đó, đồng chí Lê Đức Anh còn chỉ đạo Cục Quân lực xây dựng hoàn chỉnh “Kế hoạch tổ chức trang bị và xây dựng cơ sở vật chất cho Quân đội (1961-1965)”, được Quân ủy Trung ương đánh giá cao. Nhờ sự nỗ lực cố gắng của Cục Quân lực, đến cuối năm 1963, Quân đội ta đã có bước trưởng thành về tổ chức biên chế. Các sư đoàn, lữ đoàn bộ binh, binh chủng của ta được trang bị tương đối hiện đại, khả năng cơ động, chiến đấu được nâng cao, góp phần bảo vệ vững chắc miền Bắc và đáp ứng yêu cầu mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Từ năm 1963-1966, đồng chí được điều động vào hoạt động ở Chiến trường B2 với cương vị là Tổng Tham mưu phó Quân đội nhân dân Việt Nam, kiêm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Miền. Bộ Chỉ huy Miền giao đồng chí Lê Đức Anh tổ chức lực lượng tại chỗ đánh địch. Trên cơ sở nắm chắc tình hình, đồng chí đã chỉ huy cơ quan tổ chức các “ấp, xã chiến đấu”, địch chưa đến thì bung ra tìm địch mà đánh, bám địch mà diệt, tiêu hao địch rộng rãi, vừa chiến đấu, vừa bảo đảm phục vụ chiến đấu, bảo vệ cơ quan, kho tàng, duy trì sinh hoạt bình thường để đánh lâu dài. Mặt khác, đồng chí trực tiếp giao nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ đầu ngành trong cơ quan Bộ Chỉ huy Miền, mỗi ngành tổ chức thành một “huyện đội”, do chủ nhiệm ngành làm “huyện đội trưởng”. Trong đó, trận địa chiến đấu trên địa bàn một huyện có các “xã chiến đấu”, “ấp chiến đấu”: Từ 20 đến 30 người tổ chức thành một “ấp chiến đấu” và có một tiểu đội du kích; từ 2 đến 3 “ấp chiến đấu” thành 1 “xã chiến đấu”. Xã có 3 đội du kích, huyện có đại đội cơ động. Công sự đào hố cá nhân và giao thông hào là chủ yếu, không làm hầm kiên cố. Cứ 5 đến 10m đào một hố cá nhân. Các cơ quan, đơn vị phải đào hầm bí mật dự trữ 3 tháng lương thực, thực phẩm. Các cơ quan, đơn vị chủ động kiểm tra công tác chuẩn bị, bổ sung phương án chiến đấu và hiệp đồng tác chiến chặt chẽ… Với cách tổ chức chỉ huy chặt chẽ, khoa học, phù hợp của đồng chí Lê Đức Anh, các huyện trên địa bàn tác chiến không còn vùng trắng, đều được tổ chức đủ lực lượng “ấp”, “xã”, “huyện” chiến đấu. Bước vào chiến đấu, tinh thần chủ động “tìm Mỹ mà đánh, tìm Mỹ mà diệt” của anh em rất cao. Thông qua cách tổ chức lực lượng linh hoạt, khoa học đó, các đơn vị của Bộ Chỉ huy Miền đã tận dụng thế mạnh địa bàn, phát huy sức mạnh đánh bại cuộc hành quân Gianxơn Xiti của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn đánh chiến khu Dương Minh Châu ở Bắc Tây Ninh, nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não và chủ lực của ta.
Năm 1967, thực hiện quyết định của Bộ Chính trị về tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đồng chí cùng Bộ Chỉ huy Miền nghiên cứu, đánh giá khả năng hành động của bộ đội, nổi dậy của quần chúng cũng như binh biến của quân đội, chính quyền Sài Gòn để xây dựng kế hoạch, chỉ đạo các lực lượng làm tốt công tác chuẩn bị. Đến cuối năm 1967, địa bàn Quân khu 7 thiết lập được 19 “lõm” chính trị ngay sát những mục tiêu trọng yếu của địch, trong đó có 325 gia đình cơ sở, 400 điểm ém quân, 12 kho vũ khí. Với kỹ thuật ngụy trang mưu trí, các đơn vị đã vượt qua hệ thống kiểm soát, tuần tra dày đặc của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chuyển vào nội thành một khối lượng lớn vũ khí để chuẩn bị chiến đấu. Quá trình tác chiến, đồng chí Lê Đức Anh được giao chỉ huy bộ đội hướng Tây Sài Gòn (từ Long An đánh vào Tổng nha Cảnh sát và Cảnh sát Đô thành). Địa hình hướng này có nhiều vật cản, sình lầy, cơ động lực lượng khó khăn, nhưng đồng chí đã động viên anh em, phân công chỉ huy, tổ chức lực lượng chặt chẽ, vì thế, các đơn vị đã khắc phục vượt khó, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968.
Cuối năm 1968, nhận thức của cán bộ, chiến sĩ Quân khu 9 về âm mưu, thủ đoạn của địch còn đơn giản, nhiều địa bàn đóng quân bị địch phản công chiếm đất, chiếm dân, các tổ chức quần chúng trên địa bàn không còn là chỗ dựa an toàn cho bộ đội hoạt động, phong trào cách mạng sa sút, trong khi địch tổ chức càn quét đánh phá ác liệt vào U Minh - cơ sở hoạt động cách mạng của ta. Đầu năm 1969, trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí Lê Đức Anh quyết định Bộ Tư lệnh Quân khu bám trụ tại U Minh Thượng để tạo thế xen cài với địch, tiện chỉ huy hiệp đồng tác chiến. Đồng thời, chủ động nghiên cứu, nắm chắc tình hình, chỉ huy cơ quan, đơn vị bám địa bàn, tập trung xây dựng và huấn luyện lực lượng, củng cố phong trào du kích, khôi phục lại cơ sở quần chúng cách mạng, đưa cán bộ đã ly hương trở lại địa bàn nắm quần chúng và lực lượng vũ trang để đánh địch. Chỉ đạo lực lượng du kích 10 xã thuộc các huyện: An Biên, Vĩnh Thuận, Rồng Giềng, Thới Bình... thực hiện đánh nhỏ lẻ tiêu hao sinh lực địch. Chỉ đạo các tỉnh trên địa bàn: Cần Thơ, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh... phát huy lực lượng 3 mũi tại chỗ (quân sự, chính trị, binh vận) tích cực bao vây, tập tích, phục kích tiêu diệt địch. Những địa bàn bị địch chiếm đóng, việc bám trụ rất khó khăn, đồng chí Lê Đức Anh phân công cán bộ các đơn vị thuộc quyền bí mật cài cắm vào địa bàn thực hiện 3 bám: bám đất, bám dân, bám địch. Để giải quyết vấn đề thiếu đạn dược, nhất là đạn hỏa lực trong chiến đấu, đồng chí chỉ đạo bộ đội cùng nhân dân phát động phong trào dùng vũ khí tự tạo từ bom đạn lép và súng đạn thu được của địch, kết hợp sử dụng chiến thuật “đặc công hóa bộ binh” để tiêu diệt các ụ súng đầu cầu. Ngoài ra, mỗi tỉnh cử 1 tiểu đoàn, hằng ngày qua biên giới Campuchia gùi đạn về phục vụ chiến đấu. Đồng thời, thường xuyên bàn bạc thống nhất trong chỉ huy, phân công chỉ huy phụ trách trên từng hướng, từng địa bàn tác chiến, giúp đỡ các cơ quan, đơn vị giải quyết khó khăn, vướng mắc. Nhờ cách chỉ huy linh hoạt, năm 1971-1972, lực lượng dân quân du kích trên địa bàn Quân khu 9 tăng 50%, bộ đội địa phương cấp tỉnh, huyện tăng từ 20 đến 50%, hơn 1.000 ấp bị địch kìm kẹp đều có tổ chức đảng hoạt động, các đơn vị chủ lực của Quân khu 9 đứng vững trên địa bàn. Trước tình hình chiến trường Đông Dương đang giành nhiều thắng lợi, đồng chí chỉ huy Quân khu 9 mở đợt tiến công vào U Minh, tiêu diệt 4 chi khu, 2 yếu khu, 6 căn cứ trung đoàn, tiểu đoàn, phá hủy 916 đồn bốt, diệt 12.000 tên địch, giải phóng 400 ấp với gần 80 vạn dân2. Thắng lợi của lực lượng vũ trang Quân khu 9 làm thay đổi cục diện chiến trường, từ chỗ bị địch lấn chiếm gần hết đất, hết dân (chỉ còn khoảng 2.000 dân), quân và dân địa bàn đã chủ động tiêu diệt địch, mở rộng vùng giải phóng, tạo thế vững chắc để tiến công địch.
Đầu năm 1973, quân đội và chính quyền Sài Gòn ráo riết thực hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” cắm cờ giành đất, giành dân, lấy địa bàn Tây Nam Bộ làm trọng điểm, trước khi Hiệp định Pari có hiệu lực, hòng xóa thế trận chiến tranh nhân dân xen kẽ của ta, đẩy ta ra khỏi vùng đồng bằng đông dân. Trước thực tế đó, đồng chí báo cáo đề nghị Bộ Tư lệnh Miền và Trung ương về giải pháp đánh địch vi phạm Hiệp định, kiên quyết đánh trả các cuộc hành quân lấn chiếm của địch. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Tư Lệnh và Chính ủy quân khu, lực lượng vũ trang Quân khu 9 đã đánh bại cuộc tiến công của 75 tiểu đoàn địch, giữ vững các trọng điểm, tạo thế và lực mới, xây dựng, củng cố mọi mặt. Trước quyết sách sáng tạo, đúng đắn đó, Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền đã chỉ đạo các lực lượng liên tục tiến công làm thất bại kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của địch.
Năm 1974, với cương vị Phó Tư lệnh Bộ Chỉ huy Miền, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ tham gia chỉ đạo Chiến dịch Đường 14 - Phước Long. Sau 24 ngày chiến đấu tiến công, chiều ngày 06/01/1975, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ huy các đơn vị Bộ Chỉ huy Miền làm chủ thị xã Phước Long, tiêu diệt và phá hủy nhiều lực lượng, phương tiện của địch, hoàn thành mục tiêu chiến dịch. Thắng lợi của chiến dịch này thực sự là “đòn trinh sát chiến lược”, khẳng định Mỹ khó lòng can thiệp trở lại đối với miền Nam khi chủ lực ta đánh lớn. Từ cơ sở đó, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định thông qua kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh tháng 4/1975, trên cương vị Phó Tư lệnh Chiến dịch, đồng chí được giao chỉ huy cánh quân Tây - Tây Nam. Đây là một trong những hướng có địa hình phức tạp, nhiều sông ngòi, kênh mương trong khi phương tiện vượt sông của ta còn hạn chế. Đồng chí chỉ đạo lực lượng đặc công bí mật chiếm giữ không cho địch phá những cây cầu trọng yếu trên đường vào Sài Gòn khi chúng rút lui; vận động nhân dân địa phương giúp đỡ làm đường, ủng hộ phương tiện vượt sông bảo đảm bí mật. Đồng thời, đồng chí tổ chức giao nhiệm vụ cụ thể cho từng lực lượng, phân công chỉ huy hướng dẫn, giúp đỡ, giải quyết khó khăn cho các đơn vị. Nhờ đó, cánh quân do đồng chí chỉ huy đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần cùng quân và dân cả nước giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Hai là, những chủ trương, đề xuất tham mưu chiến lược xuất sắc thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-1992)
Sau ngày đất nước thống nhất, cùng với nhân dân cả nước khôi phục phát triển kinh tế - xã hội, quân đội còn tập trung kiện toàn tổ chức lực lượng và điều chỉnh thế bố trí thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giai đoạn này, đất nước phải tiến hành cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Với tư duy một nhà chỉ huy tham mưu chiến lược trong quân đội, đồng chí luôn hoàn thành xuất sắc chức trách được giao. Năm 1977, quân phản động Pôn Pốt ở Campuchia tiến hành đổ bộ đánh chiếm đảo Phú Quốc, tiến công tuyến biên giới Tây Nam, thực hiện chính sách tàn bạo đối với nhân dân ta. Trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí chỉ huy các đơn vị chủ lực, bộ đội địa phương khẩn trương sẵn sàng chiến đấu, xây dựng các tiểu đoàn chiến đấu mạnh, chuyển các tiểu đoàn khung huấn luyện thành tiểu đoàn đủ quân. Mỗi tỉnh tổ chức 1 đại đội pháo, 1 đại đội biên phòng; mỗi huyện tổ chức 1 đại đội dân quân du kích; mỗi xã tổ chức 1 đến 2 tiểu đội du kích tập trung. Thực hiện sự chỉ đạo của trên, đồng chí chỉ huy các đơn vị đánh địch xâm phạm biên giới (An Giang, Kiên Giang), bảo vệ nhân dân. Đồng chí chỉ đạo các đơn vị này vừa chiến đấu, vừa xây dựng huấn luyện bổ sung quân số tại chỗ, lấy thêm các tiểu đoàn địa phương phía sau lên tăng cường cho tuyến biên giới, làm tốt công tác tư tưởng, khắc phục khó khăn nâng cao sức chiến đấu cho bộ đội. Nắm chắc tình hình, đồng chí đã chỉ huy các lực lượng tổ chức phản công tiêu diệt địch trên toàn tuyến biên giới, giành lại thế chủ động, khôi phục lại địa bàn, đẩy địch về bên kia biên giới.
Tháng 6/1978, sau khi được bổ nhiệm làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7 và kiêm Chỉ huy trưởng tiền phương Bộ Quốc phòng, thực hiện chủ trương của Đảng, đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy các đơn vị thuộc quyền vừa tiến công địch trên tuyến biên giới giành thắng lợi, vừa giúp bạn xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Nhờ đó, tháng 12/1978, bạn đã xây dựng được 21 tiểu đoàn, 5 đại đội, 69 đội vũ trang tuyên truyền, đánh dấu sự phát triển bước đầu của bạn.
Ba là, những chủ trương, đề xuất tham mưu chiến lược xuất sắc trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả giúp nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xary, hồi sinh dân tộc Campuchia
Từ năm 1979 đến năm 1984, là Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia; Trưởng ban Lãnh đạo đoàn chuyên gia giúp Campuchia, đồng chí đã quán triệt nghiêm túc đường lối đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam “giúp bạn tức là tự giúp mình”. Đồng chí chuẩn bị chu đáo mọi mặt trong các cuộc tiếp xúc với nước bạn, coi trọng công tác chuyên gia, chỉ đạo bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần và phát huy trình độ, kiến thức, kinh nghiệm của đội ngũ này. Trên cương vị Tư lệnh Mặt trận 719, đồng chí ra chỉ thị “Xây dựng kỷ cương xã hội Campuchia thật nhanh chóng là yêu cầu cấp thiết, tuyệt đối không để tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ, mất chính quyền xảy ra”. Bên cạnh việc truy quét tàn quân Pôn Pốt, đồng chí yêu cầu Quân tình nguyện phải trực tiếp tham gia quản lý trật tự xã hội với biện pháp quan trọng hàng đầu: “Quân tình nguyện phải làm gương”. Đồng chí đã ra những chỉ thị rất nghiêm khắc, quyết liệt để thắt chặt kỷ luật quân đội, coi “kỷ luật dân vận” là “kỷ luật sắt chiến trường”. Bộ đội tình nguyện không được tơ hào dù là cây kim, sợi chỉ của dân, không được động chạm đồ thờ cúng, xâm hại đền, chùa, miếu mạo, tự do tín ngưỡng, không được hủy hoại môi trường, các cấp phải thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kỷ luật... Kết quả hoạt động đối ngoại của đồng chí đã góp phần tích cực vào việc tăng cường quan hệ hữu nghị quốc tế Việt Nam - Campuchia.
Bốn là, những chủ trương, đề xuất tham mưu chiến lược xuất sắc thời kỳ đổi mới đất nước, tăng cường hội nhập quốc tế, nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
Đây là thời kỳ tình hình thế giới và đất nước có nhiều biến động lớn, đòi hỏi phải có những quyết sách lớn, đúng đắn, phù hợp để đưa đất nước phát triển. Năm 1986, trên cương vị Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng chí thị sát nắm chắc tình hình biên giới, nhất là những đơn vị thuộc 6 tỉnh phía Bắc, kịp thời tham mưu cho trên điều chỉnh lực lượng, bố trí thế trận phòng thủ chiến lược phù hợp trên từng hướng, bảo vệ vững chắc chủ quyền Tổ quốc. Đồng thời, tham mưu cho Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ Quốc phòng điều chỉnh tổ chức biên chế, giảm quân số các cơ quan, đơn vị quân đội để giảm bớt gánh nặng chi phí quốc phòng trong điều kiện khủng hoảng kinh tế.
Từ năm 1987 đến tháng 9/1992, với cương vị là Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Lê Đức Anh có những chỉ đạo chiến lược xuất sắc. Đồng chí trực tiếp nhiều lần đi thị sát tình hình biên giới, hải đảo để có cơ sở thực tiễn và lý luận cho những đề xuất của mình. Với nhãn quan nhạy bén của nhà tham mưu chiến lược xuất sắc, đồng chí đã đề xuất giảm quân số thường trực, bố trí lại lực lượng quân đội. Để đảm bảo cho đề xuất tham mưu chiến lược đó, đồng chí Lê Đức Anh trực tiếp gặp gỡ, trình bày, báo cáo xin ý kiến của nhiều đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước ta. Việc giảm quân số, bố trí thế chiến lược của quân đội là vấn đề vô cùng hệ trọng, liên quan mật thiết đến vận mệnh đất nước, không được phép sai lầm. Quân số lớn đòi hỏi ngân sách chi tiêu cho quốc phòng lớn, trong khi đất nước đang khó khăn, yêu cầu của công cuộc đổi mới cần sự đầu tư trong nhiều lĩnh vực. Căn cứ tình hình cụ thể, đồng chí chủ động đề xuất giảm trên 60% quân số thường trực, đề nghị ngân sách quốc phòng từ 15% đến 18%, đầu tiên là tổng ngân sách, tiến tới là ngân sách thu trong nước. Với bản lĩnh, tầm nhìn chiến lược của một vị tướng trận mạc, cùng những luận cứ vững chắc, lập luận sắc sảo, những đề xuất của đồng chí đã được hội nghị Bộ Chính trị đồng ý. Theo đó, quân đội được xây dựng theo hướng tinh, gọn, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao, lực lượng vũ trang được cắt giảm bớt để tập trung cho phát triển đất nước; chiến lược phòng thủ đất nước trong tình hình mới được điều chỉnh để phù hợp, bảo đảm sức mạnh chiến đấu để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo rút các đơn vị chủ lực trên tuyến 1 biên giới về tuyến 2; điều động Quân đoàn 3 vào đứng chân và phối hợp với lực lượng vũ trang Quân khu 5 bảo vệ địa bàn Tây Nguyên, bố trí lại đội hình lực lượng các quân binh chủng thích hợp hơn, chú trọng tăng cường phòng thủ biển đảo. Cùng với việc giảm quân số, chi tiêu ngân sách cho quốc phòng cũng giảm đáng kể so với trước. Cùng với đề xuất giảm quân số thường trực và ngân sách quốc phòng, đồng chí Lê Đức Anh cùng với tập thể Quân ủy Trung ương đề xuất với Bộ Chính trị các giải pháp giải quyết chính sách cải thiện đời sống cán bộ, chiến sĩ, tại ngũ (nâng mặt bằng tiền lương của sĩ quan quân đội và người hưởng lương lên hệ số 1,5; tạo điều kiện về nhà ở cho cán bộ, chiến sĩ), giải quyết việc làm cho số xuất ngũ, kiến nghị với các bộ ngành ưu tiên giải quyết xuất khẩu lao động đối với số anh chị em là bộ đội diện giảm quân số.
Một điểm nổi bật về tham mưu chiến lược của đồng chí Lê Đức Anh thời gian này đối với Đảng và Nhà nước, đó là: Đề xuất đổi mới tư duy trong lĩnh vực quân sự quốc phòng theo đường lối đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986). Đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo các cơ quan Bộ Quốc phòng triển khai kế hoạch điều chỉnh bố trí chiến lược, giảm quân số đồng thời với việc triển khai đề án “Thế trận chiến tranh nhân dân” thực hiện nhiệm vụ “quốc phòng toàn dân” làm cơ sở lý luận và thực tiễn để từ đó tham mưu cho Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 02-NQ/TW Về xác định nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo. Nhờ thực hiện Nghị quyết này, chúng ta đã huy động toàn xã hội vào công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, đủ sức mạnh bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc.
Cùng với đó, tham mưu cho Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương có các chính sách, bước đi phù hợp để bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, từng bước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, gia nhập các tổ chức khu vực, quốc tế.
Có thể khẳng định, với hơn 80 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Đức Anh luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Quân đội giao phó. Ở chiến trường, mặt trận, lĩnh vực nào đồng chí cũng để lại những dấu ấn rõ nét. Đặc biệt, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều biến động, với nhiều nguy cơ và thách thức, Đại tướng Lê Đức Anh có những đề xuất tham mưu chiến lược xuất sắc cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng để tái thiết đất nước, chỉ đạo khởi xướng và triển khai công cuộc đổi mới, phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước; cùng Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân và nền quốc phòng toàn dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh đã cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước đề ra và chỉ đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đưa đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ngày càng nâng cao vai trò, vị thế của đất nước ta trên trường quốc tế.
Thượng tướng PHAN VĂN GIANG
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương,
Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
Đại tướng Lê Đức Anh sinh năm 1920 tại Thừa Thiên Huế, tham gia cách mạng từ năm 17 tuổi (1937). Cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của đồng chí gắn liền với nhiều mốc son lịch sử dân tộc. Đồng chí tham gia quân đội và gắn bó với cuộc đời binh nghiệp đầy gian khổ và oanh liệt. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế, đồng chí có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và sự trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng chí đã trực tiếp tham gia chỉ huy nhiều chiến dịch lớn, như: Chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Gianxơn Xiti của Mỹ - ngụy; Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968; chống địch lấn chiếm, phá hoại Hiệp định Pari
năm 1973; Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975; chỉ huy xây dựng lực lượng vũ trang ở đồng bằng sông Cửu Long và chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc; làm nhiệm vụ quốc tế, cùng quân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, khôi phục sản xuất, xây dựng lại đất nước.
Hơn 80 năm hoạt động cách mạng, đồng chí đã đảm nhiệm nhiều trọng trách: Tư lệnh Quân khu 9; Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, kiêm chỉ huy trưởng Cơ quan tiền phương của Bộ Quốc phòng ở Mặt trận Tây Nam; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên các cương vị công tác, đồng chí luôn tận tụy, cương nghị, bản lĩnh và dám làm, dám chịu trách nhiệm, đem hết tài năng, trí tuệ để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Với thời gian dài công tác, giữ nhiều cương vị quan trọng trong quân đội, Đảng và Nhà nước, bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú, đồng chí luôn thực hiện tốt chức năng tham mưu, lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt cho toàn dân tiến hành hai cuộc kháng chiến trường kỳ giành thắng lợi vẻ vang, thống nhất đất nước, làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Một là, đồng chí Lê Đức Anh luôn quan tâm xây dựng bản chất cách mạng cho quân đội
Xây dựng bản chất cách mạng là vấn đề quan trọng, cơ bản hàng đầu trong phương châm xây dựng quân đội, thể hiện sự giác ngộ chính trị của quân đội, là nền tảng để xây dựng tính chính quy, tinh nhuệ và tiến lên hiện đại, cơ sở để “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của xây dựng bản chất cách mạng cho quân đội, trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Đại tướng Lê Đức Anh luôn quan tâm giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ có lòng trung thành vô hạn và nhận thức rõ vinh dự, trách nhiệm với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Đại tướng khẳng định: “Sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta [...] bắt nguồn từ đường lối chính trị, đường lối quân sự và sự lãnh đạo, giáo dục của Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ muôn vàn kính yêu. Đó là thước đo phẩm chất, lòng trung thành vô hạn của quân đội ta đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, kiên định và kiên trì con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ, nhân dân đã lựa chọn, quyết tâm đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Đại tướng Lê Đức Anh cũng chỉ rõ nguồn gốc, mục tiêu chiến đấu, vinh dự, trách nhiệm của mỗi quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam: “Quân đội ta là con em của nhân dân lao động, có lòng yêu nước nồng nàn, được Đảng giác ngộ cách mạng, mang bản chất của giai cấp công nhân, ra đời từ phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, vì nhân dân mà phục vụ. Mục tiêu chiến đấu của quân đội ta là mục tiêu của Đảng, của dân tộc: Vì độc lập tự do của dân tộc, vì ấm no hạnh phúc của nhân dân [...] “Bộ đội Cụ Hồ” là tấm lòng ưu ái, sự tin cậy của nhân dân đối với quân đội ta. Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu là vinh dự, trách nhiệm của lớp lớp cán bộ, chiến sĩ”.
Đồng chí Lê Đức Anh luôn quan tâm giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ có tinh thần vượt qua khó khăn, ý thức tổ chức kỷ luật tự giác, nghiêm minh, ý chí quyết tâm chiến đấu cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên cương vị là Tỉnh ủy viên kiêm Bí thư Quận ủy Hớn Quản và Chính trị viên Chi đội 1, đồng chí Lê Đức Anh luôn coi trọng tiến hành nhiều biện pháp giáo dục, động viên, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ. Do đó, các đội vũ trang, nhất là Chi đội 1 do đồng chí làm Chính trị viên nổi tiếng đánh giặc giỏi và có kỷ luật dân vận tốt. Khẩu hiệu “Không ra đi khi chưa trồng rau để lại cho người đến sau; không được đi khi chưa múc đầy ang nước; không đi khi nhà cửa chưa quét dọn sạch sẽ” đã trở thành nếp sống của bộ đội Chi đội 1. Ngày 14/6/1948, Chi đội 1 được cấp trên quyết định đổi thành Trung đoàn 301 - trung đoàn đầu tiên ở Nam Bộ; đồng chí Lê Đức Anh tiếp tục được giao làm Chính trị viên.
Những năm tiếp theo của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cùng với thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của một cán bộ quân sự, đồng chí Lê Đức Anh vẫn luôn coi trọng tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, cùng cấp ủy đảng giáo dục chính trị tư tưởng, qua đó xây dựng, củng cố bản chất cách mạng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ. Những đóng góp của đồng chí Lê Đức Anh đã trực tiếp xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu cao, tinh thần khắc phục khó khăn, gian khổ của cán bộ, chiến sĩ, góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh chính trị, tinh thần, giành thắng lợi trong nhiều chiến dịch có ý nghĩa quan trọng, như: chiến dịch Bến Cát (1950); chiến dịch Bình Giã (1965); chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Gianxơn Xiti của Mỹ và tay sai (mùa khô 1966-1967); cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968; đánh bại 75 tiểu đoàn địch bình định, lấn chiếm Chương Thiện trên địa bàn Quân khu 9 (1973); Chiến thắng Đồng Xoài - Phước Long (cuối năm 1974, đầu năm 1975); Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975) và đánh bại cuộc tiến công xâm lược của tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary trên tuyến biên giới Tây Nam, cùng quân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng; bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, biển đảo của Tổ quốc.
Đại tướng Lê Đức Anh là tấm gương mẫu mực về phẩm chất cách mạng, luôn “tuyệt đối trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn [...] luôn giữ vững ý chí, phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy ở tầm chiến lược, nhưng trong công tác, chiến đấu, đồng chí Lê Đức Anh không ngại hiểm nguy, luôn có mặt ở những nơi khó khăn để chỉ đạo cách giải quyết; gần gũi, thương yêu, quan tâm, chăm lo cho cán bộ, chiến sĩ. Về vấn đề này, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khẳng định: “Đối với đồng chí, đồng đội, Đại tướng Lê Đức Anh không phân biệt cấp bậc, chức vụ, sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi, luôn quan tâm, chăm lo cho cán bộ, chiến sĩ và thực hiện chế độ, chính sách hậu phương quân đội”2. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc còn nhấn mạnh: Là một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt tiêu biểu của Đảng, đồng chí Lê Đức Anh “không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn thể hiện rõ phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc và nhân dân lên trên hết”3. Chủ tịch nước - Đại tướng Lê Đức Anh luôn căn dặn cấp ủy, chính quyền các địa phương: “Chúng ta làm cách mạng để giành chính quyền cho nhân dân, chính quyền của dân, do dân, vì dân”; theo đó, “cấp ủy, chính quyền địa phương phải có giải pháp thiết thực để bảo đảm các điều kiện phát triển sản xuất, bảo đảm quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh “là một nhà chính trị, nhà quân sự tài năng [...] tấm gương sáng để đồng bào, đồng chí, cán bộ, chiến sĩ cả nước yêu quý, kính trọng, học tập và noi theo”.
Hai là, đồng chí Lê Đức Anh có những cống hiến to lớn trong xây dựng, hoàn thiện tổ chức, biên chế của quân đội, bảo đảm phù hợp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ qua từng thời kỳ cách mạng
Xây dựng, hoàn thiện tổ chức, biên chế là một trong những nội dung cốt lõi trong xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng chí Lê Đức Anh đã dành nhiều tâm huyết nghiên cứu, đề xuất và trực tiếp triển khai xây dựng, hoàn thiện tổ chức, biên chế của quân đội, bảo đảm phù hợp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ.
Đầu năm 1957, cách mạng Việt Nam có những chuyển biến quan trọng trên cả hai miền Nam - Bắc, đặt ra yêu cầu phải tiếp tục xây dựng Quân đội theo hướng chính quy, hiện đại, nâng cao sức mạnh, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc và chi viện chiến trường miền Nam. Tháng 3/1957, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) họp Hội nghị lần thứ 12 (mở rộng), ra Nghị quyết về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng chỉ rõ: “tích cực xây dựng một quân đội nhân dân hùng mạnh tiến dần từng bước lên chính quy và hiện đại”. Hội nghị đã chính thức phê chuẩn Kế hoạch xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng 5 năm (1955-1959). Quán triệt Nghị quyết Trung ương 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) và sự chỉ đạo của Tổng Quân ủy, Tổng Tham mưu trưởng giao cho Cục Quân lực chủ trì đề án điều chỉnh xây dựng quân đội giai đoạn 1956-1960.
Tháng 5/1955, cấp trên bổ nhiệm đồng chí Lê Đức Anh làm Cục phó Cục Tác chiến; đến tháng 10/1957, đồng chí được điều sang làm Cục phó Cục Quân lực, Bộ Tổng Tham mưu; tháng 8/1961, đồng chí được bổ nhiệm Cục trưởng Cục Quân lực; tháng 8/1963, đồng chí được bổ nhiệm làm Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Dấu ấn của đồng chí Lê Đức Anh trong thời gian này là đã tập trung nghiên cứu, xây dựng tổ chức quân đội, trước hết và chủ yếu là các đơn vị ở miền Bắc, theo hướng chính quy, hiện đại, biên chế gọn, làm việc hiệu quả. Với tinh thần làm việc trách nhiệm, nghiêm túc, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo tính biểu biên chế cho từng quân khu, nhà trường theo chức trách, nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, đi từ việc xác định chức danh để bố trí nhân sự vào các vị trí thích hợp, nhằm phát huy hết phẩm chất và năng lực của mọi cá nhân, tổ chức. Ngày 21/02/1958, “Đề án điều chỉnh xây dựng quân đội giai đoạn 1956-1960” hoàn thành, được Bộ Chính trị thông qua; ngày 24/02/1958, Kế hoạch chỉnh biên được hoàn chỉnh. Đầu tháng 3/1958, Bộ Tổng Tham mưu ra Chỉ thị số 258.TV “Về công tác chỉnh biên năm 1958” trong toàn quân; ngày 21/3/1958, Bộ Quốc phòng ra “Quyết định về tổ chức biên chế, trang bị của các đơn vị binh chủng lục quân và những đơn vị đầu tiên của không quân, hải quân”. Tháng 7/1958, Cục Quân lực đã cùng các cơ quan có liên quan thực hiện chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu hoàn chỉnh đề án chỉnh biên cơ sở. Yêu cầu chỉnh biên phải tạo cơ sở vật chất (kho, xưởng, bệnh viện) có biên chế tổ chức phù hợp với nhu cầu ngày càng tiến lên chính quy, hiện đại cả thời bình và thời chiến của quân đội. Ngày 20/10/1958, Bộ Tổng Tham mưu ra chỉ thị chỉnh biên cơ quan tỉnh đội, thành đội, huyện đội, châu đội, quy định cụ thể tổ chức cơ quan quân sự địa phương. Đây là những cơ sở rất quan trọng để quân đội ta hoàn chỉnh từng bước về tổ chức, biên chế, nâng cao sức mạnh chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Tháng 01/1959, Hội nghị lần thứ 15 (mở rộng) Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp xác định nhiệm vụ của cách mạng miền Nam, mối quan hệ giữa cách mạng hai miền Nam - Bắc. Đến giữa năm 1959, Hội nghị Trung ương 15 (lần thứ hai) và sau đó là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) tiếp tục khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thống nhất đất nước. Đại hội xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: “Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến”; nhiệm vụ trước mắt là: “chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam”2. Đại hội quyết định thành lập Trung ương Cục để trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, trước mắt là ở Nam Bộ. Về quốc phòng, Đại hội chủ trương: “xây dựng quân đội thường trực tiến lên chính quy và hiện đại”3 để bảo vệ công cuộc lao động hòa bình của nhân dân ở miền Bắc và tích cực chi viện chiến trường miền Nam.
Cụ thể hóa nhiệm vụ quân sự mà Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra, ngày 25/02/1961, Bộ Chính trị phê chuẩn “Kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai (1961-1965)”, nhấn mạnh: Chính quy hóa và hiện đại hóa, bảo đảm cho quân đội có đầy đủ và có tỷ lệ tương xứng các thành phần binh chủng, quân chủng, có sức chiến đấu cao; xây dựng lực lượng thời bình phải tính đến khả năng chuẩn bị cho thời chiến.
Trên cơ sở những kết quả đạt được và những kinh nghiệm trong quá trình thực hiện Kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ nhất, bước vào thực hiện Kế hoạch xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng 5 năm lần thứ hai, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Cục Quân lực hoàn chỉnh kế hoạch tổ chức quân đội, trang bị và xây dựng cơ sở vật chất theo hướng tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chính quy, hiện đại. Ngày 28/02/1961, “Kế hoạch tổ chức trang bị và xây dựng cơ sở vật chất cho quân đội (1961-1965)” do Cục Quân lực chuẩn bị được Quân ủy Trung ương thông qua.
Đến cuối năm 1963, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, công tác tổ chức, biên chế trang bị và chấn chỉnh bộ đội thường trực đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Việc chấp hành điều lệnh, điều lệ của quân đội đi vào nền nếp. Công tác phòng thủ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, nghiên cứu khoa học, xây dựng dân quân và lực lượng dự bị... được triển khai đồng bộ. Quân đội đã có bước trưởng thành về tổ chức, biên chế, được xây dựng tương đối chính quy, gồm nhiều quân binh chủng, sư đoàn, trung đoàn được trang bị thống nhất hiện đại, khả năng cơ động, tác chiến được nâng cao một bước.
Từ tháng 02/1964 đến năm 1975, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ vào miền Nam công tác, giữ các chức vụ: Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân giải phóng miền Nam Việt Nam; Tư lệnh Quân khu 9; Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân hướng Tây - Tây Nam đánh vào Sài Gòn, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Chỉ huy trưởng Tiền phương Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam. Thời gian này, đồng chí đã có nhiều đề xuất quan trọng và trực tiếp soạn thảo, triển khai kế hoạch xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nói chung, các đơn vị quân đội nói riêng trên các địa bàn, đơn vị mình phụ trách, bảo đảm vừa thực hiện nghiêm chủ trương của cấp trên về xây dựng quân đội, vừa hoàn thành nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trên hướng, địa bàn phụ trách.
Ngày 18/02/1987, Bộ Chính trị và Hội đồng Nhà nước bổ nhiệm đồng chí Lê Đức Anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Với cương vị người chỉ huy cao nhất của quân đội, đồng chí cùng các đồng chí lãnh đạo Bộ Quốc phòng đề xuất Bộ Chính trị thông qua và trực tiếp triển khai thực hiện kế hoạch xây dựng quân đội tinh, gọn, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, trực tiếp là đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, thế trận phòng thủ đất nước được bố trí lại phù hợp, hiệu quả hơn; thế trận chiến tranh nhân dân và sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân được phát huy cao độ, nhất là ở các vùng biên giới, hải đảo, địa bàn chiến lược; đường biên giới với các nước được xây dựng, củng cố; lực lượng phòng thủ trên biển, đảo được tăng cường, quân số thường trực giảm, nhưng tinh nhuệ, hiện đại, cơ động linh hoạt, chất lượng được nâng cao. Đồng thời, chú trọng xây dựng công nghiệp quốc phòng tự chủ, có khoa học -
kỹ thuật tiên tiến, có lực lượng cán bộ và nhân viên khoa học ngày càng phát triển; chú trọng nâng cao chất lượng bảo quản, bảo dưỡng, và cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị tiến tới tự động hóa phòng không tầm trung và tầm cao; lực lượng hải quân phát triển và bố trí ngày càng thêm chặt chẽ. Cơ cấu biên chế, tổ chức và nhiệm vụ, chức năng của các học viện, nhà trường trong toàn quân được điều chỉnh thích hợp. Điều đó đã giảm được chi phí quốc phòng trong điều kiện đất nước còn rất nhiều khó khăn, khi vừa phải tập trung mọi nguồn lực khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa phải đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế theo đường lối đổi mới để sớm đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Ba là, đồng chí Lê Đức Anh luôn coi trọng phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam
Nghệ thuật quân sự Việt Nam bao gồm chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Là một nhà chính trị, quân sự tài ba của Đảng, đồng chí Lê Đức Anh đã sớm bộc lộ tư chất và khả năng chỉ huy tham mưu quân sự. Trưởng thành trong hoạt động thực tiễn cách mạng phong phú, đồng chí Lê Đức Anh có nhiều đóng góp quan trọng để phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần quan trọng nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngay trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên cương vị là Tham mưu trưởng Khu 7 - một địa bàn trọng điểm, nơi diễn ra những trận đánh quyết liệt giữa quân và dân ta với quân đội Pháp và tay sai, đồng chí Lê Đức Anh đã dành sự quan tâm lớn cho công tác tổ chức chiến dịch, xây dựng và phát triển chiến thuật cho bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương. Dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh và Cơ quan Tham mưu, lực lượng vũ trang Khu 7 đã tổ chức nhiều trận đánh tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Thông qua tổng kết thực tiễn chiến đấu, bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương Khu 7 đã tìm ra nhiều cách đánh sáng tạo, hiệu quả. Từ cách đánh bí mật tiếp cận, thả lựu đạn vào bên trong tháp canh diệt địch, phơi sương làm mất hơi người để bí mật đột nhập vào đồn giặc, dùng đạn lõm và bộc phá để diệt lô cốt đầu cầu, đến cách dùng hai mũi đặc công cùng tiến hành mở hai cửa mở cho bộ binh xung phong tiến công đồn địch, tuy lúc đầu còn sơ lược, nhưng đã hình thành và phát triển thành “cách đánh đặc công”, “chiến thuật đặc công” - nỗi khiếp sợ đối với quân Pháp và quân Mỹ sau này.
Trong thời gian công tác tại Bộ Tổng Tham mưu, trên cương vị Cục phó Cục Tác chiến, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ trực tiếp nghiên cứu kế hoạch xây dựng công trình phòng thủ bờ biển từ Quảng Ninh đến Quảng Bình. Đồng chí được Bộ Tổng Tham mưu cử làm Trưởng đoàn cán bộ sang Trung Quốc để nghiên cứu những vấn đề chiến thuật, cách đánh đường hầm, công tác kế hoạch xây dựng công trình quốc phòng quốc gia... trong thời gian hơn một tháng. Sau khi về nước, Đoàn họp, thảo luận thống nhất cách vận dụng vào địa hình Việt Nam để báo cáo Bộ và tổ chức phổ biến kinh nghiệm, hướng dẫn các quân khu xây dựng các công trình theo bản thiết kế phù hợp với cách đánh được Bộ phê duyệt. Đây là những tiền đề rất quan trọng cho công tác xây dựng công trình phòng thủ, vận dụng chiến thuật cách đánh đường hầm, địa đạo cho các đơn vị bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương cả nước trong hai cuộc kháng chiến.
Mùa khô năm 1966-1967, Mỹ và tay sai mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, mà đỉnh cao là cuộc hành quân Gianxơn Xiti đánh vào chiến khu Dương Minh Châu nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và chủ lực của ta, bịt chặt biên giới Việt Nam - Campuchia, mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn. Để vừa bảo toàn lực lượng, bám trụ trên địa bàn tác chiến không có dân, vừa đánh tiêu hao, tiêu diệt địch, trên cương vị Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, đồng chí Lê Đức Anh đã đề xuất: “Di chuyển những người và tổ chức thật cần thiết thuộc Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền đến nơi an toàn; lực lượng còn lại tổ chức thành các “huyện căn cứ”, các “xã căn cứ” để đánh địch tại chỗ, phát huy cao độ ưu thế của du kích chiến, kết hợp với các đơn vị chủ lực cơ động đánh vào bên sườn và phía sau đội hình quân địch”. Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền nhất trí với đề xuất này và giao đồng chí Lê Đức Anh tổ chức lực lượng tại chỗ đánh địch. Sau gần hai tháng chiến đấu (22/2/1967 - 15/4/1967), ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 14.000 tên địch và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch, bảo vệ vững chắc căn cứ, cơ quan đầu não kháng chiến, đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ và quân đội Sài Gòn. Đề xuất của đồng chí Lê Đức Anh trong chiến dịch này là nét độc đáo, sáng tạo về nghệ thuật chiến dịch, tạo ra “thế trận chiến tranh nhân dân trên một địa bàn không có dân” để đánh địch, phát huy hiệu quả và giành thắng lợi to lớn trong thực tiễn.
Năm 1974, trên cương vị Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, đồng chí Lê Đức Anh khẩn trương xây dựng Kế hoạch tác chiến mùa khô 1974-1975; chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị chủ lực Miền huấn luyện và hoạt động tác chiến theo kế hoạch mới, nhất là tập huấn cách đánh công kiên. Cuối năm 1974, đầu năm 1975, đồng chí cùng Bộ Tư lệnh Miền chỉ huy các đơn vị liên tiếp tiến công địch, giành thắng lợi trong Chiến dịch đường 14 – Phước Long (06/01/1975), đây được coi là “trận trinh sát chiến lược”, là cơ sở quan trọng để Trung ương Đảng hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975), đồng chí Lê Đức Anh đảm nhiệm Phó Tư lệnh chiến dịch kiêm Tư lệnh cánh quân tiến công trên hướng Tây - Tây Nam đánh vào Sài Gòn. Với tài thao lược và kinh nghiệm trận mạc được tích lũy trong suốt hai cuộc chiến tranh giải phóng, đồng chí Lê Đức Anh đã tổ chức lực lượng, xác định các hướng, mũi tiến công, giao nhiệm vụ, hiệp đồng cụ thể, rõ ràng cho từng bộ phận; chỉ huy cánh quân đánh chiếm các mục tiêu theo kế hoạch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đây là những cơ sở thực tiễn quan trọng, góp phần hoàn chỉnh lý luận nghệ thuật chiến dịch quy mô lớn của quân đội ta.
Đại tướng - Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã đi xa, nhưng những cống hiến của đồng chí với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, sự nghiệp xây dựng quân đội vẫn luôn có giá trị sâu sắc về lý luận và thực tiễn. Với hơn 80 năm hoạt động cách mạng, Đại tướng Lê Đức Anh đã tham gia chỉ huy chiến đấu trên chiến trường miền Nam trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, gần 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia, đảm nhiệm cương vị Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch nước giai đoạn đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Trên cương vị nào, Đại tướng Lê Đức Anh “cũng phát huy phẩm chất và năng lực, đóng góp hết sức mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân”; trong đó, nổi bật là những công lao, đóng góp to lớn của Đại tướng với sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Đại tướng Lê Đức Anh là dịp để chúng ta tưởng nhớ, tôn vinh và tri ân những cống hiến to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc nói chung và đối với quân đội nói riêng; tuyên truyền, giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ học tập, rèn luyện theo tấm gương đạo đức cách mạng của đồng chí; nêu cao ý chí tự lực, tự cường, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, đoàn kết xây dựng quê hương, đất nước ngày càng văn minh, giàu đẹp và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trung tướng NGUYỄN TÂN CƯƠNG
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
Cuộc đời của Đại tướng Lê Đức Anh gắn liền với lịch sử nước nhà, nhất là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thế kỷ XX và thập niên đầu của thế kỷ XXI. Đại tướng Lê Đức Anh đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh. Quá trình hoạt động cách mạng, Đại tướng đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc, trong đó có phong cách lãnh đạo, chỉ huy của một vị tướng tài ba, quả cảm; một nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng, luôn một lòng vì dân, vì nước, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Phong cách lãnh đạo, chỉ huy của Đại tướng Lê Đức Anh được tập trung thể hiện nổi bật trên một số nội dung đó là:
1. Tác phong lãnh đạo, chỉ huy quyết đoán, táo bạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm
Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng trận mạc, một nhà chỉ huy xuất sắc, vị tướng mà bộ quân phục thấm đẫm khói lửa chiến tranh. Ông đã từng chỉ huy bộ đội tham gia những trận đánh, những chiến dịch quan trọng, những sự kiện mang tính bước ngoặt của chiến tranh như: Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; cuộc chiến đấu chống lấn chiếm vùng giải phóng năm 1973; chiến dịch Đường 14 - Phước Long năm 1974; Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975; chỉ huy lực lượng vũ trang Quân khu 9 bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam của Tổ quốc và phối hợp cùng lực lượng cách mạng Campuchia mở chiến dịch phản công giải phóng Campuchia giúp nhân dân nước bạn thoát khỏi chế độ diệt chủng năm 1979; chỉ huy Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia từ năm 1981 - 1986.
Ông còn là người trực tiếp thị sát, chỉ đạo và có những đóng góp quan trọng trong hoạch định, tổ chức xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc, bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Cuộc đời binh nghiệp của Đại tướng gắn liền với các chiến trường từ phía Nam đến phía Bắc và trên chiến trường nước bạn.
Đầu năm 1967, trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, Mỹ và quân đội Sài Gòn huy động một lực lượng quân sự lớn mở cuộc hành quân Gianxơn Xiti, nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và chủ lực của ta tại căn cứ Dương Minh Châu. Đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền kiên quyết không di chuyển cơ quan, đồng thời tổ chức lực lượng tại chỗ đánh địch theo phương thức mới “bám trụ và bung ra”. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền, đồng chí Lê Đức Anh đã tổ chức đội ngũ cán bộ, nhân viên ở các cơ quan thành nhiều đội du kích ấp, xã. Lực lượng này chiến đấu bám trụ, tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân ở địa bàn không có dân, góp phần đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn của địch, bảo vệ an toàn cơ quan Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền và hệ thống kho tàng chiến lược của ta.
Sau những nỗ lực của ba đợt tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, cách mạng miền Nam nói chung, Quân khu 9 nói riêng đứng trước những khó khăn nghiêm trọng, địa bàn đứng chân của ta bị thu hẹp, bộ đội chủ lực Miền phải hoạt động chủ yếu trên đất Campuchia. Trước tình hình đó, một lần nữa trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Bộ Tư lệnh kiên quyết bám trụ ở U Minh Thượng. Quyết định này đã giữ vững được vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 đối với các lực lượng vũ trang trên địa bàn. Lực lượng vũ trang và nhân dân Quân khu 9 dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã chủ động phản công đánh bại 2 cuộc tiến công của địch, phá tan kế hoạch “tô dày, lấp kín U Minh”, giữ vững địa bàn.
Năm 1973, sau khi Hiệp định Pari được ký kết, trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí đã cùng Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ đạo giữ vững thế tiến công, đồng thời điện xin ý kiến của Bộ Chính trị, Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền. Trước quyết định rút lực lượng, đồng chí đã thẳng thắn trả lời “Tôi phải đánh đã…” chứ kiên quyết không để mất đất, mất dân. Dưới sự chỉ huy của đồng chí, các lực lượng vũ trang Quân khu 9 đã anh dũng chiến đấu, bẻ gãy nhiều hoạt động nống lấn của địch, giữ vững địa bàn trọng điểm, tạo được thế và lực mới, làm cơ sở cho Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền và cấp trên có chủ trương chỉ đạo đúng đắn.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, đồng chí Lê Đức Anh đảm trách vị trí chỉ huy trực tiếp cánh quân hướng Tây - Tây Nam Sài Gòn (Đoàn 232). Trên cơ sở đánh giá chính xác tình hình, đồng chí cùng đội ngũ cán bộ các cấp, chỉ huy cánh quân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chia cắt lực lượng địch ở Sài Gòn, miền Đông Nam Bộ với vùng đồng bằng sông Cửu Long; phát triển tiến công Biệt khu Thủ đô, Tổng nha Cảnh sát; phối hợp cùng với các hướng khác giải phóng Sài Gòn.
Ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí đã thận trọng triển khai chủ trương giảm biên chế. Là người nắm rõ tình hình khu vực biên giới Việt Nam - Campuchia vẫn còn tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp, căng thẳng, đồng chí bàn bạc thống nhất trong Đảng ủy, Bộ Tư lệnh tạm thời giữ lại nhiều hạ sĩ quan, chiến sĩ có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, cùng đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ chỉ huy, nhiều kinh nghiệm, trải qua thực tiễn chiến đấu, những đơn vị có truyền thống, nền nếp chính quy tốt để xây dựng lực lượng vũ trang. Do vậy, khi quân Pôn Pốt đánh sang toàn tuyến biên giới Tây Nam, Quân khu 9 đã không bị rơi vào tình trạng “bỏ trống địa bàn” vì không có quân thường trực.
Tháng 5/1981, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 36 về tổ chức Quân tình nguyện Việt Nam và thành lập Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia (Bộ Tư lệnh Mặt trận 719), trực thuộc Bộ Quốc phòng. Khi triển khai thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW, trên cương vị Tư lệnh Mặt trận 719, đồng chí Lê Đức Anh đã kiên quyết đề xuất: Riêng ở chiến trường Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam vẫn duy trì chế độ đảng ủy. Đồng chí cho rằng: “Chúng ta phải nhất quán, một chủ trương quân sự, một hoạt động quân sự không bao giờ là quân sự đơn thuần, mà hoạt động quân sự là hoạt động chính trị, phục vụ mục đích chính trị. Người chỉ huy quân sự là làm chính trị, phục vụ chính trị, phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của tổ chức đảng. Dứt khoát cái đó!”. Thực tiễn đã chứng minh đây là một đề xuất đúng đắn, bảo đảm cho sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng và phù hợp với thực tế nhiệm vụ của các đơn vị ở Mặt trận 719 vào thời điểm đó.
Tháng 12/1986, đồng chí Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Khi đi thị sát thực tế tình hình biên giới phía Bắc, đồng chí đã ngay lập tức quyết định điều chỉnh các đơn vị chủ lực lui về tuyến hai để đưa dân quân, bộ đội địa phương và bộ đội biên phòng lên tuyến một. Với thái độ kiên quyết, trách nhiệm, Tổng Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đã thực hiện điều chỉnh sơ bộ bố trí lực lượng, làm cho thế phòng thủ biên giới của bộ đội ta có chiều sâu và vững chắc hơn.
Đất nước hòa bình, mặc dù đang trong thế bao vây của các thế lực thù địch, nhưng Đại tướng Lê Đức Anh đã kiên quyết thực hiện giảm mạnh quân số và điều chỉnh thế bố trí chiến lược. Đây là một quyết định táo bạo, thể hiện tầm nhìn chiến lược. Theo Đại tướng: Quân đội ta là sản phẩm của đấu tranh giành độc lập và là công cụ để bảo vệ hòa bình. Nay đất nước đã hòa bình “cần phải giảm hai phần ba quân số để tập trung sức xây dựng đất nước về mọi mặt. Tuy nhiên, giảm quân số bộ đội thường trực, điều chỉnh chiến lược không có nghĩa là làm cho quân đội ta yếu đi hoặc coi thường nguy cơ chiến tranh. Trái lại, phải xây dựng cho quân đội ta mạnh hơn bao giờ hết, làm cho đất nước có sức mạnh bảo vệ mình hơn hẳn trong các cuộc chiến tranh vừa qua”. Gánh nặng ngân sách quốc phòng được giải tỏa.
Nói về Đại tướng Lê Đức Anh, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cho rằng: “Ngần ấy thời gian biết anh Sáu Nam, có lúc cùng chiến trường, có lúc cùng ở cấp lãnh đạo đất nước, Anh là cán bộ tham mưu tầm cỡ, một vị tướng chỉ huy cương nghị, bản lĩnh và dám chịu trách nhiệm.
2. Một cán bộ cách mạng có tác phong làm việc trách nhiệm, tâm huyết, mềm dẻo nhưng rất cương quyết
Trước những khó khăn chung của đất nước do bị tàn phá sau chiến tranh, trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí Lê Đức Anh quyết định chỉ giữ lại Sư đoàn 330 thường trực, còn đưa Sư đoàn 8 và Sư đoàn 4 đi làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế; tổ chức đào tạo cán bộ quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang; kiểm kê quản lý và sử dụng chặt chẽ, hiệu quả toàn bộ tài sản, kể cả số vũ khí, cơ sở vật chất thu được của địch. Những quyết định trên không gây biến động lớn về tổ chức biên chế mà còn tạo được sự ổn định vững chắc cả về con người, tổ chức và xã hội trên địa bàn Quân khu 9. Do vậy, khi quân Pôn Pốt gây hấn, lực lượng vũ trang Quân khu 9 đã đánh bại địch, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
Lợi dụng tình hình khó khăn sau chiến tranh và sự yếu kém của một bộ phận cán bộ địa phương, các thế lực thù địch lôi kéo nhân dân tiến hành bạo loạn ở Trà Vinh. Đồng chí Lê Đức Anh chủ trương giải quyết vấn đề mềm dẻo, khôn khéo, nhưng cương quyết, dứt khoát, không để đổ máu. Ông đã cùng Tỉnh ủy Trà Vinh tìm hiểu những sai trái, lệch lạc trong đội ngũ cán bộ, từ đó tiến hành kiểm điểm, sửa sai, xử lý nghiêm khắc đối với những cán bộ vi phạm. Với cách xử lý khôn khéo, cương quyết đó, đồng chí đã cùng lãnh đạo tỉnh Trà Vinh dẹp được bạo loạn, giữ vững ổn định chính trị.
Quá trình chỉ đạo giúp cách mạng Campuchia, Đại tướng luôn trăn trở làm sao để bạn mạnh lên, từng bước tự đảm đương được sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước và tránh đổ máu cho cán bộ, chiến sĩ ta. Chính vì vậy, ông đã chỉ đạo xây dựng tuyến phòng thủ biên giới (K5) dài 800km, góp phần chia cắt chiến lược, hạn chế và ngăn chặn sự xâm nhập của địch từ Thái Lan vào nội địa Campuchia, để ở trong nội địa, ta và bạn kết hợp tiến công truy quét làm tan rã một bộ phận quan trọng sinh lực địch.
Là một cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, Đại tướng có gần 50 năm gắn bó với quân đội, với các lực lượng vũ trang, nhân dân trên các chiến trường. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và gần 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia, Đại tướng rất tâm huyết với công việc tổng kết kinh nghiệm chiến tranh cách mạng, để lý giải tính đúng đắn của cách mạng Việt Nam, đồng thời rút ra bài học cho công cuộc giữ nước mai sau.
3. Một nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa, phong cách đổi mới, nhanh nhạy, bám sát thực tiễn, luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc trên hết
Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược, nhạy bén, linh hoạt trong xử lý các tình huống phức tạp. Sau khi trực tiếp tham gia chỉ huy giải phóng miền Nam, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng Pôn Pốt và hồi sinh đất nước, đến khi giữ cương vị Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh tiếp tục là một trong những người chèo lái đưa đất nước ta dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, quan hệ quốc tế được mở rộng, vị thế của Việt Nam trên thế giới được nâng cao.
Trước những vấn đề lớn, phức tạp, Đại tướng luôn trăn trở, đề xuất được những giải pháp phù hợp, hiệu quả. Đại tướng đã tìm ra bước đi khôn khéo với Chiến dịch “Phẫu thuật nụ cười” và “Tìm kiếm người Mỹ mất tích - MIA” để mở ra đột phá khẩu trong việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Kết quả những bước phát triển lịch sử trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, góp phần vào sự phát triển thịnh vượng của mỗi nước và hoà bình ổn định ở khu vực ngày nay, đã minh chứng tầm nhìn chiến lược và công lao đóng góp của Đại tướng.
Không chỉ được giao trọng trách mở ra việc bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, Đại tướng Lê Đức Anh còn tham gia giải quyết vấn đề bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc. Ngay sau khi được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Chính trị giao cho Đại tướng Lê Đức Anh “mở đầu” việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Đại tướng đã bắt đầu công việc bằng hai kênh: Ngoại giao nhân dân và ngoại giao bí mật. Đại tướng vào Thành phố Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, tổ chức gặp mặt bà con Hoa kiều Chợ Lớn để trao đổi về việc cần đưa quan hệ giữa hai dân tộc trở lại bình thường. Đại tướng cũng có các cuộc gặp với Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy tại Nhà khách Bộ Quốc phòng để bàn chuyện bình thường hoá quan hệ hai nước và tiền trạm sang Trung Quốc... Sau các hoạt động đó của Đại tướng cùng các kênh đối ngoại khác, tháng 11/1991, Tổng Bí thư Đỗ Mười, Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm Trung Quốc. Hai bên đã ký kết Hiệp định chính thức bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và hai Đảng, khép lại 15 năm đối đầu căng thẳng.
Đại tướng Lê Đức Anh - một nhân vật lịch sử, một nhà lãnh đạo tài năng, có đạo đức khiêm nhường - khi phải đối mặt với những tình thế khó khăn buộc phải ra quyết định. Bằng quan điểm lập trường giai cấp vững vàng, tầm nhìn sâu, rộng và năng lực tư duy sáng tạo, hành động quyết liệt với tấm lòng vì nước, vì dân, Đại tướng vẫn bình thản, tìm được phương cách giải quyết đúng đắn, phù hợp. Phong cách lãnh đạo đổi mới, nhanh nhạy, bám sát thực tiễn, linh hoạt trong xử lý các tình huống phức tạp trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc của Đại tướng đã để lại dấu ấn sâu sắc.
Đánh giá về Đại tướng, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười nhận định: “Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta”. Ở Anh, quan điểm giai cấp rất vững vàng và rõ ràng. Trong thời kỳ giữ cương vị Chủ tịch nước, “để góp phần ổn định và phát triển kinh tế, vai trò Chủ tịch nước của anh Lê Đức Anh lúc này rất quan trọng”2.
4. Một vị tướng giản dị, gần gũi và sâu sát
Quá trình công tác, dù ở bất kỳ cương vị nào được phân công, Đại tướng Lê Đức Anh cũng rất sâu sát, tận tụy trong công việc, gần gũi với cấp dưới, sẵn sàng chia ngọt, sẻ bùi, luôn quan tâm, chăm lo đến cán bộ, chiến sĩ. Là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng đã trực tiếp đến thăm, kiểm tra nhiều đơn vị cơ sở. Thấy đời sống của bộ đội còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, thậm chí có biểu hiện phát sinh tư tưởng tiêu cực, Đại tướng đã chỉ đạo cấp ủy, chỉ huy các đơn vị tập trung mọi nguồn lực chăm lo đời sống bộ đội để anh em có sức khỏe, ổn định tư tưởng, xác định quyết tâm bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc. Chỉ hơn một tháng, sau “sự kiện Gạc Ma năm 1988”, trên cương vị cao nhất của quân đội, Đại tướng đã trực tiếp đi thị sát quần đảo Trường Sa, nắm tư tưởng cán bộ, chiến sĩ và động viên bộ đội vững vàng tay súng, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Đất nước hòa bình, nhưng Đại tướng luôn trăn trở về đời sống của cán bộ, chiến sĩ quân đội, nhất là các đồng chí từng trực tiếp chiến đấu, chịu nhiều hy sinh gian khổ, nhưng cuộc sống vẫn còn rất khó khăn.
Là một trong những cán bộ lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, nhưng với cuộc sống đời thường, Đại tướng lại rất giản dị, sâu sắc, nhân văn, được đồng chí, đồng đội và nhân dân yêu mến, bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Ở đồng bằng sông Cửu Long, người ta gọi Đại tướng Lê Đức Anh với cái tên thật gần gũi “bác Sáu Nam”. Bởi suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, dù ở cương vị nào ông cũng luôn giản dị, chân thành, để lại dấu ấn tốt đẹp trong lòng người dân Nam Bộ.
Đại tướng cũng trăn trở trước những mất mát, hy sinh to lớn của nhân dân trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Trên cương vị Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh chỉ đạo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Quốc phòng rà soát, xây dựng kế hoạch, đề xuất chủ trương phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.
Ngày 29/12/1994, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, hàng trăm Bà mẹ Việt Nam anh hùng được tôn vinh tại Quảng trường Ba Đình lịch sử. Cũng từ đây, xuất hiện các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, “Toàn dân chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với nước”... Những phong trào đó trở thành nếp sống mang đậm tính nhân văn, truyền thống văn hóa “Uống nước nhớ nguồn” của các tầng lớp nhân dân trong cả nước.
Đối với quê hương, Đại tướng Lê Đức Anh luôn gần gũi, chân tình, sâu sắc và nặng nghĩa tình. Mặc dù tham gia hoạt động cách mạng từ thời niên thiếu, xa quê, nhưng Đại tướng luôn nhớ về quê hương với một tình cảm rất sâu đậm. Mỗi lần về quê, Đại tướng thường đi thăm bà con lối xóm, ân cần thăm hỏi cuộc sống, tình hình lao động sản xuất; động viên bà con, họ hàng, con cháu quê nhà chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực lao động sản xuất để phát triển quê hương ngày càng giàu đẹp.
Là vị tướng chỉ huy nghiêm khắc, nhưng trong đời thường, Đại tướng Lê Đức Anh là người sống giản dị và vô cùng thanh bạch. Từ khi ra Hà Nội giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng,
Bộ trưởng Quốc phòng, rồi được bầu làm Chủ tịch nước, ông vẫn sống và làm việc trong căn nhà công vụ N8 giữa Trạm khách của Bộ Quốc phòng. Từ đồ dùng trong nhà đến bữa ăn, quần áo mặc và nếp sinh hoạt hằng ngày của ông vẫn luôn thanh đạm như một người dân Việt Nam bình thường khác.
Khi chiến tranh nổ ra, đây là thử thách cao nhất đối với con người. Chính những thử thách nghiệt ngã của các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc cùng sự rèn luyện nghiêm khắc, tự giác của bản thân đã hun đúc nên phong cách, con người Đại tướng Lê Đức Anh. Đó là vị tướng của chiến trường, tư duy chiến lược sắc sảo, tầm nhìn sâu rộng trong những vấn đề chiến lược của đất nước, của quân đội; một nhà lãnh đạo trách nhiệm, tâm huyết, luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc và vị thế của đất nước lên trên hết, đồng thời luôn sống giản dị, chân tình, dễ gần. Đại tướng thực sự là một học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày nay, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường; đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đem lại nhiều cơ hội thuận lợi để phát triển nhưng cũng không ít khó khăn. Để tiếp tục chèo lái con thuyền cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, đòi hỏi người lãnh đạo, chỉ huy không chỉ có tâm mà phải có tầm. Do vậy, học tập phong cách lãnh đạo, chỉ huy của Đại tướng Lê Đức Anh vẫn mãi là vấn đề rất cần thiết.
Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa
Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương,
Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
Với 99 năm tuổi đời, hơn 80 năm hoạt động cách mạng, được Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân tin cậy giao phó nhiều trọng trách quan trọng, Đại tướng Lê Đức Anh đã đem hết tâm lực và trí tuệ của mình hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Gắn bó với những trang sử hào hùng của dân tộc, đồng chí là một người cộng sản kiên trung, một nhà chính trị, nhà quân sự tài năng. Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí là tấm gương sáng để đồng bào, đồng chí, cán bộ, chiến sĩ cả nước yêu quý, kính trọng, học tập và noi theo.
1. Từ người thanh niên yêu nước sớm trở thành chiến sĩ cộng sản
Đồng chí Lê Đức Anh sinh ngày 01/12/1920 trong một gia đình nông dân tại xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Được nuôi dưỡng bởi truyền thống yêu nước của gia đình, quê hương và dân tộc, Lê Đức Anh đã sớm có tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm cứu nước, cứu dân, từ đó đã thôi thúc đồng chí tích cực tham gia hoạt động yêu nước khi mới 17 tuổi.
Tham gia hoạt động cách mạng bắt đầu từ việc đọc sách, báo tuyên truyền cho quần chúng nhân dân, trao đổi với những người đồng chí hướng về tình hình đất nước, bàn cách đấu tranh đòi giảm sưu thuế hà khắc của thực dân, phong kiến..., đến năm 1937, Lê Đức Anh được giác ngộ và chính thức tham gia hoạt động cách mạng ở địa phương. Bắt đầu là tham gia phong trào dân chủ ở Phú Vang, Thừa Thiên Huế, đồng chí đã tích cực tham gia cuộc vận động đi lấy chữ ký của nông dân các làng vào danh sách yêu cầu đối với thực dân Pháp, trong đó có hai nội dung rất thiết thực là giảm thuế điền thổ và bỏ thuế thân. Nhân dịp kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động (01/5/1938), đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Cuối năm 1938, đầu năm 1939, thực dân Pháp tiến hành khủng bố phong trào cách mạng, nhiều cán bộ, đảng viên của ta bị bắt. Tháng 10/1939, phong trào cách mạng Phú Vang bị tổn thất nặng nề do thực dân Pháp thực hiện cuộc khủng bố vào Thừa Thiên. Để tránh sự truy lùng của địch, cuối năm 1939, đồng chí Lê Đức Anh lánh vào Hội An - Quảng Nam, rồi đi tàu hỏa lên Đà Lạt, tổ chức các nghiệp đoàn ở đồn điền cao su Lộc Ninh và tham gia đấu tranh giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Những năm tháng làm việc ở đồn điền cao su Lộc Ninh, đồng chí chú trọng “tổ chức, củng cố đời sống vật chất và tinh thần cho những người phu cao su, hâm nóng và thắp sáng trong họ lòng tự tôn dân tộc”, sau đó lựa chọn những người tiêu biểu để giác ngộ và gây dựng lực lượng đầu tiên cho cách mạng ở vùng này. Đầu năm 1943, để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phong trào công nhân và phong trào cách mạng chung, tại làng 1, đồn điền cao su Dầu Tiếng, Tỉnh ủy lâm thời Thủ Dầu Một được tái lập, đồng chí Lê Đức Anh được bổ sung vào Tỉnh ủy và được phân công chỉ đạo phong trào cách mạng ở Lộc Ninh và toàn bộ vùng phía Bắc, như Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch. Đến tháng 02/1944, chi bộ Đảng ở Lộc Ninh được thành lập do đồng chí Lê Đức Anh làm Bí thư, có nhiệm vụ khẩn trương gây dựng phát triển lực lượng, đẩy mạnh tuyên truyền cách mạng trong công nhân và nhân dân vùng Hớn Quản, chuẩn bị đón thời cơ phát động quần chúng, công nhân và đồng bào các dân tộc vùng lên khởi nghĩa. Với sự tích cực vận động, tổ chức và chỉ đạo sâu sát của Đảng, đến tháng 8/1945, ở Lộc Ninh, lực lượng quần chúng đã hình thành các hội cứu quốc (Việt Minh), Thanh niên tiền phong, các đội thanh niên bán vũ trang, đội tự vệ... sẵn sàng chờ lệnh đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Tại cuộc họp Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng (từ ngày 21 đến ngày 23/8/1945) bàn về cuộc khởi nghĩa, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ phụ trách phong trào cách mạng ở các quận Hớn Quản, Bù Đốp và vùng dân tộc thiểu số, sau khi giành chính quyền xong thì tổ chức lực lượng chi viện cho thị xã Thủ Dầu Một và Sài Gòn khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng Tháng Tám nhanh chóng giành thắng lợi trong cả nước, trong đó có địa bàn do đồng chí Lê Đức Anh phụ trách. Những năm đầu hoạt động cách mạng sôi nổi với biết bao khó khăn, thử thách đã tôi rèn ở đồng chí Lê Đức Anh một bản lĩnh cách mạng kiên cường, suốt đời chiến đấu, hy sinh vì lý tưởng cách mạng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân.
2. Một vị tướng tài ba, có tầm nhìn chiến lược
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí Lê Đức Anh tham gia quân đội và bắt đầu cuộc đời binh nghiệp đầy gian khổ và oanh liệt. Được giao nhiều vị trí trọng yếu và ác liệt trên chiến trường, đồng chí luôn nỗ lực vượt qua khó khăn, thử thách, thể hiện là một vị tướng tài ba, có tầm nhìn chiến lược; một nhà chỉ huy quân sự tài năng, mưu trí, dũng cảm, quyết đoán.
Từ năm 1946 đến năm 1947, đồng chí tham gia quân đội, chỉ huy giành chính quyền ở Lộc Ninh, tham gia Tỉnh ủy lâm thời, phụ trách quân sự phía bắc tỉnh Thủ Dầu Một; giữ các chức vụ Chính trị viên Chi đội 1 (sau là Trung đoàn 301), Trung đoàn ủy viên, Tỉnh ủy viên Thủ Dầu Một. Từ năm 1948 đến năm 1954, đồng chí đảm đương nhiều chức vụ quan trọng như: Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, Quân khu ủy viên, Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ, Tham mưu trưởng Phân liên khu miền Đông Nam Bộ.
Ghi dấu ấn vai trò và tài năng quân sự của đồng chí Lê Đức Anh trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp là việc đồng chí đã tham mưu Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn mở một chiến dịch tiến công trên địa bàn Bến Cát nhằm phá chiến thuật Đờ Latơ, tiêu diệt sinh lực địch bằng cách đánh giao thông kết hợp với công đồn diệt tháp canh để đánh viện binh; tác chiến kết hợp với phá hoại để mở rộng khu căn cứ của ta. Tin tưởng ở nhận định của đồng chí Lê Đức Anh, ngày 21/01/1950, Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn quyết định mở chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát, đồng chí Lê Đức Anh được giao làm Tham mưu trưởng chiến dịch. Chiến dịch huy động lực lượng tham gia gồm 1 tiểu đoàn chủ lực và 1 đại đội độc lập của liên Trung đoàn 301 - 310, 1 tiểu đoàn chủ lực của liên Trung đoàn 306 - 312, 1 đại đội độc lập của huyện Bến Cát, lực lượng dân quân du kích của hai huyện Hóc Môn, Gò Vấp phối hợp cùng với lực lượng công nhân thuộc công đoàn cao su đồn điền Dầu Tiếng. Chiến dịch thu được thắng lợi lớn, đã loại khỏi chiến đấu gần 100 tên địch, phá hủy 3 xe bọc thép, làm gián đoạn giao thông của địch trong khoảng thời gian dài. Tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ Lê Duẩn đã khẳng định: “Chiến dịch Bến Cát đánh dấu một bước trưởng thành quan trọng của lực lượng vũ trang Quân khu 7, đưa phong trào kháng chiến của quân dân miền Đông Nam Bộ hòa nhập với cuộc kháng chiến trên chiến trường cả nước”. Cùng với chiến dịch Cầu Kè, Trà Vinh (từ ngày 07 đến ngày 26/12/1949), chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát là hai chiến dịch tiến công đầu tiên của lực lượng vũ trang Nam Bộ làm thay đổi cục diện chiến trường. Chiến dịch này mở ra lối đánh mới “chiến thuật đặc công” phổ biến rộng rãi trong toàn quân và được Bác Hồ khen ngợi trong dịp đồng chí Lê Đức Anh cùng đồng chí Lê Duẩn ra Chiến khu Việt Bắc để báo cáo với Bác Hồ và Bộ Tổng Tư lệnh về kinh nghiệm chiến đấu cuối năm 1952, đầu năm 1953. Tài năng quân sự của đồng chí Lê Đức Anh ngày càng được thực tiễn chiến trường khẳng định. Kết thúc chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát, đồng chí Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ.
Tiếp đó, tháng 5/1951, đồng chí Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Phân liên khu miền Đông Nam Bộ, gồm các địa bàn: Gia Ninh, Thủ Biên, Bà Lớn, Mỹ Tho, Long Châu Sa. Hoạt động chủ yếu trên chiến trường miền Đông Nam Bộ đầy cam go, ác liệt, đồng chí Lê Đức Anh đã chủ động tham mưu và trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch mang lại hiệu suất cao, tích cực phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ làm nên thắng lợi của chiến cuộc Đông - Xuân 1953 - 1954, đỉnh cao là Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ chín năm gian khổ, hy sinh.
Kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta lại tiếp tục trải qua cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với quyết tâm thực hiện thành công di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (1954), đồng chí Lê Đức Anh tập kết ra Bắc, lần lượt giữ các chức vụ Cục phó
Cục Tác chiến, Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu và Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đáp ứng yêu cầu của chiến trường, cuối năm 1963, đồng chí Lê Đức Anh trở lại chiến trường miền Nam. Tại Bộ Chỉ huy Miền, trên cương vị Tham mưu trưởng Quân giải phóng miền Nam, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng cơ quan tham mưu Bộ Chỉ huy Miền chỉ huy chiến dịch tiến công Bình Giã giành thắng lợi. Trận Bình Giã đã đánh dấu sự thất bại cơ bản của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và tay sai. Đến đầu năm 1965, trước thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam, từ 18.000 quân (tháng 5/1965) lên 180.000 quân (tháng 11/1965), đồng thời leo thang đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Bước sang những năm 1966-1967, Mỹ và tay sai mở cuộc phản công chiến lược càn quét lên vùng đứng chân của Trung ương Cục ở Chiến khu Dương Minh Châu. Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền họp, nhận định tình hình và phân công đồng chí Lê Đức Anh tổ chức lực lượng đánh địch tại chỗ. Đồng chí đã chỉ đạo các cơ quan xác định phương châm tác chiến là tổ chức các “ấp, xã chiến đấu”, bám trụ đánh địch tại chỗ, giữ chắc các ấp, xã chiến đấu. Nơi địch không đến thì bung ra tìm địch mà đánh, bám địch mà diệt, thực hiện tiêu hao địch rộng rãi, vừa chiến đấu vừa bảo đảm phục vụ chiến đấu, bảo vệ an toàn cơ quan và kho tàng, duy trì cuộc sống và sinh hoạt bình thường trong căn cứ để đánh lâu dài với địch. Dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của đồng chí Lê Đức Anh, sau gần hai tháng chiến đấu (từ ngày 22/02 đến ngày 15/4/1967), ta đã loại khỏi chiến đấu hơn 14.000 tên địch, chủ yếu là quân Mỹ, phá hủy hơn 992 xe quân sự, 112 khẩu pháo, bắn rơi và phá hủy 160 máy bay. Trong chiến dịch này, đồng chí Lê Đức Anh đã xây dựng nghệ thuật chiến dịch “thế trận chiến tranh nhân dân trên một địa bàn không có dân” để đánh địch.
Bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, đồng chí Lê Đức Anh được phân công chỉ huy bộ đội ở hướng tây Sài Gòn, từ Long An đánh vào Tổng nha Cảnh sát và Cảnh sát Đô thành. Với nhãn quan quân sự sắc bén, khi đánh vào Sài Gòn, đồng chí Lê Đức Anh đề xuất không nên mở đợt 2 đánh vào nội đô vì ta không còn yếu tố bí mật, bất ngờ; đợt 2 có mở thì nên đánh ra vùng ven đô và phụ cận. Sự chuyển hướng kịp thời trong lãnh đạo, chỉ huy của đồng chí Lê Đức Anh không những giảm thiểu thương vong cho ta, mà còn góp phần tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đã làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh và ngồi đàm phán ký kết Hiệp định Pari năm 1973, thừa nhận “độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”, rút hết quân Mỹ và rút không điều kiện ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9 từ năm 1969, trước những khó khăn của phong trào cách mạng miền Nam thời kỳ này, trong đó có Quân khu 9, nhất là ta chưa nhận thức được âm mưu, thủ đoạn của địch nên để quân địch phản công lấn tới, còn ta thì mất đất, mất dân; lực lượng chủ lực và lực lượng vũ trang đều mất sức chiến đấu, đồng chí Lê Đức Anh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo củng cố về tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang, góp phần khôi phục lại lực lượng chính trị, chỉ đạo phương châm tác chiến, phương thức đấu tranh, khôi phục lại thế và lực của Khu 9, tạo nên một sự chuyển biến mới. Để tìm hiểu tình hình các đơn vị phía trước triển khai nhiệm vụ, nắm chắc thuận lợi, khó khăn và những vấn đề nổi cộm để chỉ đạo và giúp đỡ cấp dưới giải quyết, đồng chí Lê Đức Anh luôn đi tiên phong và sẵn sàng chấp nhận các công việc khó khăn, gian khổ. Cùng với chiến trường cả nước, trên chiến trường thuộc Quân khu 9, dưới sự chỉ huy của Tư lệnh Lê Đức Anh, bắt đầu từ đêm 06, rạng sáng ngày 07/4/1972, các lực lượng vũ trang đồng loạt nổ súng tiến công, giành giật quyết liệt với địch từng mảnh đất, từng nhánh sông với 6 đợt cao điểm suốt từ tháng 4 đến tháng 8/1972. Tổng cộng ta đã diệt 12.000 tên địch, tiêu diệt 4 chi khu, 2 yếu khu, 6 căn cứ trung đoàn và tiểu đoàn, diệt 916 đồn bốt. Ta giải phóng được 400 ấp với gần 80 vạn dân (trong khi cuối năm 1971 ta mới giải phóng được 20 vạn dân). Thắng lợi của Quân khu 9 đã góp phần quan trọng cùng với quân dân miền Nam đánh bại bước đầu chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, trong đó có đóng góp quan trọng của vị Tư lệnh có tầm nhìn chiến lược, tư duy nhạy bén, sắc sảo - Tư lệnh Lê Đức Anh. Với những đóng góp quan trọng đó, tháng 4/1974, đồng chí được Chủ tịch nước ký Quyết định thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng.
Thực hiện kế hoạch tiến công mùa khô 1974-1975, tiến tới tổng tiến công và nổi dậy, trên cương vị Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam (từ năm 1974), Trung tướng Lê Đức Anh được giao chỉ huy chiến dịch đường 14 - Phước Long (từ ngày 13/12/1974 đến ngày 06/01/1975), ta giành thắng lợi, diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch ở Phước Long, thu toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến tranh, giải phóng tỉnh Phước Long. Chiến dịch Phước Long nhanh chóng giành thắng lợi bởi vị chỉ huy chiến dịch đã đưa ra một cách đánh táo bạo - “đánh phủ đầu”, “khi ta đánh đòn phủ đầu mà trúng huyệt hiểm thì địch rã. Nếu ta lừng chừng không chớp thời cơ xốc tới mà để chậm, địch đưa lên một liên đoàn biệt động tăng cường cho núi Bà Rá và thị xã Phước Long thì ta sẽ gặp khó khăn hơn nhiều”. Đây không phải là chủ trương có trước của Bộ Tư lệnh Miền, mà trước tình hình cụ thể của chiến trường, Trung tướng Lê Đức Anh đã quyết đoán xử lý. Chiến thắng Phước Long đã góp phần làm thay đổi cục diện chiến trường, làm thay đổi đáng kể tương quan lực lượng về thế giữa ta và địch trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, là cơ sở để Trung ương hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng chí Lê Đức Anh trực tiếp chỉ huy cánh quân tiến công trên hướng tây - tây nam Sài Gòn (Đoàn 232), thực hiện các nhiệm vụ chia cắt các lực lượng Sài Gòn và miền Đông với lực lượng vùng đồng bằng sông Cửu Long; tấn công Biệt khu Thủ đô và Tổng nha Cảnh sát, sau đó hợp điểm cùng các cánh quân khác tại Dinh Độc Lập vào trưa ngày 30/4/1975, góp phần vào thắng lợi chung của toàn quân và toàn dân ta trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, đồng chí Lê Đức Anh là một trong những tướng lĩnh trực tiếp chỉ huy chiến trường, bảo vệ biên giới của Tổ quốc và giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Ghi nhận những cống hiến xuất sắc của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng, ngày 21/01/1980, Trung tướng Lê Đức Anh được Chủ tịch nước ký quyết định thăng quân hàm từ Trung tướng lên Thượng tướng. Năm 1981, đồng chí được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia. Trong thời gian 10 năm làm nghĩa vụ quốc tế trên đất bạn, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều sáng kiến, quyết định quan trọng góp phần xây dựng và củng cố phong trào cách mạng ở Campuchia, rèn luyện cho cán bộ, bộ đội tình nguyện tính tổ chức kỷ luật cao trong chấp hành các mệnh lệnh, nguyên tắc, giúp hồi sinh đất nước Campuchia.
Với những thành tích xuất sắc, năm 1986, đồng chí Lê Đức Anh được thăng quân hàm Đại tướng và được bổ nhiệm giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Trăn trở trước những khó khăn của đất nước thời kỳ đầu đổi mới, trước tình hình “Bộ đội biên cương ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, vậy mà ngân sách quốc phòng chỉ mới lo chuyện đời sống, chưa tính đến trang bị, đã chiếm tới 25% tổng ngân sách quốc dân, bởi vì quân số thường trực quá lớn, trong khi nền kinh tế - xã hội đang lâm vào khủng hoảng... Tăng quân số, tăng chi phí quốc phòng, nhưng an ninh quốc phòng không bảo đảm, nguy cơ đối với độc lập dân tộc trên lĩnh vực quốc phòng tăng lên”, Tổng Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đã đề xuất “cần phải giảm quân và điều chỉnh lại thế bố trí chiến lược”2; chú trọng xây dựng công nghiệp quốc phòng tự chủ, điều chỉnh bố trí chiến lược và triển khai trên toàn quốc “thế trận chiến tranh nhân dân” và thực hiện nhiệm vụ “quốc phòng toàn dân”. Đồng chí đề nghị Đảng và Nhà nước có chính sách cụ thể cải thiện đời sống bộ đội tại ngũ, giải quyết việc làm và đời sống cho cán bộ, chiến sĩ xuất ngũ. Nhờ vậy, tuy lực lượng giảm đi, nhưng sức mạnh phòng thủ và chiến đấu của quân đội được tăng cường.
Năm 1987, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh chỉ đạo tập trung kế hoạch điều chỉnh chiến lược, bố trí lại đội hình chiến lược bảo đảm mục tiêu đánh lâu dài, giảm chi phí quốc phòng, phát huy sức mạnh toàn dân, toàn diện, tạo nên sức mạnh phòng thủ đất nước và đủ sức mạnh chống lại mọi tình huống chiến tranh. Đây là con đường đổi mới xây dựng Quân đội nhân dân, đổi mới công cuộc xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ quốc phòng và an ninh, kết hợp chặt chẽ công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Với tầm nhìn chiến lược, Đại tướng Lê Đức Anh đặc biệt quan tâm đến công tác tăng cường phòng thủ biển, đảo. Cuối tháng 02/1987, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Quân chủng Hải quân củng cố và tăng cường lực lượng phòng thủ quần đảo Trường Sa. Để đưa ra được những quyết sách đúng đắn, Đại tướng Lê Đức Anh nhiều lần trực tiếp thị sát, chỉ đạo và đóng góp quan trọng trong xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Trải qua sự nghiệp đấu tranh lâu dài và gian khổ của cách mạng Việt Nam, từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến 30 năm chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống Pháp và chống Mỹ (1945-1975), tham gia cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới của Tổ quốc, chỉ huy Quân tình nguyện Việt Nam thực hiện nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, kinh qua các vị trí từ cấp đại đội, chi đội đến chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã để lại một sự nghiệp quân sự vẻ vang, gắn liền với những thắng lợi to lớn của dân tộc, xứng đáng là nhà quân sự tài năng của Đảng và cách mạng Việt Nam.
PGS.TS. Vũ Trọng Lâm
Trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại tướng Lê Đức Anh thuộc thế hệ cán bộ cách mạng tiền bối. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của ông gắn liền với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng, đổi mới đất nước và làm nhiệm vụ quốc tế giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Trải qua hơn 80 năm hoạt động cách mạng, với tài năng thiên bẩm và tinh thần cống hiến không biết mệt mỏi, Đại tướng Lê Đức Anh được Đảng, Nhà nước và Quân đội giao nhiều cương vị, trọng trách. Dù ở cương vị nào đồng chí cũng luôn đem hết tinh thần, nghị lực và trí tuệ cống hiến cho sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt, vào những thời điểm gay go, quyết liệt, có tính bước ngoặt, đồng chí luôn nêu cao tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không lùi bước trước mọi khó khăn, thử thách để hoàn thành nhiệm vụ, là nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam.
1. Đồng chí Lê Đức Anh - Người chiến sĩ cộng sản kiên trung
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng tại xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, ông nội của đồng chí là một sĩ phu từng tham gia Phong trào Cần Vương chống Pháp. Ngay từ khi còn nhỏ, đồng chí Lê Đức Anh đã thấu hiểu sự nghèo đói, lam lũ, cùng khổ của những người dân lao động dưới ách thống trị của thực dân, từ đó sớm giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1937, khi mới 17 tuổi, đồng chí tham gia phong trào dân chủ ở Phú Vang, Thừa Thiên Huế; tháng 5/1938, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, tích cực tham gia hoạt động tuyên truyền cách mạng. Đầu năm 1938, ở nước Pháp, Chính phủ của Đảng Xã hội bị đổ, phái hữu lên nắm quyền. Sự biến động về chính trị này lập tức ảnh hưởng trực tiếp đến các nước thuộc địa của Pháp, trong đó có Việt Nam. Tại đây, thực dân Pháp tiến hành một cuộc khủng bố, bắt bớ quyết liệt khiến nhiều đảng viên và người yêu nước bị bắt. Tháng 10/1939, thực dân Pháp tiến hành cuộc khủng bố ở Thừa Thiên, hầu hết các đồng chí đảng viên ở huyện Phú Vang bị bắt, hệ thống cơ sở bị vỡ, phong trào cách mạng bị tổn thất nặng nề. Trước tình hình đó, tổ chức cộng sản chủ trương: “tất cả đảng viên rút vào hoạt động bí mật, tự thân di tản để bảo toàn lực lượng, khi có thời cơ thì tìm cách bắt liên lạc với tổ chức tiếp tục hoạt động cách mạng”. Đồng chí Lê Đức Anh phải lánh vào Hội An - Quảng Nam, lên Đà Lạt, rồi xuống Lộc Ninh. Thời gian này, để kiếm sống và tìm cách bắt liên lạc với tổ chức cách mạng, đồng chí phải làm những công việc rất vất vả như quét dọn nhà thuê, đánh máy chữ hay chế biến thực phẩm, nhưng trong ông vẫn nung nấu tinh thần cách mạng, chờ thời cơ để bắt liên lạc với tổ chức và trở lại hoạt động. Trực tiếp làm việc ở đồn điền cao su Lộc Ninh, thấu hiểu nỗi cùng cực của những người phu bị bóc lột sức lao động một cách thậm tệ, đồng chí Lê Đức Anh đã tiến hành tuyên truyền, giác ngộ cách mạng và tìm mọi biện pháp để củng cố đời sống vật chất, tinh thần cho những phu cao su và thắp lên trong họ lòng tự tôn dân tộc. Bằng những hoạt động không biết mệt mỏi, năm 1942, đồng chí bắt liên lạc được với tổ chức đảng, tích cực trở lại tham gia hoạt động cách mạng. Đầu năm 1943, đồng chí được bổ sung vào Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, được phân công phụ trách phong trào ở Lộc Ninh và vùng phía bắc của tỉnh. Tháng 02/1944, khi Chi bộ Đảng ở Lộc Ninh được thành lập, đồng chí Lê Đức Anh được giao làm Bí thư Chi bộ và phụ trách vấn đề dân tộc thiểu số. Thực hiện nhiệm vụ Tỉnh ủy giao, trên cương vị là Bí thư Chi bộ, đồng chí Lê Đức Anh đã khẩn trương gây dựng phát triển lực lượng, đẩy mạnh tuyên truyền cách mạng trong công nhân và nhân dân vùng Hớn Quản, chuẩn bị đón thời cơ phát động công nhân và đồng bào các dân tộc vùng lên khởi nghĩa.
Giữa năm 1944, từ chủ trương của Xứ ủy là xúc tiến việc thành lập các đoàn thể Mặt trận Việt Minh ở Nam Bộ, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một đề ra phương châm: Nơi nào đã phục hồi cơ sở đảng thì tổ chức các hội cứu quốc, sau đó phát triển đến các nơi khác. Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, sau một thời gian, đồng chí Lê Đức Anh đã lãnh đạo Chi bộ Lộc Ninh gây dựng cơ sở, thành lập “nhóm trung kiên”, đến đầu năm 1945, thành lập được một số hội cứu quốc.
Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, giành quyền cai trị Đông Dương. Trước thời cơ cách mạng mới, Đảng ta đề ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tại Lộc Ninh, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng cách mạng trung kiên trong các nghiệp đoàn để chuẩn bị cho việc đấu tranh vũ trang. Với sự tích cực, sâu sát của đồng chí Lê Đức Anh, đến tháng 8/1945, ở Lộc Ninh, lực lượng quần chúng đã hình thành các hội cứu quốc, thanh niên tiền phong, các đội thanh niên bán vũ trang, đội tự vệ... Cũng trong thời gian này, đồng chí được phân công chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền ở các đồn điền cao su và hai huyện Hớn Quản và Bù Đốp của tỉnh Bình Phước. Trên cơ sở nắm vững địa bàn và chủ trương khởi nghĩa của Đảng, đồng chí tích cực nghiên cứu, nắm chắc tình hình, chỉ đạo các địa phương mở rộng phong trào cứu quốc, tổ chức cho quần chúng đấu tranh, kết hợp với đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ, du kích, xây dựng căn cứ cách mạng, tạo cơ sở để tiến hành chiến tranh du kích, khởi nghĩa từng phần ở những nơi có điều kiện, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến. Sáng ngày 24/8/1945, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Lê Đức Anh, hàng nghìn công nhân các làng, đồn điền cao su Lộc Ninh cùng nông dân các địa phương nhất tề nổi dậy, nhanh chóng chiếm các trụ sở hành chính, giành chính quyền ở Lộc Ninh, Bù Đốp, Hớn Quản, sau đó kéo xuống Thủ Dầu Một tham gia Tổng khởi nghĩa.
Thắng lợi của nhân dân Lộc Ninh, Bù Đốp, Hớn Quản trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là kết quả của quá trình đấu tranh kiên cường, bất khuất của những người cộng sản và quần chúng cách mạng, trong đó nổi bật là vai trò của đồng chí Lê Đức Anh. Trong cuốn Hồi ký của mình, ông viết: “Nhớ lại những năm tháng đầy thử thách, cam go, khi bị kẻ thù khủng bố, đàn áp gắt gao, những lúc cách mạng gặp khó khăn, thử thách, song nhờ bám thực tế, chủ động sáng tạo, dựa vào dân, bám chắc vào dân nên tôi đã vượt qua khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ".
2. Nhà chỉ huy quân sự có tài thao lược, vị tướng tài ba của Quân đội nhân dân Việt Nam
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí Lê Đức Anh được cử tham gia quân đội. Trong suốt hơn 47 năm hoạt động trong quân đội (1945-1992), từ chức vụ Chính trị viên Chi đội đến Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, cuộc đời binh nghiệp của đồng chí Lê Đức Anh gắn với nhiều chiến trường từ Nam ra Bắc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả trên chiến trường nước bạn. Nhưng dù ở cương vị nào, đồng chí cũng luôn thể hiện là một vị chỉ huy nhạy bén, quyết đoán, bám sát thực tiễn, dám chịu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành và giành nhiều thắng lợi quan trọng. Đầu năm 1946, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ Chính trị viên Chi đội 1, đơn vị hoạt động trên chiến trường trải dài từ Lái Thiêu đến các huyện Châu Thành, Tân Uyên, Bến Cát, Dầu Tiếng, Hớn Quản của tỉnh Thủ Dầu Một. Mặc dù bị địch càn quét, khủng bố gắt gao, bộ đội thiếu vũ khí, lương thực, thuốc men, nhưng đồng chí Lê Đức Anh cùng Ban Chỉ huy đã lãnh đạo Chi đội 1 tổ chức nhiều trận đánh giành thắng lợi lớn, gây cho địch những thiệt hại nặng nề. Từ tháng 10/1948 đến năm 1950, đồng chí lần lượt được giao đảm trách các chức vụ: Tham mưu trưởng các Khu 7, Khu 8 và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn - những chiến trường cam go quyết liệt nhất ngay từ những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến. Trên cương vị, chức trách là Tham mưu trưởng, đồng chí luôn chủ động tham mưu đối với việc xây dựng các trung đoàn chủ lực tập trung và trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch, trận đánh lớn như: Trận đánh diệt tháp canh Cầu Bà Kiên (tháng 3/1948), Chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát (tháng 01/1950)... Tháng 5/1951, Trung ương Cục quyết định phân chia lại chiến trường, giải thể ba khu 7, 8, 9, sáp nhập 20 tỉnh của Nam Bộ thành 11 tỉnh, chia Nam Bộ thành hai phân liên khu và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, đồng chí Lê Đức Anh được giao trọng trách Tham mưu trưởng Phân liên khu Miền Đông, gồm 5 tỉnh: Gia Ninh, Thủ Biên, Bà Chợ, Mỹ Tho, Long Châu Sa. Bằng tài năng quân sự và những kinh nghiệm từ thực tiễn chiến đấu, đồng chí đã bám sát đơn vị, động viên xây dựng quyết tâm, cùng với quân và dân miền Đông Nam Bộ đập tan chính sách của chính quyền Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong việc thực hiện bình định, bao vây lấn sâu vào vùng căn cứ của ta, tạo ra những tiền đề quan trọng để quân và dân Nam Bộ chia lửa với chiến trường Bắc Bộ trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Từ cuối năm 1952 đến giữa năm 1954, đồng chí Lê Đức Anh nhận nhiệm vụ ra Bắc để báo cáo với Trung ương tình hình chiến trường Nam Bộ, báo cáo kinh nghiệm đánh đồn và diệt tháp canh của địch, đồng thời tham gia lớp học chính trị do Trung ương tổ chức, rồi lại trở vào Nam tiếp tục hoạt động.
Sau ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, đồng chí Lê Đức Anh tập kết ra Bắc. Với kinh nghiệm dạn dày trận mạc và kiến thức sâu rộng về tổ chức lực lượng vũ trang, từ tháng 5/1955 đến năm 1963, ông được bổ nhiệm giữ các chức vụ: Cục phó Cục Tác chiến, Cục trưởng Cục Quân lực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ tháng 8/1963 đến năm 1964, ông được bổ nhiệm làm Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên các cương vị mới này, ông luôn tận tâm, tận lực với công việc và có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang theo hướng chính quy hiện đại trong những năm miền Bắc hòa bình (1954-1964). Nhờ làm tốt công tác tổ chức lực lượng, tác chiến, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng với các thế hệ cán bộ Bộ Tổng Tham mưu công tác trong giai đoạn này góp phần đưa quân đội ta từ chỗ chỉ đơn thuần là bộ binh, vũ khí, trang bị thiếu thốn, lạc hậu trở thành một quân đội tương đối chính quy, gồm nhiều quân binh chủng, sư đoàn, trung đoàn, được trang bị thống nhất hiện đại vào cuối năm 1964.
Từ năm 1964 đến năm 1968, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn quyết liệt nhất, là người giàu kinh nghiệm trên chiến trường miền Nam, ông được Trung ương cử quay lại chiến trường để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào đấu tranh với bí danh Sáu Nam, giữ chức Tham mưu trưởng, rồi Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam. Ở cương vị mới, ông cùng với các đồng chí trong Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền lãnh đạo, chỉ huy quân và dân miền Nam xây dựng, củng cố vững chắc niềm tin dám đánh, dám thắng Mỹ; góp phần vào đánh bại các cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966, 1966-1967 và đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 giành thắng lợi bước ngoặt, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán và từng bước rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, sau năm 1968, chiến trường miền Nam trở nên khốc liệt hơn trước sự đánh phá ác liệt của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, lực lượng vũ trang và cơ sở cách mạng ta bị tổn thất lớn. Trước yêu cầu khôi phục, củng cố và phát triển phong trào cách mạng Tây Nam Bộ, từ năm 1969 đến năm 1974, ông được điều về làm Tư lệnh Quân khu 9. Dưới sự chỉ huy của ông và tập thể Bộ Tư lệnh, thực lực cách mạng Tây Nam Bộ từng bước được khôi phục và phát triển, hệ thống căn cứ địa được củng cố; lực lượng vũ trang Quân khu 9 phối hợp chặt chẽ với các lực lượng khác kiên cường trụ bám địa bàn, đánh địch chia lửa chiến trường cùng quân và dân cả nước. Một trong những ví dụ tiêu biểu nổi trội thể hiện tài năng, bản lĩnh của Đại tướng Lê Đức Anh là trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, ông đã hạ quyết tâm, chỉ đạo quân và dân Quân khu kiên quyết giáng trả kịp thời các hành động nống, lấn của địch sau Hiệp nghị Pari trong bối cảnh chiến trường toàn miền ngưng chiến. Đây là cơ sở quan trọng củng cố vững chắc cho quyết tâm, phương pháp bạo lực cách mạng của Đảng tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 21 (khóa III). Chính bởi thành tích này, ông được thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng.
Từ cuối năm 1974 đến năm 1975, trước yêu cầu của sự nghiệp giải phóng miền Nam, với tài năng quân sự nổi trội, ông được Trung ương điều trở lại làm Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam (Đoàn 232) đánh vào Sài Gòn. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng chí đảm trách chỉ huy và lãnh đạo trực tiếp cánh quân tiến công trên hướng tây - tây nam Sài Gòn (Đoàn 232), một trong năm cánh quân của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Đây là nơi có địa hình khó tiến công vì là đồng bằng, sông ngòi chằng chịt và sình lầy nhưng là một hướng tiến công rất quan trọng để nhanh chóng chia cắt quân địch trên tuyến quốc lộ số 4, không để chúng co cụm về cố thủ ở Cần Thơ. Đoàn 232 do đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy đã thực hiện thành công các nhiệm vụ chính là: Chia cắt các lực lượng Sài Gòn và miền Đông với lực lượng vùng đồng bằng sông Cửu Long; tấn công Biệt khu Thủ đô và Tổng nha Cảnh sát, sau đó hợp điểm cùng các cánh quân khác tại Dinh Độc Lập vào trưa ngày 30/4 lịch sử. Miền Nam được giải phóng hoàn toàn, Sài Gòn giữ được gần như nguyên vẹn, sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta toàn thắng, trong đó có công lao, những đóng góp và tên tuổi của Đại tướng Lê Đức Anh.
Sau ngày đất nước thống nhất, từ tháng 5/1976 đến năm 1985, trước yêu cầu ổn định, củng cố, phát triển các quân khu Nam Bộ và ứng phó với hoạt động chống phá của các lực lượng phản động Pôn Pốt - Iêng Xary, ông lại được Trung ương lần lượt cử giữ chức Tư lệnh Quân khu 9, rồi Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Chỉ huy trưởng Cơ quan tiền phương Bộ Quốc phòng tại Mặt trận Tây Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện, Phó Trưởng ban, rồi Trưởng ban Lãnh đạo chuyên gia Việt Nam tại Campuchia. Trên những cương vị mới, ông cùng với tập thể lãnh đạo, chỉ huy ổn định vững chắc tình hình các quân khu 7, 9; tổ chức sử dụng lực lượng hợp lý, chỉ huy kiên quyết giáng trả những hành động gây chiến của bọn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary, tiến lên phối hợp chặt chẽ với các lực lượng của Bộ, của bạn đánh đổ hoàn toàn chế độ độc tài Pôn Pốt - Iêng Xary, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Từ tháng 12/1986 đến năm 1991, Ông được cử giữ chức Tổng Tham mưu trưởng, sau đó là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Là một vị tướng kinh qua trận mạc, một nhà chỉ huy xuất sắc, có tầm nhìn chiến lược và xử lý linh hoạt các tình huống phức tạp, trên các cương vị mới, Đại tướng Lê Đức Anh đã cùng với các đồng chí trong Quân ủy Trung ương và Thủ trưởng Bộ Quốc phòng có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, an ninh của quốc gia những năm đầu đất nước bước vào sự nghiệp đổi mới đầy khó khăn, thử thách. Với chủ trương xây dựng quân đội tinh, gọn, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao, đồng chí Lê Đức Anh đã góp phần quan trọng vào việc điều chỉnh lực lượng vũ trang, bố trí lại thế trận chiến tranh nhân dân, nhất là ở vùng biên giới, hải đảo, địa bàn chiến lược... để tập trung cho phát triển đất nước trong tình hình mới, phù hợp với hoàn cảnh thực tế lúc bấy giờ nhưng vẫn bảo đảm sức mạnh chiến đấu, quốc phòng, an ninh được củng cố, chủ quyền lãnh thổ quốc gia được giữ vững.
3. Nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và Nhà nước trong những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước
Với tài năng và uy tín đã được khẳng định, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991), Đại tướng Lê Đức Anh tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng. Tháng 9/1992, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá IX, Đại tướng Lê Đức Anh được bầu giữ chức Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên cương vị là Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh đã sát cánh cùng tập thể Bộ Chính trị đề xuất nhiều quyết sách quan trọng để chỉ đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng và sự bao vây, cấm vận, chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Đồng chí đã dành nhiều thời gian cùng Trung ương Đảng, Quốc hội xây dựng hệ thống luật pháp, bổ sung, sửa đổi Hiến pháp cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ mới của cách mạng, bảo đảm cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng; đồng thời, tích cực đẩy mạnh hợp tác với một số nước trên thế giới để tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế đối với Việt Nam.
Trên cương vị là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng, an ninh, thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, với tình cảm sâu nặng và ý thức trách nhiệm lớn lao, đồng chí Lê Đức Anh thường xuyên quan tâm, kiểm tra công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị quân đội, công an; đồng thời chỉ đạo quyết liệt vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng và là một trong những người đưa ra ý tưởng xây dựng khu vực phòng thủ, các khu kinh tế - quốc phòng trên địa bàn chiến lược mà hiện nay vẫn đang triển khai thực hiện. Đồng chí cũng luôn đặc biệt chú trọng đến việc bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị của quân đội và đời sống của cán bộ, chiến sĩ trước thực trạng các doanh trại quân đội dột nát. Đồng chí đã yêu cầu tăng cường kinh phí xây dựng, sửa chữa doanh trại và có các biện pháp cụ thể, thiết thực bảo đảm đời sống cho cán bộ, chiến sĩ. Những tư duy và quyết sách của đồng chí thể hiện tầm nhìn xa, trông rộng của một vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước xuất sắc. Đặc biệt là khi đứng trước những tình thế khó khăn, bước ngoặt của cách mạng, khi cần quyết sách những vấn đề chiến lược của đất nước, với năng lực, tư duy sáng tạo và hành động quyết liệt, không quản ngại khó khăn, đồng chí Lê Đức Anh luôn quyết đoán, tìm cách giải quyết đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với xu thế thời đại và yêu cầu thực tiễn đất nước đặt ra. Nói về điều này, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình khẳng định: “Đồng chí Lê Đức Anh, một con người điềm đạm, ít nói nhưng suy nghĩ nhiều, sâu và có tính quyết đoán”.
Trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao, xử lý và giải quyết các mối quan hệ quốc tế, quán triệt sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, đồng chí Lê Đức Anh luôn tích cực nghiên cứu cách thức, phương pháp, bước đi để thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ với một số nước, một số đối tác, đặt nền móng cho chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Đảng, Nhà nước ta, nhưng luôn giữ vững lập trường và đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết. Đồng chí đề xuất đưa ra nhiều giải pháp quan trọng, mở ra bước đột phá trong việc bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam với Mỹ qua những chương trình như: “MIA - Cơ quan tìm kiếm người nước ngoài mất tích trong chiến tranh Việt Nam” hay “Phẫu thuật nụ cười trẻ thơ”... Với những bước đi thích hợp trong giải quyết mối quan hệ quốc tế, trong thời gian đồng chí Lê Đức Anh là Chủ tịch nước, mặc dù nền kinh tế đất nước đứng trước những khó khăn, thử thách hết sức cam go, lạm phát ở mức cao, bao vây, cấm vận chưa được gỡ bỏ... nhưng đất nước vẫn có sự chuyển mình trên con đường đổi mới, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, quan hệ quốc tế được mở rộng, độc lập dân tộc được giữ vững, vị thế của Việt Nam từng bước được củng cố và nâng cao trên trường quốc tế.
Trên cương vị là Chủ tịch nước, một trong những vấn đề mà đồng chí Lê Đức Anh luôn đặc biệt quan tâm là làm sao các cơ quan nhà nước phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, phải thực sự là người đại diện cho quyền lợi và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Trong những lần đi thăm và làm việc với các địa phương, bên cạnh biểu dương những thành tích mà địa phương đã đạt được, đồng chí còn luôn yêu cầu các địa phương phải luôn lưu ý đến việc thực hiện chủ trương: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”. Ông cũng rất quan tâm công tác, chính sách hậu phương quân đội và việc giải quyết tồn đọng về chính sách sau chiến tranh. Ông đã định hướng cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Quốc phòng rà soát, xây dựng kế hoạch, đề xuất chủ trương phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” nhằm tôn vinh, ghi công sự cống hiến của các bà, các mẹ cho độc lập, tự do của Tổ quốc và giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau. Sau này, trên cương vị là Cố vấn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và kể cả khi đã nghỉ công tác, đồng chí Lê Đức Anh vẫn thường xuyên quan tâm đến lực lượng vũ trang, nghiên cứu và đề xuất nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc, có tầm chiến lược sâu rộng về công tác quân sự, quốc phòng cho Đảng và Nhà nước ta.
Có thể khẳng định, với gần 100 tuổi đời, trong đó có hơn 80 năm tham gia hoạt động cách mạng, phát triển từ trong phong trào yêu nước, từ Chính trị viên Chi đội trở thành Nguyên thủ quốc gia, ở cương vị nào, đồng chí Lê Đức Anh cũng luôn thể hiện là con người của hành động, là một chiến sĩ cộng sản kiên trung, một nhà chỉ huy thao lược, vị tướng tài ba của Quân đội nhân dân Việt Nam, nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và Nhà nước trong những năm đầu đất nước đổi mới. Được tôi luyện, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, luôn có mặt ở những nơi khó khăn, ác liệt nhất, ở các chiến trường từ Nam ra Bắc cũng như làm nhiệm vụ quốc tế trên chiến trường Campuchia, đồng chí Lê Đức Anh luôn quyết đoán, mạnh dạn, táo bạo, dám nghĩ, dám làm và chịu trách nhiệm trước dân, trước Đảng và Nhà nước; luôn đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc lên trên hết. Những suy nghĩ và hành động của ông luôn thể hiện sự trăn trở, trách nhiệm của một vị tướng, một nhà lãnh đạo đối với đất nước, quân đội và dân tộc. Đồng chí Lê Đức Anh còn là một tấm gương mẫu mực về sự trung thành với lý tưởng của Đảng và phẩm chất đạo đức của người cách mạng. Cuộc đời, sự nghiệp và những đóng góp của đồng chí đối với Đảng, Nhà nước, quân đội và dân tộc là vô cùng lớn lao, là tấm gương sáng để lớp lớp thế hệ trẻ học tập và làm theo; đồng thời cũng để lại những kinh nghiệm quý đòi hỏi chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, làm sâu sắc thêm những cống hiến, đóng góp của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc và vận dụng trong thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thiếu tướng, TS. NGUYỄN HOÀNG NHIÊN
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú và vẻ vang, đồng chí Lê Đức Anh đã được giao đảm nhiệm và hoàn thành xuất sắc nhiều trọng trách trong quân đội, Đảng và Nhà nước. Là một vị tướng tài năng, quả cảm, một vị chỉ huy sắc sảo, quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong thời chiến; nhà lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược, quyết đoán trong thời bình, với đạo đức cách mạng trong sáng, Đại tướng Lê Đức Anh thực sự xứng đáng là một nhà chính trị, quân sự tài năng, một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1. Sớm đi theo con đường cách mạng vô sản
Với tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, thừa hưởng truyền thống tốt đẹp của gia đình, Lê Đức Anh đã sớm giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng. Trong thời gian học tiểu học ở Vinh, Lê Đức Anh đã được tiếp xúc với những cán bộ cách mạng và tìm đọc những sách báo tiến bộ như Nhành lúa, Lao động, Thời báo, Vấn đề dân cày, Đông Dương với vấn đề phòng thủ..., những tài liệu về nước Nga Xôviết. Qua các sách báo tiến bộ, Lê Đức Anh biết đến chủ nghĩa cộng sản và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, từ đó càng thôi thúc người thanh niên yêu nước dấn thân vào phong trào đấu tranh giành độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - con đường cách mạng mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn.
Năm 1937, đồng chí Lê Đức Anh tham gia phong trào cách mạng dân chủ ở Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Đồng chí được giao nhiệm vụ đi vận động lấy chữ ký của nông dân các làng vào bản yêu sách đối với chính quyền thực dân Pháp. Đi đến đâu, đồng chí cũng nỗ lực tuyên truyền cho nhân dân về tình hình đất nước, bàn cách đấu tranh đòi giảm sưu thuế, đòi tự do, dân chủ... Do những hoạt động tích cực và hiệu quả đó, tháng 5/1938, đồng chí Lê Đức Anh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương khi mới 18 tuổi.
Trong những năm 1939-1944, đồng chí hoạt động trong các hội ái hữu tại Hội An, Đà Lạt, Lộc Ninh, Thủ Dầu Một và các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh, Quản Lợi, Xa Can, Xa Cát. Đầu năm 1943, Tỉnh ủy lâm thời Thủ Dầu Một được tái lập, đồng chí Lê Đức Anh được bổ sung vào Tỉnh ủy, phụ trách chỉ đạo phong trào Lộc Ninh và toàn bộ vùng phía Bắc của tỉnh. Tháng 02/1944, chi bộ Đảng thành lập ở Lộc Ninh do đồng chí làm Bí thư. Dưới sự chỉ đạo sâu sát của đồng chí, trong một thời gian ngắn các nghiệp đoàn ở vùng đồn điền cao su, các đoàn thể Việt Minh ở Thủ Dầu Một phát triển nhanh chóng. Đến đầu năm 1945, khi thời cơ cho Tổng khởi nghĩa đang đến gần, đồng chí được giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng trung kiên trong các nghiệp đoàn, chuẩn bị đấu tranh vũ trang. Đồng chí được giao trực tiếp phụ trách các quận Hớn Quản, Bù Đốp và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, sau khi giành chính quyền sẽ tổ chức lực lượng chi viện cho thị xã Thủ Dầu Một, Sài Gòn cướp chính quyền.
2. Trở thành một nhà quân sự tài năng của cách mạng Việt Nam
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí Lê Đức Anh tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Đông Nam Bộ. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cứu nước và chiến tranh bảo vệ biên giới, đồng chí luôn có mặt ở những địa bàn chiến trường trọng yếu, khó khăn, ác liệt, trải qua nhiều vị trí trên chiến trường. Trong mọi hoàn cảnh, đồng chí luôn nỗ lực vượt qua khó khăn, thể hiện là nhà chỉ huy quân sự tài năng, có tầm nhìn chiến lược, mưu trí, dũng cảm, quyết đoán, nhưng cũng rất linh hoạt xử lý các tình huống phức tạp.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng chí được giao đảm nhiệm các chức vụ: Tham mưu trưởng Quân khu 7, Quân khu 8, Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn; Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Trong bối cảnh cuộc kháng chiến ở Nam Bộ diễn ra đầy gay go, quyết liệt, đồng chí luôn bám sát thực tiễn, đẩy mạnh chiến tranh du kích, có nhiều sáng tạo trong đánh phá chiến thuật xây dựng đồn bốt, tháp canh của thực dân Pháp, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Sau Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương năm 1954, đồng chí Lê Đức Anh tập kết ra Bắc. Từ năm 1955 đến năm 1963, đồng chí là Cục phó Cục Tác chiến, rồi Cục phó, Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu và trở thành Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ đầu năm 1964, đồng chí Lê Đức Anh trở lại chiến trường miền Nam, đảm nhiệm các chức vụ Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh miền Nam, Ủy viên Quân ủy miền; Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh miền Nam; Tư lệnh Khu 9, Phó Bí thư Khu uỷ, Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Miền; Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam. Trên các cương vị này, đồng chí đã cùng với các đồng chí trong Quân ủy, Bộ Tư lệnh Miền đề ra các chiến lược quân sự, nhiều kế hoạch tác chiến chiến lược ở chiến dịch lớn, tạo nên bước ngoặt của chiến tranh. Trên chiến trường đối đầu trực diện với kẻ thù, đồng chí đã thể hiện bản lĩnh của một vị tướng tài năng, không chùn bước trước hy sinh, gian khổ, lăn lộn với thực tế, sát cánh cùng bộ đội, để tìm ra những cách đánh hiệu quả, táo bạo, giảm thiểu hy sinh xương máu của chiến sĩ và đồng bào. Dưới sự chỉ huy của đồng chí, Quân giải phóng đã giành nhiều thắng lợi quan trọng như: Đánh bại cuộc hành quân mang tên Gianxơn Xiti của Mỹ tấn công căn cứ của Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền ở Tây Ninh năm 1967; giành thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968; chống địch lấn chiếm, phá hoại Hiệp định Pari năm 1973 trên địa bàn Khu 9. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng chí trực tiếp chỉ huy cánh quân tiến công trên hướng tây - tây nam Sài Gòn (Đoàn 232), góp phần vào thắng lợi chung của toàn quân, toàn dân trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Với đóng góp xuất sắc của mình, đồng chí là một trong hai sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được phong hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng vào tháng 4/1974.
Đất nước thống nhất, hòa bình chưa được bao lâu thì cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ. Đồng chí là một trong những tướng lĩnh trực tiếp chỉ huy chiến trường, bảo vệ biên giới của Tổ quốc và giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.
Trên cương vị Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam, đến năm 1982 là Trưởng ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia giúp Campuchia, đồng chí đã quán triệt nghiêm túc đường lối đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam “giúp bạn tức là mình tự giúp mình”; nêu cao tinh thần tôn trọng độc lập, tự chủ của bạn, thường xuyên rèn luyện cho cán bộ, bộ đội tình nguyện tính tổ chức kỷ luật cao; đồng thời hết lòng giúp đỡ nhân dân nước bạn, không nề hà gian khổ, cứu đói, cứu đau, giúp người dân khôi phục sản xuất. Với những đóng góp xuất sắc trong thời gian làm nhiệm vụ tại Campuchia, đồng chí đã hai lần được thăng quân hàm, từ Trung tướng lên Thượng tướng năm 1981 và Đại tướng năm 1984.
Năm 1987, Đại tướng Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trong bối cảnh tình hình quốc tế phức tạp, tình hình trong nước chồng chất khó khăn, đồng chí đã tập trung lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân và nền quốc phòng toàn dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Qua “nhiều đêm chúng tôi phải thức trắng để làm việc”, đồng chí chọn khâu đột phá để củng cố quân đội là giảm số quân thường trực, giảm ngân sách quốc phòng, chú trọng xây dựng công nghiệp quốc phòng tự chủ, điều chỉnh bố trí chiến lược và triển khai trên toàn quốc thế trận “chiến tranh nhân dân” và nhiệm vụ “quốc phòng toàn dân”. Đồng chí kiến nghị Đảng và Nhà nước có chính sách cụ thể cải thiện đời sống bộ đội tại ngũ, giải quyết việc làm và đời sống cho cán bộ, chiến sĩ xuất ngũ. Nhờ vậy, tuy lực lượng giảm đi, nhưng sức mạnh phòng thủ và chiến đấu của quân đội được tăng cường.
Bên cạnh đó, với tầm nhìn chiến lược, Đại tướng Lê Đức Anh nhận ra vấn đề cấp thiết là tăng cường phòng thủ bờ biển, hải đảo và thềm lục địa. Tháng 5/1988, đồng chí trực tiếp kiểm tra tình hình ở quần đảo Trường Sa. Sau đó, đồng chí nhiều lần đến các vùng biển chiến lược, cùng với các đồng chí trong Quân ủy Trung ương xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc, bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Đi qua các cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc trong hơn 40 năm từ Cách mạng Tháng Tám, kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, sau đó là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh để lại sự nghiệp quân sự vẻ vang, gắn liền với những thắng lợi to lớn của dân tộc, xứng đáng là nhà quân sự tài năng của Đảng và cách mạng Việt Nam.
3. Một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của đất nước thời đổi mới
Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới với hàng loạt vấn đề nan giải, cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đồng chí Lê Đức Anh trăn trở, tìm tòi, đề ra và chỉ đạo thực hiện nhiều quyết sách để tái thiết đất nước, phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước. Trong những năm đầu đổi mới, bên cạnh lĩnh vực quốc phòng, dấu ấn nổi bật của đồng chí phải kể đến là những đóng góp trong lĩnh vực ngoại giao. Trong cuộc họp tại Bộ Quốc phòng đầu năm 1987, đồng chí đề xuất tiến hành phá thế bao vây cấm vận của Mỹ và bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, tìm cách gia nhập ASEAN. Bộ Chính trị chấp thuận và đã giao cho Bộ Quốc phòng mà trực tiếp là đồng chí Lê Đức Anh lo đoạn “mở đầu” nhiệm vụ phá thế bao vây cấm vận của Mỹ. Thời điểm ấy, giữa Việt Nam và Mỹ chưa có một kênh tiếp cận chính thức nào. Sau khi phân tích kỹ lưỡng tình hình, đồng chí Lê Đức Anh đã tìm ra những bước đi khôn khéo và sáng tạo là chọn con đường tiếp cận từ hoạt động khoa học qua chiến dịch “Phẫu thuật nụ cười” và hoạt động nhân đạo “Tìm kiếm người Mỹ mất tích - MIA” để mở ra khâu đột phá trong việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ.
Khi làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh còn được giao hai nhiệm vụ ngoại giao quan trọng là tham gia giải quyết vấn đề Campuchia và bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, đồng chí đã bắt đầu công việc bằng hai kênh: ngoại giao nhân dân và ngoại giao bí mật. Đồng chí vào Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức gặp mặt bà con Hoa kiều Chợ Lớn để trao đổi về việc thiết lập lại quan hệ tốt đẹp vốn có của hai nước. Bên cạnh đó, đồng chí có 4 cuộc gặp với Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy tại Nhà khách Bộ Quốc phòng để bàn chuyện bình thường hoá quan hệ hai nước. Đến cuối tháng 7/1991, Đại tướng Lê Đức Anh được Bộ Chính trị cử làm phái viên của Bộ Chính trị sang Trung Quốc bàn bạc những vấn đề cụ thể việc bình thường hoá quan hệ hai nước. Sau chuyến đi tiền trạm thành công, tháng 11/1991, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã thăm chính thức Trung Quốc, sau lễ đón tiếp và hội đàm, hai bên ra Thông cáo chung và ký Hiệp định chính thức bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, hai Đảng, khép lại 15 năm đối đầu căng thẳng.
Quán triệt nguyên tắc độc lập, chủ quyền mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra, Đại tướng Lê Đức Anh khẳng định và thực hiện nhất quán quan điểm: Trong quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc, ta cần suy nghĩ rất kỹ và dĩ nhiên phải đứng trên lập trường độc lập, lợi ích dân tộc của ta là tối thượng. Với việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và phá thế bao vây cấm vận của Mỹ, nước ta bước sang một thời kỳ mới - thời kỳ hội nhập với quốc tế.
Năm 1992, đồng chí Lê Đức Anh được Quốc hội bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 1992-1997. Đây là giai đoạn Việt Nam triển khai toàn diện công cuộc đổi mới với nỗ lực cao của toàn Đảng, toàn dân. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều bất lợi với ta, đặc biệt sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, đảm nhiệm trọng trách mới, đồng chí cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước trăn trở, tìm tòi biện pháp, quyết sách đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố an ninh - quốc phòng và mở cửa hội nhập quốc tế, từ đó củng cố niềm tin của nhân dân vào chế độ. Trên cương vị nguyên thủ quốc gia, đồng chí đã nhiều lần dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao của Việt Nam đến thăm các nước, các tổ chức quốc tế và ký kết nhiều hiệp định, điều ước quốc tế quan trọng và để lại những ấn tượng và tình cảm tốt đẹp với các quốc gia, cộng đồng quốc tế. Năm 1995, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ, chính thức gia nhập ASEAN, thiết lập quan hệ ngoại giao với 164 nước. Trong thành công nổi bật đó, có dấu ấn của Chủ tịch nước Lê Đức Anh.
4. Một nhân cách đức độ, giản dị, gần gũi
Từ khi đi theo con đường cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc đã lựa chọn, tuy không có điều kiện được tiếp xúc nhiều với Người, nhưng đồng chí luôn phấn đấu, học tập theo gương lãnh tụ Hồ Chí Minh, luôn đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc và Nhân dân lên trên hết; tu dưỡng và thực hành đạo đức của người cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Từ khi mới tham gia cách mạng cho đến khi trở thành Đại tướng, trên cương vị Chủ tịch nước và cả khi đã nghỉ hưu, đồng chí luôn trăn trở việc dân, việc nước, làm thế nào “cho nhân dân được hưởng hạnh phúc và xây dựng một xã hội sung sướng, vẻ vang” như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.
Trong thời chiến, đồng chí không nề hà xông pha những chiến trường ác liệt, nguy hiểm, luôn giữ vững thế tiến công, linh hoạt trong cách đánh và có những quyết định táo bạo, gây bất ngờ cho địch. Trong thời bình, khi tham gia lãnh đạo đất nước trong bối cảnh đầy khó khăn, đồng chí đã thể hiện trí tuệ, bản lĩnh, tầm nhìn sâu rộng đối với những vấn đề chiến lược của đất nước. Năm 1988, sau khi Trung Quốc vừa mới gây chiến và vẫn tiếp tục tuần tiễu uy hiếp bằng tàu chiến ở Biển Đông, nhưng Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh đã thân chinh đi tàu ra Trường Sa, đi kiểm tra tới từng đảo nổi, đảo chìm. Đó là một hành động rất có ý nghĩa, thể hiện bản lĩnh người cầm quân và trách nhiệm lớn lao trước non sông. Trên cương vị lãnh đạo cao nhất của Nhà nước, đồng chí luôn giữ vững phẩm chất của một người cộng sản, sáng tạo, sắc sảo, quyết đoán và hành động quyết liệt trong công việc nhưng chân thành, giản dị, gần gũi với cấp dưới, với nhân dân.
Học tập tư tưởng trọng dân, thân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Đại tướng Lê Đức Anh luôn kiên trì quan điểm: “Dựa vào dân, bám chắc vào dân mới vượt qua mọi khó khăn... Nhân dân không chỉ là người giúp đỡ, chở che, mà họ còn là nguồn sáng tạo vô tận” để chúng ta học tập. Thời kỳ làm Chủ tịch nước và thời kỳ làm Cố vấn, đồng chí Lê Đức Anh đã đi khắp mọi miền đất nước để tìm hiểu thực tế, từ đó có chỉ đạo sát sao, giải quyết kịp thời các vấn đề cấp thiết của nhân dân. Các chuyến đi của đồng chí rất giản dị, thân tình. Có lần về với bà con Cà Mau sau cơn bão gây thiệt hại nặng nề, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã từ chối đi theo tuyến đường đã định sẵn mà yêu cầu được về với bà con ở những vùng xa xôi, nơi đồng chí từng nằm hầm bí mật ở chiến trường Quân Khu 9 ở Cà Mau. Những chuyến đi thăm đó thật sự là chuyến đi về với dân và sống giữa lòng dân.
Là một vị tướng trận mạc, trải qua các cuộc kháng chiến, các mặt trận, đồng chí thấu hiểu sự khốc liệt của chiến tranh và dành tình cảm đặc biệt với đồng chí, đồng bào. Là Đại tướng, nhưng đồng chí luôn quan tâm, đối xử ân cần với cán bộ, chiến sĩ, không phân biệt cấp bậc, chức vụ. Đồng chí luôn trăn trở để tìm ra biện pháp nâng cao đời sống bộ đội và thân nhân của họ. Đồng chí đã đề nghị và được Bộ Chính trị chấp thuận việc phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng để tôn vinh, ghi công sự cống hiến của các mẹ cho nền độc lập dân tộc và giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ mai sau.
Trong công việc cũng như trong cuộc sống, đồng chí luôn là một người lãnh đạo, chỉ huy gương mẫu, nghiêm khắc với chính mình, dám đương đầu với mọi khó khăn, thách thức để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. Có thể nói, trọn cuộc đời mình, Đại tướng Lê Đức Anh đã dấn thân, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Tên tuổi và sự nghiệp của đồng chí sống mãi với non sông, đất nước.
PGS.TS. Lý Việt Quang
TS. Lê Thị Hằng
Đại tướng Lê Đức Anh là một “vị tướng trận mạc”, một nhà chỉ huy xuất sắc, có tầm nhìn chiến lược, chiến thuật tài tình. Nhìn lại sự nghiệp cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh, chúng ta có thể khẳng định: “ông là vị tướng tài”.
1. Người chỉ huy quân sự tài ba, quyết đoán, dạn dày kinh nghiệm trận mạc, góp phần vào nhiều chiến thắng quan trọng có tính quyết định trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975)
Đầu năm 1945, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng trung kiên trong các nghiệp đoàn, chuẩn bị đấu tranh vũ trang. Đồng chí đã trực tiếp giác ngộ hàng trăm phu cao su Lộc Ninh, tuyển chọn và kết nạp được bốn người, thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên do đồng chí làm Bí thư Chi bộ. Ngày 23/8/1945, được Tỉnh ủy và Ủy ban khởi nghĩa Thủ Dầu Một phân công, đồng chí lãnh đạo công nhân cao su và đồng bào dân tộc ở Hớn Quản và Bù Đốp khởi nghĩa thành công, giành chính quyền ở tỉnh lỵ vào đêm 24 rạng sáng ngày 25/8/1945. Những năm đầu hoạt động cách mạng sôi nổi với bao khó khăn, thử thách đã tôi rèn đồng chí Lê Đức Anh trở thành người chiến sĩ cộng sản kiên cường, suốt đời chiến đấu hy sinh vì lý tưởng cách mạng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí Lê Đức Anh tham gia quân đội và bắt đầu cuộc đời binh nghiệp đầy gian khổ và oanh liệt. Hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã tôi luyện ý chí và tài năng, giúp đồng chí không ngừng trưởng thành và có những đóng góp quan trọng trên các cương vị được Đảng, Nhà nước và quân đội giao phó. Từ năm 1946 đến năm 1947, đồng chí tham gia quân đội, chỉ huy giành chính quyền ở Lộc Ninh, tham gia Tỉnh ủy lâm thời, phụ trách quân sự phía Bắc tỉnh Thủ Dầu Một; giữ các chức vụ Chính trị viên Chi đội 1 (sau là Trung đoàn 301), Trung đoàn ủy viên, Tỉnh ủy viên Thủ Dầu Một. Từ năm 1948 đến năm 1954, đồng chí đảm đương nhiều chức vụ quan trọng như: Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8, Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn, Quân khu ủy viên, Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Trên chiến trường, trong những năm tháng chiến đấu tại miền Đông Nam Bộ, tên tuổi đồng chí Lê Đức Anh gắn liền với chiến thắng Bến Cát (25 - 27/01/1950)2 - trận đánh mở ra lối đánh mới “chiến thuật đặc công” phổ biến rộng rãi trong toàn quân. Từ chỗ ta bị động đối phó với các cuộc hành quân càn quét của địch, nay chuyển sang chủ động tổ chức những trận tiến công quy mô chiến dịch.
Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, đồng chí Lê Đức Anh tập kết ra Bắc. Từ năm 1955 đến năm 1963, đồng chí lần lượt giữ các chức vụ: Cục phó Cục Tác chiến; Cục phó, Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu; Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là thời gian đồng chí được tìm hiểu, học hỏi về các ngành, các công việc của công tác tham mưu chiến lược, nâng cao hiểu biết thực tế và phương pháp luận khoa học khi tiến hành công tác tham mưu quân sự và được bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị. Cũng trong thời gian này, đồng chí cùng với đoàn cán bộ quân đội sang Liên Xô để tìm hiểu về phương pháp tác chiến của quân đội các nước Liên Xô, Đức, Pháp và Mỹ.
Cuối năm 1963, Đại tá Lê Đức Anh trở lại chiến trường miền Nam. Tại Bộ Chỉ huy Miền, trên cương vị Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều đề xuất quan trọng và trực tiếp soạn thảo, triển khai kế hoạch xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang. Bên cạnh đó, đồng chí đã cùng cơ quan tham mưu Bộ Chỉ huy Miền chỉ huy chiến dịch tiến công Bình Giã giành thắng lợi.
Sang những năm 1966 - 1967, trước những cuộc phản công của Mỹ vào Chiến khu Dương Minh Châu, Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền giao đồng chí Lê Đức Anh tổ chức lực lượng đánh địch tại chỗ. Để vừa bảo toàn lực lượng, bám trụ trên địa bàn tác chiến không có dân, vừa đánh tiêu hao, tiêu diệt địch, Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đã đề xuất: di chuyển những người và tổ chức thật cần thiết thuộc Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền đến nơi an toàn; lực lượng còn lại tổ chức thành các “huyện căn cứ”, các “xã căn cứ” để đánh địch tại chỗ, phát huy cao độ ưu thế của du kích chiến, kết hợp với các đơn vị chủ lực cơ động đánh vào bên sườn và phía sau đội hình quân địch. Dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của đồng chí, sau gần hai tháng chiến đấu (22/02/1967 - 15/4/1967), ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 14.000 tên địch chủ yếu là lính Mỹ, phá hủy hơn 992 xe quân sự, 112 khẩu pháo, bắn rơi và phá hủy 160 máy bay. Trong chiến dịch này, đồng chí Lê Đức Anh đã tạo ra nghệ thuật chiến dịch “thế trận chiến tranh nhân dân trên một địa bàn không có dân” để đánh địch.
Trải qua kinh nghiệm công tác và thực tiễn chiến trường, đồng chí Lê Đức Anh tiếp tục có nhiều cống hiến cho cách mạng Việt Nam.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, đồng chí đã có những đề xuất quan trọng về chuyển hướng tiến công. Sự chuyển hướng tiến công kịp thời không những giảm thiểu thương vong cho cán bộ, chiến sĩ, đạt được mục tiêu đề ra, mà còn góp phần tiêu diệt nhiều vị trí và sinh lực địch. Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 đã làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh.
Đầu năm 1969, đồng chí Lê Đức Anh được cấp trên giao nhiệm vụ Tư lệnh Quân khu 9. Trên cương vị mới, đồng chí Lê Đức Anh đã tích cực chỉ đạo cấp dưới, động viên các đồng chí, đồng đội gây dựng lại cơ sở. Với nỗ lực không ngừng, chỉ một thời gian ngắn, Quân khu 9 đã củng cố, xây dựng được nhiều đơn vị chủ lực cấp trung đoàn, trong đó nổi bật có các đơn vị: Trung đoàn 1 (U Minh), Trung đoàn 3 (Cửu Long). Trung đoàn 20 (Hương Giang), Trung đoàn 10, Trung đoàn 2 (Lộc Ninh). Với lực lượng đó, từ ngày 07/4 đến tháng 08/1972, Quân khu 9 đồng loạt tiến công tiêu diệt 4 chi khu, 2 yếu khu, 6 căn cứ trung đoàn và tiểu đoàn. Quân khu 9 đã chuyển dần sang chủ động tiến công, đánh bại bước đầu chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Với tầm nhìn chiến lược, tư duy nhạy bén, sắc sảo, đồng chí Lê Đức Anh đã sớm nhận ra ý đồ của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong thi hành Hiệp định Pari năm 1973. Từ giữa tháng 3 đến tháng 8/1973, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tư lệnh Lê Đức Anh, trên vùng đất Chương Thiện, Cần Thơ, lực lượng vũ trang và nhân dân Quân khu 9 đã chiến đấu ngoan cường, bẻ gãy tất cả các cuộc hành quân lấn chiếm quy mô cấp quân đoàn, đánh bại 75 tiểu đoàn cùng với kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của địch. Nhận xét về quyết định này, Bộ Chỉ huy Miền chỉ rõ: “Quân khu 9 đã đánh giá đúng âm mưu ngoan cố, phá hoại Hiệp định, phá hoại hòa bình của địch, dự kiến được những thủ đoạn xảo quyệt của chúng, chỉ đạo các lực lượng vũ trang có biện pháp đối phó thích hợp”.
Với những thành tích trong chỉ huy chống địch lấn chiếm, phá hoại Hiệp định Pari năm 1973 trên địa bàn Quân khu 9 và những thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1964 - 1974, ngày 16/4/1974, đồng chí Lê Đức Anh được Chủ tịch nước ký Quyết định phong quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng.
Năm 1974, Trung tướng Lê Đức Anh được giao đảm nhiệm Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam. Cuối năm 1974, đầu năm 1975, Đồng chí cùng Bộ Chỉ huy Miền đã chỉ huy các đơn vị liên tiếp tiến công địch trong các chi khu Bù Đăng, Bù Đốp, Đồng Xoài, Phước Long... Trong chiến dịch Đường 14 - Phước Long (13/12/1974 - 06/01/1975), trên cương vị chỉ huy, đồng chí đã đưa ra cách đánh táo bạo -”đánh phủ đầu”, nhanh chóng thu được thắng lợi, làm quân đội Sài Gòn hoang mang, rệu rã. Hồi ký của ông ghi lại trận Phước Long như sau: “... Như vậy là, khi ta đánh đòn phủ đầu mà trúng huyệt hiểm thì địch rã. Nếu ta lừng chừng không chớp thời cơ này đánh tới, mà để chậm, nó đưa lên một liên đoàn biệt động tăng cường cho núi Bà Rá và thị xã Phước Long thì ta sẽ khó hơn rất nhiều. Đây không chỉ là chủ trương có trước của Bộ Chỉ huy Miền, mà tình hình cụ thể nó đặt ra phải xử lý”. Trận thắng Phước Long đã trở thành cơ sở vững chắc để Trung ương hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng chí Lê Đức Anh đảm trách chỉ huy và lãnh đạo trực tiếp cánh quân tiến công trên hướng tây - tây nam Sài Gòn (Đoàn 232), một trong năm cánh quân của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Hướng tây - tây nam Sài Gòn là một hướng tiến công rất quan trọng để nhanh chóng chia cắt quân địch trên tuyến quốc lộ số 4, không để chúng co cụm về cố thủ ở Cần Thơ. Đoàn 232 do đồng chí chỉ huy đã thực hiện thành công các nhiệm vụ chính là: chia cắt các lực lượng Sài Gòn và miền Đông với lực lượng vùng đồng bằng sông Cửu Long; tấn công Biệt khu Thủ đô và Tổng nha Cảnh sát, sau đó hợp điểm cùng các cánh quân khác tại Dinh Độc Lập vào trưa ngày 30/4/1975.
2. Vị tướng góp phần giúp nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng, tái thiết đất nước
Sau khi miền Nam giải phóng, thực hiện nhiệm vụ được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng giao, tháng 5/1976, Trung tướng Lê Đức Anh được phân công làm Tư lệnh Quân khu 9. Trên cương vị được giao, đồng chí đã nhanh chóng tạo được sự ổn định, bảo đảm cho đời sống và các hoạt động trong toàn Quân khu.
Khi tập đoàn phản động Pôn Pốt gây chiến tranh xâm lược toàn tuyến biên giới Tây Nam, đồng chí Lê Đức Anh được điều động về làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, kiêm Chỉ huy trưởng Tiền phương Bộ Quốc phòng ở Mặt trận Tây Nam. Thực hiện chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, đồng chí Lê Đức Anh đã tích cực chỉ đạo Quân khu 7 giúp bạn xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ngay trên địa bàn Quân khu.
Ghi nhận những cống hiến xuất sắc của đồng chí, ngày 21/01/1980, Trung tướng Lê Đức Anh được Chủ tịch nước ký quyết định thăng quân hàm từ cấp Trung tướng lên cấp Thượng tướng.
Năm 1981, đồng chí được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia. Trong thời gian thực hiện nhiệm vụ trên đất bạn, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều sáng kiến, quyết định quan trọng góp phần vực dậy phong trào cách mạng ở Campuchia. Đồng chí đã quán triệt nghiêm túc đường lối đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam “giúp bạn tức là tự giúp mình”, chuẩn bị mọi mặt chu đáo trong các cuộc tiếp xúc với nước bạn, thường xuyên rèn luyện cho cán bộ, bộ đội tình nguyện tính tổ chức kỷ luật cao trong chấp hành các mệnh lệnh, nguyên tắc.
Những ngày đầu tiên trên đất bạn, đồng chí đã chỉ huy Quân tình nguyện Việt Nam ra sức cứu đói, chữa bệnh cho nhân dân Campuchia, trên cơ sở đó giúp đất nước và nhân dân Campuchia xây dựng lực lượng vũ trang, khôi phục sản xuất, tổ chức lại cuộc sống. Cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam chiếm trọn sự tin tưởng của nhân dân Campuchia, cùng hợp lực, kề vai sát cánh chiến đấu đánh bại tập đoàn Pôn Pốt.
Trên cương vị Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam, Trưởng Ban Lãnh đạo Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia, đồng chí Lê Đức Anh đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng, thắt chặt tình đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa hai Đảng, hai đất nước, nhân dân Việt Nam và Campuchia. Đó là: quyết định xử lý khéo léo tình huống sai lầm của Bộ Tư lệnh Mặt trận 479, giúp xóa bỏ những hoài nghi, gắn kết lại mối quan hệ giữa hai Đảng; quyết định xây dựng tuyến phòng thủ K5 dài 800km gồm hệ thống tổ chức phòng thủ, tập trung bộ đội chủ lực trên các trọng điểm và công sự, chiến hào, vật cản bằng hàng rào dây thép gai, mìn, đê, hào, lũy, hầm chông, cạm bẫy,... giúp bạn tập dượt công tác vận động, tổ chức quần chúng. Trên hết, tuyến tuần tra biên giới này có tác dụng chia cắt chiến lược ngoại biên và nội địa, góp phần tích cực và có hiệu quả trong việc hạn chế, ngăn chặn sự xâm nhập của địch từ Thái Lan vào trong nội địa Campuchia. Kết quả hoạt động đối ngoại của đồng chí đã góp phần tích cực vào việc tăng cường quan hệ hữu nghị quốc tế Việt Nam - Campuchia.
Hơn 10 năm giúp bạn, ta và bạn đã làm nên cuộc cách mạng giải phóng một dân tộc khỏi họa diệt chủng của tập đoàn Pôn Pốt, hồi sinh một đất nước từ tiêu điều, tan nát, đói rách để mọi người dân có quyền được sống, quyền mưu cầu hạnh phúc. Thủ tướng Chính phủ Campuchia Hun Sen nói: “Không có sự giúp đỡ của Việt Nam, chúng tôi sẽ chết. Không có sự giúp đỡ của Việt Nam, Chính phủ Phnôm Pênh sẽ không tồn tại”. Vì vậy, nhân dân Campuchia đã gọi: “Bộ đội tình nguyện Việt Nam là bộ đội nhà Phật”.
Ngày 21/12/1984, đồng chí Lê Đức Anh được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký quyết định thăng quân hàm từ cấp Thượng tướng lên cấp Đại tướng.
3. Tham mưu cho Đảng và Nhà nước xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam trở thành công cụ vững mạnh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Năm 1987, trên cương vị Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương và lãnh đạo Bộ Quốc phòng tập trung nghiên cứu, điều chỉnh tổ chức biên chế, bố trí chiến lược của quân đội cho phù hợp với kế hoạch phòng thủ cơ bản trong thời kỳ mới. Những quyết sách của Đại tướng Lê Đức Anh đã góp phần quan trọng củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) trên lĩnh vực quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã đưa ra đề xuất quan trọng về: Xây dựng kế hoạch và triển khai kế hoạch điều chỉnh bố trí chiến lược và giảm quân số; Soạn thảo các văn bản, tài liệu, giáo trình và triển khai trên toàn quốc “thế trận chiến tranh nhân dân” và nhiệm vụ “quốc phòng toàn dân”. Đề xuất thay đổi tư duy căn bản này của Đại tướng Lê Đức Anh đã đem lại hiệu quả thiết thực.
Bộ Chính trị họp thông qua kế hoạch điều chỉnh chiến lược và giảm mạnh quân số quân đội, từ quân thường trực 1,5 triệu quân xuống còn 45 vạn quân và bước đầu để 5 vạn quân dự bị (từ 9 quân đoàn giảm xuống còn 4 quân đoàn). Trên thực tế, mặc dù quân số giảm nhưng sức mạnh chiến đấu không giảm mà càng được tăng cường, gánh nặng ngân sách quốc phòng được giải quyết một cách cơ bản.
Đặc biệt, các văn bản, tài liệu, giáo trình và triển khai trên toàn quốc “thế trận chiến tranh nhân dân” và nhiệm vụ “quốc phòng toàn dân” là cơ sở lý luận và thực tiễn để Bộ Chính trị (khóa VI) ra Nghị quyết số 02/NQ-TW xác định nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo. Nghị quyết được triển khai thực hiện đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, phát động được toàn dân xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng các khu vực phòng thủ từ tỉnh, thành phố đến cơ sở, tạo nên sức mạnh tại chỗ của nền quốc phòng.
Cùng với việc soạn thảo tài liệu hướng dẫn và triển khai xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là việc biên soạn các tài liệu để tiến hành tập huấn kiến thức quốc phòng và quân sự cho đội ngũ Bí thư Đảng các tỉnh, huyện và tương đương, kể cả các bộ, ban, ngành ở cấp Trung ương. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng Lê Đức Anh, các cơ quan Bộ Tổng Tham mưu đã soạn thảo 21 tài liệu cơ bản, tổ chức các lớp tập huấn, tiến hành diễn tập với nhiều tình huống, nhiều giả định sát thực tế trên cả hai nội dung: chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ và đối phó với các tình huống chiến tranh, điển hình là các cuộc diễn tập ở Hải Phòng, Khánh Hòa và Đồng Nai.
Đại tướng Lê Đức Anh còn rất quan tâm đến việc xây dựng công nghiệp quốc phòng tự chủ, có khoa học - kỹ thuật tiên tiến, có lực lượng cán bộ và nhân viên khoa học ngày càng phát triển. Phương hướng là sẽ giảm quân thường trực với số lượng lớn, nhưng lực lượng nghiên cứu khoa học nên tăng chứ không giảm. Hồi ký của Đại tướng viết: “Công việc khẩn trương, đòi hỏi phải tính toán rất kỹ. Nhiều đêm chúng tôi phải thức trắng để làm việc. Anh Đoàn Khuê chỉ đạo từng việc cụ thể về bố trí lực lượng, từng đơn vị, từng cơ quan một, trong đó đặc biệt chú ý cân nhắc khi bố trí các đơn vị chủ lực cơ động của Bộ, của các quân khu, lực lượng phòng không quốc gia, lực lượng không quân, hải quân. Chú ý khâu bảo quản và hiện đại hóa vũ khí, tiến tới tự động hóa phòng không tầm trung và tầm cao. Lực lượng hải quân phát triển và bố trí ngày càng thêm chặt chẽ ở hướng Cam Ranh, biển đảo và đóng được tàu 5.000 tấn, tiến lên 10.000 tấn. Trên cơ sở đó, đã bố trí lại lực lượng và tổ chức phòng thủ trên các hướng, các địa bàn chiến lược quan trọng, vùng biển đảo và biên giới đất liền, các trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế...”.
Đại tướng Lê Đức Anh đã chú trọng việc điều chỉnh bố trí chiến lược quốc phòng. Theo đó, Quân đoàn 3 được điều lên đứng chân ở Tây Nguyên, kịp thời đẩy lùi hoạt động của bọn phản động, tạo môi trường ổn định cho Tây Nguyên phát triển kinh tế, đội hình bố trí lực lượng của các quân, binh chủng được điều chỉnh thích hợp.
Đại tướng Lê Đức Anh còn đặc biệt quan tâm đến công tác tăng cường phòng thủ biển, nhất là khu vực quần đảo Trường Sa. Trong việc tăng cường phòng thủ bờ biển, hải đảo và thềm lục địa, có hai vấn đề nổi lên rất quan trọng và cấp thiết cần phải giải quyết. Đó là, tiếp tục hoàn thiện bố trí lực lượng trên các đảo thuộc khu vực quần đảo Trường Sa và việc xử lý các vấn đề thuộc cảng quân sự Cam Ranh. Cuối tháng 02/1987, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Quân chủng Hải quân củng cố và tăng cường lực lượng phòng thủ quần đảo Trường Sa. Để đưa ra được những quyết sách đúng đắn, Đại tướng Lê Đức Anh nhiều lần trực tiếp thị sát, chỉ đạo và đóng góp quan trọng trong xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Cuối tháng 3/1987, trong đợt làm việc với Bộ Tư lệnh Hải quân, Đại tướng chỉ rõ: Phải thấy hết vị trí chiến lược của Biển Đông. Trước tiên, phải lo phòng thủ quần đảo Trường Sa, nơi có thể xảy ra xung đột. Ta phải hành động kiên quyết để bảo vệ các đảo nổi và đảo chìm. Các đồng chí suy nghĩ mọi cách để xây dựng hải quân hùng mạnh. Ngày 10/6/1987, tôi vào Cam Ranh, tiếp tục làm việc với Bộ Tư lệnh Hải quân và Vùng 4, tôi nói rõ thêm: Ta phải nỗ lực cao nhất để bảo vệ quần đảo Trường Sa, tăng cường khả năng phòng thủ tại chỗ, giữ vững các đảo, coi trọng việc chi viện từ bờ ra. Vừa qua quốc phòng và cả nước chưa làm hết sức. Nay ta phải làm, làm cho ngày nay và cho thế hệ mai sau. Ngày 06/11/1987, đồng chí ký Mệnh lệnh số 1679/ML-QP về việc bảo vệ quần đảo Trường Sa, đưa lực lượng ra đóng giữ các bãi cạn chưa có người, trước mắt đưa ngay các lực lượng ra đóng giữ Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ để khai thác và sẵn sàng bảo vệ đảo.
Chiều ngày 13/02/1988, làm việc với Tư lệnh Hải quân, Đại tướng đã phê bình nghiêm khắc việc để mất đảo Đá Chữ Thập và giao cho Tư lệnh Quân chủng kiêm nhiệm Tư lệnh Vùng 4 Hải quân. Ngày 17/2, Bộ Tư lệnh Hải quân vào Sở Chỉ huy Vùng 4 ở Cam Ranh để trực tiếp chỉ huy các đơn vị. Hai ngày sau, Đại tướng gửi báo cáo lên Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng và Bộ Ngoại giao đề nghị giải quyết một số vấn đề cấp bách như tàu vận chuyển hàng ra Trường Sa, cấp kinh phí, vật tư cho hải quân. Ngày 16/3/1988, Bộ Chính trị đã họp và có kết luận về nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa.
Từ ngày 04 đến ngày 09/5/1988, Đại tướng Lê Đức Anh đã trực tiếp ra thị sát tình hình bộ đội chốt giữ ở quần đảo Trường Sa. Trong bài phát biểu tại buổi lễ, Đại tướng Lê Đức Anh tuyên bố: “Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là sự thật trên thực tế, phù hợp với pháp lý quốc tế, với đạo lý quốc tế... trước anh linh tổ tiên và các cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắc nhủ với các thế hệ mai sau: “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc chúng ta!”. Sau đó, các quân chủng, binh chủng: hải quân, không quân, phòng không, đặc công, thông tin đã tiến hành diễn tập thực binh chi viện đảo và tiếp tục hoàn chỉnh các phương án phòng thủ”. Ngày 29/5/1989, Đại tướng Lê Đức Anh ký Mệnh lệnh số 167/ML-QP về đóng giữ, bảo vệ khu vực biển thềm lục địa, các bãi đá ngầm (khu DK1) của Việt Nam. Trên cơ sở đó, từ tháng 6/1989 đến tháng 11/1990, Quân chủng Hải quân đã khắc phục mọi khó khăn, thực hiện sự tiếp tục có mặt của Việt Nam trên thềm lục địa thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, phù hợp với Luật Biển quốc tế năm 1982.
Cùng với việc quyết liệt bảo vệ chủ quyền với các quần đảo thiêng liêng của Tổ quốc, với nhãn quan chính trị quân sự sắc bén, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ ra vai trò quan trọng của quân cảnh Cam Ranh đối với việc phòng thủ đất nước, đồng thời tham mưu xử lý khéo léo với Liên Xô trong việc hiện diện quân đội của bạn tại đây. Trong cuộc họp với Bộ Chính trị, Đại tướng kiên quyết đề nghị: “Một là, không đưa vũ khí hạt nhân vào Cam Ranh. Hai là, không khai thác đá và cát trong vịnh Cam Ranh”. Đề nghị của Đại tướng được chấp thuận, vấn đề giữa Việt Nam và Liên Xô về việc sử dụng cảng Cam Ranh sau đó được giải quyết tốt đẹp.
Đi đôi với việc giảm quân số, giảm ngân sách quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thủ,... Đại tướng Lê Đức Anh luôn quan tâm đến chính sách hậu phương quân đội, giải quyết những vấn đề tồn đọng sau chiến tranh.
Đại tướng Lê Đức Anh đã đề nghị Đảng và Nhà nước có chính sách cụ thể cải thiện đời sống cho bộ đội tại ngũ, giải quyết việc làm và đời sống cho số cán bộ, chiến sĩ xuất ngũ. Theo Đại tướng: đối với cán bộ, chiến sĩ và công nhân viên quốc phòng tại ngũ thì trước mắt là nâng mặt bằng tiền lương của sĩ quan và những người hưởng lương trong quân đội lên 1,5 lần; thứ hai là, giải quyết nhà ở cho họ. Sau một thời gian thực hiện, việc ăn ở, định cư của các hộ gia đình cán bộ, công nhân viên quốc phòng đã được giải quyết một cách căn bản. Cùng với đó, Đại tướng Lê Đức Anh đã đề nghị với Bộ Chính trị và một số bộ, ban, ngành có liên quan đến xuất khẩu lao động phải ưu tiên cho bộ đội. Thực hiện chính sách này, nhiều đồng chí khi trở về đã có một khoản vốn để tiếp tục đầu tư vào sản xuất kinh doanh, nâng cao mức sống và làm giàu chính đáng, góp phần giải quyết khó khăn chung cho đất nước.
Ngày 10/9/1994, trên cương vị Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh đã ký Lệnh số 36L/CTN, công bố Pháp lệnh Quy định danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người tham gia hoạt động kháng chiến, người có công với cách mạng. Sau gần hai tháng triển khai thực hiện Pháp lệnh trên phạm vi cả nước, ngày 01/12/1994, Đảng và Nhà nước ta long trọng tổ chức lễ phong tặng danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” đợt 1 tại hội trường Ba Đình lịch sử.
Như vậy, trên cả ba mặt quân sự, chính trị và đối ngoại, Đại tướng Lê Đức Anh đều có những cống hiến xuất sắc. Những cống hiến đó của Đại tướng Lê Đức Anh thể hiện bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, cán bộ, chiến sĩ và cấp trên; mọi suy nghĩ, hành động của Đại tướng Lê Đức Anh đều xuất phát từ lợi ích chung của Đảng, nhân dân và dân tộc, vì sự phồn vinh của đất nước.
Đại tướng Lê Đức Anh chưa bao giờ nhận mình là vị tướng tài, nhưng những chiến công, đóng góp to lớn của ông đối với đất nước, Quân đội nhân dân Việt Nam đã chứng minh điều đó. Thực tiễn hơn 80 năm hoạt động cách mạng của mình, Đại tướng Lê Đức Anh gắn liền với những chiến thắng, những bước thăng trầm của lịch sử nước nhà. Dù công tác ở đâu, đảm nhận bất kỳ nhiệm vụ nào, trên mọi cương vị công tác, Đại tướng Lê Đức Anh luôn trung thành với lý tưởng cách mạng, với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Ghi nhận những công lao, đóng góp to lớn đó, Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất và nhiều danh hiệu cao quý khác cho Đại tướng Lê Đức Anh.
PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC NHUỆ
Tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng chính thức khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Gắn liền với bước đi của dân tộc trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ đổi mới, đồng chí Lê Đức Anh trên những cương vị quan trọng khác nhau của Đảng, Nhà nước và quân đội đã có nhiều đóng góp quan trọng trong các lĩnh vực quốc phòng - an ninh, đối ngoại, kinh tế - xã hội... Những quan điểm và quyết định của đồng chí Lê Đức Anh chính là sự cụ thể hóa đường lối đổi mới của Đảng vào hiện thực cuộc sống, góp phần khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới do Đảng đề ra và lãnh đạo; tạo cơ sở cho sự phát triển cả về thực tiễn và lý luận đổi mới trong giai đoạn tiếp theo.
1. Đổi mới trong quân đội
Trong giai đoạn đầu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước vẫn đang trong tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Cơ chế quản lý kinh tế chưa chuyển đổi theo kịp với nền kinh tế hàng hóa, nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, do đó, đã kìm hãm tính năng động, sáng tạo của cơ sở sản xuất - kinh doanh và người lao động. Lạm phát vẫn còn ở con số cao (năm 1986: 774,7%; năm 1988: 393,8%). Đời sống nhân dân nói chung gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Hơn nữa, Việt Nam vẫn đang bị Mỹ bao vây cấm vận; quan hệ quốc tế căng thẳng.
Trên lĩnh vực quốc phòng, nhiều vấn đề khó khăn, bất cập nảy sinh. Một trong những vấn đề hàng đầu cần giải quyết là duy trì lực lượng để đảm bảo nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc với khả năng đáp ứng của nền kinh tế. Những năm 80 (thế kỷ XX), để thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trước các âm mưu xâm lược và chống phá của các thế lực thù địch, ở thời điểm cao nhất, lực lượng thường trực của quân đội ta lên đến 1,6 triệu người. Lực lượng đó đã vượt quá khả năng bảo đảm trong bối cảnh kinh tế đất nước đang khó khăn. Ngân sách quốc phòng chiếm tới 25% tổng thu nhập quốc dân nhưng vẫn không đủ trang trải các nhu cầu tối thiểu về ăn ở, trang bị, huấn luyện và chiến đấu của bộ đội.
Trước tình hình đó, trên cương vị là Tổng Tham mưu trưởng (từ tháng 12/1986) và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (từ tháng 02/1987), đồng chí Lê Đức Anh đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) và các đồng chí trong cơ quan Bộ Quốc phòng tập trung nghiên cứu đổi mới xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân; đổi mới công cuộc xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân; kết hợp chặt chẽ quốc phòng và an ninh; giữa nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Được sự đồng ý của Bộ Chính trị, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo các cơ quan Bộ Quốc phòng, tiến hành đổi mới trong quân đội:
Thứ nhất, xây dựng, triển khai kế hoạch điều chỉnh bố trí chiến lược
Nhiệm vụ trọng tâm đặt ra là điều chỉnh tổ chức biên chế, bố trí chiến lược của quân đội cho phù hợp với kế hoạch phòng thủ cơ bản trong thời kỳ mới; nhằm bảo đảm mục tiêu đánh lâu dài, giảm chi phí quốc phòng, phát huy được sức mạnh toàn dân, toàn diện, tạo nên sức mạnh phòng thủ đất nước chống lại mọi tình huống chiến tranh. Việc điều chỉnh chiến lược quân sự được dựa trên nền tảng tư duy mới, gắn với việc xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, để vừa chống được bạo loạn lật đổ trong nội địa, vừa chống được chiến tranh xâm lược từ bên ngoài.
Theo phương châm đó, quan điểm và sự chỉ đạo về điều chỉnh chiến lược quốc phòng đất nước của đồng chí Lê Đức Anh tập trung vào các vấn đề chính:
- Rút các đơn vị chủ lực lớn về tuyến sau;
- Bố trí lực lượng cơ động và lực lượng vũ trang địa phương ở tuyến trên;
- Tăng cường phòng thủ khu vực Tây Nguyên;
- Xây dựng chiến lược phòng thủ có tính lâu dài về biển, đảo, nhất là khu vực quần đảo Trường Sa và giải quyết vấn đề cảng Cam Ranh.
Đồng chí cùng Tổng Tham mưu trưởng Đoàn Khuê trực tiếp chỉ đạo các cơ quan tác chiến và quân lực triển khai nghiên cứu, xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện việc điều chỉnh lực lượng, bố trí chiến lược trên phạm vi toàn quốc; trực tiếp chỉ đạo từng việc cụ thể về bố trí từng đơn vị, điều chuyển từng cơ quan của bộ, của các quân khu, quân chủng, nhất là lực lượng phòng không quốc gia và lực lượng hải quân, phòng thủ bờ biển, hải đảo và thềm lục địa.
Cùng với triển khai trên thực tiễn, đồng chí Lê Đức Anh còn chỉ đạo nghiên cứu, soạn thảo các văn bản, tài liệu, giáo trình để hướng dẫn và triển khai trên toàn quốc về “Thế trận chiến tranh nhân dân” và nhiệm vụ ”Quốc phòng toàn dân”. Việc xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh để đủ sức giữ vững trật tự an ninh chính trị, xã hội và sẵn sàng ứng phó trước mọi tình huống, chống chiến tranh xâm lược. Trong đó, Bí thư Tỉnh ủy phải đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng, Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh, trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy việc xây dựng, phát huy tác dụng khu vực phòng thủ, điều động, chỉ huy các lực lượng vũ trang và lực lượng quần chúng tại chỗ trong tình huống có chiến tranh và cả trong tình huống chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Các khu vực phòng thủ phải liên kết với nhau, có sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng; đặc biệt tăng cường phòng thủ bờ biển, hải đảo và thềm lục địa.
Kế hoạch điều chỉnh bố trí chiến lược do đồng chí Lê Đức Anh đề xuất và chỉ đạo thực hiện trong toàn quân là cơ sở thực tiễn để hình thành rõ đường lối đổi mới trong lĩnh vực quốc phòng của Đảng. Ngày 30/7/1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 02/NQ-BCT, xác định nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo. Đây là nghị quyết rất cơ bản về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và đường lối chiến tranh nhân dân trong tình hình mới. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (tháng 6/1992) đã nêu ra khái niệm mới về thế trận quốc phòng toàn dân; trong đó khẳng định: thế trận quốc phòng phải gắn với thế trận an ninh, thế trận quốc phòng - an ninh phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, thực hiện điều chỉnh, giảm quân số
Theo tư duy xây dựng nền quốc phòng hiện đại, Đại tướng Lê Đức Anh cho rằng, cần thiết phải giảm quân số thường trực nhằm phù hợp với sự điều chỉnh, bố trí chiến lược theo tư duy mới; đảm bảo số quân thường trực ít, nhưng phải thực sự tinh nhuệ, hiện đại, cơ động linh hoạt. Việc giảm quân số sẽ giảm bớt gánh nặng ngân sách quốc phòng; trên cơ sở đó, tập trung ngân sách cho việc xây dựng và huấn luyện chiến đấu của lực lượng vũ trang. Đó chính là góp phần trực tiếp vào giải quyết khó khăn của nền kinh tế, góp sức vào công cuộc đổi mới đất nước.
Sau khi nghiên cứu và đề xuất quan điểm về giảm quân số được Bộ Chính trị đồng ý, đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu xây dựng kế hoạch giảm trên 60% quân số thường trực, xác định các đối tượng giảm và lộ trình giảm trong 3 năm. Các đơn vị được cắt giảm gồm trung đoàn, tiểu đoàn thứ tư của các sư đoàn; rút gọn biên chế đối với tất cả các sư đoàn bộ binh, trung đoàn binh chủng, khung huấn luyện, trường lớp của các quân khu, quân đoàn, các quân chủng, binh chủng và cơ quan, cơ sở phía sau. Chuyển một số cơ sở xây dựng kinh tế cho Nhà nước quản lý; kiện toàn cơ quan quân sự cấp tỉnh, huyện. Một bộ phận lớn quân nhân đang ở độ tuổi sung sức được chuyển sang tham gia vào hoạt động sản xuất, trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Theo lộ trình giảm quân thường trực từ năm 1988 đến năm 1990, Bộ Quốc phòng đã giảm từ 9 quân đoàn giảm xuống còn 4 quân đoàn; từ 1,6 triệu quân xuống còn 45 vạn quân và bước đầu để 5 vạn quân dự bị. Việc giảm quân trong giai đoạn đầu đổi mới đất nước có thể coi là cuộc cải tổ chưa từng có trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tuy nhiên, việc giảm quân số kéo theo phải giải quyết những vấn đề về chính sách, chế độ và tư tưởng. Với tầm nhìn và sự quan tâm của người đứng đầu lực lượng quân đội, đồng chí Lê Đức Anh đã giải quyết ổn thỏa ba vấn đề liên quan của điều chỉnh giảm quân.
Vấn đề đầu tiên cần giải quyết là chính sách, chế độ cho cán bộ, sĩ quan được ra quân. Đồng chí Lê Đức Anh đã đề nghị và được Bộ Chính trị cho phép trích một phần quỹ đất quốc phòng ở các doanh trại còn bỏ hoang để chia nhỏ và cấp cho bộ đội tự xây nhà ở, đơn vị lo phần cơ sở hạ tầng như đường sá, điện, nước... tạo ra khu hộ gia đình quân nhân. Đối với diện cán bộ, sĩ quan tuổi cao được giải quyết về hưu, nghỉ mất sức theo diện giảm quân, được ưu tiên cấp đất tạo chỗ ở ổn định. Số cán bộ không có gia đình ở đô thị, trở về sinh sống ở nông thôn thì được cấp một khoản tiền cùng với doanh cụ, vật liệu xây dựng để họ có thể xây dựng được căn nhà cấp 4.
Đối với số cán bộ, chiến sĩ thuộc diện giảm quân số nhưng tuổi còn trẻ, có sức khỏe tốt, đồng chí Lê Đức Anh đề nghị các bộ, ban ngành có liên quan ưu tiên tạo việc làm, được tham gia đi hợp tác lao động ở nước ngoài. Đề nghị đó được Trung ương nhất trí, các bộ, ban, ngành ủng hộ. Lần đầu tiên trong lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, bộ đội ra quân được tổ chức thành các đoàn có tổ chức chặt chẽ đi xuất khẩu lao động. Từ năm 1987 đến 1990, đã có 37.338 quân nhân xuất ngũ được cử đi lao động ở nước ngoài. Trừ một số rất ít ở lại nước sở tại, còn hầu hết đều về nước sau khi hết hạn lao động. Họ trở thành lực lượng có trình độ, tay nghề vững; đặc biệt là có một khoản thu nhập làm vốn đầu tư sản xuất ổn định kinh tế gia đình, góp phần giải quyết khó khăn chung cho đất nước. Có thể thấy, việc quyết định đưa cán bộ, sĩ quan quân đội đi xuất khẩu lao động đã thể hiện sự đổi mới tư duy của một nhà lãnh đạo quân sự; đồng thời cũng phù hợp với chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Do quân số được giảm mạnh nên ngân sách quốc phòng có điều kiện tập trung cho hoạt động mua sắm trang bị, huấn luyện, chiến đấu; đồng thời, được dành một phần đáng kể để nâng cao đời sống vật chất cho quân nhân. Tiền lương của sĩ quan và những người hưởng lương trong quân đội được nâng lên gấp 1,5 lần so với trước năm 1986; người đã lập gia đình riêng thì có nhà ở. Do đó, cán bộ, chiến sĩ đã toàn tâm, toàn ý huấn luyện, chiến đấu và công tác. Chất lượng xây dựng đơn vị và hoạt động huấn luyện, chiến đấu và công tác được nâng cao.
Sự đổi mới trong lĩnh vực quốc phòng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ đổi mới đất nước đánh dấu một bước phát triển quan trọng về nhận thức của Đảng đối với nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong đó, có dấu ấn và đóng góp quan trọng của đồng chí Lê Đức Anh.
2. Góp phần tạo bước đột phá trong đổi mới đối ngoại
Bước vào thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trên lĩnh vực ngoại giao, Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn. Các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô ngày càng lún sâu vào khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội. Các thế lực thù địch tiếp tục tiến hành chính sách bao vây, cấm vận đối với Việt Nam. Vấn đề Campuchia vẫn là nguyên nhân để các thế lực thù địch mượn các diễn đàn quốc tế, đặc biệt là thông qua Liên hợp quốc để lên án chống Việt Nam. Nhiệm vụ đặt ra cho đổi mới đối ngoại là thực hiện đa phương hóa, đa dạng quan hệ; thoát khỏi bao vây, cấm vận; tạo được môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Điểm khai mở đầu tiên là tiến hành bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ. Đây là những vấn đề hết sức mới, đầy thử thách, gian nan, đặt ra cho Đảng và cơ quan đối ngoại nhưng nhất định phải thực hiện thành công.
Việc tiến hành bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Bộ Chính trị giao cho lãnh đạo Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm phối hợp thực hiện. Quan điểm của đồng chí Lê Đức Anh về đổi mới đối ngoại là cần suy nghĩ rất kỹ và phải đứng trên lập trường vì lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia và chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc là tối thượng. Tháng 7/1991, đồng chí Lê Đức Anh với tư cách là phái viên của Bộ Chính trị sang thăm Trung Quốc để bàn những vấn đề cụ thể cho việc bình thường hóa quan hệ hai nước. Sau kết quả của chuyến thăm đó, tháng 11/1991, nhận lời mời của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân và Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc Lý Bằng, đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt dẫn đầu sang thăm chính thức Trung Quốc. Hai bên đã ra Thông cáo chung và ký Hiệp định chính thức bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Đối với Hoa Kỳ, đồng chí Lê Đức Anh đã tìm ra chìa khóa để mở cánh cổng bình thường hóa quan hệ hai nước bắt đầu bằng lĩnh vực khoa học y khoa. Được sự nhất trí của Bộ Chính trị về chủ trương, đồng chí Lê Đức Anh đã chọn Thiếu tướng, bác sĩ Nguyễn Huy Phan (Viện Quân y 108), khi đó là giáo sư đầu ngành về y học phẫu thuật chỉnh hình làm khâu đột phá nối lại quan hệ với Mỹ. Thông qua uy tín khoa học của bác sĩ Nguyễn Huy Phan về phẫu thuật chỉnh hình, Việt Nam đã có sáng kiến hợp tác với các nhà khoa học phẫu thuật Hoa Kỳ trong chương trình nhân đạo mang tên “Phẫu thuật nụ cười” thực hiện tại Việt Nam; mục đích là phẫu thuật nhân đạo, chữa trị cho trẻ em Việt Nam bị khuyết môi, hở hàm ếch. Năm 1991, Hội Hữu nghị Việt - Mỹ được thành lập, do bác sĩ Nguyễn Huy Phan làm Chủ tịch, trở thành cầu nối quan hệ giữa các nhà khoa học hai nước. Đó được coi là bước mở đầu cho tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam và Hoa Kỳ.
Từ tháng 9/1992, trên cương vị là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Bộ Chính trị chỉ đạo sát sao việc bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ. Sau lĩnh vực y khoa, việc giải quyết vấn đề POW/MIA được Việt Nam lựa chọn để thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam và Hoa Kỳ. Ngày 18/11/1992, khi tiếp đoàn do Thượng nghị sĩ John Kerry dẫn đầu, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam coi việc tìm kiếm người Mỹ mất tích là vấn đề thuần túy nhân đạo, không hề gắn với chính trị và khẳng định việc sớm bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ là phù hợp với lợi ích của nhân dân hai nước, với hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Ngày 03/02/1994, Tổng thống Hoa Kỳ B.Clinton tuyên bố chấm dứt lệnh cấm vận thương mại kéo dài 19 năm đối với Việt Nam. Đến ngày 12/7/1995, Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao và mở Văn phòng liên lạc tại Wasington và Hà Nội.
Trong nhiệm kỳ làm Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Bộ Chính trị thực hiện hiệu quả đường lối ngoại giao đa phương hóa, đa dạng hóa theo phương châm chủ động, tích cực. Đồng chí đã thay mặt Nhà nước và nhân dân Việt Nam tham dự nhiều sự kiện quốc tế quan trọng như: Lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng chủ nghĩa phát xít tổ chức tại thủ đô Pari của Cộng hòa Pháp; Hội nghị cấp cao các nước Không liên kết lần thứ 11 tổ chức tại Côlômbô; Lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Liên hợp quốc ở thành phố New York, Hoa Kỳ...; thăm hữu nghị chính thức và làm việc tại 13 nước trên thế giới; đồng thời, đón tiếp 26 nguyên thủ quốc gia thăm hữu nghị chính thức và nhiều đoàn khách quốc tế tới thăm Việt Nam; tiếp nhận 90 Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài tại Việt Nam và cử 57 Đại sứ của Việt Nam tại các nước có quan hệ ngoại giao; ký quyết định phê chuẩn 1 Hiến chương, 26 Công ước, 5 Hiệp ước, 35 Hiệp định, 3 Nghị định thư giữa Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế; đã trình Quốc hội phê chuẩn 1 Công ước theo quy định của Hiến pháp (Công ước quốc tế về Luật biển) và đã ủy quyền đàm phán và ký kết một số điều ước quốc tế khác...
Như vậy, những đóng góp của cá nhân đồng chí Lê Đức Anh trong lĩnh vực đối ngoại đã góp phần cụ thể hóa và chứng minh sự đúng đắn chủ trương đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ đổi mới, theo hướng mở rộng quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước và các dân tộc trên thế giới; cùng phấn đấu vì hòa bình độc lập, hữu nghị và phát triển, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi. Đó là cơ sở để phát triển lên thành đường lối đối ngoại giao đa phương hóa, đa dạng hóa hiện nay.
3. Góp phần đổi mới chính sách xã hội
Trên cương vị Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng trong công tác đối nội, đối ngoại, góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển, cải thiện đời sống nhân dân. Một trong những vấn đề được đồng chí quan tâm đó là chính sách đối với người có công với đất nước.
Vốn là một nhà hoạt động cách mạng, một người lính, người chỉ huy quân đội từng vào sinh ra tử trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; hơn ai hết, đồng chí Lê Đức Anh rất hiểu giá trị của sự hy sinh, cống hiến cho đất nước của các liệt sĩ, thương binh, gia đình có công; đặc biệt là những người mẹ của liệt sĩ. Từ thực tế nắm bắt tình hình điều kiện đời sống còn rất khó khăn của những người có công; nhất là các bà mẹ liệt sĩ sống cô đơn, nghèo khổ; ngày 10/9/1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Pháp lệnh số 36L/CTN Quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng năm 1994.
Sau gần hai tháng triển khai thực hiện Pháp lệnh trên phạm vi cả nước, ngày 01/12/1994, Đảng và Nhà nước đã long trọng tổ chức lễ phong tặng Danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” đợt đầu tiên cho 70 Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại Hội trường Ba Đình lịch sử.
Cũng kể từ khi công bố hai pháp lệnh nói trên, cả nước xuất hiện các phong trào ý nghĩa như: “Đền ơn đáp nghĩa”, xây tặng “Nhà tình nghĩa”, nhận phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng; xây dựng “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”, “Toàn dân chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với đất nước”... trong các cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân. Đã có nhiều tổ chức xã hội, các cơ quan đoàn thể nhận phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng suốt đời. Điều đó thể hiện rõ đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, trở thành truyền thống mang đậm tính nhân văn của dân tộc Việt Nam.
Việc công nhận danh hiệu Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với những người có công trong thời kỳ đổi mới đất nước; đồng thời, khẳng định sự đúng đắn trong chính sách an sinh xã hội của Nhà nước đang thực hiện, vì sự tiến bộ và công bằng xã hội.
Những vấn đề về lý luận và thực tiễn đổi mới hình thành trong chặng đường đầu tiên có vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cả thời kỳ đổi mới đất nước. Ở đó, rất cần có những con người dám nghĩ, dám làm, sáng tạo; đưa ra những quan điểm mang tính đột phá để hiện thực hóa đường lối đổi mới của Đảng vào từng lĩnh vực cụ thể của đất nước. Trong bối cảnh đó, được Đảng và Nhà nước tin tưởng, giao phó, đồng chí Lê Đức Anh đã đảm nhiệm những trọng trách trên lĩnh vực mang tính trọng yếu và cương vị chủ chốt của đất nước. Đồng chí luôn thấm nhuần sâu sắc chủ trương đổi mới của Đảng, để từ đó sáng tạo đưa ra những quan điểm và hành động quyết liệt, đóng góp vào thành công bước đầu của công cuộc đổi mới đất nước trên lĩnh vực quốc phòng, đối ngoại và kinh tế - xã hội. Như nhận xét của cố Tổng Bí thư Đỗ Mười: “Đồng chí Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta”.
PGS.TS. NGUYỄN DANH TIÊN
TS. TRẦN THỊ NHẪN
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Đại tướng, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Khi mới 17 tuổi, đồng chí đã tham gia vào phong trào dân chủ ở Phú Vang, Thừa Thiên Huế; 25 tuổi tham gia quân đội, bắt đầu con đường binh nghiệp đầy gian khổ, hy sinh và oanh liệt. Suốt quá trình học tập, chiến đấu và trưởng thành trong lực lượng vũ trang, đồng chí đã lần lượt được bổ nhiệm giữ nhiều chức vụ quan trọng, từ Chính trị viên Chi đội 1, đến Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Đặc biệt, đồng chí còn là một trong hai sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được phong hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng vào tháng 4/1974.
Đại tướng Lê Đức Anh là một chiến sĩ cách mạng kiên cường, một vị tướng tài ba, người đã được tôi luyện, trưởng thành trong đấu tranh cách mạng, có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Trong suốt 30 năm chiến tranh giải phóng, đồng chí Lê Đức Anh đã lăn lộn trên khắp các chiến trường, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; tham gia chống chiến tranh xâm lược ở hai đầu biên giới của Tổ quốc. Trên cương vị chỉ huy cao cấp, đồng chí đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hồi sinh đất nước.
Trong suốt cuộc đời công tác, Đại tướng là người luôn coi trọng nhân, nghĩa (ngay cả đối với kẻ thù); là người lãnh đạo chỉ huy luôn thương yêu, tìm mọi biện pháp để giảm thiểu hy sinh xương máu của cán bộ, chiến sĩ và khó khăn, mất mát của đồng bào. Ông thường xuyên đến thăm, kiểm tra công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị trong toàn quân, đồng thời chỉ đạo rất quyết liệt vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng và là một trong những người đưa ra ý tưởng xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, các khu kinh tế - quốc phòng trên địa bàn chiến lược, bảo đảm cho người dân vừa đánh giặc, vừa sản xuất phát triển kinh tế - xã hội. Đó là cơ sở, tiền đề để chúng ta hiện nay đã và đang triển khai thực hiện. Trong xây dựng quân đội, Đại tướng cũng hết sức chú trọng đến việc bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị của Quân đội và đời sống của cán bộ, chiến sĩ.
Là một vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước xuất sắc, đồng chí luôn có tư duy đổi mới, quyết đoán, nhanh nhạy, bám sát thực tiễn, dám chịu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, nhưng lại có một cuộc sống rất giản dị, sâu sắc và nhân văn, được đồng chí, đồng đội và nhân dân yêu mến, bạn bè quốc tế đánh giá cao. Trên cương vị là Tổng Tham mưu trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí đã cùng Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thu được nhiều thành tựu quan trọng.
Trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) là thời điểm sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đứng trước những khó khăn gay gắt: Mỹ tiếp tục bao vây, cấm vận, “chiến tranh ở hai đầu biên giới” vẫn chưa chấm dứt. Vấn đề “giá - lương - tiền” đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân lao động; niềm tin của nhân dân vào các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đã có những dấu hiệu giảm sút. Trước khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra, ngày 07/12/1986, đồng chí Lê Đức Anh được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký quyết định bổ nhiệm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trong chuyến đi thị sát biên giới phía Bắc, khi tình hình chiến sự vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt, với tư duy quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm, trên cương vị Tổng Tham mưu trưởng, đồng chí đặt ra yêu cầu phải tăng cường sức mạnh tư tưởng tinh thần, vật chất cho lực lượng vũ trang; chuyển đổi thế trận và lực lượng về chiến lược ở biên giới phía Bắc, phía Tây Nam, chỉ có vậy mới có khả năng phòng thủ vững chắc để bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề nan giải, phức tạp và hết sức khó khăn liên quan đến các vấn đề chiến lược trước mắt cũng như lâu dài; không thể do một người quyết định. Để khẩn trương giải quyết những vấn đề do thực trạng mới đặt ra, tại biên giới, đồng chí đã trao đổi với một số tướng lĩnh và sau đó đã báo cáo với các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Bộ Quốc phòng và nhận được rất nhiều ý kiến; trong đó có cả “chiều thuận” và “chiều nghịch”.
Nhiệm vụ chiến lược ấy vừa cấp bách trước mắt, vừa mang tính lâu dài. Vì vậy, nhiều đêm đồng chí đã thức trắng cùng các tướng lĩnh trong Bộ Tổng Tham mưu để bàn bạc từng nhiệm vụ, công việc cụ thể với yêu cầu giảm biên chế lực lượng thường trực với số lượng lớn, nhưng lực lượng nghiên cứu khoa học cần phải tăng. Giảm quân số để bảo đảm đánh lâu dài và trực tiếp giảm chi phí quốc phòng. Chủ trương là thế, vấn đề gay cấn, nan giải lại là giảm như thế nào? Giảm bao nhiêu, ở đâu? Bao giờ bắt đầu? Số quân nhân giảm sẽ làm gì để không ảnh hưởng chung đến chủ trương, chính sách của Đảng và không ảnh hưởng đến đời sống của những gia đình quân nhân này? Với nhiều phương án đề xuất, đồng chí Lê Đức Anh đề xuất giảm 60% quân thường trực và xin ngân sách quốc phòng từ 15 đến 18%, đầu tiên là tổng ngân sách, tiến tới là ngân sách thu trong nước. Từ những đề xuất của Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ Chính trị đã thông qua kế hoạch điều chỉnh chiến lược và giảm mạnh quân số quân đội, quân thường trực từ 1,5 triệu xuống còn 45 vạn, bước đầu để 5 vạn quân dự bị, 9 quân đoàn xuống còn 4 quân đoàn, nhưng sức mạnh chiến đấu không giảm mà càng được tăng cường, gánh nặng ngân sách quốc phòng đã được giải quyết một cách cơ bản. Như vậy, sự điều chỉnh về chiến lược đối với lực lượng vũ trang, xây dựng thế trận, xây dựng tiềm lực quốc phòng trong tình hình mới đã được tổ chức triển khai trong thực tiễn, tạo nên bước đột phá trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Đây là một trong những đóng góp của đồng chí Lê Đức Anh.
Bên cạnh đó, vấn đề điều chỉnh, bố trí lại lực lượng của từng đơn vị, từng cơ quan, đặc biệt là các đơn vị cơ động chiến lược của Bộ, của các quân khu, lực lượng phòng không, lực lượng không quân, hải quân, lực lượng phòng thủ trên các hướng, các địa bàn chiến lược quan trọng, vùng biển đảo và biên giới đất liền... tiếp tục đặt ra những yêu cầu mới. Với những đề xuất của đồng chí Lê Đức Anh, Bộ Chính trị đã quyết định di chuyển vị trí đứng chân của Quân đoàn 3 từ miền Bắc vào Tây Nguyên, đồng thời tăng cường lực lượng ở Cam Ranh và một số vùng biển, đảo trọng yếu khác. Cơ cấu biên chế, tổ chức và nhiệm vụ, chức năng của các học viện, nhà trường trong toàn quân cũng được điều chỉnh phù hợp.
Từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội. Trước thực trạng của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, vấn đề trung tâm của Đại hội Đảng lần thứ VI là phải “đổi mới tư duy” phải nghiên cứu một cách kịp thời, nghiêm túc nhất. Ngày 16/02/1987, Đại tướng Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Với cương vị Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, được sự tin tưởng, ủng hộ của Bộ Chính trị, đồng chí đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, chỉ đạo tập trung nghiên cứu, điều chỉnh tổ chức, biên chế, bố trí của các đơn vị địa phương, các đơn vị chiến dịch, chiến lược trong lực lượng vũ trang theo hướng vừa phù hợp với tình hình mới, phù hợp với khả năng của nền kinh tế, vừa phát huy được sức mạnh của toàn dân, toàn diện, tạo sức mạnh quốc phòng để phòng thủ đất nước, sẵn sàng chống lại mọi tình huống chiến tranh... Đồng chí là người trực tiếp thị sát, chỉ đạo và đóng góp quan trọng trong xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Sau khi được Bộ Chính trị nhất trí, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo các cơ quan Bộ Quốc phòng, nòng cốt là Bộ Tổng Tham mưu tiến hành song song hai việc: Một là, xây dựng kế hoạch và triển khai kế hoạch điều chỉnh bố trí chiến lược và giảm quân số. Hai là, soạn thảo các văn bản, tài liệu, giáo trình và triển khai trên toàn quốc “Thế trận chiến tranh nhân dân” và nhiệm vụ “Quốc phòng toàn dân”. Đây cũng là một trong những cơ sở lý luận và thực tiễn để Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 02/NQ-BCT về xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố và xác định nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo. Nghị quyết được triển khai thực hiện từ Trung ương đến cơ sở, nhanh chóng đi vào cuộc sống; thế trận và sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân được củng cố; các khu vực phòng thủ từ tỉnh, thành phố đến cơ sở xã, phường, thị trấn từng bước hình thành tạo nên sức mạnh tại chỗ của nền quốc phòng. Đây là một sự đổi mới trong tư duy, dám chịu trách nhiệm với dân, với Đảng của người đứng đầu lực lượng vũ trang, vừa mang tính kế thừa, vận dụng và sáng tạo phù hợp với thực tiễn mới.
Sau sự “mở đường” để “đổi mới tư duy” về xây dựng lực lượng vũ trang, về xây dựng thế trận chiến lược trên đất liền, vấn đề phòng thủ, bảo vệ biển, đảo cũng là vấn đề rất cấp bách đặt ra lúc này. Đại tướng Lê Đức Anh đã đề xuất: Phải nỗ lực cao nhất để bảo vệ quần đảo Trường Sa, tăng cường khả năng phòng thủ tại chỗ, giữ vững các đảo, coi trọng việc chi viện từ bờ ra. Vừa qua quốc phòng làm chưa hết sức. Nay ta phải làm, làm cho ngày nay và thế hệ mai sau. Sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của Đại tướng Lê Đức Anh đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, trách nhiệm rất cao trước dân, trước Đảng trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, cuối năm 1987 đến năm 1988, Bộ Tổng Tham mưu và Tổng cục Chính trị đã tổ chức Hội nghị giao nhiệm vụ cho các quân chủng: Hải quân, Phòng không và Không quân, tổ chức kế hoạch hiệp đồng tác chiến để bảo vệ quần đảo Trường Sa và vùng biển Cam Ranh. Đồng chí Lê Đức Anh đã gửi báo cáo lên Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng và Bộ Ngoại giao đề nghị giải quyết một loạt vấn đề cấp bách như: Sử dụng tàu vận tải hàng hoá ra Trường Sa, xét duyệt cấp kinh phí, vật tư cho Hải quân... Trên cơ sở đề xuất của Bộ Quốc phòng, ngày 22/02/1988, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ký quyết định giải quyết những vấn đề cấp bách mà nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo đặt ra. Ngày 16/3/1988, Bộ Chính trị họp và có kết luận về nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa.
Song song với vấn đề chiến lược bảo vệ biển, đảo là vấn đề vùng vịnh Cam Ranh và cảng Cam Ranh. Quan điểm, tư duy của Đại tướng Lê Đức Anh về vấn đề này là dứt khoát, kiên quyết, rõ ràng, hợp lý, hợp tình cả trước mắt và lâu dài. Đặc biệt, là khi giải quyết vấn đề vùng vịnh Cam Ranh và cảng Cam Ranh với Liên Xô, đồng chí đã đề xuất và chỉ đạo dứt khoát: Những gì đã ký kết trong Hiệp định trước đây thì phải tôn trọng hai bên đều có trách nhiệm phải thực hiện nghiêm túc. Những vấn đề bổ sung ngoài nội dung đã ký kết thì phải trao đổi, theo thẩm quyền của từng cấp, khi hai bên đồng thuận mới được thực hiện. Đại tướng Lê Đức Anh cho rằng: Khi xuất hiện tàu ngầm và chiến hạm mang đầu đạn hạt nhân tại đây sẽ rất phức tạp cho các bên liên quan cũng như khu vực; không những không giải quyết được vấn đề ổn định, hoà bình, mà còn đẩy tình hình đến sự căng thẳng mới khi chúng ta vẫn đang bị cấm vận; sau chiến tranh biên giới ở phía Bắc, chúng ta vẫn chưa tái lập lại ngoại giao với Trung Quốc. Vì vậy, đồng chí đã trình Bộ Chính trị hai vấn đề về vùng vịnh Cam Ranh và cảng Cam Ranh: Một là, kiên quyết không đưa tàu ngầm và chiến hạm mang đầu đạn hạt nhân vào Cam Ranh; Hai là, không cho khai thác cát và đá trong vịnh Cam Ranh. Từ những chỉ đạo chiến lược của Đại tướng, vấn đề vịnh Cam Ranh và cảng Cam Ranh được giải quyết ổn thỏa giữa các bên trong hoà bình. Tình đoàn kết hữu nghị giữa Liên Xô và Việt Nam vẫn diễn ra tốt đẹp. Sau này, khi Liên Xô tan rã, Nga tiếp quản thực thi Hiệp định đã ký kết với Việt Nam về vấn đề vịnh Cam Ranh và cảng Cam Ranh, Hiệp định có hiệu lực đến năm 2004.
Những năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX, tình hình thế giới, khu vực diễn biến hết sức phức tạp, nhất là sự sụp đổ, tan rã của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô. Ở trong nước, các thế lực thù địch tăng cường chống phá cách mạng nước ta. Chúng ráo riết thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú, tư duy nhạy bén, trước khi Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, đồng chí Lê Đức Anh nhận thấy một khi “Diễn biến hoà bình” có chỗ đứng chân vững chắc sẽ là cơ hội, thời cơ để kẻ địch chống phá hoà bình, ổn định trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của ta.
Trước tình hình đó, đồng chí Lê Đức Anh đã đề xuất với Bộ Chính trị phải thực hiện đúng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tập trung vào hai vấn đề: Thứ nhất, phải củng cố lại Đảng để xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp công nhân. Thứ hai, phải chăm sóc lợi ích và đời sống nhân dân cả nước. Đây là hai thành phần nền tảng, cốt lõi nhất trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn đã chứng minh: Công tác xây dựng Đảng chưa bao giờ, không bao giờ “kết thúc”. Đây là nhiệm vụ thường xuyên, trọng yếu của Đảng. Mặt khác, mục tiêu cách mạng của Đảng ta là đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp Nhân dân. Vì vậy, chăm sóc lợi ích và đời sống Nhân dân cũng không bao giờ là “kết thúc”.
Trước yêu cầu phát triển đất nước, hội nhập quốc tế, Đại tướng Lê Đức Anh đã cùng Bộ Chính trị chủ trương đã đến thời điểm cần phải phá bao vây cấm vận của Mỹ, bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, tìm cách gia nhập ASEAN. Đây là nhiệm vụ đối ngoại chiến lược rất khó khăn, lâu dài đã được đồng chí Lê Đức Anh đề xuất với Bộ Chính trị, sau đó được thông qua và giao cho Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao tổ chức thực hiện. Bộ Chính trị giao cho Bộ Quốc phòng, trực tiếp là đồng chí Lê Đức Anh suy nghĩ cách làm, biện pháp cụ thể và tổ chức thực hiện bước “mở đầu” của nhiệm vụ chiến lược này. Bằng phương pháp tiếp cận đúng đắn, đồng chí đã hoàn tất thắng lợi nhiệm vụ đối ngoại chiến lược này trước Đảng, trước dân.
Cuối tháng 7/1991, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ làm phái viên của Bộ Chính trị sang Trung Quốc để bàn bạc về những vấn đề cụ thể tiến tới bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Những cuộc đối thoại của đoàn cán bộ phái viên của ta, đứng đầu là đồng chí Lê Đức Anh với lãnh đạo Đảng, Nhà nước Trung Quốc đã thành công tốt đẹp, đã trực tiếp tạo ra những thuận lợi mới về ngoại giao để các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ ta sang thăm Trung Quốc sau này, mở đường cho việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Tháng 11/1991, ta đã ký thông cáo chung, tuyên bố bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và Hiệp định thương mại, Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc vùng biên giới giữa hai nước.
Thực tiễn hơn 80 năm hoạt động cách mạng của đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh đã để lại cho chúng ta hôm nay những bài học sâu sắc về đạo đức cách mạng và phong cách lãnh đạo, chỉ đạo. Đồng chí là người luôn học tập, rèn luyện không ngừng để nâng cao tri thức mọi mặt; đặc biệt là việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và lối sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh; luôn rèn luyện đạo đức cách mạng của người chiến sĩ cộng sản, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân, trước cấp trên; luôn đặt lợi ích cách mạng lên trên hết.
Thiếu tướng, PGS.TS. VŨ CƯƠNG QUYẾT
Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là một vị tướng trận mạc, nhà lãnh đạo tài năng, đức độ, có nhiều cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc và sự trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam. Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Lê Đức Anh gắn liền với những giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, qua các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng hồi sinh đất nước; đổi mới và hội nhập quốc tế.
Dù ở cương vị nào, đồng chí cũng “không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn thể hiện rõ phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc và nhân dân lên trên hết”; là nhà lãnh đạo chiến lược xuất sắc của Đảng; là tấm gương về phẩm chất đạo đức cách mạng. Sự hòa quyện giữa đạo đức, chính trị với tư tưởng, trí tuệ, bản lĩnh của đồng chí Lê Đức Anh đã làm lên một nhân cách lớn, một năng lực lãnh đạo mang tầm chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương, có ảnh hưởng và tác động đối với sự ổn định, phát triển đất nước.
Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh - người cộng sản kiên trung, vị tướng trận mạc, nhà chỉ huy xuất sắc, nhà lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân Việt Nam.
Trong những năm 1935-1939, được tiếp cận với nhiều tài liệu viết về chính quyền Xôviết, về lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng chí Lê Đức Anh thấm nhuần tư tưởng cách mạng và tự giác, tích cực đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày 01/5/1938, đồng chí Lê Đức Anh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong hồi ký của mình, đồng chí Lê Đức Anh kể lại “Tôi tham gia hoạt động cách mạng bắt đầu từ việc đọc sách, báo, tuyên truyền cho dân chúng, trao đổi với nhau về tình hình đất nước, bàn cách đấu tranh đòi giảm sưu thuế hà khắc của thực dân, phong kiến, đòi tự do, dân chủ... ở làng quê”.
Năm 1939, thực dân Pháp tăng cường đàn áp các phong trào cách mạng trong cả nước. Đồng chí Lê Đức Anh phải lánh vào Hội An, Phan Rang, Đà Lạt, Thủ Dầu Một và tham gia vào các hội ái hữu. Sau khi kết nối liên lạc với tổ chức, đồng chí được giao nhiệm vụ tổ chức các nghiệp đoàn nghề nghiệp (bên ngoài là Hội Nghề nghiệp ái hữu, nhưng thực chất là tổ chức phong trào công nhân) chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Tháng 8/1945, đồng chí được phân công phụ trách chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền ở các đồn điền cao su thuộc địa phận hai huyện Hớn Quản và Bù Đốp của tỉnh Bình Phước.
Tháng 8/1945, thời cơ cách mạng đến, được sự phân công của tổ chức, đồng chí đã tham gia chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền thành công ở Hớn Quản và Bù Đốp vào đêm 24 rạng sáng 25/8/1945. Sau này, đồng chí nhận định: “Thắng lợi ấy là kết quả của 15 năm đấu tranh kiên cường, bất khuất của những người cộng sản và quần chúng cách mạng, trải qua những thăng trầm và bao hy sinh mất mát và là kết quả trực tiếp của cuộc vận động giải phóng dân tộc trong những tháng ngày khẩn trương chuẩn bị khởi nghĩa và khởi nghĩa giành chính quyền”.
Trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí Lê Đức Anh được phân công nhiều nhiệm vụ quan trọng trong quân đội. Trên các cương vị khác nhau, đồng chí Lê Đức Anh luôn thể hiện bản lĩnh, sự năng động và linh hoạt, đã cùng với tập thể cấp ủy, chỉ huy xác định phương hướng hoạt động cho đơn vị bảo đảm sát đúng, kịp thời. Đồng chí đã phát huy tốt vai trò tham mưu và trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch, trận đánh có hiệu suất chiến đấu cao. Từ thực tiễn các trận đánh ở Hớn Quản, Xa Cam, Xa Cát, La Ngà, Cầu Bà Kiên trên quốc lộ 16, tháp canh Vàm Giá trên đường 14, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo các đơn vị khái quát, sáng tạo ra cách đánh đặc công, được phổ biến rộng rãi trong các đơn vị bộ đội. Trong chỉ huy chiến đấu, đồng chí luôn bám sát thực tiễn, vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa bàn nên đã giành nhiều thắng lợi quan trọng trong các chiến dịch, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Sau Hiệp định Giơnevơ (7/1954), đồng chí Lê Đức Anh tập kết ra Bắc, được phân công đảm nhiệm các cương vị: Cục phó Cục Tác chiến, Cục phó thứ nhất Cục Quân lực, Cục trưởng Cục Quân lực, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm 1964, khi chiến trường miền Nam trở nên khốc liệt, đồng chí lại được Trung ương cử vào Nam. Đồng chí đã đảm nhiệm vị trí lãnh đạo, chỉ huy: Tham mưu trưởng, Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Miền, Ủy viên Quân ủy Miền; Tư lệnh Khu 9, Phó Bí thư Khu ủy; Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh.
Trên các cương vị lãnh đạo, đồng chí Lê Đức Anh luôn thể hiện là tấm gương sáng ngời, mẫu mực về lời nói và việc làm với chiến sĩ và đồng bào. Trong công tác, đồng chí luôn tận tâm, tận lực đóng góp vào sự nghiệp của Đảng, của dân tộc với mục tiêu củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang và giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đồng chí cùng với Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền đã có những đóng góp to lớn trong củng cố vững chắc niềm tin cho chiến sĩ và nhân dân dám đánh Mỹ và đánh thắng Mỹ. Đồng chí quyết tâm chỉ đạo quân và dân Quân khu 9 kiên quyết giáng trả kịp thời các hành động nống lấn của địch sau Hiệp định Pari, trong bối cảnh chiến trường toàn miền ngưng chiến. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, được giao trọng trách Phó Tư lệnh chiến dịch kiêm Tư lệnh cánh quân tây nam, đồng chí Lê Đức Anh có đóng góp quan trọng cho thắng lợi của chiến dịch, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau ngày thống nhất đất nước, đồng chí Lê Đức Anh được cử làm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Trong 10 năm, đồng chí Lê Đức Anh cùng Ban lãnh đạo Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia đã chỉ huy kiên quyết giáng trả những hành động gây chiến của bọn phản động Pôn Pốt, phối hợp chặt chẽ với quân và dân Campuchia đánh đổ chế độ phản động Pôn Pốt, giúp dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hồi sinh đất nước.
Trong suốt cuộc đời binh nghiệp của mình, nhất là trong các chiến dịch, đồng chí Lê Đức Anh luôn quyết liệt, dứt khoát, quyết tâm giữ vững mục tiêu đã lựa chọn, thể hiện những năng lực chính yếu nhất của một nhà lãnh đạo tài ba: năng lực tư duy - năng lực xây dựng kế hoạch - năng lực hành động.
Bên cạnh đó, đồng chí Lê Đức Anh còn là một vị tướng luôn coi trọng nhân nghĩa, ngay cả đối với kẻ thù; là nhà lãnh đạo chỉ huy luôn thương yêu, tìm mọi cách giảm thiểu hy sinh xương máu cho cán bộ, chiến sĩ và khó khăn, mất mát của người dân. Trong hồi ký, đồng chí viết: Thắng lợi trọn vẹn của chúng ta có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân to lớn nhất, cơ bản nhất, gốc rễ nhất là tư tưởng “nhân ái”. Tư tưởng “nhân nghĩa” của thời đại Hồ Chí Minh là bắt nguồn từ truyền thống chí nhân, chí nghĩa của dân tộc, như Nguyễn Trãi từng viết trong Đại cáo Bình Ngô: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo. Sự kết hợp hài hòa giữa phẩm chất đạo đức cao quý với năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện của đồng chí Lê Đức Anh đã hình thành nhân cách lớn của nhà lãnh đạo chiến lược xuất sắc về cả quân sự và chính trị.
Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh - tấm gương sáng về cống hiến, hy sinh vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia, ở cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng rồi Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng trong công tác đối nội, đối ngoại, thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; kinh tế phát triển, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố và tăng cường. Tâm huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, đồng chí Lê Đức Anh đã đề xuất, đưa ra nhiều quyết định và chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, tái thiết đất nước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phá thế bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại.
Với vai trò là Chủ tịch nước, đồng chí luôn đổi mới, quyết đoán, nhanh nhạy, bám sát thực tiễn, dám chịu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành và cũng rất giản dị, sâu sắc, nhân văn trong cuộc sống, được nhân dân yêu mến, bạn bè quốc tế đánh giá cao. Đồng chí luôn suy nghĩ tìm tòi nâng cao đời sống nhân dân; nơi nào không có nước thì tìm cách hỗ trợ đào giếng khoan cấp nước, vùng nào còn thiếu ăn thì tìm cách phát triển nông nghiệp..., bằng các chính sách phù hợp để đời sống người dân khá lên. Đồng chí Lê Đức Anh rất quan tâm công tác chính sách hậu phương quân đội, giải quyết các vấn đề tồn đọng về chính sách sau chiến tranh. Ngày 10/9/1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh Quy định danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” để tặng và truy tặng những người mẹ đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; đồng thời để giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng cho các thế hệ mai sau.
Nhằm tăng cường quốc phòng, an ninh, đồng chí Lê Đức Anh thường xuyên đến thăm, kiểm tra công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị quân đội, công an. Đồng chí chỉ đạo quyết liệt vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng và là một trong những người đưa ra ý tưởng xây dựng khu vực phòng thủ, các khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược. Đồng thời, đồng chí cũng hết sức chú trọng đến tình hình bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị của quân đội và đời sống của cán bộ, chiến sĩ.
Trong ngoại giao quốc tế, thực hiện nhiệm vụ Bộ Chính trị giao, đồng chí đã nghiên cứu, đề xuất cách thức, phương pháp, bước đi để thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ với một số nước, đối tác, góp phần đặt nền móng cho chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Đảng, Nhà nước ta. Việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ có vai trò to lớn của đồng chí Lê Đức Anh. Trên cương vị Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh đã nhiều lần dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến thăm các nước, các tổ chức quốc tế và ký kết nhiều hiệp định, điều ước, để lại những dấu ấn quan trọng và tình cảm tốt đẹp với các quốc gia, cộng đồng quốc tế.
Là nguyên thủ quốc gia, đồng chí Lê Đức Anh là một tấm gương sáng về phẩm chất của người cán bộ cách mạng, “tận trung với nước, tận hiếu với dân”. Đồng chí Lê Đức Anh luôn phấn đấu, học tập không ngừng, nâng cao tri thức về mọi mặt; thường xuyên rèn luyện bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, trước cán bộ, chiến sĩ và trước cấp trên.
Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã kinh qua nhiều cương vị công tác, nhưng dù ở đâu và trong bất cứ hoàn cảnh nào đồng chí luôn thể hiện đức hy sinh, lòng dũng cảm, trí thông minh; toàn tâm cống hiến cho Đảng, cho dân tộc; giữ trọn danh hiệu cao quý của người cộng sản, luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Những phẩm chất cao đẹp và những cống hiến của đồng chí Lê Đức Anh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước, quân đội luôn là tấm gương sáng ngời cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, nhân dân học tập. Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh là dịp để tưởng nhớ, hiểu thêm công lao đóng góp của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Đây cũng là dịp để tri ân sự hy sinh của các thế hệ cha anh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc, ấm no của nhân dân. Qua đó, thêm suy ngẫm về trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của mình đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
TS. Đinh Thị Mai
Đại tướng Lê Đức Anh, người chiến sĩ cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam. Suốt quá trình hoạt động cách mạng, dù ở bất kỳ cương vị công tác nào, ông cũng luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, những năm 1964 - 1968, trên cương vị Tổng Tham mưu phó, Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Miền, với tư duy, tầm nhìn chiến lược của một nhà quân sự tài ba, đồng chí Lê Đức Anh đã đề xuất với Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền nhiều chủ trương, biện pháp sáng tạo về xây dựng lực lượng, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, chỉ đạo tác chiến; trong đó có việc chỉ đạo triển khai chủ trương tổ chức xây dựng lực lượng trên chiến trường B2 thời kỳ này.
Cuối năm 1963, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở miền Nam đứng trước sự phá sản hoàn toàn. Mỹ và chính quyền Sài Gòn ráo riết tăng cường các hoạt động quân sự ở miền Nam, đồng thời, đe dọa và chuẩn bị dùng sức mạnh quân sự chống phá miền Bắc Việt Nam. Cách mạng miền Nam cần có thêm sự tăng cường về cán bộ quân sự cấp cao, tăng cường xây dựng phát triển lực lượng và đẩy nhanh hơn hoạt động quân sự để ứng phó với các cuộc hành quân càn quét điên cuồng của địch. Trong bối cảnh đó, Tổng Tham mưu phó Lê Đức Anh đã được Đảng tin tưởng, giao nhiệm vụ vào chiến trường miền B2. Ông đã có mặt tại Bộ Chỉ huy Miền, đứng chân tại huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, trong chiến khu Dương Minh Châu, thuộc miền Đông Nam Bộ. Trở lại địa bàn quen thuộc, đồng chí được Bộ Chỉ huy Miền giao chỉ đạo xây dựng và triển khai kế hoạch tổ chức, phát triển lực lượng tại chỗ. Với tầm nhìn chiến lược, tư duy sắc sảo, nhạy bén, đồng chí đã đề xuất với Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền kế hoạch, phương án tổ chức xây dựng lực lượng ở vùng đô thị trước, sau đó mở rộng địa bàn ra hướng Đông. Lực lượng B2 lúc đó, hầu hết các đơn vị bộ binh được xây dựng ở quy mô cấp tiểu đoàn; cấp trung đoàn chủ lực của Miền có hai trung đoàn Q761 và Q762; bộ đội đặc công mới chỉ xây dựng được một số đơn vị và tổ chức huấn luyện chiến đấu. Việc xây dựng lực lượng “biệt động thành” còn rất khó khăn, vì nhất thiết phải lấy người tại chỗ ở nội đô và ven đô. Lực lượng pháo binh có Đoàn 80 gồm 5 tiểu đoàn, đứng chân ở vùng căn cứ miền Đông Nam Bộ.
Thực hiện Nghị quyết Quân ủy Trung ương đầu năm 1964 về thúc đẩy đòn tiến công quân sự, đẩy mạnh hoạt động tác chiến trên các chiến trường miền Nam đánh bại các cố gắng chiến tranh của địch, nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của chúng, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo và tổ chức xây dựng lực lượng hết sức sáng tạo, phát huy tối đa sức mạnh của chiến tranh nhân dân. Đồng chí chỉ đạo tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn địa phương phát triển lực lượng dân quân du kích ở cơ sở. Cùng với đó, Bộ Chỉ huy Miền chủ động, tăng cường xây dựng lực lượng bộ đội địa phương và chủ lực, qua đó, từng bước xây dựng B2 thành chiến trường có lực lượng vũ trang ba thứ quân để triển khai đánh địch mạnh mẽ, rộng khắp. Tính đến cuối năm 1964, việc xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trên toàn địa bàn B2 đạt được nhiều kết quả quan trọng, lực lượng vũ trang B2 nhất là bộ đội chủ lực đã đủ sức đương đầu với các cuộc hành quân của địch và tiến hành các chiến dịch tiến công. Nhiều vùng “trắng” trước đây quân bị địch hành quân càn quét, bắn phá, sát hại đồng bào ta, nay cơ sở và lực lượng vũ trang cách mạng đã được xây dựng và bắt đầu hoạt động hiệu quả. Đó là kết quả nổi bật, thành tích xuất sắc trong tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang của Bộ Chỉ huy Miền, mà người được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo là đồng chí Lê Đức Anh.
Lúc này, Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền trình lên Trung ương Cục miền Nam kế hoạch mở chiến dịch Bình Giã. Lực lượng tham gia chiến dịch trên hướng chủ yếu có hai trung đoàn bộ binh chủ lực (Q761, Q762), 4 tiểu đoàn trợ chiến và bộ đội địa phương tỉnh Bà Rịa. Hướng tiến công thứ yếu do lực lượng Quân khu 6 đảm nhiệm. Hướng phối hợp do lực lượng Quân khu 7 và bộ đội địa phương tỉnh Biên Hòa đảm nhiệm.
Được sự nhất trí của Trung ương Cục miền Nam, Bộ Chỉ huy chiến dịch Bình Giã triển khai tiến hành chiến dịch. Sau hơn một tháng chiến đấu (từ đêm 02/12/1964 - 03/01/1965), chiến dịch Bình Giã đã giành thắng lợi to lớn. Huyện Hoài Đức được giải phóng, vùng căn cứ được củng cố và mở rộng bảo đảm cho việc tiếp nhận vũ khí, trang bị của Trung ương từ miền Bắc chi viện bằng đường biển vào chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Chiến thắng Bình Giã đánh dấu sự thất bại cơ bản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đồng thời, khẳng định ta có khả năng xây dựng những đơn vị chủ lực lớn tại chỗ cấp sư đoàn để đánh lớn tiêu diệt được chủ lực địch.
Sau những thất bại liên tiếp, Mỹ và chính quyền Sài Gòn liên tiếp tổ chức các cuộc hành quân thực hiện hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định” vào các vùng căn cứ của kháng chiến. Chúng huy động một lượng lớn binh khí kỹ thuật áp đảo, xe tăng, xe bọc thép, các loại máy bay cường kích, tiêm kích yểm trợ, được chỉ huy quân Mỹ và quân đội Sài Gòn huy động tổng lực, với tất cả các quân, binh chủng càn quét các căn cứ của ta trong đó chủ yếu là căn cứ Dương Minh Châu của Trung ương Cục miền Nam, Bộ chỉ huy Miền ở Bắc Tây Ninh.
Từ rất sớm, qua phân tích, nhận định, đánh giá âm mưu, thủ đoạn của địch, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền đã giao cho Tham mưu trưởng Lê Đức Anh nhiệm vụ chỉ đạo xây dựng lực lượng và thế trận đánh địch tại chỗ để đánh trả hiệu quả các cuộc hành quân càn quét của địch. Đồng chí đã chỉ đạo các cơ quan tiến hành tổ chức các “ấp, xã chiến đấu”, bám trụ đánh địch tại chỗ, giữ chắc các ấp, xã chiến đấu. Cán bộ, nhân viên cơ quan Trung ương Cục miền Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng được tổ chức thành các xã, huyện căn cứ để trên cơ sở đó tổ chức ra các đơn vị du kích, tự vệ “địa phương”. Cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng trong cơ quan Bộ Chỉ huy Miền được tổ chức thành các đơn vị bộ đội địa phương, làm nhiệm vụ cơ động chiến đấu tại chỗ trên từng khu vực. Khi có địch càn quét, nơi địch không đến thì bung ra tìm địch mà đánh, bám địch mà diệt, thực hiện tiêu hao địch rộng rãi, vừa chiến đấu vừa bảo đảm phục vụ chiến đấu, bảo vệ an toàn cơ quan và kho tàng, vừa tổ chức duy trì sinh hoạt trong căn cứ để đánh địch lâu dài.
Với các cán bộ đầu ngành của các cơ quan Bộ Chỉ huy Miền và Trung ương Cục miền Nam trực tiếp tổ chức, xây dựng lực lượng. Trong các cơ quan Bộ Chỉ huy Miền, mỗi ngành được tổ chức thành một “huyện đội” do đồng chí chủ nhiệm ngành làm “huyện đội trưởng”, tổ chức triển khai vị trí đứng chân và xây dựng trận địa chiến đấu trên một địa bàn huyện với các “xã chiến đấu”, “ấp chiến đấu”, bảo đảm có chiều sâu và chiều rộng phòng ngự liên hoàn. Theo đó, ngành Thông tin của Bộ Chỉ huy Miền đảm nhiệm huyện Tà Đạt; ngành công binh phụ trách huyện Sóc Ky; Trung đoàn Bảo vệ 170 phụ trách huyện Châu Thành... Các huyện đội, cụm đội, xóm và khu vực đội liên kết với nhau tạo thành thế trận rộng khắp, với lực lượng đông đảo đủ các thành phần, tạo sức mạnh tổng hợp. Từ 20 đến 30 người tổ chức thành một “ấp chiến đấu” và có một tiểu đội du kích. Từ hai đến ba “ấp” thành một “xã chiến đấu”. Mỗi xã có ba đội du kích, huyện có đại đội cơ động. Các huyện đội tiến hành đào công sự cá nhân, giao thông hào, chứ không làm hầm to kiên cố. Cứ 5 đến 10m lại đào một hố cá nhân, sau đó làm nắp chống đạn. Các cơ quan, đơn vị phải đào hầm bí mật để dự trữ lương thực, thực phẩm đủ cho ba tháng chiến đấu.
Đồng thời, đồng chí Lê Đức Anh còn chỉ đạo các đơn vị bộ đội chủ lực chủ động tổ chức bố trí phân tán, sử dụng lực lượng chiến đấu quy mô cấp đại đội, phối hợp cùng với bộ đội địa phương và du kích đánh địch. Theo đó, bộ đội chủ lực ở vòng ngoài, khi có thời cơ thì triển khai tập kích quân địch. Lực lượng tại chỗ sẽ bám trụ và đánh địch bằng theo phương thức mới. Trên các khu vực được phân công, các cơ quan, đơn vị tiến hành kiểm tra, bổ sung phương án tác chiến, phương án hiệp đồng, nhận vũ khí, đạn dược và hoàn thành mọi công tác chuẩn bị trong tháng 01/1967. Đây là cách tổ chức, xây dựng lực lượng rất sáng tạo, độc đáo, nhạy bén, phù hợp với địa bàn, có thể huy động được mọi thành phần lực lượng, tạo ra thế trận rộng khắp, liên hoàn và chiều sâu để đối phó với âm mưu và thủ đoạn của địch.
Đúng như dự liệu của Bộ Chỉ huy Miền, từ đầu tháng 02/1967, địch cho máy bay trinh sát quần đảo, máy bay ném bom rải thảm, rải chất độc hóa học chuẩn bị cho chiến dịch lớn. Đến ngày 22/02/1967, địch huy động 45.000 quân, với 600 máy bay chiến đấu, 250 khẩu pháo các loại, 1.200 xe tăng, xe thiết giáp tiến hành cuộc hành quân Gianxơn Xiti tiến công vào khu căn cứ Trung ương Cục miền Nam và Bộ Chỉ huy Miền ở Bắc Tây Ninh, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, tìm diệt bộ đội chủ lực Quân giải phóng. Bộ Chỉ huy Miền chủ trương mọi lực lượng trong cơ quan, đơn vị ở căn cứ bám trụ chiến đấu tại chỗ, phối hợp với một bộ phận chủ lực mở chiến dịch phản công, bẻ gãy gọng kìm “tìm diệt”, hỗ trợ phá vỡ gọng kìm “tìm diệt” của địch.
Việc tổ chức xây dựng lực lượng “xã, huyện chiến đấu” càng minh chứng tính sáng tạo, nhạy bén, rất phù hợp với cách đánh của ta. Lực lượng dân quân cũng rất chủ động đánh dịch, phối hợp, tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực tác chiến ở vòng ngoài, tổ chức những đòn mạnh giáng vào đội hình địch co cụm, gây thiệt hại nặng cho chúng.
Với cách tổ chức sử dụng lực lượng đánh địch tại chỗ, rộng khắp trên toàn địa bàn, địch đi đến đâu cũng bị ta chặn đánh, cả ở phía trước, hai bên sườn và phía sau. Bị đánh liên tục, ở mọi nơi, địch không thể phân biệt được đâu là lực lượng chủ lực, đâu là lực lượng địa phương của đối phương. Chúng buộc phải để một lực lượng tương đối lớn để bảo vệ căn cứ, đường giao thông. Vì thế, số quân Mỹ và quân đội Sài Gòn trực tiếp tiến công bị hạn chế, trong khi tinh thần của chúng mệt mỏi, sa sút vì luôn bị động căng thẳng đối phó. Chớp thời cơ khi địch mệt mỏi, bộ đội địa phương phối hợp với du kích, tự vệ cơ quan chủ động tổ chức tiến công tiêu hao nhiều sinh lực địch.
Thắng lợi đó khẳng định chủ trương, phương châm tác chiến của Quân ủy Trung ương đã được Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền, Bộ Tư lệnh chiến dịch và cá nhân đồng chí Lê Đức Anh quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo trong tổ chức xây dựng lực lượng. Với phương thức bố trí thế trận tác chiến và lực lượng vũ trang ba thứ quân như vậy buộc địch phải luôn ở thế bị động, phải đánh theo nghệ thuật và cách đánh của chúng ta, không thể phát huy cách đánh sở trường và ưu thế binh khí, hỏa lực của chúng.
Tháng 01/1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương họp và ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 (khóa III), dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhận định: “Chúng ta đang đứng trước triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược”[83]. Bộ Chính trị chủ trương: cần phải tập trung toàn bộ sức mạnh của chiến tranh cách mạng miền Nam, đánh địch bằng cả tiến công quân sự và tiến công chính trị. Đây là nhiệm vụ trọng đại và cấp bách, nhằm giáng cho địch một đòn thật mạnh, làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ, tạo sự thay đổi cục diện chiến tranh có lợi cho ta, chuyển cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam sang thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III), chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền tích cực triển khai công tác chuẩn bị, nghiên cứu để tìm ra cách đánh phù hợp. Trong bối cảnh đó, với tài năng, nhạy bén của người chỉ huy, đồng chí Lê Đức Anh đề xuất phương án chỉ đạo mỗi đơn vị biệt động phải hiểu và nắm rõ hai mục tiêu, khi có lệnh thì chọn một mục tiêu để đánh. Như vậy, nếu ta định đánh 6 mục tiêu thì phải trinh sát nắm vững và chuẩn bị đánh 12 mục tiêu. Đặc biệt, yêu cầu tổ chức lực lượng biệt động phải trang bị gọn nhẹ, bí mật, linh hoạt, phân tán trong dân, thường xuyên hoạt động trong lòng địch. Biệt động là lực lượng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ, thường đánh những đòn hiểm, táo bạo, bất ngờ vào cơ quan đầu não và các mục tiêu quan trọng của địch ở các đô thị. Lực lượng vận tải trong nội đô được giao cho phụ nữ đảm nhiệm. Nhiệm vụ đánh phá các sân bay và Tổng nha Cảnh sát được giao cho bộ đội đặc công và chủ lực bộ binh. Các lực lượng tham gia cuộc tổng tiến công phải nhanh chóng đưa một khối lượng lớn vũ khí và phương tiện chiến đấu vào ém sát các mục tiêu dự định tiến công dưới sự canh gác, kiểm soát gắt gao của quân địch, nhất là ở thành phố Sài Gòn, cơ quan đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Dưới sự hướng dẫn, kiểm tra chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh về kỹ thuật ngụy trang cộng với sự mưu trí, sáng tạo của các đơn vị, nhiệm vụ chuyển một khối lượng lớn vũ khí chuẩn bị chiến đấu vào nội thành đã được hoàn thành xuất sắc.
Cùng với việc vận chuyển vũ khí, vật chất vào nội thành, Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền và trực tiếp đồng chí Lê Đức Anh đã tổ chức động viên, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần, lực lượng. Nhân dân vừa thực hiện trinh sát, nắm tình hình địch, che giấu cán bộ vừa trực tiếp dẫn đường tham gia chiến đấu, tiếp tế cho bộ đội, nuôi dưỡng thương binh và đưa về căn cứ. Vì thế, Bộ Chỉ huy Miền đã xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc, giữ được bí mật cho đến giờ nổ súng tiến công địch.
Đêm giao thừa Tết Mậu Thân năm 1968, quân và dân ta trên toàn miền Nam đồng loạt nổ súng tiến công vào các vị trí quân địch tại 4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn, trong đó có 4 bộ tư lệnh quân đoàn - sư đoàn, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần của chúng. Các trung tâm đầu não quân sự, chính trị của địch ở Sài Gòn và các địa phương, cả tòa đại sứ Mỹ bỗng chốc trở thành mục tiêu tiến công của Quân giải phóng. Quân và dân ta đã giáng đòn bất ngờ và đánh trúng vào “hệ thần kinh trung ương” của địch, đánh vào “huyết mạch”, vào “tim óc” và “yết hầu” của chúng. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy này, đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy bộ đội trên hướng Tây Sài Gòn, từ Long An đánh vào Tổng nha Cảnh sát và Cảnh sát đô thành. Các đơn vị ở cánh này đã đánh thẳng vào các mục tiêu đề ra, sau đó bí mật rút quân ra. Tuy nhiên sau đó, quân địch phản kích quyết liệt, đơn vị phải nhờ nhân dân, cơ sở cách mạng bí mật cứu chữa và nuôi dưỡng thương binh đến khi nào lành mới trở về đơn vị.
Với tinh thần dũng cảm vô song, lối đánh táo bạo, thông minh và sự hy sinh to lớn, lực lượng biệt động đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, đánh gục ý chí chiến tranh của đế quốc Mỹ. Đó là kết quả của quá trình chuẩn bị, xây dựng thế trận, xây dựng lực lượng, xây dựng cơ sở chính trị ở các đô thị theo phương châm của Đảng, trong đó có công lao đóng góp của đồng chí Lê Đức Anh.
Năm tháng qua đi, nhưng những đóng góp và bài học kinh nghiệm quý về công tác chỉ đạo tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang trên chiến trường B2 của Đại tướng Lê Đức Anh vẫn còn được nhắc nhở và có giá trị trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân hiện nay. Điều đó càng có ý nghĩa hơn đối với toàn quân ta đang quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Kết luận số 16-KL/TW ngày 17/7/2017 của Bộ Chính trị về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2021 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/8/2017 của Bộ Chính trị về lực lượng và bảo đảm vũ khí trang bị cho Quân đội đến năm 2025 và những năm tiếp theo. Tiếp tục cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X, XI; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có một số quân binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại theo hướng “Tinh, gọn, mạnh”; có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu, cơ động ngày càng cao; trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu ngày càng hoàn thiện, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trung tướng NGÔ MINH TIẾN
Đại tướng Lê Đức Anh là người chiến sĩ cách mạng kiên cường, một vị tướng tài ba, người đã được tôi luyện, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế, giải phóng nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng. Đại tướng Lê Đức Anh là người có công lao rất lớn với quân đội cũng như đất nước Việt Nam. Đối với Cục Tác chiến, trên cương vị là Cục phó Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu (từ năm 1955 đến năm 1957), Đại tướng đã ghi dấu ấn sâu sắc và có nhiều đóng góp to lớn trong những ngày đầu kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nổi bật ở một số công việc chính sau:
Một là, chỉ đạo, tổ chức xây dựng các kế hoạch tác chiến phòng thủ.
Từ tháng 7/1954, đất nước chuyển sang nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, thi hành Hiệp định Giơnevơ, đấu tranh thống nhất đất nước. Ngày 15/7/1954, tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “bất cứ tư tưởng và hành động nào cho là đình chiến rồi thì mọi việc đều tốt đẹp, bỏ rơi việc chuẩn bị chiến đấu, để cho tinh thần chiến đấu uể oải, lơ là việc xây dựng lực lượng võ trang, đều là sai lầm nguy hiểm”.
Vì vậy, ngay sau ngày miền Bắc được giải phóng, Cục Tác chiến đã sơ bộ nghiên cứu kế hoạch phòng thủ, chủ yếu là bảo vệ miền Bắc với một số nội dung trước mắt: bố trí đài quan sát, tổ chức các đơn vị cảnh vệ; bố trí lực lượng phòng thủ biên giới, giới tuyến, ven biển; nghiên cứu và xây dựng bước đầu hệ thống công trình phòng thủ; nghiên cứu hệ thống sở chỉ huy phòng không và quy hoạch xây dựng sở chỉ huy quốc gia trong thời chiến.
Tháng 6/1955, Đại tá Lê Đức Anh nhận quyết định về làm Cục phó Cục Tác chiến (thời gian này Cục Tác chiến có 3 đồng chí Cục phó). Sau đó, đồng chí được Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng giao nhiệm vụ: nghiên cứu kế hoạch xây dựng công trình phòng thủ bờ biển từ Quảng Ninh đến Quảng Bình. Trên cương vị mới, mặc dù trong thời gian rất ngắn, đồng chí đã tích cực nghiên cứu sơ bộ kế hoạch phòng thủ bờ biển, đi khảo sát thực địa từ Quảng Ninh vào Quảng Bình; dựa trên kế hoạch tác chiến cơ bản, phác thảo ý định xây dựng các công trình phòng thủ và các công trình nhân cốt tại các vị trí, khu vực trọng điểm của phòng thủ. Tuy nhiên, kinh nghiệm về vấn đề này của đội ngũ cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược của quân đội ta lúc đó còn hạn chế. Trước tình hình trên, Cục Tác chiến đề nghị Bộ Tổng Tham mưu cử một đoàn cán bộ sang nghiên cứu ở Trung Quốc và đề nghị bạn giúp một số nội dung về cách thức, triển khai, xây dựng công trình quốc phòng. Được trên nhất trí, Bộ Tổng Tham mưu giao Đại tá Lê Đức Anh, Cục phó Cục Tác chiến phụ trách đoàn, cùng với một số cán bộ của Cục Tác chiến, Cục Công binh sang Trung Quốc nghiên cứu những vấn đề chiến thuật, cách đánh đường hầm, nghiên cứu công tác kế hoạch xây dựng công trình quốc phòng quốc gia, về thiết kế, kỹ thuật các loại công trình...
Đoàn chủ yếu làm việc tại Bắc Kinh, được một số cán bộ Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc giới thiệu những vấn đề cơ bản về lý thuyết với các nội dung: xem xét xác định công trình, xác định những vấn đề về chiến thuật, vị trí đường hầm và cửa hầm, cách làm các kế hoạch, tổ chức thi công... Sau đó, đoàn đi Thượng Hải tìm hiểu về tình hình triển khai làm công trình của một quân khu, tham quan một số công trình tại thực địa đã xây dựng và đang xây dựng, một số sở chỉ huy quân khu, công trình xây dựng phòng thủ biển. Khi về nước, đoàn họp nghiên cứu cách vận dụng vào địa hình Việt Nam và thống nhất báo cáo Bộ Tổng Tham mưu; sau đó tổ chức phổ biến kinh nghiệm và hướng dẫn các quân khu xây dựng các công trình chiến đấu sau khi các bản thiết kế được Bộ Quốc phòng -
Bộ Tổng Tư lệnh phê duyệt. Đồng chí Lê Đức Anh được Thủ trưởng Cục Tác chiến phân công thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc xây dựng các công trình phòng thủ để bảo đảm sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc; trước hết xây dựng ở tuyến một và bờ biển, tập trung hướng chiến lược, giới tuyến và xây dựng công trình phòng thủ trọng điểm để bảo vệ miền Bắc.
Trước tình hình kẻ địch trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ, ở miền Nam, Ngô Đình Diệm điên cuồng thực hiện chính sách chống cộng, hò hét “Bắc tiến! Lấp sông Bến Hải”, liên tục vi phạm khu phi quân sự, tung biệt kích - gián điệp ra miền Bắc thăm dò, cướp bóc, gây không khí căng thẳng ở giới tuyến, chuẩn bị không khí chiến tranh và khiêu khích, ngày 01/11/1955, Cục Tác chiến báo cáo Bộ Tổng Tham mưu, trình Tổng Quân ủy về giải quyết vấn đề khu giới tuyến; trong đó xác định cần tăng cường thêm lực lượng, thống nhất chỉ huy, thi hành nghiêm quy chế khu phi quân sự. Đồng thời, Cục Tác chiến chỉ đạo, đôn đốc việc xây dựng công trình phòng thủ ở các quân khu, xây dựng công trình ở căn cứ chiến lược, công trình cho các đồng chí lãnh đạo Bộ Chính trị, Chính phủ với khối lượng công việc ngày càng nhiều.
Với sự nỗ lực cố gắng vượt bậc của lãnh đạo, chỉ huy và đội ngũ cán bộ Cục Tác chiến, đến cuối năm 1955 công tác phòng thủ tác chiến miền Bắc được hình thành: Về biên phòng, giao Liên khu 4 đảm nhiệm thay cho Sư đoàn 335, đề xuất chuyển Bộ đội bảo vệ và Biên phòng thành Công an vũ trang do
Bộ Công an quản lý; ở Khu phi quân sự, giao cho Trung đoàn 270, Liên khu 4 (Trung đoàn 270, Sư đoàn 341, Quân khu 4) phối hợp với các lực lượng tổ chức tuần tra canh gác, kiểm soát chặt chẽ đường giới tuyến hằng giờ, hằng ngày, sẵn sàng chiến đấu cao. Về phòng thủ bờ biển, hoàn thành bố trí pháo bờ biển, xác định vị trí, mẫu thiết kế, xây dựng các đài quan sát; về phòng không, tổ chức hệ thống sở chỉ huy, các đài quan sát máy bay, hệ thống thông tin báo động ở các khu, các tỉnh, bố trí trận địa phòng không ở Hà Nội, Hải Phòng và hệ thống thông tin chỉ huy. Về phòng thủ Hà Nội, thực hiện kế hoạch phòng, chống các hoạt động vũ trang phá rối trật tự trị an, bảo vệ các tuyến giao thông đường sắt trọng điểm từ Hà Nội tới mục Nam Quan (Lạng Sơn), Hải Phòng, Nam Định... Ngày 28/01/1956, Cục Tác chiến báo cáo dự thảo kế hoạch tác chiến lên Bộ Tổng Tham mưu. Từ đó, xác định nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam là chiến đấu đến cùng tiêu diệt quân địch xâm lược, bảo vệ miền Bắc, giải phóng toàn quốc. Kế hoạch còn đề cập việc tổ chức hoạt động ở địch hậu miền Nam, Lào, Campuchia khi địch tiến công miền Bắc. Về bảo đảm chiến dịch và chiến lược, đề ra 6 mặt công tác bảo đảm là: bảo đảm công trình quốc phòng, quân sự; bảo đảm thông tin liên lạc; bảo đảm phòng không, chống quân địch tập kích đường không, đánh địch đổ bộ đường không, nhảy dù; bảo đảm đường giao thông, cơ động, vận chuyển; bảo đảm an ninh, an toàn sân bay, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vùng trời; tổ chức phòng thủ bờ biển, bảo vệ vùng biển...
Sau hai năm địch phá hoại Hiệp định Giơnevơ, ráo riết thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, tiến hành các hoạt động phá hoại miền Bắc; trước tình hình mới, quân đội được điều chỉnh, tổ chức xây dựng mới với một số trang bị mới. Kế hoạch tác chiến phòng thủ theo đó có những yếu tố và yêu cầu mới. Lần đầu tiên, Cục Tác chiến xây dựng được một kế hoạch tác chiến cơ bản tương đối toàn diện, tỉ mỉ, cụ thể đáp ứng yêu cầu phòng thủ đất nước. Dưới sự chỉ đạo sát sao của các thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng với các thủ trưởng, cán bộ của Cục Tác chiến đóng góp nhiều tâm sức, trí tuệ, trải qua gần 2 năm nghiên cứu quán triệt đường lối, quan điểm quân sự của Đảng, tìm hiểu đánh giá tương quan so sánh lực lượng địch - ta, xem xét toàn diện các vấn đề về khả năng của đất nước, của quân đội, hướng phát triển của tình hình, tham khảo ý kiến - kinh nghiệm các nước bạn rồi trực tiếp đi nghiên cứu thực địa, điều tra binh yếu địa chí - dân số để làm kế hoạch chiến lược, từ sơ thảo thành kế hoạch cơ bản. Có thể nói, đây là bước phát triển mới về khoa học dự báo, về tư duy chiến lược theo phương châm: vừa làm vừa học, học bạn bè quốc tế kết hợp với kinh nghiệm truyền thống giữ nước của cha ông ta để chắt lọc những tinh túy trí tuệ nhằm triển khai phòng thủ đất nước.
Hai là, tham mưu chỉ đạo, tổ chức các đơn vị quân đội tham gia sản xuất khôi phục kinh tế, chống thiên tai, ổn định đời sống nhân dân.
Tháng 8/1955, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) xác định: “Bất kể trong tình thế nào, miền Bắc cũng phải được củng cố”, phải đưa miền Bắc dần dần từng bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, trước mắt Chính phủ chủ trương nhanh chóng hoàn thành cải cách ruộng đất, thực hiện kế hoạch khôi phục kinh tế trong 3 năm (1955 - 1957), tập trung vào việc phục hồi và phát triển nông nghiệp, nghề đánh cá, phục hồi giao thông, bưu điện, ổn định đời sống nhân dân.
Để thực hiện chủ trương trên, Cục phó, Đại tá Lê Đức Anh, cùng với Thủ trưởng Cục Tác chiến đã tích cực, chủ động, hiệp đồng với các cơ quan có liên quan của Bộ Tổng Tham mưu và các tổng cục tính toán phân phối lực lượng, chỉ đạo các đơn vị quân đội cùng nhân dân tháo gỡ bom mìn, dây kẽm gai, khôi phục ruộng đất hoang hóa và đất đai ở những vành đai trắng (64.000 ha) để dân cày cấy. Tại các khu vực đóng quân, bộ đội giúp dân hơn 20 vạn ngày công, đào 50 vạn mét khối đất, đạt năng suất cao trên công trường xây dựng thủy nông Bắc Hưng Hải... Đặc biệt, đầu năm 1955, miền Bắc bị hạn hán nghiêm trọng, lực lượng vũ trang đã góp 6 triệu ngày công, đào vét hàng trăm kilômét mương máng, hàng nghìn giếng nước cứu lúa. Mùa hè năm 1955, miền Bắc bị bão lụt lớn, nước lũ tràn ngập các cánh đồng lúa các huyện Đông Anh, Gia Lâm, một số huyện của Bắc Ninh và một phần các huyện của tỉnh Vĩnh Phúc (đặc biệt là huyện Vĩnh Tường). Trước tình hình đó, Trung ương và Chính phủ đã giao Bộ Quốc phòng, lấy Bộ Tổng Tham mưu làm chủ trì (Cục Tác chiến là cơ quan trung tâm); cơ quan phối hợp, hiệp đồng là 3 tổng cục, kết hợp với cán bộ của Bộ Thủy lợi, thành lập công trường “hàn khẩu” đê Mai Lâm để nhanh chóng hạn chế thiệt hại do bão lụt gây ra; kịp thời khôi phục sản xuất ở các địa phương, phục hồi hệ thống giao thông trong nước và quốc tế (sân bay Gia Lâm).
Đây là một nhiệm vụ mới mà trước đây (trong chiến tranh chống thực dân Pháp) Cục Tác chiến chưa từng làm. Theo yêu cầu của Ban phòng, chống bão lụt Trung ương, để làm tròn nhiệm vụ là đội quân chiến đấu và đội quân công tác, Cục Tác chiến đã thường xuyên phối kết hợp chặt chẽ với các cơ quan của Bộ Thủy lợi, nắm chắc tình hình các đê, kè, cống, mực nước ở các triền sông từ miền Bắc đến Quảng Bình. Tham mưu đề xuất với Chính phủ thành lập Ban chỉ huy phòng, chống bão lụt chỉ huy chung ở các tỉnh, chỉ huy cao nhất của các đơn vị quân đội trên địa bàn tham gia vào ban chỉ huy chung để thống nhất kế hoạch và phối hợp việc phòng, chống bão lụt tại địa phương. Cục Tác chiến đã dự thảo mệnh lệnh điều động các Đại đoàn 308, 312, 316, 351 (Đại đoàn Công - Pháo) làm lực lượng chủ công trên công trường “hàn khẩu”. Cán bộ, chiến sĩ đã không quản trời nắng nóng như thiêu đốt, có lúc lại mưa rào như trút nước suốt ngày đêm dầm mình dưới nước, nắm chắc tay nhau làm “đê người” chặn nước lũ để đồng đội đóng cọc, làm kè, đổ đá đất, hàn đoạn đê vỡ. Lãnh đạo, Thủ trưởng Cục Tác chiến thay nhau đi kiểm tra những đoạn đê xung yếu, tại phòng Trực ban Sở chỉ huy thường xuyên có sơ đồ ghi tình hình mực nước ở các sông lớn, những dự báo về bão lụt. Trong giao ban hằng ngày, trực ban tác chiến đều phải nắm được diễn biến thời tiết, diễn biến bão lụt trong vùng, kịp thời thông báo mọi tình hình và các biện pháp phòng, chống với từng khu vực và báo cáo với Ban Phòng, chống bão lụt Trung ương.
Ngày 25/9/1955, một cơn bão lớn đổ bộ vào đất liền Hải Phòng, nước biển dâng cao trên khắp các xã ven đê các huyện An Hải, Thủy Nguyên, Kiến Thụy (Kiến An) gây tổn thất nặng nề về người và tài sản. Theo chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu, Cục Tác chiến đã cùng Liên khu Tả Ngạn xử trí các tình huống. Từ kinh nghiệm cứu đê ở Mai Lâm, Cục Tác chiến đã kịp thời huy động những đơn vị quân đội gần nhất cấp tốc hành quân đến hiện trường cứu hộ đê, cứu dân, cứu tài sản. Bộ đội ta đã cứu được 1.193 người, hàng nghìn trâu, bò, lợn và nhiều tài sản khác. Sau khi bão tan, bộ đội ở lại giúp dân dựng được 271 ngôi nhà tạm, sắp xếp lại chỗ ở cho 5.913 gia đình nhà bị đổ, tốc mái. Hàng trăm tấm gương sáng của cán bộ, chiến sĩ với phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” đã hết mình vì nhân dân, liên tục vật lộn với sóng gió, cứu người dân.
Để đưa công tác phòng, chống thiên tai vào nền nếp, Cục Tác chiến đã đề xuất với Bộ Tổng Tham mưu, Ban Phòng, chống bão lụt Trung ương, tổ chức các hội nghị theo định kỳ, thời gian hằng tháng, 3 tháng, 6 tháng, cuối năm. Căn cứ khu vực đóng quân của các đơn vị, ngoài kế hoạch huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, các đơn vị được giao thêm nhiệm vụ tham gia phòng, chống bão lụt trên địa bàn. Từng đơn vị đều phải có kế hoạch phòng, chống bão lụt, được kiểm tra đôn đốc và thực hành diễn tập.
Thời gian từ năm 1955 đến năm 1957, Cục Tác chiến bước sang giai đoạn mới với nhiều nhiệm vụ, khó khăn cả về lý luận cũng như chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Với tầm nhìn chiến lược, trưởng thành từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, với tác phong sâu sát, bám sát thực tiễn, Cục phó Lê Đức Anh đã đóng góp công sức to lớn cùng với tập thể Đảng ủy, Thủ trưởng Cục Tác chiến bắt tay vào phục vụ Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Quốc phòng - Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo các đơn vị quản lý vùng giải phóng ở miền Nam, truy quét, tiễu phỉ bảo vệ biên giới, tổ chức đón tiếp cán bộ và đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc, đề xuất tổ chức các lực lượng, các đơn vị quân đội tham gia sản xuất, chống thiên tai, triển khai các kế hoạch tác chiến chiến lược, xây dựng công trình phòng thủ bảo vệ miền Bắc, góp phần quan trọng trong chỉ đạo huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tích cực chi viện tích cực cho miền Nam đấu tranh chống Mỹ - Diệm.
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Lê Đức Anh (01/12/1920 - 01/12/2020) cán bộ, nhân viên, chiến sĩ Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu vinh dự, tự hào đã từng được sự lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của đồng chí ngay từ những ngày đầu gian khó nhất của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đồng chí là người lãnh đạo giản dị, nghĩa tình, sâu sắc, suốt đời vì dân, vì nước, vì sự nghiệp cách mạng; là tấm gương tiêu biểu về tinh thần trách nhiệm, tác phong công tác trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhất là trước những nhiệm vụ mới, nhiệm vụ đặc biệt. Đồng chí đã thực hiện đúng lời Bác Hồ dạy: Cán bộ tác chiến phải 4 năng: năng nghe, năng hỏi, năng nghĩ, năng làm.
Học tập phương pháp, tác phong công tác của đồng chí Lê Đức Anh, cán bộ, đảng viên Cục Tác chiến luôn tâm niệm: trong quá trình nghiên cứu, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cần vận dụng kinh nghiệm, thấu suốt đường lối cách mạng, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng, quán triệt tốt chủ trương của trên vào thực tiễn công tác; luôn nắm địch, bám đơn vị, bám sát thực tiễn, phát hiện và giải quyết sáng tạo những vấn đề mới nảy sinh góp phần củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thiếu tướng NGUYỄN ĐỨC CĂN
Trên cương vị Cục trưởng Cục Quân lực Bộ Tổng Tham mưu giai đoạn 1959 - 1964, đồng chí Lê Đức Anh có vai trò trong tham mưu, chỉ đạo tổ chức xây dựng lực lượng và xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại trên miền Bắc; tổ chức lực lượng chi viện chiến trường miền Nam; tham mưu giúp nước bạn Lào xây dựng lực lượng vũ trang đáp ứng yêu cầu cách mạng.
Tháng 5/1957, đồng chí Lê Đức Anh được bổ nhiệm giữ chức Cục phó Cục Quân lực, đồng chí Trần Sâm làm Cục trưởng. Ngày 20/12/1958, đồng chí Lê Đức Anh được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định phong quân hàm cấp Đại tá; đầu năm 1959, đồng chí Trần Sâm, Cục trưởng được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ phụ trách Cục, đến ngày 28/8/1961, đồng chí được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm giữ chức Cục trưởng Cục Quân lực.
Đầu năm 1957, cách mạng Việt Nam đã có những chuyển biến quan trọng trên cả hai miền Nam - Bắc. Ở miền Bắc, chúng ta đã hoàn thành cơ bản kế hoạch khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Tình hình xã hội và đời sống nhân dân dần ổn định. Sự nghiệp quốc phòng, an ninh được củng cố. Quân và dân miền Bắc đang tích cực triển khai Kế hoạch ba năm (1958 - 1960) cải tạo kinh tế, phát triển văn hóa. Trước yêu cầu tăng cường sức mạnh chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc và chi viện chiến trường miền Nam, đòi hỏi quân đội ta phải được tiếp tục xây dựng theo hướng chính quy, hiện đại.
Thời điểm này, Cục Quân lực tập trung nghiên cứu, sắp xếp những đơn vị chuyển từ nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu sang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế; đồng thời phải nghiên cứu xây dựng biên chế quân đội theo hướng “gọn, chính quy, hiện đại”, trước hết và chủ yếu là các cơ quan, đơn vị nhà trường ở miền Bắc. Trong hồi ký, Đại tướng Lê Đức Anh viết: “Quan điểm của anh Sâm là biên chế gọn, làm được việc. Anh tính biểu biên chế cho từng quân khu, từng nhà trường rất “chặt”, tính toán đến từng người một, lên biểu biên chế, đồng thời xác định rõ chức trách, nhiệm vụ. Có nơi, có những vấn đề phức tạp (chẳng hạn như Trường Cán bộ trung cao) phải tổ chức hội thảo, từ đó điều chỉnh lại biểu biên chế cho phù hợp. Qua những việc làm cụ thể về biểu biên chế này, tôi hiểu rõ được một điều là khi xây dựng một tổ chức thì không thể áng chừng, mà phải từ chức trách, nhiệm vụ, từ đó xác định chức danh rồi mới bố trí từng người cụ thể vào các vị trí thích hợp để mọi cá nhân, mọi tổ chức đều phát huy được hết phẩm chất và năng lực của mình cho sự nghiệp chung. Đây là một công việc mang tính khoa học”.
Trong 3 năm (1958 - 1960), đồng chí Lê Đức Anh đã tham mưu cho Bộ Tổng Tham mưu trình Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng giảm quân số từ 23 vạn 7 nghìn người, xuống còn 17 vạn 2 nghìn người (đã giảm được 6 vạn 5 nghìn người). Quá trình giảm quân số đồng thời củng cố, kiện toàn khung của từng cấp và xây dựng kế hoạch khôi phục mở rộng khi cần; tổ chức thực hiện huấn luyện, diễn tập theo chương trình kế hoạch, để khi có lệnh nhanh chóng bổ sung quân số, trang bị kỹ thuật và phát triển thành những đơn vị hoàn chỉnh theo biên chế sẵn sàng chiến đấu được ngay. Giữ nguyên một số trung đoàn bộ binh, sư đoàn bộ binh, các quân chủng, binh chủng để tiến hành nghiên cứu cải tiến tổ chức biên chế, diễn tập thực binh theo hướng hiệp đồng binh chủng. Đồng thời, triển khai việc xây dựng hệ thống nhà trường theo hướng chính quy. Vận dụng nhiều biện pháp trong công tác tuyển quân, thay quân, nâng cao chất lượng, đào tạo chuyên môn, kỹ thuật, công tác tiếp nhận và phân phối, quản lý trang bị kỹ thuật trong nước và của nước ngoài viện trợ; triển khai tổ chức xây dựng hệ thống kho, xưởng sản xuất, sửa chữa, bảo quản, cất giữ các loại quân nhu, quân giới, quân y, xăng, dầu ở từng cấp trong toàn quân.
Kết quả trên đã góp phần làm cho cơ cấu tổ chức của quân đội ở miền Bắc đến đầu năm 1960 bước đầu được chấn chỉnh, kiện toàn và phát triển tương đối đồng bộ theo hướng chính quy và được bổ sung một số trang bị, kỹ thuật tương đối hiện đại.
Cụ thể hóa nhiệm vụ quân sự mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đề ra, ngày 25/02/1961, Bộ Chính trị phê chuẩn Kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai (1961 - 1965), trong đó nhấn mạnh: Chính quy hóa và hiện đại hóa, bảo đảm cho quân đội có đầy đủ và có tỷ lệ tương xứng với các thành phần binh chủng, quân chủng, có sức chiến đấu cao; tích cực chi viện cho chiến trường miền Nam.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu, một ban nghiên cứu, xây dựng kế hoạch tổ chức quân đội gồm những cán bộ, chuyên viên có trình độ, kinh nghiệm về công tác tổ chức biên chế, công tác quân số, công tác trang bị nhanh chóng được thành lập. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Cục trưởng Lê Đức Anh, Cục Quân lực đã nhanh chóng giúp Bộ Tổng Tham mưu hoàn chỉnh Kế hoạch tổ chức trang bị và xây dựng cơ sở vật chất cho quân đội (1961 - 1965) và được Quân ủy Trung ương thông qua.
Kế hoạch giảm mạnh quân số trong điều kiện thời bình, tổ chức các đơn vị bộ đội thường trực gọn, mạnh; biên chế các đơn vị bộ binh có hỏa lực và sức đột kích mạnh, có khả năng cơ động cao; tăng cường tổ chức pháo binh các cấp, phát triển bộ đội xe tăng, công binh, phòng không quốc gia, hải quân, đáp ứng theo yêu cầu nhiệm vụ; cải tiến và bổ sung đủ trang bị cho các đơn vị được tổ chức trong kế hoạch 5 năm theo biên chế thời chiến; đồng thời điều chỉnh và tận dụng các loại vũ khí cũ thích hợp với chiến trường miền Nam, chiến trường Lào; tăng cường cho dân quân, nhất là các vùng biên giới và các khu vực trọng điểm.
Để thực hiện được kế hoạch, một trong những vấn đề quan trọng đặt ra đối với Cục Quân lực và Cục trưởng Lê Đức Anh là nghiên cứu đi tới thống nhất về nhiệm vụ, chức trách và tổ chức biên chế của các đơn vị. Cục Quân lực đã phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu xây dựng đề án tổ chức biên chế trang bị của sư đoàn, lữ đoàn bộ binh mẫu với yêu cầu tăng cường hỏa lực, sức đột kích mạnh, cơ động nhanh, bảo đảm chỉ huy, bảo đảm vật chất và nguyên tắc Đảng lãnh đạo. Đầu tháng 4/1961, đề án được Cục Quân lực hoàn chỉnh. Theo đó, biên chế của sư đoàn bộ binh gồm: các trung đoàn bộ binh, trung đoàn pháo binh, pháo cao xạ; các tiểu đoàn công binh, thông tin, vận tải, quân y; các đại đội phòng hóa, trinh sát, chỉ huy pháo, cần vụ... Quân số biên chế 10.833 cán bộ, chiến sĩ. Lữ đoàn bộ binh có 5 tiểu đoàn bộ binh, 4 tiểu đoàn pháo binh, pháo cao xạ, công binh, các đại đội ĐKZ, thông tin, vận tải, quân y, trinh sát, phòng hóa..., quân số gồm 5.177 người.
Ngày 19/4, Quân ủy Trung ương họp thông qua biểu biên chế sư đoàn, lữ đoàn bộ binh mẫu và bổ sung một số điểm cho phù hợp với điều kiện của đất nước lúc đó. Tổ chức biên chế từng loại đơn vị được thông qua theo quy trình: nghiên cứu phác thảo ban đầu, thảo luận trong cơ quan, diễn tập bằng thực binh trên các loại địa hình khác nhau (rừng núi, trung du, đồng bằng, bờ biển, đồng chiêm trũng, lầy lội) để rút kinh nghiệm xây dựng tổ chức biên chế.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, sâu sát của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng cùng với nỗ lực của các ngành, các cấp, trong đó có đóng góp quan trọng của Cục trưởng Cục Quân lực Lê Đức Anh, đến giữa năm 1963, việc xây dựng quân đội thường trực ở miền Bắc đã căn bản hoàn thành về tổ chức biên chế. Tổng quân số giữ ở mức 173.000 người. Với một lực lượng dự bị hùng hậu, Bộ Tổng Tham mưu dự kiến nếu chiến tranh mở rộng, quân thường trực có thể tăng thêm 350.000 đến 400.000 trong hai năm 1964 - 1965.
Với bộ binh, tổ chức thành 6 sư đoàn, 6 lữ đoàn, 3 trung đoàn độc lập trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh và các trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực trực thuộc các quân khu; các đại đội, tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh, huyện. Sư đoàn bộ binh gồm nhiều thành phần binh chủng, được trang bị tương đối hiện đại, có khả năng cơ động chiến đấu trên các loại địa hình. Lực lượng binh chủng: pháo binh, công binh, xe tăng - thiết giáp và thông tin được tổ chức thành các trung đoàn, lữ đoàn trực thuộc binh chủng; các tiểu đoàn và đại đội trực thuộc quân khu, sư đoàn bộ binh. Bộ đội đặc công được tổ chức thành các tiểu đoàn đặc công cơ động, đặc công chuyên trách cho các chiến trường. Lực lượng trinh sát được tổ chức thành tiểu đoàn trực thuộc Bộ và các đại đội thuộc các quân khu. Bộ đội hoá học tổ chức thành 2 tiểu đoàn phòng hoá thuộc Bộ Tổng Tư lệnh; 1 tiểu đoàn thuộc Quân khu 4; các quân khu Tả Ngạn, Hữu Ngạn, Tây Bắc mỗi quân khu có 1 đại đội phòng hoá. Bộ đội vận tải tổ chức thành 3 trung đoàn trực thuộc Tổng cục Hậu cần và các đại đội vận tải trực thuộc các quân khu, quân chủng, binh chủng, sư đoàn bộ binh.
Đến cuối năm 1963, về cơ bản bộ đội lục quân của quân đội ta đã được xây dựng gồm các binh chủng hợp thành. Trình độ tác chiến, trang bị và khả năng cơ động của các sư đoàn, lữ đoàn bộ binh, các đơn vị binh chủng được nâng lên một bước. So với tổng số quân, bộ binh chiếm 49%, pháo binh 10%, công binh 8,5% là tỷ lệ tương đối phù hợp với nhiệm vụ tác chiến và khả năng trang bị của quân đội ta lúc đó.
Bộ đội phòng không - không quân tiếp tục phát triển lực lượng, cải tiến trang bị, từng bước xây dựng thành một quân chủng hiện đại; tổ chức thành 4 trung đoàn: Trung đoàn không quân vận tải, trung đoàn không quân tiêm kích, trung đoàn huấn luyện và 1 trung đoàn tên lửa phòng không. Binh chủng Ra đa có 3 trung đoàn ra đa và 1 tiểu đoàn chỉ huy.
Hải quân nhân dân Việt Nam tổ chức thành các tiểu đoàn tàu: tàu phóng ngư lôi, tàu tuần tiễu, tàu săn ngầm; các đại đội pháo đất đối hải, pháo cao xạ; các trạm ra đa và 01 tiểu đoàn thông tin.
Về hiện đại hoá vũ khí trang bị, lúc này mặc dù nền công nghiệp quốc phòng của ta mới chỉ sản xuất được một số mìn, lựu đạn, đạn con, chỉ đáp ứng được một phần nhỏ yêu cầu huấn luyện, chiến đấu của quân đội, tuy nhiên, nhờ chủ động trong nghiên cứu xây dựng kế hoạch trang bị vật chất cho quân đội, tranh thủ tối đa viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc, Cục Quân lực đã tham mưu góp phần cải tiến vũ khí trang bị của toàn quân; đi cùng trang bị kỹ thuật, đội ngũ cán bộ kỹ thuật trung, cao cấp đã tăng lên hàng nghìn người.
Cùng với xây dựng lực lượng bộ đội thường trực, lực lượng hậu bị, Cục Quân lực đã tham mưu giúp Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo xây dựng bước đầu hệ thống các cơ sở sửa chữa vũ khí trang bị (tiểu tu và trung tu); xây dựng hệ thống kho tàng, cơ sở hậu phương với hệ thống kho gần 450.000m3, có dung lượng chiếm khoảng 165.000 tấn vũ khí, trang bị vật tư các loại. Về quân y đã xây dựng tương đối hoàn chỉnh hệ thống bệnh viện, trạm sửa chữa, điều trị... đủ bảo đảm phục vụ quân đội trong thời bình và làm nòng cốt động viên các cơ sở dân y phục vụ nhiệm vụ quốc phòng trong thời chiến.
Như vậy, trong thời gian thực hiện kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Lê Đức Anh, Cục Quân lực đã làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc tham mưu giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng xây dựng được cơ cấu biên chế tổ chức của quân đội tiến lên chính quy, hiện đại, gồm ba quân chủng: Lục quân, Phòng không - Không quân và Hải quân. Lực lượng chủ lực cơ động trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh và bộ đội chủ lực các quân khu được tăng cường. Tổ chức biên chế của toàn quân và của từng đơn vị vừa đảm bảo nhiệm vụ xây dựng, sẵn sàng chiến đấu trước mắt, vừa có khả năng nhanh chóng mở rộng lực lượng theo các bước phát triển của chiến tranh.
Bước sang năm 1964, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở miền Nam đứng trước nguy cơ phá sản hoàn toàn. Để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ một mặt tăng cường hoạt động quân sự ở miền Nam, mặt khác chuẩn bị dùng sức mạnh quân sự chống hậu phương miền Bắc. Trọng tâm là tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Tình hình trên đặt ra cho Bộ Tổng Tham mưu, trong đó có Cục Quân lực phải khẩn trương hoàn thành kế hoạch chiến lược phòng thủ miền Bắc, đồng thời tích cực chỉ đạo các quân khu, quân chủng, binh chủng triển khai kế hoạch phòng thủ bảo vệ miền Bắc trong phạm vi nhiệm vụ của từng đơn vị.
Ngày 24/02/1964, Cục Quân lực hoàn chỉnh và trình Thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu Kế hoạch quy định về tổ chức lực lượng thời kỳ đầu chiến tranh. Theo đó, nếu chiến tranh lớn xảy ra, dựa vào lực lượng đã được chuẩn bị, ta có thể phát triển lực lượng lên từ hai đến ba lần trong một thời gian nhất định.
Cục Quân lực dự tính phải tổ chức bộ đội thường trực trong cả nước khoảng 70 vạn quân (miền Bắc: 50 vạn quân, miền Nam: 20 vạn quân). Ở miền Bắc, trong vòng 3 tháng, về cơ bản phải hoàn thành triển khai toàn bộ lực lượng. Đặc biệt, phải chuẩn bị tốt, để chậm nhất là 15 ngày có thể triển khai được một lực lượng từ 32 đến 35 vạn quân, đối phó có hiệu quả với những đợt tiến công đầu tiên của địch.
Trước diễn biến mới của tình hình, tháng 3/1964, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh quyết định chuyển một bộ phận lực lượng vũ trang trên miền Bắc từ trạng thái thời bình sang thời chiến. Tiếp đó, ngày 27/3/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị Chính trị đặc biệt để thống nhất quyết tâm toàn Đảng, toàn quân, toàn dân quyết đánh Mỹ và thắng Mỹ nếu chúng xâm phạm miền Bắc.
Sau Hội nghị Chính trị đặc biệt - “Hội nghị Diên Hồng” của thời đại Hồ Chí Minh, mọi hoạt động của miền Bắc - đặc biệt là công tác quân sự chuyển mạnh từ thời bình sang thời chiến. Ngày 22/4, Quân ủy Trung ương thông qua bản điều chỉnh kế hoạch quân sự; trong bước điều chỉnh này, đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo Cục Quân lực chú trọng đề xuất tập trung tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang đủ sức bảo vệ miền Bắc, chi viện đắc lực cho miền Nam và Lào. Kế hoạch điều chỉnh xác định trong hai năm (1964 - 1965) sẽ xây dựng thêm 7 sư đoàn, 5 lữ đoàn, 3 trung đoàn và 6 tiểu đoàn bộ binh; 2 lữ đoàn, 5 trung đoàn pháo mặt đất; 7 trung đoàn, 2 tiểu đoàn cao xạ dã chiến, cùng một số đơn vị không quân, ra đa... lực lượng hải quân chiến đấu cũng tăng cường cả về người, trang bị.
Song song với xây dựng lực lượng vũ trang đủ sức bảo vệ miền Bắc, ngày 23/3/1961, Cục Quân lực và các cơ quan của Bộ Tổng Tham mưu đã hoàn chỉnh đề án “Kế hoạch tổ chức và chuẩn bị lực lượng cho chiến trường miền Nam”. Bằng nỗ lực tổ chức và chỉ đạo sâu sát của Bộ Tổng Tham mưu, Cục Quân lực và các đơn vị, trong năm 1961 ta đã tăng cường cho miền Nam 150 tấn vật chất trang bị các loại và hơn 5 nghìn quân, trong đó có 1.694 cán bộ. Nhờ đẩy mạnh công tác chi viện chiến trường, đến năm 1963, trên tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn, Đoàn 559 đã chuyển trên 165.000 khẩu súng các loại và hàng trăm tấn hàng hoá cần thiết cho chiến trường.
Cũng trong thời gian từ năm 1961 đến 1963, hơn 40.000 cán bộ, chiến sĩ, phần lớn là bộ đội quê ở miền Nam tập kết đã được tăng cường cho miền Nam. Số quân trên chiếm hơn 50% lực lượng vũ trang tập trung và chiếm 80% cán bộ, nhân viên kỹ thuật trong các cơ quan chỉ đạo, chỉ huy ở miền Nam trong năm 1963.
Đồng thời với nhiệm vụ tham mưu giúp Bộ xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại, đủ sức chiến đấu bảo vệ miền Bắc, tổ chức lực lượng chi viện chiến trường miền Nam, Cục Quân lực tiếp tục tham mưu giúp bạn Lào xây dựng lực lượng vũ trang đáp ứng yêu cầu cách mạng của bạn trong tình hình mới. Yêu cầu mới đặt ra với Pa Thét Lào lúc này là phải vừa xây dựng lực lượng cách mạng về mọi mặt, vừa chiến đấu để bảo vệ thành quả chiến đấu vừa giành được. Theo đề nghị của bạn và thực hiện chỉ đạo của Thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu, Cục Quân lực cùng các cơ quan có liên quan tham mưu giúp bạn xây dựng đề án phát triển lực lượng vũ trang; theo đề án, chủ trương phát triển lực lượng vũ trang của bạn thời gian này là xây dựng nhiều đơn vị chủ lực tập trung và một số đơn vị
binh chủng kỹ thuật cần thiết; đồng thời phải tích cực xây dựng bộ đội địa phương. Nguyên tắc cơ bản của đề án là coi trọng chất lượng, trang bị gọn nhẹ, nhưng phải tăng cường hỏa lực pháo binh, súng cối và hỏa lực phòng không; ưu tiên cho bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương.
Được sự phối hợp của quân tình nguyện Việt Nam, đầu tháng 01/1961, Liên quân Việt - Lào đã giải phóng hoàn toàn cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, mở rộng vùng giải phóng nối với Sầm Nưa tạo thành căn cứ địa vững chắc; tháng 5/1962, liên quân Lào - Việt tiếp tục giành thắng lợi quyết định bằng Chiến dịch Nậm Thà. Chiến dịch toàn thắng có ý nghĩa đưa cục diện đấu tranh cách mạng ở Lào chuyển sang giai đoạn mới; dẫn tới việc thành lập Chính phủ Liên hiệp, đưa nước Lào vào con đường phát triển hòa bình, trung lập, thống nhất, hòa hợp dân tộc.
Vượt qua bao cam go, thử thách khốc liệt của chiến tranh, đồng chí Lê Đức Anh luôn trung thành với lý tưởng cách mạng, với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đồng chí là đảng viên cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo quân sự tài ba trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, một trong những vị tướng chỉ huy xuất sắc có uy tín lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trung tướng VŨ VĂN SỸ
Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà chính trị xuất sắc, nhà quân sự tài ba; là người có tầm nhìn và tư duy chiến lược, đã trải qua chiến đấu gian khổ trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, gần 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia và chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc. Trong quá trình hoạt động cách mạng, trên bất kỳ cương vị công tác nào, dù thuận lợi hay khó khăn, đồng chí Lê Đức Anh đều nỗ lực vượt qua và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ với tinh thần cách mạng trong sáng. Ngày 18/02/1987, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã ký quyết định bổ nhiệm đồng chí giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trên cương vị Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) chỉ đạo các cơ quan Bộ Quốc phòng tập trung nghiên cứu, đề xuất với Bộ Chính trị những chủ trương, giải pháp lớn về xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh và chỉ đạo nâng cao chất lượng huấn luyện bộ đội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, được thể hiện trên một số nội dung chính sau:
Nghiên cứu đề xuất nhiều chủ trương với Bộ Chính trị về điều chỉnh tổ chức biên chế; điều chỉnh thế bố trí chiến lược, xây dựng thế trận phòng thủ quốc gia, các khu vực phòng thủ từ tỉnh, thành phố đến cơ sở xã, phường phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của đất nước và của từng địa phương; góp phần giữ vững ổn định chính trị trên các địa bàn trọng điểm; phát huy thế trận chiến tranh nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp, đáp ứng với yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống chiến tranh. Đây là cống hiến to lớn của đồng chí trong công cuộc đổi mới xây dựng quân đội, xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân; kết hợp chặt chẽ quốc phòng với an ninh, giữa công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc; là sự vận dụng linh hoạt tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh về “Chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính, lâu dài, tự lực, tự chủ và đoàn kết quốc tế” vào hoàn cảnh mới của đất nước.
Về chỉ đạo điều chỉnh tổ chức biên chế: Giảm quân số thường trực từ 1,5 triệu người xuống còn 45 vạn người (từ 9 quân đoàn xuống còn 4 quân đoàn) nhằm giảm ngân sách quốc phòng, nâng cao đời sống của bộ đội với tư tưởng xuyên suốt (quân thường trực ít nhưng tinh nhuệ, hiện đại, cơ động linh hoạt); điều chỉnh cơ cấu, tổ chức biên chế, chức năng, nhiệm vụ của các học viện, nhà trường trong toàn quân để nâng cao chất lượng đào tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn; quan tâm đầu tư vũ khí, trang bị phương tiện cho quân đội và chăm lo cải thiện đời sống của lực lượng vũ trang.
Về điều chỉnh thế bố trí chiến lược phòng thủ đất nước: Chỉ đạo điều chỉnh phù hợp giữa các đơn vị chủ lực cơ động của Bộ, quân khu, lực lượng phòng không quốc gia, lực lượng không quân, hải quân nhằm phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trên các hướng phòng thủ và địa bàn chiến lược quan trọng; chú trọng phòng thủ bờ biển, hải đảo và thềm lục địa. Chỉ đạo chuyển Quân đoàn 3 từ miền Bắc vào Tây Nguyên; tăng cường lực lượng ở Cam Ranh và vùng biển đảo. Cuối năm 1987 đầu năm 1988, chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị tổ chức hội nghị giao nhiệm vụ cho các quân chủng: Hải quân, Phòng không, Không quân về kế hoạch hiệp đồng tác chiến bảo vệ quần đảo Trường Sa và cảng Cam Ranh. Chỉ đạo quân chủng Hải quân xây dựng các nhà giàn và bố trí lực lượng trên tất cả các đảo nổi, đảo chìm ở quần đảo Trường Sa và thềm lục địa.
Trên tuyến biên giới phía Bắc năm 1986, sau khi đi thị sát 6 tỉnh biên giới phía Bắc, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo điều chỉnh đưa một số đơn vị chủ lực về tuyến 2; đưa dân quân tự vệ, bộ đội địa phương và bộ đội biên phòng lên tuyến 1, nhằm rèn luyện toàn diện cho chỉ huy, cơ quan, đơn vị các cấp, đồng thời cũng để các đơn vị đang phòng ngự về phía sau củng cố lực lượng và tổ chức huấn luyện; đây là sự điều chỉnh đúng đắn, phù hợp với quy luật của khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Để chỉ đạo toàn quân nâng cao chất lượng xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, năm 1987, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Nghị quyết về nhiệm vụ quân sự quốc phòng; Bộ Quốc phòng ra chỉ thị về nhiệm vụ huấn luyện, quyết tâm nâng cao chất lượng tổng hợp của các đơn vị, đồng thời xác định rèn luyện cho các trung đoàn trở thành các đơn vị huấn luyện, chiến đấu, công tác giỏi, khắc phục tình trạng huấn luyện hình thức, dập khuôn máy móc, nội dung không thiết thực.
Chỉ đạo Cục Huấn luyện chiến đấu (nay là Cục Quân huấn) giúp đỡ đơn vị xây dựng nền nếp công tác tham mưu huấn luyện, từ nghiên cứu soạn thảo chỉ lệnh, mệnh lệnh, chỉ thị và kế hoạch huấn luyện; tổ chức hội nghị quán triệt nhiệm vụ; giúp Bộ phê duyệt kế hoạch huấn luyện hằng năm của các đơn vị; thực hiện nghiêm chế độ đăng ký thống kê, báo cáo kết quả; kiểm tra, sơ kết, tổng kết huấn luyện ở các cấp; đồng thời chỉnh lý, biên soạn tài liệu bảo đảm cho huấn luyện. Về huấn luyện kỹ thuật chiến đấu bộ binh phát triển từ 3 môn lên 5 môn, đồng thời bổ sung thêm các nội dung đánh xe tăng bằng lựu đạn, thủ pháo, bắn máy bay bay thấp bằng súng bộ binh; về huấn luyện thể lực đã chỉ đạo đổi mới nội dung, chỉ tiêu rèn luyện thể lực cho bộ đội, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ và đã đưa bãi tập vượt vật cản K91 vào huấn luyện trong toàn quân; chỉ đạo biên soạn tài liệu điều lệnh từ 3 tài liệu (Điều lệnh nội vụ, kỷ luật, đóng quân và canh phòng) thành “Điều lệnh Quản lý bộ đội” và được ban hành thực hiện từ tháng 02/1991.
Trong huấn luyện: Tập trung chỉ đạo đổi mới cả về chương trình, nội dung, tổ chức và phương pháp huấn luyện cho các lực lượng theo hướng sát thực tế chiến đấu, sát với yêu cầu nhiệm vụ, địa bàn của từng đơn vị theo tổ chức, biên chế hiện có; phù hợp với đối tượng tác chiến và cách đánh truyền thống của Việt Nam; gắn huấn luyện quân sự với giáo dục chính trị rèn luyện nâng cao bản lĩnh, ý chí chiến đấu, năng lực hoạt động, ý thức tổ chức kỷ luật; huấn luyện từ từng người đến cấp đại đội, tiểu đoàn có trình độ kỹ thuật, chiến thuật vững chắc, có sức khỏe bền bỉ dẻo dai, thành thạo hành động chiến đấu cá nhân và hiệp đồng trong phân đội; nắm vững và sử dụng thành thạo vũ khí, trang bị được biên chế. Trong đó, về cá nhân chú trọng huấn luyện cho bộ đội thuần thục động tác kỹ thuật, chiến thuật, biết vận dụng linh hoạt vào điều kiện thực tế; cấp chiến thuật chú trọng vào hành động chiến đấu hiệp đồng của bộ đội; cấp chiến dịch lấy quy mô tác chiến cấp trung đoàn, sư đoàn có hiệp đồng quân, binh chủng; các đơn vị quân, binh chủng cũng được xác định rõ yêu cầu đạt được trong huấn luyện. Đặc biệt, năm 1987-1988 đã chỉ đạo huấn luyện chiến thuật tiến công với các hình thức vây lấn, lấn dũi; chuyển từ phát triển chiến đấu theo đội hình hàng ngang theo từng lớp sang đội hình tiến công theo từng mũi, hướng, thực hiện đột kích, đột kích liên tục; trong phòng ngự chuyển từ đội hình phòng ngự hình vòng, phòng ngự theo tuyến sang đội hình “phòng ngự bàn tay xòe”, công sự được “cấu trúc hình râu tôm” phù hợp với cách đánh truyền thống của ta.
Từ năm 1987 đến năm 1990, toàn quân đã tổ chức hơn 13.000 cuộc diễn tập các cấp cho các lực lượng, thông qua các cuộc diễn tập đã hình thành phương châm huấn luyện “Cơ bản, toàn diện, hệ thống, thống nhất” được phổ biến thực hiện trong toàn quân. Sau đợt chấn chỉnh tổ chức biên chế và đổi mới công tác huấn luyện; kỷ luật của các đơn vị được tăng cường, sức chiến đấu và khả năng cơ động của các đơn vị được nâng lên, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Trong tình hình mới, mục tiêu bảo vệ Tổ quốc không ngừng được mở rộng, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng cũng có những phát triển mới cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Để phù hợp với tính chất của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và chiến lược phòng thủ đất nước trong thời kỳ mới, nhiệm vụ huấn luyện của các đơn vị toàn quân chuyển từ phương châm “Cơ bản, toàn diện, hệ thống, thống nhất” sang phương châm “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát đối tượng tác chiến, sát yêu cầu nhiệm vụ và địa bàn hoạt động của các lực lượng.
Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, để xây dựng quân đội theo hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”; nhằm nâng cao sức mạnh toàn diện của lực lượng vũ trang, Bộ Quốc phòng chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu ban hành Chỉ thị số 116/CT-TM ngày 13/12/1988 về xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Năm 1989, Bộ chỉ đạo lấy Trung đoàn 165 - Sư đoàn 312 - Quân đoàn 1 và Trung đoàn 95 - Sư đoàn 325 - Quân đoàn 2 làm điểm để rút kinh nghiệm làm cơ sở triển khai thực hiện trong toàn quân.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Đại tướng Lê Đức Anh đã trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử; với bản lĩnh, ý chí của một người cộng sản, cả cuộc đời phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng, vì lợi ích của nhân dân và cả dân tộc; đồng chí đã nghiên cứu, đề xuất với Bộ Chính trị những chủ trương, giải pháp lớn về xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh và chỉ đạo đổi mới nâng cao chất lượng huấn luyện cho bộ đội, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, góp phần quan trọng vào sự phát triển của đất nước.
Những năm tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, song tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có diễn biến phức tạp. Xung đột cục bộ có thể diễn ra gay gắt hơn dưới nhiều hình thức; đối tượng tác chiến của quân đội ta có những bước phát triển mới cả về hình thức, phương thức, thủ đoạn và vũ khí trang bị. Các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng phức tạp hơn; chủ nghĩa dân túy, dân tộc cực đoan, cường quyền nước lớn trỗi dậy, chi phối quan hệ quốc tế. Biển Đông vẫn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột, đe dọa sự ổn định, phát triển của khu vực và an ninh thế giới. Trong nước, tình hình biến đổi khí hậu, thảm họa môi trường, dịch bệnh và các yếu tố an ninh phi truyền thống tiếp tục diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo chống phá vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra nhiều cơ hội, nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhất là bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, đảo. Quân đội được Đảng, Nhà nước quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục điều chỉnh tổ chức, biên chế, xây dựng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng. Để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chúng ta tiếp tục quán triệt và phát triển quan điểm của Đại tướng Lê Đức Anh, vận dụng linh hoạt vào điều kiện thực tiễn hiện nay; cần tập trung đổi mới xây dựng lực lượng vũ trang, nâng cao chất lượng huấn luyện chiến đấu, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội, cần thực hiện tốt một số nội dung chính sau:
Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Nghị quyết số 765 và Kết luận số 60 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 765 của Quân ủy Trung ương, Chỉ lệnh công tác quân sự, quốc phòng của Tổng Tham mưu trưởng hằng năm; cụ thể hóa bằng chủ trương, giải pháp, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện có chất lượng, hiệu quả. Chú trọng làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức về nhiệm vụ huấn luyện, đào tạo; đột phá đổi mới huấn luyện theo tinh thần của Nghị quyết số 765 và Kết luận số 60 của Quân ủy Trung ương đi vào thực chất, hiệu quả, vững chắc. Tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức cho bộ đội, cảnh giác trước âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch; xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Hai là, tích cực nghiên cứu phát triển lý luận nghệ thuật quân sự Việt Nam phù hợp với điều kiện thực tiễn; nắm chắc tổ chức biên chế, âm mưu thủ đoạn của đối tượng tác chiến; tích cực nghiên cứu cách đánh phù hợp với sự phát triển của đối tượng tác chiến; gắn diễn tập chiến dịch, chiến lược với diễn tập chiến thuật có bắn đạn thật các cấp. Tiếp tục phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong xây dựng khu vực phòng thủ; nhất là công tác chỉ đạo nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập hiệp đồng tác chiến giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và các lực lượng trong khu vực phòng thủ. Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tạo tiền đề vững chắc để phấn đấu từ năm 2030 xây dựng quân đội hiện đại, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ba là, phát huy tốt vai trò tham mưu, đề xuất của chỉ huy, cơ quan các cấp; hoàn thiện cơ chế quản lý, điều hành huấn luyện theo hướng “Tập trung, thống nhất, đồng bộ, hiệu quả, không chồng chéo”, chỉ đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ huấn luyện đồng bộ, thống nhất từ cơ quan đến đơn vị; vận dụng tốt 3 quan điểm, 8 nguyên tắc, 6 mối kết hợp trong huấn luyện; thực hiện các nội dung đổi mới trong huấn luyện phải có tính khoa học, thiết thực, hiệu quả và phù hợp với thực tiễn của các lực lượng, đơn vị. Kiên quyết đấu tranh, khắc phục biểu hiện phô trương, hình thức, chạy theo thành tích.
Bốn là, chỉ đạo huấn luyện theo đúng phương châm “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu cho các lực lượng; chú trọng huấn luyện cho bộ đội thực sự làm chủ vũ khí trang bị, kỹ thuật có trong biên chế, nhất là vũ khí trang bị, kỹ thuật mới; tăng cường huấn luyện đêm, huấn luyện cơ động, huấn luyện theo nhiệm vụ, tình huống nâng cao; giỏi tác chiến hiệp đồng quân binh chủng trong điều kiện địch sử dụng vũ khí công nghệ cao (lấy lục quân làm trung tâm, tác chiến trên bộ là nòng cốt; lấy mục tiêu tiêu diệt, tiêu hao địch trên biển, trên không, đánh thắng chiến tranh trên bộ để huấn luyện bộ đội, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, xây dựng đội ngũ cán bộ là then chốt). Kết hợp tốt giữa huấn luyện quân sự với giáo dục chính trị, giữa giáo dục đào tạo với huấn luyện chiến đấu; tích cực ứng dụng khoa học - công nghệ vào quản lý, chỉ huy, điều hành để nâng cao chất lượng huấn luyện, đào tạo.
Năm là, tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý, chỉ huy và tổ chức, phương pháp huấn luyện cho đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ trực tiếp huấn luyện, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ; kết hợp giữa huấn luyện với rèn luyện nâng cao thể lực cho bộ đội; đáp ứng yêu cầu chiến tranh công nghệ cao và ứng phó kịp thời, hiệu quả với những thách thức an ninh phi truyền thống.
Sáu là, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, hội thi, hội thao các cấp đạt hiệu quả thiết thực; tích cực đổi mới hình thức tổ chức, phương pháp kiểm tra, phúc tra (kiểm tra theo phân cấp, tăng cường kiểm tra đột xuất...); thực hiện kiểm tra chỉ huy và cơ quan trước khi kiểm tra phân đội; nhằm đánh giá thực chất kết quả huấn luyện của từng đơn vị; kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn đơn vị khắc phục những mặt còn hạn chế; thực hiện nghiêm các quy định, quy tắc bảo đảm an toàn trong huấn luyện và kiểm tra; khắc phục dứt điểm những biểu hiện chủ quan, khoán trắng cho cấp dưới; bớt xén thời gian, nội dung, hạ thấp chỉ tiêu, yêu cầu trong huấn luyện.
Bảy là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho nhiệm vụ huấn luyện, đào tạo (theo hướng kịp thời, toàn diện, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm); đẩy nhanh tiến độ quy hoạch, xây dựng hệ thống trường bắn, thao trường huấn luyện bảo đảm cho huấn luyện của toàn quân. Tiếp tục bổ sung, chỉnh lý, biên soạn mới hệ thống tài liệu, giáo trình huấn luyện, đào tạo, nhất là tài liệu về vũ khí trang bị, kỹ thuật mới, phù hợp với điều kiện tác chiến và chiến tranh tương lai. Tích cực nghiên cứu cải tiến và sản xuất vật chất, mô hình, trang thiết bị huấn luyện, bảo đảm tốt cho nhiệm vụ huấn luyện theo hướng tập trung, thống nhất.
Tám là, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thường xuyên quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm các văn bản, chỉ thị về xây dựng chính quy, quản lý kỷ luật; gắn xây dựng chính quy, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu” với xây dựng tổ chức đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; đẩy mạnh các phong trào thi đua “Cán bộ mẫu mực trong thực hiện chức trách nhiệm vụ, chế độ công tác”, “Mọi quân nhân gương mẫu chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, bảo đảm an toàn”. Phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của các tổ chức quần chúng, gắn hoạt động huấn luyện với các phong trào thi đua quyết thắng, góp phần nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Thiếu tướng THÁI VĂN MINH
Đại tướng Lê Đức Anh là người lãnh đạo quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và quân đội. Trong thời gian làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Lê Đức Anh để lại nhiều ấn tượng sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc nói chung và xây dựng lực lượng vũ trang nói riêng, đặc biệt là với ngành Quân lực, Cục Quân lực Bộ Tổng Tham mưu những năm 1989 - 1993.
Đầu năm 1989, tình hình lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam đã và đang ở quy mô lớn. Tổ chức lực lượng bị mất cân đối giữa quy mô và tổ chức quá lớn so với tổng quân số và khả năng trang bị với các mặt bảo đảm của Nhà nước. Chính vì vậy, đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo gấp rút điều chỉnh tổ chức lực lượng quân đội một cách thận trọng, sớm đưa quy mô và cơ cấu tổ chức lực lượng phù hợp với nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; phù hợp với khả năng bảo đảm các mặt của Nhà nước. Trên cơ sở đó, điều chỉnh thế bố trí chiến lược, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân. Lúc này, cả nước ta có hơn 1 triệu thương binh và gia đình liệt sĩ, 1 triệu cán bộ nghỉ hưu, hơn 3 triệu người mắc bệnh do di chứng chiến tranh và 4 triệu người không có việc làm, ngân sách nhà nước chi cho quốc phòng chỉ đạt dưới 19% so với yêu cầu. Thực trạng quân đội ta khi đó đang bị mất cân đối giữa quy mô tổ chức quá lớn với khả năng tổng quân số và khả năng trang bị xuống cấp nhanh, nhiều loại thiếu đồng bộ, lượng dự trữ rất mỏng. Đất nước ta vẫn bị phương Tây bao vây, cấm vận. Công cuộc đổi mới, mặc dù đã đạt được một số thành tựu nhất định, nhưng đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ lạm phát vẫn còn lớn. Siêu lạm phát xuất hiện liên tục từ năm 1985 đến năm 1988 ở Việt Nam với tỷ lệ từ 300% đến 800% mỗi năm, riêng năm 1988 là 392%, năm 1989 giảm xuống 100%. Trên thế giới, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào khủng hoảng trầm trọng, thoái trào, đứng trước nguy cơ sụp đổ.
Giữa tháng 7/1989, trong cuộc họp đánh giá về thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng về đổi mới quốc phòng, Bộ trưởng Lê Đức Anh nhấn mạnh: Đổi mới là tất yếu và cấp thiết song bước đi phải thận trọng và phù hợp. Đổi mới về quân sự, quốc phòng với nội dung cốt lõi “cái gì đúng nay tiếp tục làm, cái gì trước đây sai thì nay sửa lại, cái gì trước đây chưa làm nay thấy cần thì bổ sung, cái gì trước đây làm theo tinh thần lúc đó nay đã khác, thấy cần thay đổi thì thay đổi cho phù hợp với tình hình mới”.
Đồng chí Lê Đức Anh nhấn mạnh hơn về phương hướng chung xây dựng lực lượng vũ trang, các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch tổ chức lực lượng. Ông nhắc đi nhắc lại là phải tiến hành khẩn trương, chặt chẽ công tác biên chế gắn liền với công tác quy hoạch tổ chức lực lượng. Đồng thời, nhận xét cụ thể về hoạt động của các Tổ Trung tâm nghiên cứu chức danh, biên chế các tổng cục, quân chủng, binh chủng, quân khu, quân đoàn thực hành chậm chưa đạt được yêu cầu đề ra, đã ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ giảm quân số và chấn chỉnh biên chế tổ chức trong toàn quân. Ông so sánh với tổ chức cơ quan nhà nước; các cục, vụ được biên chế vài chục người, nhưng do phân công, phân nhiệm hợp lý nên mọi việc đều trôi chảy; như thời kỳ đồng chí giữ chức vụ Cục trưởng Cục Quân lực Bộ Tổng Tham mưu (1961 - 1963), quân số chỉ 34 người, nhưng công việc vẫn đâu vào đấy.
Cuối tháng 8/1989, quán triệt mệnh lệnh, chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh, Nghị quyết lãnh đạo của Đảng ủy Bộ Tổng Tham mưu - Cơ quan Bộ Quốc phòng về chấn chỉnh tổ chức biên chế giảm quân số, bỏ cấp phòng, lấy Cục Quân lực Bộ Tổng Tham mưu làm thí điểm cho Bộ Quốc phòng. Đảng ủy - Chỉ huy Cục Quân lực Bộ Tổng Tham mưu triệu tập Hội nghị cán bộ, đảng viên, công nhân viên toàn Cục thảo luận xây dựng biểu biên chế, tổ chức Cục Quân lực theo cơ chế bỏ cấp phòng, giảm quân số, nâng cao hiệu suất công tác.
Qua 7 tháng nghiên cứu thực nghiệm với 8 cuộc họp thiết lập nhiều đề án, trong đó có 5 đề án khả thi, tiến hành thực nghiệm lần lượt các đề án biên chế 32 người, 36 người, 92 người, 90 người và 79 người.
Đến giữa tháng 3/1989, toàn Cục thống nhất lấy đề án giảm 5 phòng gồm: Tổ chức biên chế, Trang bị, Quân số chính sách, Động viên - tuyển quân, Khoa học quân sự. Điều chỉnh, sắp xếp biên chế, tổ chức cục thành các bộ phận: Bộ phận Kế hoạch tổng hợp thực hiện chức trách tổ chức, biên chế, trang bị, quân số, tuyển quân, động viên; Bộ phận Quản lý đầu mối đơn vị; Bộ phận Thông tin tư liệu; Bộ phận Chính sách; Bộ phận Tổng kết. Chuyển Phòng Hành chính, vật tư xuống Ban, riêng Phòng Hợp tác quốc tế về lao động vẫn duy trì theo quy chế lâm thời; thống nhất lề lối tác phong công tác theo cơ chế bỏ cấp phòng. Thủ trưởng Cục giảm còn 4 đồng chí. Quân số toàn Cục còn 79 người. Điều chỉnh, tổ chức biên chế Cục vận hành theo cơ chế mới. Tiếp tục hoàn thành kế hoạch 1986-1990 và bước sang kế hoạch 1991-1995.
Thông qua thực hiện chủ trương giảm quân số, chấn chỉnh tổ chức biên chế, Bộ phận Chính sách kết hợp với nhóm Thông tin tư liệu của Cục Quân lực Bộ Tổng Tham mưu bước đầu khai thác tập hợp từ năm 1945 đến năm 1991 được 660.000 liệt sĩ đăng ký qua mạng máy tính, phân cấp quản lý qua các địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho khâu giải quyết chính sách hậu phương quân đội.
Trước mỗi đề án, nội dung lớn mang tính chiến lược - chiến dịch, dài hạn, ngắn hạn đều được thảo luận thống nhất trong nội bộ Cục Quân lực; sau đó Thủ trưởng Cục chỉ đạo lấy ý kiến các cơ quan Bộ Quốc phòng, ngành, quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng. Thông qua trao đổi, hội thảo chắt lọc nghiêm túc, làm thí điểm trước khi báo cáo Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh. Kết quả, qua 2 năm (1990-1992), vận hành theo cơ chế mới, Cục Quân lực Bộ Tổng Tham mưu đã lần lượt hoàn thành các nội dung của kế hoạch giảm quân số, điều chỉnh biên chế, tổ chức lực lượng vũ trang thời kỳ đổi mới.
Tiếp tục thực hiện chủ trương giảm quân số, chấn chỉnh tổ chức theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh, trong năm 1989, Quân đội nhân dân Việt Nam đã giải thể 12 sư đoàn bộ binh, 1 lữ đoàn, 3 trung đoàn, 1 tiểu đoàn thuộc các quân khu, quân đoàn, tổng cục. Tổ chức mới và giao thêm nhiệm vụ cho các trung tâm, nhà máy sản xuất quốc phòng gắn với kinh tế; thành lập các công ty, tổng công ty hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
Toàn quân thống nhất thực hiện kế hoạch bảo đảm trang bị của Bộ Quốc phòng theo phương hướng: phát huy tinh thần tự lực, tận dụng mọi tiềm năng trang bị kỹ thuật hiện có và khả năng bảo đảm của Nhà nước; từng bước cân đối đồng bộ tổ chức biên chế và trang bị kỹ thuật trước hết cho các đơn vị chủ lực và trang bị kỹ thuật chủ yếu.
Căn cứ vào chủ trương của Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo tập trung ưu tiên kiện toàn biên chế trang bị cho các đơn vị đang làm nhiệm vụ ở biên giới, hải đảo, bảo đảm một bước cho các đơn vị dự bị động viên, kết hợp chỉ đạo tập trung các loại vũ khí, trang bị thu hồi từ các đơn vị giải thể đưa vào kho những loại còn sử dụng tốt, tổ chức niêm cất, thanh lý các loại không còn sử dụng.
Đồng thời, đồng chí Lê Đức Anh cũng chỉ đạo sửa chữa và sản xuất quốc phòng, tập trung mũi nhọn vào những chủng loại vũ khí, trang bị quân đội ta đang cần mà ta có thể đảm đương được. Do đó, công tác trang bị của quân đội ta từng bước đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và sẵn sàng động viên trong những tình huống cấn thiết.
Thực hiện Nghị quyết Đảng ủy Quân sự Trung ương về tiếp tục điều chỉnh lực lượng và thế bố trí chiến lược, kế hoạch tổ chức lực lượng giai đoạn 1991 - 1995, từ đó, toàn quân xác định rõ phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang là: Tiếp tục giảm quân số thường trực, tăng cường xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ, thực hiện một sự cân đối mới giữa ba thứ quân, kết hợp xây dựng quân đội về chính trị, quân sự và chính quy; sắp xếp lại hệ thống nhà trường theo hướng đại học hóa đội ngũ sĩ quan và nhân viên kỹ thuật, nâng cao một bước chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Bảo đảm trang bị kỹ thuật theo hướng bảo quản và sử dụng những cái đã có; đồng thời cải tiến, mua sắm, hiện đại hóa một số phương tiện vũ khí thật cần thiết. Đổi mới một số chính sách đối với quân đội cho phù hợp với thời bình và kinh tế thị trường, nâng cao một bước đời sống tinh thần và vật chất của bộ đội.
Căn cứ vào phương hướng và đặc điểm tình hình cụ thể các cơ quan, đơn vị toàn quân, Cục Quân lực Bộ Tổng Tham mưu triển khai có hiệu quả từng mặt công tác lớn. Trong thời gian từ năm 1991 đến năm 1994, trên cơ sở chuẩn bị công phu, nghiêm túc của Cục Quân lực và các cơ quan liên quan, Bộ Quốc phòng đã ban hành chức danh khối chiến đấu.
Do tổng quân số thời điểm này đã giảm tới mức tương đối ổn định, Nhà nước ta ban hành chính sách mới đối với quân nhân chuyên nghiệp và công nhân viên quốc phòng; đồng thời, thực hiện cải cách chế độ tiền lương, nên số lượng, chất lượng hạ sĩ quan chỉ huy và nhân viên chuyên môn kỹ thuật ngày một tốt hơn. Để bảo đảm chất lượng đào tạo, Bộ Quốc phòng đã bổ sung một số tiêu chuẩn về chiêu sinh, tuyển sinh, xác định bậc học, cấp học theo quy chế đào tạo của Nhà nước; cải tiến nội dung chương trình và thời gian đào tạo đối với từng cấp học, ngành học. Từ tháng 8 đến tháng 11/1991, theo chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh mà trực tiếp là Bộ Tổng Tham mưu, Cục Quân lực chủ trì phối hợp với Cục Huấn luyện chiến đấu tổ chức nghiên cứu thực nghiệm sư đoàn bộ binh mang vác các loại vũ khí, trang bị, vật chất trong biên chế của từng loại phân đội, từng cá nhân hành quân từ vị trí tập kết đến tuyến triển khai chiến đấu; điều chỉnh hợp lý số quân theo biên chế, bảo đảm đủ sức mang vác hết cơ số đạn dược và lượng vật chất quy định.
Qua thời gian thực nghiệm tại Sư đoàn 325 Quân đoàn 2 đạt kết quả tốt. Trong Hội nghị tổng kết, Trung tướng Đỗ Văn Đức - Phó Tổng Tham mưu trưởng kết luận: “Cuộc thực nghiệm đạt kết quả rất tốt, dựa vào thực nghiệm đã xác định được quân số, trang bị cho từng loại phân đội của sư đoàn bộ binh mang vác phù hợp với các loại trang bị hiện có với tầm vóc người Việt Nam”. Sau đó, Cục Quân lực Bộ Tổng Tham mưu đã hoàn thiện biểu biên chế “sư đoàn bộ binh mang vác” trình Tổng Tham mưu trưởng ban hành gồm: sư đoàn bộ binh mang vác thời bình và sư đoàn bộ binh mang vác thời chiến.
Ngày 3/12/1991, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh ra Quyết định số 495/QĐ-QP ban hành “Chế độ quản lý trang bị kỹ thuật”. Đây là văn bản do Cục Quân lực Bộ Tổng Tham mưu cùng các cơ quan chức năng của Tổng cục Kỹ thuật soạn thảo gồm 11 chương, 63 điều; bổ sung hoàn thiện nhiều nội dung từ nghiên cứu, cải tiến, thiết kế chế tạo, mua sắm, sản xuất chuyển ra khỏi biên chế và dự trữ, là văn bản thiết yếu giúp người chỉ huy, cơ quan và đơn vị thực hiện quản lý vũ khí, trang bị kỹ thuật ngày càng chặt chẽ hơn. Lập kế hoạch động viên là một trong những nội dung thiết yếu của công tác động viên quân đội. Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện kế hoạch động viên, năm 1990, được sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, quân lực đã chuyển đổi phương thức từ các địa phương giao nguồn cho đơn vị thường trực tiếp nhận tự sắp xếp biên chế sang phương thức các địa phương, bộ, ngành tổ chức xây dựng sắp xếp đơn vị theo biểu biên chế (tròn khâu), chuyển giao cho đơn vị thường trực khi có lệnh. Phương thức này được áp dụng từ năm 1992, qua thực tế cho thấy đã rút ngắn được thời gian bàn giao và hoàn thiện biên chế đơn vị nhanh, sát thực tế, giúp cho đơn vị thường trực nhận quân và điều chỉnh đơn vị nhanh, thuận lợi (làm cơ sở để xây dựng pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên năm 1996).
Thực hiện chủ trương của Bộ Quốc phòng, sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tổng Tham mưu, Dự thảo Luật Nghĩa vụ quân sự sửa đổi, bổ sung và Pháp lệnh về Lực lượng dự bị động viên được Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua, là cơ sở pháp lý, căn cứ cơ bản để thực hiện nhiệm vụ, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và nền quốc phòng toàn dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Từ cuối năm 1991 đến cuối năm 1993, Cục Quân lực thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu đã chủ trì cùng các cục Cán bộ, Tổ chức, Tài chính và cơ quan, các đơn vị liên quan xây dựng thống nhất ban hành chức danh, trần quân hàm, nhóm chức vụ toàn quân từ khối cơ quan Bộ, quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng đến các khối nghiên cứu khoa học, học viện, nhà trường, xí nghiệp, kho, trạm làm căn cứ cho công tác lãnh đạo, quản lý sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ vào nền nếp chặt chẽ.
Trên cơ sở đó, toàn quân chấn chỉnh tổ chức, sáp nhập điều chuyển, kiện toàn 62 đầu mối đơn vị, giải thể các đơn vị dư thừa do nhu cầu nhiệm vụ; chuyển đổi cơ cấu tổ chức 34 đầu mối từ cấp tiểu đoàn, trung đoàn, lữ đoàn, sư đoàn và tương đương, thành lập 100 đầu mối đơn vị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và tình hình chuyển đổi chung của Nhà nước và Chính phủ.
Sau ba năm, toàn quân thực hiện kế hoạch điều chỉnh tổ chức lực lượng dần hình thành rõ nét trong thực tế cơ cấu về quy mô lực lượng, cơ cấu tổ chức biên chế trang bị kỹ thuật giữa các khối (chiến đấu, bảo đảm, phục vụ, cơ quan và nhà trường); giữa lực lượng chủ lực và địa phương; giữa bộ đội thường trực và dự bị động viên... đáp ứng 5 tình huống chiến lược, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội, củng cố thế trận chiến tranh nhân dân. Bảo đảm cho nhiệm vụ huấn luyện, nâng cao chất lượng sẵn sàng chiến đấu theo hướng: xây dựng quân đội thường trực cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, có chất lượng chính trị cao, có tổ chức phù hợp và chặt chẽ.
Như vậy, chấn chỉnh tổ chức biên chế, giảm tổng quân số; hoàn thiện một số văn bản pháp lý quan trọng về quân sự, quốc phòng là những dấu ấn sâu sắc, thành tựu của công tác quân lực thời kỳ này đồng thời, thể hiện vai trò, tư duy về quân sự hiện đại phù hợp với xu thế phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trung tướng Khuất Duy Tiến
Giai đoạn 1987 - 1991 là giai đoạn công cuộc đổi mới của nước ta đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Tháng 02/1987, Đại tướng Lê Đức Anh được bổ nhiệm giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) trong bối cảnh công tác quân sự và quốc phòng có những đổi mới quan trọng. Chúng ta đã thực hiện một cuộc điều chỉnh chiến lược lớn, bố trí lại lực lượng trên phạm vi cả nước, tạo ra thế phòng thủ hợp lý, tăng cường khả năng phòng thủ ở các khu vực trọng điểm; từng bước xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Đã chấn chỉnh một bước cơ bản tổ chức biên chế lực lượng vũ trang, chú trọng xây dựng lực lượng dự bị động viên và nâng cao chất lượng dân quân tự vệ, nâng cao chất lượng tổng hợp của quân đội, trước hết là về mặt chính trị. Trong giai đoạn này trước những yêu cầu mới của tính hình đất nước, của quân đội, nhiệm vụ giáo dục đào tạo và công tác nhà trường quân đội đòi hỏi có những bước chuyển mình, đi vào chiều sâu bảo đảm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, sĩ quan quân đội. Để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng đó, Đại tướng Lê Đức Anh, với tư duy sắc sảo và tầm nhìn chiến lược của mình, đã đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện đối với công tác nhà trường quân đội, tập trung ở những nội dung cơ bản, nổi bật đó là:
1. Đổi mới công tác nhà trường quân đội phải chủ động sớm để góp phần xây dựng quân đội vững mạnh
Nhận thức sâu sắc về vai trò của đội ngũ cán bộ, công tác đào tạo đội ngũ cán bộ quân đội đối với công cuộc đổi mới của đất nước theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng và đổi mới xây dựng quân đội đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, ngày 17/9/1987, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu ban hành biểu biên chế Cục Nhà trường (Quyết định số 182/QĐ-TM) tạo điều kiện quan trọng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ là cơ quan tham mưu cho Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ Quốc phòng chỉ đạo, quản lý, điều hành công tác đào tạo và xây dựng nhà trường quân đội. Đại tướng trực tiếp cùng các đồng chí trong Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương chỉ đạo các cơ quan Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị soạn thảo Nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương về đổi mới công tác nhà trường quân đội. Ngày 24/5/1988, Nghị quyết số 115/NQ-ĐU về công tác nhà trường trong thời gian 1988 - 1990 và những năm tiếp theo ra đời. Đây là Nghị quyết về đổi mới công tác nhà trường quân đội nhằm tập trung nâng cao chất lượng toàn diện và hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu “Xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong quân đội có phẩm chất đạo đức tốt, vững vàng về chính trị, có trình độ năng lực lãnh đạo chỉ huy, quản lý và phong cách lãnh đạo ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ” theo tinh thần đổi mới công tác tổ chức cán bộ do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra. Ngày 31/8/1988, Đại tướng Lê Đức Anh đã trực tiếp chủ trì Hội nghị quán triệt, triển khai Nghị quyết số 115/NQ-ĐU cho cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và cơ quan các học viện, nhà trường toàn quân.
Trên cương vị là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng đã chỉ đạo quy hoạch, kiện toàn hệ thống nhà trường quân đội, từng bước hội nhập với hệ thống giáo dục quốc dân như: Trường Sĩ quan pháo phòng không và Trường Sĩ quan chỉ huy kỹ thuật Tên lửa - Ra đa sáp nhập thành Trường Sĩ quan chỉ huy kỹ thuật phòng không (11/1987); sáp nhập ba trường: Trường Đại học Ngoại ngữ quân sự, Trường T.500 và Trường Sĩ quan chỉ huy trinh sát vô tuyến điện thành Trường Đại học Ngoại ngữ quân sự (6/1988)... Đồng thời, để hệ thống nhà trường quân đội có đủ điều kiện, vị thế tham gia hội nhập với hệ thống giáo dục quốc dân, Đại tướng Lê Đức Anh thường xuyên chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, đề xuất những biện pháp phối hợp với các bộ, ngành ra các văn bản đề nghị Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành quyết định về hệ thống nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam trong hệ thống các trường đại học và chuyên nghiệp của Nhà nước. Ngày 18/3/1987 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ra Quyết định số 86/CT về giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học thuộc lĩnh vực khoa học quân sự cho 4 học viện: Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng), Lục quân, Chính trị, Hậu cần. Tiếp đó, ngày 03/02/1991 Bộ Giáo dục và Đào tạo có Quyết định số 57/QQD cho phép quân đội tổ chức các kỳ thi tốt nghiệp bổ túc văn hóa theo quy định chung của Nhà nước; Cục Nhà trường được Bộ Quốc phòng, Bộ Giáo dục và Đào tạo giao trách nhiệm về toàn bộ công tác chỉ đạo, quản lý các kỳ thi văn hóa trong quân đội như một Sở Giáo dục và Đào tạo.
2. Lấy mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng quân đội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc làm cơ sở để đổi mới mục tiêu, chương trình, phân cấp đào tạo của các nhà trường quân đội
Giai đoạn 1987 - 1991 là giai đoạn Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Đại tướng Lê Đức Anh đề xuất với Bộ Chính trị nhiều vấn đề hệ trọng của đất nước; nhất là về lĩnh vực quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, về tổ chức xây dựng quân đội vững mạnh, giảm biên chế quân số thường trực gắn liền với điều chỉnh bố trí lực lượng, tạo thế chiến lược trên phạm vi toàn quốc, phù hợp với sự nghiệp đổi mới của Đảng, khắc phục được những khó khăn của đất nước, nâng cao khả năng tác chiến của các lực lượng vũ trang, giữ vững và tăng cường khả năng phòng thủ đất nước. Theo Đại tướng, “Đó là con đường đổi mới trong xây dựng quân đội nhân dân, đổi mới công cuộc xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ quốc phòng và an ninh, kết hợp chặt chẽ công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc”.
Trước yêu cầu đổi mới xây dựng Quân đội nhân dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân, việc tăng cường xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ các cấp là vấn đề mang tính chiến lược, có ý nghĩa quyết định sự phát triển của quân đội cả trước mắt và lâu dài. Từ đánh giá thực tiễn, nguyên nhân của hiện tượng một bộ phận sĩ quan còn hạn chế về “cả ba mặt: quản lý bộ đội, huấn luyện và chỉ huy chiến đấu”, “lý thuyết thì giỏi, nhưng thực hành lại hạn chế”; thấy rõ yêu cầu cần thiết phải xác định chủ trương mới về mục tiêu, chương trình, nội dung đào tạo. Bám sát tinh thần của Nghị quyết số 115/NQ-ĐU của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo hệ thống nhà trường toàn quân phải chuyển hướng mục tiêu đào tạo cán bộ theo học vấn sang “đào tạo theo chức vụ, chủ yếu là chức vụ ban đầu và chức vụ trọng điểm”, để sĩ quan khi ra trường có đủ khả năng điều hành, quản lý đơn vị, huấn luyện tốt và chỉ huy chiến đấu tốt. Việc phân cấp đào tạo có sự thay đổi rõ rệt nhất ở Học viện Cấp cao, Học viện Lục quân và các trường đào tạo sĩ quan cấp phân đội. Tiếp đó, theo chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh, các cơ quan Bộ Quốc phòng ban hành Chương trình đào tạo sĩ quan chỉ huy - tham mưu binh chủng hợp thành 3 cấp: chiến thuật; chiến thuật - chiến dịch; chiến dịch - chiến lược.
3. Kết hợp chặt chẽ nghiên cứu khoa học quân sự với đào tạo cán bộ
Giai đoạn này, tình hình quốc tế có những diễn biến phức tạp. Không để tác động xấu đến nhận thức, tư tưởng của bộ đội mà trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên, Đại tướng Lê Đức Anh chỉ đạo Tổng cục Chính trị chuẩn bị chu đáo và tổ chức hội thảo khoa học để “Thống nhất một số quan điểm cơ bản và nội dung chủ yếu trong giảng dạy các bộ môn khoa học xã hội ở nhà trường quân sự và các đơn vị quân đội”. Cuộc hội thảo đã được tổ chức ở Hà Nội, từ ngày 15 đến ngày 18/5/1989, có gần 80 cán bộ đầu ngành nghiên cứu giảng dạy về khoa học xã hội - nhân văn ở cơ quan chiến lược, các học viện và trường đại học trong quân đội (có cố vấn Liên Xô tham dự). Nội dung tập trung vào ba vấn đề lớn là: Thời đại ngày nay; đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và nhận thức cho đúng về chủ nghĩa tư bản hiện đại. Sau hội nghị này, những nội dung trên tiếp tục được nghiên cứu để bổ sung, cập nhật vào nội dung giảng dạy tại các trường và học tập tại đơn vị.
Trước đó, để nâng cao chất lượng công tác giáo dục, đào tạo trong quân đội, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu, các cơ quan Bộ Quốc phòng tổ chức hội thảo về công tác nghiên cứu khoa học giáo dục quân sự, trong đó tập trung làm rõ các nội dung về công tác nghiên cứu khoa học giáo dục quân sự và sư phạm quân sự và đưa ra kết luận: phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận dạy học làm cơ sở đổi mới phương pháp dạy học trong các nhà trường quân đội.
Triển khai thực hiện “đổi mới tư duy” ở lĩnh vực quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh cùng với các đồng chí trong Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương đã chỉ đạo sát sao các cơ quan Bộ Quốc phòng tiến hành song song hai công việc lớn, đó là: xây dựng kế hoạch và triển khai kế hoạch điều chỉnh thế bố trí chiến lược và giảm quân số; soạn thảo các văn bản, tài liệu, giáo trình và triển khai trên toàn quốc “Thế trận chiến tranh nhân dân” và nhiệm vụ “Quốc phòng toàn dân” làm cơ sở lý luận và thực tiễn để Bộ Chính trị ra Nghị quyết 02/NQ-TW ngày 30/7/1987. Đây là nghị quyết rất quan trọng về cơ chế, nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước cũng như đường lối chiến tranh nhân dân và xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc trong tình mới.
Đặc biệt, Đại tướng Lê Đức Anh rất tâm huyết với công việc tổng kết kinh nghiệm chiến tranh. Đại tướng cho rằng, làm được điều này một cách đầy đủ, thấu đáo, khoa học và nghiêm túc thì mang lại ý nghĩa rất to lớn, rất có ích cho công cuộc giữ nước hôm nay và mai sau. Đại tướng lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan Bộ Quốc phòng, nhất là chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu và các học viện, nhà trường đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, biên soạn tài liệu, giáo trình đào tạo cán bộ. Tập huấn cán bộ về những quan điểm, chủ trương, Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng về quân sự, quốc phòng, về phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính, lâu dài, tự lực, tự chủ và đoàn kết quốc tế đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại tướng Lê Đức Anh rất chú trọng đến công tác nghiên cứu khoa học quân sự, tổng kết thực tiễn. Ngày 01/9/1987, Đại tướng quyết định thành lập Hội đồng chỉ đạo biên soạn công trình nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong 30 năm chiến tranh giải phóng và chỉ đạo Học viện Quân sự cấp cao tổ chức bộ phận biên tập lịch sử quân sự và nghệ thuật chiến dịch trong 30 năm chiến tranh giải phóng. Qua đó, rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu vào nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ; nâng cao năng lực vận dụng linh hoạt vào thực tiễn chỉ huy, chỉ đạo huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Ngày 23/02/1990, Đại tướng đã giao nhiệm vụ cho Học viện Quân sự cấp cao cử cán bộ Học viện và 5 đồng chí giáo viên theo dõi diễn tập, cùng cơ quan Bộ tổng kết rút kinh nghiệm biên soạn tài liệu chiến dịch phòng ngự quân khu.
4. Quan tâm xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục quân sự
Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là nhiệm vụ quan trọng, quyết định đến chất lượng đào tạo cán bộ trong các học viện, nhà trường quân đội. Đại tướng Lê Đức Anh luôn dành thời gian, quan tâm sâu sát đến công tác nhà trường, quan tâm đến chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Từ ngày 01 đến ngày 22/9/1988, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo cơ quan Bộ Quốc phòng tổ chức tập huấn chiến thuật cấp sư đoàn cho hơn 300 cán bộ, giáo viên từ cấp thiếu tá trở lên cho các học viện, nhà trường (Học viện Quân sự cấp cao, Học viện Kỹ thuật quân sự, Học viện Quân y, Học viện Chính trị - quân sự và Trường trung cấp Biên phòng) và giao cho Học viện Quân sự cấp cao chủ trì.
Đại tướng Lê Đức Anh luôn quan tâm xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực tư duy, phương pháp và tác phong sư phạm của đội ngũ nhà giáo. Yêu cầu nhà giáo quân đội không chỉ có năng lực tư duy lý luận, giỏi về chuyên môn sư phạm mà thành thạo trong vận dụng vào thực tiễn, trong lãnh đạo, chỉ huy để từ đó thực hiện chương trình, nội dung đào tạo cán bộ có hiệu quả, là tấm gương để học viên học tập noi theo. Đại tướng đặc biệt quan tâm đến chất lượng đội ngũ nhà giáo quân đội, bởi theo ông, muốn có đội ngũ cán bộ được đào tạo tốt, phải có đội ngũ nhà giáo giỏi, có uy tín sư phạm cao, đồng thời chỉ rõ, bồi dưỡng, đào tạo, xây dựng đội ngũ nhà giáo quân đội có ý nghĩa quyết định. Ngày 11/11/1988, Đại tướng Lê Đức Anh chỉ đạo các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng, Cục Nhà trường tổ chức thẩm định và báo cáo danh sách nhà giáo đề nghị Hội đồng Nhà nước tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, Nhà giáo Ưu tú trong quân đội lần thứ nhất cho 02 Nhà giáo Nhân dân, 06 Nhà giáo Ưu tú của quân đội. Ngày 15/11/1988, Bộ Quốc phòng đã đề nghị Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 174/HĐBT công nhận đặc cách chức danh khoa học cho nhà giáo thuộc các bộ môn khoa học Mác - Lênin trong quân đội. Theo Quyết định này, quân đội được công nhận đặc cách 02 giáo sư, 10 phó giáo sư các bộ môn khoa học Mác - Lênin.
Với gần 100 năm tuổi đời, hơn 80 năm tuổi Đảng, đảm đương các trọng trách khác nhau, đặc biệt là trong giai đoạn 1987 - 1991, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Đại tướng Lê Đức Anh đã có những đóng góp quan trọng, góp phần cùng với Đảng, Nhà nước, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng đề ra chủ trương, đường lối, quyết sách đúng đắn đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi to lớn. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đánh giá: Đồng chí Lê Đức Anh “là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta”, của nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam. Ở bất kỳ cương vị nào, Đại tướng Lê Đức Anh cũng luôn trăn trở, tìm tòi, tâm huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng để tái thiết đất nước, khởi xướng công cuộc đổi mới, phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước; cùng Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng thế trận “chiến tranh nhân dân” và nền quốc phòng toàn dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước; nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và xây dựng hệ thống nhà trường, đội ngũ cán bộ, sĩ quan, nhà khoa học, giảng viên cho quân đội. Những đóng góp to lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng, tư tưởng lý luận và hoạt động thực tiễn lãnh đạo, chỉ huy quân đội nói chung, công tác nhà trường quân đội nói riêng của Đại tướng Lê Đức Anh vẫn mãi là những bài học quý báu để chúng ta trân trọng, kế thừa, phát triển trong sự nghiệp xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Trung tướng, GS.TS TRẦN HỮU PHÚC
Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Chủ tịch nước là một vị tướng tài ba, người lãnh đạo Đảng, Nhà nước xuất sắc đã có nhiều đóng góp to lớn đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của quân đội, của Đảng, Nhà nước và dân tộc. Trong suốt những năm trên cương vị là người chỉ huy cao nhất của quân đội, bằng tư duy của một vị tướng dạn dày kinh nghiệm và sự am hiểu về vai trò, tầm quan trọng của công tác nghiên cứu khoa học đối với sự nghiệp xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với công tác khoa học quân sự.
Sau khi được bầu là Ủy viên Bộ Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), đến tháng 02/1987, Đại tướng Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Từ đây, trên cương vị là người chỉ huy cao nhất của quân đội, Đại tướng Lê Đức Anh đã dành hết tâm sức và trí lực lãnh đạo, chỉ huy quân đội thực hiện nhiệm vụ xây dựng
lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội trong tình hình mới và đã có nhiều cống hiến to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại tướng đã có nhiều quyết sách về quốc phòng, an ninh, về giảm số lượng quân thường trực, về kết hợp xây dựng kinh tế với quốc phòng, xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của từng địa phương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân trên từng địa bàn chiến lược của cả nước. Đại tướng luôn đặt ra những yêu cầu đối với quân đội là không được chủ quan thỏa mãn với những gì đã làm được, phải phấn đấu vươn lên để nâng cao chất lượng toàn diện của quân đội, của lực lượng vũ trang trong điều kiện mới. Để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đó, Đại tướng luôn coi trọng và dành sự quan tâm đặc biệt đối với công tác nghiên cứu khoa học quân sự, coi trọng nâng cao tri thức quân sự để góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quán triệt và vận dụng sáng tạo, đúng đắn đường lối, quan điểm của Đảng đối với nhiệm vụ khoa học quân sự, Đại tướng đã cùng với Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) đề xuất và chỉ đạo nhiều chủ trương, biện pháp mang tính đột phá, góp phần tạo ra bước chuyển căn bản trong công tác nghiên cứu khoa học quân sự. Đó là việc đề ra những yêu cầu về việc tăng cường chất lượng, số lượng và tổ chức biên chế của các cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu, công tác quản lý khoa học quân sự trong toàn quân. Theo Đại tướng, để quân đội xây dựng được một nền khoa học quân sự tiên tiến, phục vụ cho đường lối nghệ thuật quân sự của Đảng, phấn đấu vươn lên ngang tầm với trình độ khoa học - công nghệ của khu vực và quốc tế thì vấn đề xây dựng một đội ngũ cán bộ khoa học cân đối, đồng bộ, có trình độ cao có vai trò rất quan trọng. Đội ngũ cán bộ khoa học trong quân đội không những phải đáp ứng những yêu cầu trước mắt và sự phát triển tương lai, mà còn giữ vai trò nòng cốt trong việc phối hợp với các lực lượng trong và ngoài quân đội để giải quyết tốt nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Đại tướng luôn đặt ra yêu cầu phải đào tạo được những nhà khoa học giỏi, những cán bộ đầu ngành làm nòng cốt, đủ sức giải quyết mọi vấn đề do nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt ra.
Cùng với đó, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo toàn quân tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 33/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa VI) về nhiệm vụ quốc phòng, trong đó có nhiệm vụ điều chỉnh lực lượng, rút giảm quân số, từng bước tinh giản biên chế, sắp xếp các tổ chức và đội ngũ cán bộ nói chung, các tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học nói riêng; thực hiện điều chỉnh theo hướng kết hợp trước mắt và lâu dài, tích cực đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ và đội ngũ cán bộ kế cận. Đại tướng nêu rõ: “chú trọng xây dựng công nghiệp quốc phòng tự chủ, có khoa học - kỹ thuật tiên tiến, có lực lượng cán bộ và nhân viên khoa học ngày càng phát triển. Phương hướng là sẽ giảm quân thường trực với số lượng lớn, nhưng lực lượng nghiên cứu khoa học nên tăng chứ không giảm”.
Xuất phát từ yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại, chuẩn bị cho đất nước sẵn sàng chống xâm lược, đầu năm 1987, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo Cục Khoa học quân sự phối hợp với các cơ quan trong và ngoài quân đội nghiên cứu, chuẩn bị nội dung giúp Bộ Chính trị (khóa VI) ra Nghị quyết số 02/BCT xác định nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo. Tinh thần chính của nghị quyết là phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước và từng địa phương bảo vệ vững chắc công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng cường khả năng phòng thủ đất nước, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam chính quy, từng bước hiện đại, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, tham gia xây dựng kinh tế và làm tốt nghĩa vụ quốc tế với cách mạng Lào, Campuchia. Để từng bước nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học quân sự trong toàn quân, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo khẩn trương thành lập Hội đồng Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ xét duyệt các công trình về khoa học quân sự, tổng kết chiến tranh và lịch sử quân sự. Thực hiện chỉ đạo của Đại tướng, ngày 29/12/1987, Bộ Quốc phòng đã ra Quyết định số 1894/QĐ-QP thành lập Hội đồng Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng, do Bộ trưởng Lê Đức Anh làm Chủ tịch Hội đồng. Tiếp đó, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo các cơ quan nghiên cứu thành lập hội đồng khoa học chuyên ngành trực thuộc Hội đồng Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng gồm: Lịch sử quân sự, Nghệ thuật quân sự, Chính trị quân sự, Tổ chức lực lượng vũ trang, Hậu cần quân sự, Kinh tế quân sự và Kỹ thuật quân sự, có nhiệm vụ giúp Hội đồng Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng xem xét, tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến vào các công trình khoa học, hoạt động khoa học thuộc chuyên ngành mình và kiến nghị những vấn đề cần đưa ra Hội đồng Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng để thảo luận, quyết định. Từ đây, công tác khoa học quân sự toàn quân ngày càng đi vào nền nếp, chính quy, góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào xây dựng quân đội và củng cố nền quốc phòng.
Đối với hệ thống tổ chức các cơ quan quản lý và các cơ quan làm công tác nghiên cứu khoa học quân sự. Thực hiện Quyết định số 823/QĐ-QP về việc thành lập Cục Quản lý kỹ thuật trên cơ sở hợp nhất một bộ phận của Bộ Tham mưu và Cục Quản lý khoa học - kỹ thuật (Tổng cục Kỹ thuật) về trực thuộc Bộ Quốc phòng, ngày 31/12/1987, thay mặt Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã ký Quyết định số 377/QĐ-ĐUQSTW chuyển Đảng bộ Cục Quản lý kỹ thuật trực thuộc Đảng bộ Tổng cục Kỹ thuật về trực thuộc Đảng bộ Bộ Tổng Tham mưu - Cơ quan Bộ Quốc phòng.
Bước sang năm 1988, toàn quân triển khai thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TW của Bộ Chính trị “Về xây dựng nền quốc phòng toàn dân” và Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VI) (tháng 5/1988) “Về công tác đối ngoại trong thời kỳ mới”, làm cho tình hình biên giới dần đi vào ổn định, cơ bản chấm dứt chiến sự, toàn quân điều chỉnh lực lượng cho phù hợp với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, rút dần quân tình nguyện ở Lào, Campuchia về nước. Thực hiện chủ trương đó, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo Cục Khoa học quân sự nghiên cứu, giải quyết chính sách cho một số cán bộ, chiến sĩ và triển khai những biện pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý, nghiên cứu và nghiệm thu các đề tài khoa học quân sự.
Năm 1989, đời sống nhân dân dần đi vào ổn định; tình hình biên giới phía Bắc ổn định hơn, quân tình nguyện ở Lào và Campuchia được rút về nước. Tuy nhiên, chiến lược “diễn biến hòa bình” do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiến hành diễn ra ngày càng thâm độc và xảo quyệt. Từ tình hình trên, Bộ trưởng Lê Đức Anh đã chỉ đạo các cơ quan khoa học triển khai nghiên cứu đề ra các biện pháp có hiệu quả để đánh bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, tránh ảo tưởng mất cảnh giác, đồng thời, tranh thủ mở cửa, hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới.
Đối với công tác khoa học - kỹ thuật quân sự, sau hai năm thực hiện quản lý và bảo đảm kỹ thuật theo 10 chuyên ngành đã bộc lộ một số mặt hạn chế, không phát huy được vai trò của các cấp trong công tác kỹ thuật; đồng thời cần giải quyết mối quan hệ hợp lý giữa ngành và cấp chỉ huy trong chỉ đạo công tác kỹ thuật, ngày 24/4/1989, Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ký Quyết định số 130/QĐ-QP “Quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Tổng cục Kỹ thuật”. Ngoài các nhiệm vụ chỉ đạo công tác quản lý nói chung, Tổng cục Kỹ thuật có nhiệm vụ quản lý và chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học - kỹ thuật quân sự, quản lý các hoạt động sáng kiến, sáng chế toàn quân, hợp tác khoa học - kỹ thuật với các ngành của Nhà nước và nước ngoài, giúp Bộ Quốc phòng chỉ đạo các viện, cơ sở nghiên cứu kỹ thuật trong toàn quân.
Bước sang năm 1990, đất nước tuy còn nhiều khó khăn thách thức trên con đường đổi mới, nhưng đang có những chuyển biến tích cực về kinh tế. Trong khi đó, cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội tại các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu ngày càng trầm trọng dẫn tới tan rã, công cuộc cải tổ ở Liên Xô gặp khó khăn, phức tạp. Những diễn biến đó đã tác động đến tâm tư, tình cảm và lòng tin của cán bộ, chiến sĩ vào sự lãnh đạo của Đảng. Trước tình hình đó, quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VI), Đại tướng Lê Đức Anh đã giao cho các cơ quan khoa học tiến hành nghiên cứu các vấn đề về lý luận và thực tiễn, làm rõ tính chất, nguyên nhân cuộc khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa, khả năng diễn biến và những tác động cũng như âm mưu của chủ nghĩa đế quốc đối với nước ta. Từ đó giúp cán bộ, chiến sĩ tin tưởng, kiên định với con đường mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn, quyết tâm cầm chắc tay súng để bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ. Đại tướng chỉ đạo Cục Khoa học quân sự phối hợp với Cục Tác chiến nghiên cứu hoàn thành tài liệu “Xây dựng tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ” trên cơ sở tài liệu “Tác chiến bảo vệ khu vực” trước đây. Sau khi hoàn thành, tài liệu được Hội đồng Khoa học Bộ Quốc phòng do Đại tướng Lê Đức Anh làm Chủ tịch đã thông qua, làm cơ sở cho toàn quân và các địa phương vận dụng.
Nhằm tăng cường công tác nghiên cứu về chiến lược quân sự trong tình hình mới, làm cơ sở để tham mưu cho Bộ Quốc phòng, Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ xây dựng quân đội, nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu, tham mưu cho Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng thành lập Viện Chiến lược quân sự (nay là Viện Chiến lược quốc phòng). Trên cơ sở đó, ngày 10/01/1990, Bộ Quốc phòng đã ký quyết định thành lập Viện Chiến lược quân sự do Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo làm Viện trưởng, có nhiệm vụ nghiên cứu, đề đạt các kiến nghị, tư vấn cho Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng, Bộ Chính trị những vấn đề về chiến lược quân sự. Tiếp đó, dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng Lê Đức Anh, các cơ quan nghiên cứu khoa học trong toàn quân được kiện toàn, được phân công nhiệm vụ cụ thể, được phân cấp ngân sách và tài khoản riêng. Theo đó, Viện Chiến lược quân sự có nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề về chiến lược quân sự. Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng) nghiên cứu về nghệ thuật chiến dịch và nghệ thuật cấp sư đoàn. Học viện Lục quân nghiên cứu về chiến thuật cấp trung đoàn. Trường Sĩ quan Lục quân 1 và 2 nghiên cứu về chiến thuật cấp tiểu đoàn trở xuống. Các học viện, trường sĩ quan thuộc các quân chủng, binh chủng nghiên cứu, biên soạn tài liệu của quân chủng, binh chủng và ngành mình.
Cục Khoa học quân sự được Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ là cơ quan quản lý đầu ngành về khoa học quân sự trong toàn quân, tham mưu giúp Bộ Quốc phòng trong việc kiện toàn hệ thống cơ quan khoa học quân sự toàn quân, đồng thời là cơ quan thường trực của Hội đồng Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng, chăm lo việc kiện toàn hội đồng và giúp chỉ huy các cấp chỉ đạo, tiến hành công tác nghiên cứu khoa học quân sự, thông qua các công trình nghiên cứu theo phân công, phân nhiệm và xây dựng tiềm lực. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác nghiên cứu khoa học quân sự, Đại tướng đặt ra yêu cầu đối với các viện nghiên cứu, các học viện, nhà trường có nhiệm vụ nghiên cứu khoa học là cần nhận thức đúng vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mình; các công trình và đề tài khoa học phải có giá trị thực tiễn và ứng dụng ngay vào công tác giáo dục, đào tạo, huấn luyện bộ đội. Đồng thời, phải nhanh chóng chấn chỉnh tổ chức, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nghiên cứu có trình độ sau đại học và phấn đấu trở thành những nhà nghiên cứu khoa học chuyên sâu.
Ngày 30/3/1991, Bộ Chính trị (khóa VII) ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW Về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới. Để thống nhất thực hiện trong toàn quân, Đại tướng Lê Đức Anh đã giao cho các cơ quan nghiên cứu đề tài cấp Bộ Quốc phòng “Hoạt động khoa học quân sự và quản lý khoa học quân sự đến năm 2000”. Căn cứ vào tình hình thực tế, quán triệt tinh thần Đại hội lần thứ VII của Đảng về kiên định con đường đổi mới, đề tài này đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể về công tác khoa học quân sự và quản lý khoa học quân sự trong quân đội theo hướng tập trung, thống nhất vào một đầu mối. Tiếp đó là nghiên cứu ban hành “Quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội đồng khoa học quân sự”, “Quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội đồng khoa học - kỹ thuật quân sự” các cấp.
Thực hiện chủ trương về công tác đối ngoại của Đảng là Việt Nam muốn là bạn của tất cả các quốc gia, các dân tộc trên thế giới cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập, hữu nghị và phát triển, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, tháng 11/1991, Việt Nam đã ký Hiệp định chính thức về việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, đồng thời xúc tiến việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Nhiệm vụ nặng nề ấy được giao cho Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng. Trong buổi làm việc với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Đại tướng Lê Đức Anh đã khẳng định khoa học không chỉ có vai trò trong sự nghiệp đổi mới đất nước mà còn có vai trò trong thực hiện nhiệm vụ đối ngoại. Do vậy, Đại tướng khẳng định: “Tôi đồng ý và chọn con đường tiếp cận từ khoa học”. Trên cơ sở đó, Đại tướng Lê Đức Anh đã chọn và cử đồng chí Thiếu tướng GS.TS. Nguyễn Huy Phan, Phó Viện trưởng Viện Quân y 108 làm “người mở đầu” sang Mỹ để dự hội thảo trao đổi về khoa học, nhưng thực chất là để thực hiện nhiệm vụ chính trị. Trước khi đồng chí Nguyễn Huy Phan lên đường sang Mỹ, Đại tướng căn dặn: “Sang đó, anh làm tốt việc trao đổi về khoa học với các nhà khoa học Mỹ là đã phục vụ nhân dân, phục vụ chính trị rồi”2. Đây chính là bước đi đầu tiên và quan trọng của ta để tiến tới bình thường hóa quan hệ với Mỹ sau này.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991), Đại tướng Lê Đức Anh tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng. Tháng 9/1992, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá IX, Đại tướng Lê Đức Anh được bầu giữ chức Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặc dù không còn trực tiếp chỉ huy quân đội nhưng suốt trong những năm trên cương vị là Chủ tịch nước, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Đại tướng vẫn luôn dành nhiều thời gian và tâm huyết đối với công tác khoa học nói chung, công tác khoa học quân sự nói riêng.
Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng được tôi luyện, trưởng thành trong khói lửa của chiến tranh, với sự am hiểu về vị trí, vai trò của khoa học quân sự đối với sự nghiệp xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng; trong suốt thời gian trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng luôn quan tâm đặc biệt đến công tác khoa học quân sự. Vì vậy, Đại tướng luôn đặt ra những yêu cầu, coi công tác khoa học quân sự là một nhiệm vụ quan trọng của quân đội, là một nhân tố cơ bản góp phần vào sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta. Những chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh đối với công tác khoa học quân sự trên cương vị là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã góp phần quan trọng vào những kết quả đạt được của quân đội ta trên lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng các sản phẩm khoa học, đồng thời để lại những bài học có giá trị đòi hỏi chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu và vận dụng trong giai đoạn hiện nay.
Trước yêu cầu mới của công tác khoa học quân sự, các cơ quan khoa học quân sự và các nhà khoa học cần tiếp tục tập trung nghiên cứu, bổ sung phát triển hệ thống lý luận về nghệ thuật quân sự Việt Nam, nghệ thuật chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Qua đó, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định chủ trương, chính sách về quân sự - quốc phòng; tạo ra những sản phẩm khoa học công nghệ có tính đột phá; nghiên cứu, thiết kế, chế tạo một số sản phẩm mang tầm cỡ quốc gia và hướng tới xuất khẩu một số trang thiết bị ra thị trường quốc tế. Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện, đồng bộ cơ chế quản lý và cơ chế hoạt động khoa học; gắn chặt giữa nghiên cứu, ứng dụng kết quả nghiên cứu và sản xuất quốc phòng; phấn đấu đưa nhiều kết quả nghiên cứu vào ứng dụng trong thực tiễn, góp phần xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thiếu tướng, PGS.TS. NGÔ VĂN GIAO
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng hơn 80 năm, Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã có nhiều công lao, cống hiến to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và sự trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Là người cán bộ trưởng thành trong thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc, thấu hiểu những gian khổ, hy sinh của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ quân đội... nên trên bất kỳ cương vị nào, từ người chỉ huy trong quân đội đến khi làm Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh luôn dành những tình cảm sâu nặng và quan tâm sâu sắc đến công tác chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội, nhất là việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với cán bộ, chiến sĩ; thực hiện chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ; chính sách khen thưởng, động viên chiến trường, v.v..
Trong thời gian đảm nhiệm trọng trách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành và triển khai thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, chính sách lớn đối với quân đội, thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và hậu phương quân đội; góp phần động viên tinh thần, giảm bớt khó khăn cho các đối tượng chính sách; đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế.
Quán triệt quan điểm “Toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”[98] do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra; trong điều kiện đất nước bị bao vây cấm vận, nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng, quân số thường trực của quân đội lúc cao nhất trên một triệu người, vượt quá khả năng bảo đảm của hậu cần quân đội, Đại tướng Lê Đức Anh cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương đã đề xuất và được Bộ Chính trị đồng ý về chủ trương điều chỉnh tổ chức, biên chế, bố trí chiến lược của quân đội và một số chính sách đối với quân đội, hậu phương quân đội.
Để giải quyết chế độ, chính sách đối với số lượng lớn cán bộ, chiến sĩ thuộc diện giảm quân số trong quá trình thực hiện điều chỉnh tổ chức, biên chế quân đội, Đại tướng Lê Đức Anh đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương đề xuất và được Trung ương nhất trí, các bộ, ban, ngành ủng hộ việc ưu tiên bộ đội xuất ngũ đi hợp tác lao động ở nước ngoài. Theo đó, số lượng lớn cán bộ, chiến sĩ xuất ngũ do giảm quân số thường trực đã được giải quyết việc làm. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử quân đội ta có những đợt ra quân lớn, cán bộ, chiến sĩ ở các đơn vị và cơ quan quân đội đi lao động ở nước ngoài. Tính từ năm 1987 đến năm 1990, quân đội đã tổ chức cho 37.338 người đi lao động xuất khẩu, bảo đảm khi về nước vừa có nghề, vừa được giải quyết chính sách thỏa đáng, vừa có một khoản thu nhập đáng kể để cải thiện kinh tế và ổn định đời sống gia đình, tiếp tục đầu tư vào sản xuất kinh doanh, nâng cao mức sống và làm giàu chính đáng, góp phần giải quyết khó khăn chung cho đất nước.
Việc bảo đảm chế độ, chính sách đối với bộ đội tại ngũ trong giai đoạn này cũng được Đại tướng Lê Đức Anh và Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện; trong đó, tập trung vào nghiên cứu, đề xuất ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước về cải cách chế độ tiền lương của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới. Mặt bằng tiền lương của sĩ quan và những người hưởng lương trong quân đội được nâng lên gấp 1,5 lần so với trước năm 1986, góp phần chăm lo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội. Đối với cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ trên quần đảo Trường Sa được hưởng thêm một số loại phụ cấp như: phụ cấp đặc biệt mức 50%, phụ cấp chiến đấu mức 20%, phụ cấp thu hút mức 15%, phụ cấp thâm niên quần đảo Trường Sa, v.v.. Cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia được bảo đảm đầy đủ sách, báo, trang bị sinh hoạt văn hóa, tinh thần; được cấp thêm tiền để mua thực phẩm, thuốc điều trị, v.v.. Lực lượng phi công làm nhiệm vụ thường trực sẵn sàng chiến đấu và các nhiệm vụ khác trên khu vực quần đảo Trường Sa được hưởng phụ cấp chiến đấu, phụ cấp thu hút, v.v.. Thông qua đó, đã cải thiện đời sống của bộ đội, động viên cán bộ, chiến sĩ yên tâm công tác, chiến đấu, khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Ngoài chăm lo phụ cấp, tiền lương cho bộ đội, Đại tướng Lê Đức Anh còn cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng đặc biệt quan tâm chăm lo đời sống cán bộ, xây dựng và phân phối nhà ở cho cán bộ trong quân đội, đáp ứng nhu cầu bức thiết của cán bộ, công nhân viên quốc phòng. Lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc triển khai tổ chức thực hiện chủ trương trích một phần quỹ đất quốc phòng ở doanh trại còn bỏ hoang để chia và cấp cho bộ đội tự xây nhà ở, đơn vị lo phần cơ sở hạ tầng như đường, điện, nước, v.v. cho cả khu hộ gia đình; trong đó, ưu tiên cho số cán bộ được giải quyết ra quân (về hưu, nghỉ mất sức), cán bộ diện chính sách (thương binh, con gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng). Số cán bộ không có gia đình ở đô thị, trở về sinh sống ở nông thôn thì được cấp một khoản tiền cùng với doanh cụ, vật liệu xây dựng để họ có thể xây dựng được căn nhà cấp 4. Với sự quan tâm đó, sau một thời gian, việc ăn ở, định cư của các hộ gia đình cán bộ, công nhân viên quốc phòng đã được giải quyết một cách căn bản.
Để củng cố hậu phương quân đội và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ cũng như giải quyết những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh, Đại tướng Lê Đức Anh cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Đảng, Chính phủ, Bộ Quốc phòng ban hành nhiều văn bản, như: Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 23/3/1988 của Ban Bí thư về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo chấp hành tốt chính sách hậu phương quân đội; Chỉ thị số 39/CT-TW ngày 21/5/1988 của Ban Bí thư hướng dẫn thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia Việt Nam ở Campuchia; Quyết định số 221/CT ngày 13/7/1987 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc tặng quà cho thương binh, bệnh binh hạng 1 nhân ngày 27/7/1987; Chỉ thị số 105-CT, ngày 29/4/1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc thực hiện một số chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội; Chỉ thị số 960/QP ngày 01/7/1987 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc chấp hành tốt hơn nữa chính sách thương binh, liệt sĩ và hậu phương quân đội; Quyết định số 992/QP ngày 06/7/1987 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc điều chỉnh, bổ sung một số điểm về chính sách, chế độ đối với thương binh, bệnh binh ở đoàn an dưỡng thương binh; Chỉ thị số 1069/QP ngày 15/7/1987 của Bộ Quốc phòng về củng cố tổ chức, quản lý, giáo dục, nuôi dưỡng thương binh, bệnh binh ở các đoàn an dưỡng thương binh; Chỉ thị số 50/CT-QP ngày 17/02/1990 của Bộ Quốc phòng về tăng cường lãnh đạo và chỉ đạo giải quyết xong gọn những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh; Chỉ thị số 89/CT-QĐ ngày 15/3/1991 của Bộ Quốc phòng về việc tiếp tục giải quyết tồn đọng về chính sách sau chiến tranh, v.v.. Những chủ trương, chính sách trên đã thực sự phát huy hiệu quả, góp phần bảo đảm cho thương binh, bệnh binh có điều kiện sinh hoạt ổn định và từng bước được cải thiện; giúp đỡ thiết thực những gia đình đang gặp khó khăn về đời sống, gia đình có quân nhân đang làm nhiệm vụ ở biên giới, đảo xa và làm nhiệm vụ quốc tế; giải quyết một bước cơ bản những vấn đề tồn đọng trong chiến tranh như quy tập mộ liệt sĩ, khen thưởng trong kháng chiến.
Có thể khẳng định, trong thời gian đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, công tác chính sách đối với quân đội, hậu phương quân đội được Đại tướng Lê Đức Anh và tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Những chủ trương, chính sách đối với quân đội, hậu phương quân đội được ban hành và triển khai thực hiện trong thời gian này đã giúp cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội; góp phần để cán bộ, chiến sĩ toàn tâm, toàn ý chiến đấu và công tác; tạo sự ổn định về tư tưởng, tổ chức trong quá trình điều chỉnh chiến lược và chấn chỉnh tổ chức lực lượng của quân đội; đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng - an ninh của quốc gia những năm đầu đất nước bước vào sự nghiệp đổi mới đầy khó khăn, thách thức.
Năm 1992, Đại tướng Lê Đức Anh được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bầu giữ chức vụ Chủ tịch nước. Trong nhiệm kỳ làm Chủ tịch nước, đồng chí đã cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng trong công tác đối nội, đối ngoại, góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, quốc phòng, an ninh được giữ vững và củng cố; đồng thời, đưa công cuộc đổi mới (được khởi xướng từ năm 1986) đi vào hiện thực. Với cương vị và trách nhiệm của mình, Chủ tịch nước Lê Đức Anh thường xuyên đề xuất nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc, có tầm chiến lược sâu rộng về công tác quân sự, quốc phòng cho Đảng và Nhà nước ta, nhất là trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh. Thời kỳ này, các chủ trương, chính sách lớn như: Chế độ tiền lương mới, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, Pháp lệnh về Dân quân tự vệ, Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên, Pháp lệnh Bộ đội biên phòng, v.v., được ban hành và triển khai thực hiện đã góp phần quan trọng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Đặc biệt, chính sách đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và chính sách hậu phương quân đội luôn được Chủ tịch nước Lê Đức Anh quan tâm sâu sắc. Bởi theo đồng chí, đây là sự ghi nhận, tri ân của Đảng, Nhà nước đối với những người đã cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; đồng thời, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng cho các thế hệ mai sau. Ngày 10/9/1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng. Ngay sau khi hai pháp lệnh trên ban hành, toàn dân, toàn quân, các cấp, các ngành trong cả nước đã trân trọng đón nhận và tích cực triển khai tổ chức thực hiện. Cũng từ đây đã xuất hiện phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, xây tặng “Nhà tình nghĩa” và phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Phong trào xây dựng “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”, “Toàn dân chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với nước” trong các cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân đã trở thành nếp sống mang đậm tính nhân văn và truyền thống văn hóa “Uống nước nhớ nguồn” của các tầng lớp nhân dân trong cả nước.
Có thể thấy rằng, những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với quân đội, hậu phương quân đội do Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tham mưu, đề xuất ban hành trong thời gian đồng chí Lê Đức Anh đảm nhiệm trọng trách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Chủ tịch nước có ý nghĩa chính trị - xã hội to lớn, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội và củng cố hậu phương quân đội; kịp thời động viên cán bộ, chiến sĩ yên tâm công tác, chiến đấu, khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đồng thời, góp phần thắt chặt mối quan hệ đoàn kết quân - dân, ổn định tình hình chính trị - xã hội ở từng địa phương và trong cả nước.
Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh, chúng ta càng thêm tự hào về một vị tướng tài ba, một nhà lãnh đạo xuất sắc, một nhân cách đức độ, giản dị, gần gũi nhân dân. Những đóng góp to lớn của Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh về công tác chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội là những bài học kinh nghiệm quý báu; là cơ sở để chúng ta tiếp tục nghiên cứu, vận dụng thực hiện tốt hơn nữa trong thời gian tới.
Hiện nay, trước yêu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, ngành chính sách quân đội phải luôn quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, bám sát thực tiễn tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, hoạt động của quân đội, chủ động nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng ban hành đồng bộ và ngày càng hoàn thiện hệ thống chế độ, chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội, phù hợp với sự phát triển chung của đất nước; ưu tiên các chính sách động viên, khuyến khích đối với các lực lượng mới, làm nhiệm vụ đặc thù, lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, làm nhiệm vụ ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, biển, đảo, v.v.. Chú trọng đề xuất và thực hiện các chính sách phục vụ cho quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; thu hút, tuyển dụng và trọng dụng nhân tài trong quân đội; chính sách phục vụ chủ trương xây dựng quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân chăm lo thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. Thực hiện tốt chính sách đối với người có công với cách mạng, người tham gia kháng chiến; huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội; đẩy mạnh các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa” bằng nhiều hình thức, cách làm thiết thực, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các đối tượng chính sách và người có công với cách mạng. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác tìm kiếm, quy tập và xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, giải quyết tồn đọng chính sách sau chiến tranh nhằm đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và đối tượng chính sách.
Nâng cao chất lượng thực hiện các chính sách xã hội trong quân đội. Tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách đãi ngộ đối với gia đình quân nhân, những người làm nhiệm vụ quân sự, quốc phòng ở địa phương; đào tạo, hỗ trợ và giải quyết tốt việc làm cho quân nhân xuất ngũ; các chế độ hỗ trợ đối với cán bộ cấp cao, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, những người có nhiều công lao, cống hiến cho cách mạng, quân đội và gia đình cán bộ, chiến sĩ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, v.v.; đồng thời, tiếp tục kiện toàn cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác chính sách trong quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, đủ sức tham mưu cho cấp ủy, chỉ huy các cấp lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện tốt hơn nữa chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội trong tình hình mới.
Thiếu tướng TRẦN QUỐC DŨNG
Ở huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế có một người trai trẻ sớm giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng; năm 1937, khi mới 17 tuổi. Đến tháng 5/1938, anh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Người đó là Lê Văn Giác tức Lê Đức Anh.
Đồng chí Lê Đức Anh sinh năm 1920, tuổi Canh Thân. Đồng chí được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương lúc phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ đang phát triển mạnh mẽ, nhưng chỉ 2 năm liền sau đó, sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, thực dân Pháp điên cuồng đàn áp đẫm máu phong trào cách mạng. Lúc đó, hầu như đa số đảng viên cộng sản đều phải tìm mọi cách tồn tại, rút vào hoạt động bí mật để bảo toàn lực lượng và dần gây dựng lại cơ sở và phong trào cách mạng. Trong bối cảnh đó, đảng viên trẻ Lê Đức Anh đã lặng lẽ rời Huế, vào Đà Nẵng rồi lên Đà Lạt để tính phương án hoạt động mới. Đồng chí Lê Đức Anh làm thuê cho chủ một biệt thự người Pháp, hằng ngày quét dọn biệt thự, quét lá thông của cả quả đồi xung quanh biệt thự với lương 15 đồng một tháng. Tiền ăn đã hết 12 đồng, làm thuê được hai tháng, nhận thấy phải học lấy một nghề kiếm tiền đủ sinh sống, để tiếp tục hoạt động cách mạng, ông sang ngôi biệt thự kề bên, xin làm thêm việc ngoài giờ là đứng xay thịt làm patê, xúc xích, dăm bông và học đánh máy chữ... Từ việc làm thêm này, ông có thu nhập thêm 3 đồng/tháng. Rồi thật may mắn, thấy patê xúc xích ông làm ăn rất ngon nên một ông chủ người Tây khác đã thuê và đưa ông xuống đồn điền cao su Lộc Ninh, giao cho hai việc: vừa làm patê, xúc xích để chủ dùng, vừa đi phát thực phẩm cho các “làng cu ly cao su” của đồn điền, với mức lương 45 đồng/tháng.
Xin được nói rõ thêm rằng, trong quãng thời gian làm thuê tại đồn điền cao su Lộc Ninh, đồng chí Lê Đức Anh không hề phải làm các việc cuốc, cày và cạo mủ, mà hằng ngày ông làm trong xưởng thịt nguội, rồi ngồi trên xe cam nhông đi phát thực phẩm cho các “làng cu ly”. Vì thế nên về sau này, một vài người đố kỵ với ông, ác ý nói rằng “Lúc đó ông là cai, quản lý và đã đánh đập công nhân”. Thực chất, người chủ đồn điền gọi ông là “cạprằng”, chức vụ tương đương như người đội trưởng một đội cu ly cao su. Đồng chí Lê Đức Thọ (nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trưởng ban Tổ chức Trung ương) lúc sinh thời đã từng nói: Chính ông Thọ cũng đã từng là một cạprằng; tiếng Pháp là Capôran Đề Capôrô, cũng chỉ là người làm thuê. Ngay cả Đờ Lalan, Trưởng đồn điền và Manđôn, Phó đồn điền Lộc Ninh cũng là người làm thuê cho vị chủ Tây ở Pháp. Với đồng chí Lê Đức Anh, đây là một công việc mới, ông vừa có thu nhập khá, lại vừa được đi lại gần như tự do, cả hai đều là điều kiện tốt cho việc bắt mối và gây dựng cơ sở phong trào cách mạng.
Điều đầu tiên ông nhận thấy, ngoài giờ lao động, công nhân chỉ biết uống rượu và đánh bạc, ăn ở thì bẩn thỉu và nhếch nhác. Mà khi công nhân làm thuê đã bị tha hóa thì chủ Tây càng coi khinh và thẳng tay đánh đập, cúp lương... Ông trao đổi với tổ trưởng các tổ công nhân (lúc đó gọi là Thầy Xu) tiến hành sắp xếp lại chỗ ăn ở, tổ chức trồng rau xanh cải thiện bữa ăn, bỏ dần nạn đánh bạc, tối ngủ mắc màn và thực hành khoán trong lao động để nâng cao năng suất. Từ những thay đổi này, công nhân đã ý thức được và nâng cao lòng tự trọng, thay đổi nếp sống của mình. Năng suất lao động tăng, thời gian nghỉ ngơi nhiều hơn, chủ Tây thêm hài lòng vì sản phẩm thu được nhiều hơn. Vì thế, khi các cu ly tụ tập ngoài giờ làm, chủ Tây cũng làm ngơ. Đây cũng là điều kiện tốt để đồng chí Lê Đức Anh lựa chọn các nhân tố tích cực gây dựng tổ chức cách mạng đầu tiên tại đồn điền.
Đọc báo chí, thấy bên “chính quốc” (nước Pháp) có tổ chức nghiệp đoàn, đồng chí Lê Đức Anh bèn xin chủ Tây cho công nhân cao su tổ chức ra nghiệp đoàn của mình, chủ Tây buộc phải đồng ý. Thế là, dưới con mắt của chủ Tây, “nghiệp đoàn phu cao su” chỉ là tổ chức nghề nghiệp ái hữu, chẳng có hại gì, nhưng thực chất là tổ chức của phong trào công nhân do những đảng viên cộng sản lãnh đạo. Khi phong trào phát triển nhanh và vững ở đồn điền Lộc Ninh, đồng chí Lê Đức Anh cùng chi bộ cộng sản đưa phong trào phát triển rộng ra các đồn điền lân cận: Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch... Ngày đồng chí Lê Đức Anh tìm về Sài Gòn để bắt liên lạc với tổ chức đảng ở đây thì ở vùng đồn điền cao su Lộc Ninh đã có một phong trào công nhân phát triển và những “Nghiệp đoàn phu cao su” khá vững mạnh. Khi các đảng viên cộng sản: Nguyễn Văn Trấn, Văn Công Khai, Nguyễn Văn Trung, Lê Đức Anh... gặp nhau tại nhà in Phú Hữu ở đường Galylê, Sài Gòn, tất cả đều vui mừng, vì phong trào cách mạng của những người cộng sản không những không bị dập tắt vì cuộc khủng bố tàn bạo của thực dân Pháp sau khởi nghĩa Nam Kỳ, mà nó vẫn tồn tại và đang ngày càng phát triển.
Sang năm 1943, ba đảng viên cộng sản hoạt động ở địa bàn Thủ Dầu Một là đồng chí Văn Công Khai, đồng chí Nguyễn Văn Trung và đồng chí Lê Đức Anh đã tổ chức cuộc họp đầu tiên tại nhà ông Sáu Trạng ở thị trấn Bến Cát. Họ bàn bạc và phân công nhau: đồng chí Văn Công Khai vẫn trong vỏ bọc “thợ hớt tóc dạo” trên tuyến đường bộ Sài Gòn - Thủ Dầu Một - Dầu Tiếng; đồng chí Nguyễn Văn Trung hoạt động trên tuyến đường sắt Sài Gòn - Chơn Thành - Lộc Ninh; đồng chí Lê Đức Anh tiếp tục nhân rộng phong trào công nhân ở vùng đồn điền cao su để sẵn sàng đón thời cơ của cách mạng.
Tháng 2/1944, Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở đồn điền Cao su Lộc Ninh được thành lập với 5 đảng viên gồm: đồng chí Lê Đức Anh là Bí thư Chi bộ và các đồng chí đảng viên là: đồng chí Lộc - nhân viên bưu điện, đồng chí Ba Đèn - thợ điện, đồng chí Hai Lực - thợ nguội và đồng chí Cứng - lái xe. Đồng chí Nguyễn Văn Gián, người gốc Chợ Lớn, vì ông là người phụ trách nhà đèn và hệ thống điện của khu đồn điền, nên mọi người quen gọi “ông là Ba Đèn”. Ông Ba Đèn có con trai là Nguyễn Văn Định (tức Bửu Định) làm ở xưởng cơ khí. Thông qua con trai, đồng chí Nguyễn Văn Gián đã tổ chức được nghiệp đoàn cơ khí. Đêm 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp giành quyền cai trị Đông Dương. Ở các đồn điền cao su, bọn chủ Tây bị bắt giam, bọn Nhật chỉ dùng lại một vài người Pháp có kỹ thuật để cai quản đồn điền. Vì thế, sự quản lý với công nhân có phần lỏng lẻo hơn trước. Đây chính là thời cơ để chi bộ đồn điền cao su Lộc Ninh phát triển cơ sở và phong trào cách mạng. Cùng với Hội cứu quốc người Kinh”, đồng chí Lê Đức Anh đã thành lập “Hội người Việt Nam mới” cũng là đội bán vũ trang để chuẩn bị khởi nghĩa tại hai quận là Hớn Quản và Bù Đốp, trong đó có hơn 40 người dân tộc Stiêng.
Tháng 8/1945, khi phát xít Nhật buộc phải đầu hàng đồng minh, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một triệu tập cuộc họp ở xã Phú Cường, huyện Châu Thành, có đại diện Xứ ủy là đồng chí Tư Chùa, để bàn chủ trương phát động quần chúng nhân dân trong tỉnh đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị phân công Bí thư Tỉnh ủy Văn Công Khai làm Trưởng ban Khởi nghĩa, Phó Bí thư Nguyễn Văn Tiết, phụ trách Mặt trận Việt Minh tỉnh, đồng chí Lê Đức Anh là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách tổ chức và quân sự. Đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ phụ trách khởi nghĩa giành chính quyền ở Hớn Quản và Bù Đốp.
Với cơ sở và phong trào cách mạng mạnh mẽ đã xây dựng được từ trước, ngày 23/8/1945, đồng chí Lê Đức Anh cùng những người cộng sản ở đây đã phát động công nhân các đồn điền cao su và đồng bào dân tộc ở Hớn Quản và Bù Đốp đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Quần chúng cách mạng khí thế dâng cao kéo quân về giành chính quyền ở tỉnh lỵ Thủ Dầu Một vào đêm 24 rạng ngày 25/8/1945.
Quận Hớn Quản nơi đồng chí Lê Đức Anh được giao phụ trách là một vùng rộng lớn, bao gồm cả vùng Lộc Ninh và Quản Lợi. Giành chính quyền xong, đồng chí Lê Đức Anh đề xuất bác sĩ Hồ Văn Huê làm Chủ tịch Công ty cao su Quản Lợi đồng thời là Chủ tịch Ủy ban hành chính quận Hớn Quản. Đề xuất này ban đầu khiến một số người băn khoăn, nghi ngại, nhưng thực tiễn hoạt động về sau đã chứng minh đề xuất đó là đúng đắn. Bác sĩ Hồ Văn Huê đã đảm đương tốt nhiệm vụ được giao, tham gia kháng chiến chống Pháp tích cực, trở thành đảng viên cộng sản và đã hy sinh anh dũng trong kháng chiến. Đội vũ trang của quận Hớn Quản do đồng chí Lê Đức Anh thành lập và chỉ huy, tuy gọi là trung đội, nhưng quân số lên đến hơn 100 người, trong đó có hơn 40 anh em là người dân tộc Stiêng, trang bị chủ yếu là vũ khí thô sơ với cung nỏ vác vai, bao tên tẩm độc đeo ngang hông. Vì thế, nhân dân trong vùng quen gọi là “Đội quân áo nâu”, “Đội quân Lê Đức Anh”...
Trong Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945, hầu hết các địa phương ở miền Đông Nam Bộ đều tổ chức ra đội vũ trang của mình, trong đó “Đội quân áo nâu” của Hớn Quản là đơn vị mạnh, quy củ và được trang bị nhiều súng đạn nhất. Sau này, đồng chí Lê Đức Anh có kể lại: “Hồi đó, súng đạn của chúng tôi có từ ba nguồn: Một số thu được của lính Patigiăng, một số lấy trong kho của quân Nhật, Pháp ở đồn điền, và một nguồn chúng tôi tự mua sắm. Lúc đó Nam Vang với Nam Bộ thông thương, tôi trực tiếp sang tỉnh Carachiê của Campuchia để mua súng đạn. Lúc đầu, tay Tỉnh trưởng cho người chặn đường thu súng. Chúng tôi đấu tranh, bà con Việt kiều biếu quà, nên tay Tỉnh trưởng cũng nhất trí cho chúng tôi mang vũ khí về. Việt kiều yêu nước ở Campuchia cũng tổ chức mua súng gửi về cho chúng tôi. Số súng đạn tôi sang mua, anh chị em Việt kiều cũng trả tiền, khoảng trên dưới 100 khẩu. Tôi còn nhớ người trực tiếp giúp có tên là Vượng, sau này anh về nước công tác ở ngành bưu điện”.
Cuối tháng 9/1945, thực dân Pháp gây hấn, nổ súng xâm lược Nam Kỳ lần thứ hai. Lúc này, mọi người càng nhận thấy sự “lo xa”, tầm nhìn của đồng chí Lê Đức Anh trong việc xây dựng lực lượng vũ trang của quận, tích cực mua sắm vũ khí là quý giá biết bao. Và ngay lúc đó, hưởng ứng Lời kêu gọi của Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam Bộ Trần Văn Giàu, đồng chí Lê Đức Anh đã tổ chức cho hai xe cam nhông của Sở Cao su, chọn trong “Đội quân áo nâu” 1 tiểu đội có súng đạn và 3 tiểu đội mang cung nỏ từ Lộc Ninh - Hớn Quản về phối hợp chiến đấu chống quân Pháp xâm lược cùng quân và dân Sài Gòn - Gia Định. “Tại Mặt trận số 2 (còn gọi là Mặt trận tiền tuyến phía Bắc hay Mặt trận Tham Lương), bộ đội của ta chiến đấu rất dũng cảm. Tại mặt trận này, đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy một đoàn xe tải chở những “Đội quân áo nâu”, súng đạn và tên ná từ các đồn điền Lộc Ninh, Hớn Quản chi viện, tiến về Sài Gòn, bao vây, kìm chân quân địch để các nơi khác của Nam Bộ có thêm thời gian chuẩn bị kháng chiến chống quân Pháp xâm lược”...
Từ cuối năm 1945 đến đầu năm 1947, ở các tỉnh Nam Bộ, tuy nơi trước nơi sau, nhưng đều lần lượt tổ chức các chi đội võ trang mà nòng cốt là các đội vũ trang tập trung của chính quyền cách mạng phát triển lên. Lúc đó, trên toàn Nam Bộ có khoảng 25 chi đội, trong đó Chi đội 1 của tỉnh Thủ Dầu Một ra đời sớm nhất và cũng là chi đội mạnh nhất vì lực lượng đông đảo, tổ chức quy củ, được trang bị nhiều súng đạn nhất. Tổ chức chi đội có bốn cấp: Tiểu đội, phân đội, đại đội, chi đội, trong đó đại đội tương đương tiểu đoàn, chi đội tương đương trung đoàn sau này. Trước khi Chi đội 1 ra đời, đội vũ trang do đồng chí Lê Đức Anh tổ chức đã phát triển tương đương 3 đại đội. Ngày 25/11/1945, Chi đội 1 Vệ quốc đoàn của tỉnh Thủ Dầu Một chính thức thành lập, gồm 3 đại đội vũ trang Hớn Quản hợp nhất cùng các lực lượng như: Đội Tự vệ xung kích do Nguyễn Văn Thi (Năm Thi) chỉ huy, lực lượng thanh niên chiến đấu của 4 xã do Đoàn Hữu Hòa chỉ huy, lực lượng Bảo an binh theo cách mạng do Bùi Khánh Ngươn và Nguyễn Sơn Xuyên chỉ huy, lực lượng công chức và Cảnh sát cũ yêu nước do Kiều Đắc Thắng và Huỳnh Kim Trương chỉ huy, cùng một số đơn vị vũ trang của công nhân và trí thức từ Sài Gòn lên. Ngày đầu thành lập, Huỳnh Kim Trương làm Chi đội trưởng, Nguyễn Khắc Cần làm Chính trị viên, Nguyễn Văn Thi làm Chi đội phó. Chi đội có 3 đại đội, trong đó Đại đội 3 do Nguyễn Văn Ngọ (tức Quỳ) làm Đại đội trưởng, Lê Đức Anh làm Chính trị viên. Chi đội vẫn đảm nhiệm vùng Lộc Ninh - Hớn Quản - Bến Cát. Sau đó, theo yêu cầu của Xứ ủy Nam Bộ tăng cường người cho Đài Phát thanh Nam Bộ và xuất phát từ chủ trương của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, đồng chí Lê Đức Anh lên làm Chính trị viên Chi đội 1 thay cho Nguyễn Khắc Cần chuyển về công tác ở Đài Phát thanh Nam Bộ.
Việc thành lập các chi đội Vệ quốc đoàn đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Xứ ủy Nam Bộ. Kể từ đây, đồng chí Lê Đức Anh chính thức bước vào cuộc đời binh nghiệp gian khổ nhưng đầy vẻ vang của mình, cũng là lĩnh vực mà ông đã thể hiện được những phẩm chất của mình - phẩm chất của một người chỉ huy xuất sắc, có tầm nhìn chiến lược, có chiến thuật tài tình và linh hoạt xử lý các tình huống phức tạp, một nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước, quân đội và Nhân dân ta.
Đại tá Khuất Biên Hòa
1. Gây dựng lực lượng đầu tiên cho cách mạng ở Lộc Ninh
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (01/9/1939), thực dân Pháp ở Đông Dương tăng cường áp bức, bóc lột và đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta. Trước tình hình nhiều đảng viên và người yêu nước bị bắt, tổ chức Đảng địa phương chủ trương rút vào hoạt động bí mật và chỉ thị các cán bộ, đảng viên tạm lánh đi để bảo toàn lực lượng. Tháng 10/1939, thực dân Pháp huy động lực lượng thực hiện cuộc khủng bố lớn ở Thừa Thiên, hầu hết các đồng chí đảng viên huyện Phú Vang bị bắt. Để tránh sự truy lùng của địch, cuối năm 1939, đồng chí Lê Đức Anh tạm thời lánh vào Hội An (Quảng Nam), đầu năm 1940 đến Phan Rang (Ninh Thuận) và đi xe lửa lên Đà Lạt (Lâm Đồng), ở nhà chị gái Lê Thị Trĩ. Sau một tháng, đồng chí xin vào làm công tại khu nghỉ mát của sở Nam Kỳ. Đầu năm 1942, đồng chí rời Đà Lạt xuống Lộc Ninh. Tại đây, đồng chí được một người Pháp giới thiệu làm xúc xích và dăm bông ở đồn điền cao su Lộc Ninh với mức thu nhập đều đặn 45 đồng/tháng. Điều kiện làm việc thuận lợi đã giúp cho đồng chí có cơ hội từng bước tham gia hoạt động cách mạng ở Lộc Ninh. Theo đồng chí Lê Đức Anh, nhờ “Có tiền dư dật, công việc lại không bị quản chặt như phu cạo mủ cao su nên tôi có điều kiện đến các làng tiếp xúc với phu cao su vận động, xây dựng phong trào của phu cao su và tôi cũng bắt đầu nghĩ đến việc tìm và bắt liên lạc với tổ chức cách mạng”.
Những năm trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nạn đói ở Bắc Kỳ đã khiến hàng chục vạn người từ miền Bắc di cư vào phía Nam để kiếm sống. Từ chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, những người nông dân bị bần cùng hóa đã trở thành những lao công bán sức lao động một cách rẻ mạt và cơ cực. Phần lớn dân ở đồn điền cao su Lộc Ninh là người đến từ các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Hà Đông, Nam Định, Thái Bình... Họ bị bóc lột sức lao động, phải làm việc vất vả, ai lơ là sẽ bị đánh chửi; nếu bỏ trốn mà bị bắt lại bọn cai sẽ đánh cho đến chết. Lao động thì cực nhọc nhưng thường phải ăn gạo đã để lâu, thịt rất ít, chủ yếu là đậu phụ và cá biển khô đã mục.
Đồng chí Lê Đức Anh đã tìm hiểu tình hình, biết rõ thực trạng cuộc sống của những người lao động trong từng lô cao su và tranh thủ bàn bạc với họ làm sao giúp đỡ nhau để bảo đảm đời sống của người phu cao su đỡ cực khổ: “Tôi nói chuyện với các thầy xu và bàn với họ: Phải làm sao để chủ Tây không chửi mắng, không khinh người Việt ta quá thể...”.
Đồng chí đã chỉ cho thầy xu cách làm thế nào để tăng năng suất, chất lượng của công việc: khi tới kỳ cạo mủ, bón phân, làm cỏ, thầy xu phân ra cho từng tốp 10 người một, rồi trong từng tốp lại phân ra cho từng người, cứ khoán cho họ làm, làm xong thì được nghỉ. Đầu tiên làm thử ở một làng để rút kinh nghiệm, sau đó phổ biến ra các nơi khác. Kết quả, các phu chăm bón cây cao su tốt và làm đúng quy trình kỹ thuật. Chủ Tây khen thầy xu quản phu làm tốt. Nhờ lao động có hiệu quả, chủ Tây không chê, không chửi mắng nữa, người phu thấy đỡ căng thẳng, không khí lao động dễ chịu hơn. Đồng chí nói với các thầy xu phải làm sao những thứ chủ Tây cấp cho từng người lao động được đưa xuống đủ để họ có sức làm việc, hướng dẫn họ cách cải thiện thêm bữa ăn; quan trọng hơn cả là người Việt phải đối xử với nhau cho tốt và cố gắng không đánh mắng nhau. Đọc báo, đồng chí thấy bên Pháp có tổ chức Nghiệp đoàn thợ thuyền và được luật pháp quy định, nên đã xin chủ Tây cho phu cao su tổ chức Nghiệp đoàn cao su và được đồng ý. Sau đó, việc này lan tỏa ra cả khu đồn điền cao su Lộc Ninh.
Bằng cách đó, đồng chí đã nối được quan hệ giữa thầy xu với các phu đồn điền, họ đã có sự thông cảm, chia sẻ, biết quan tâm đến nhau hơn trong lúc lao động cực nhọc hay đau ốm. Thông qua việc vận động các thầy xu, đồng chí đã thực hiện được ý định đầu tiên là tổ chức, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho những người phu cao su. Từ những kết quả khả quan đó, đồng chí đã “nghĩ đến việc chọn những người tiêu biểu để giác ngộ và gây dựng lực lượng đầu tiên cho cách mạng ở vùng này. Nhưng muốn tiến hành việc đó, trước hết phải tìm cách bắt được liên lạc với tổ chức của Đảng”. Từ khi cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ và bị thất bại (11/1940), thực dân Pháp tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt ở nhiều nơi. Cơ sở của ta bị vỡ, nhiều cán bộ bị bắt, bị tù đày, tử hình, tổ chức cách mạng tan rã. Một số chạy lên các đồn điền cao su để tránh sự khủng bố ráo riết của thực dân Pháp. Năm 1942, sau khi bắt được liên lạc với tổ chức cách mạng tại Sài Gòn - Gia Định, đồng chí Lê Đức Anh được phân công nhiệm vụ lãnh đạo phong trào công nhân cao su, chờ thời cơ chín muồi sẽ đẩy mạnh đấu tranh. Năm 1943, trong vai thầy xu đồn điền cao su Lộc Ninh, đồng chí đã tiếp cận, tìm hiểu đời sống của công nhân từ làng Công Tra (làng do Pháp đặt tên ở Lộc Ninh như: Làng Hai (Lộc Thuận); làng Một, làng Mười (Lộc Thiện); làng Bốn, làng Bảy (Lộc Tấn); làng Chín (Lộc Thạnh)...) đến nhà máy chọn những người tiêu biểu để giác ngộ lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc và gây dựng lực lượng đầu tiên cho cách mạng ở Lộc Ninh.
Đầu năm 1943, Tỉnh ủy lâm thời (gọi là Ban Cán sự Đảng) tỉnh Thủ Dầu Một được tái lập, đồng chí Văn Công Khai làm Bí thư, đồng chí Lê Đức Anh được chỉ định làm Ủy viên và được giao cùng với đồng chí Nguyễn Văn Trung chỉ đạo trực tiếp phong trào cách mạng Lộc Ninh và toàn bộ vùng phía Bắc tỉnh Thủ Đầu Một. Qua thực tiễn xây dựng phong trào ở Lộc Ninh, đồng chí đã bồi dưỡng, báo cáo với tổ chức Đảng kết nạp được một số đảng viên. Được sự đồng ý của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, tháng 02/1944, Chi bộ Đảng Cộng sản được thành lập ở Lộc Ninh gồm 5 đảng viên, do đồng chí Lê Đức Anh, Ủy viên Ban Cán sự Đảng tỉnh Thủ Dầu Một, kiêm Bí thư chi bộ và phụ trách vấn đề dân tộc thiểu số. Theo chỉ thị của Tỉnh ủy, Chi bộ Lộc Ninh trước mắt khẩn trương gây dựng phát triển lực lượng, đẩy mạnh tuyên truyền cách mạng trong công nhân và nhân dân vùng Hớn Quản, chuẩn bị đón thời cơ phát động quần chúng công nhân và đồng bào các dân tộc trong vùng sẵn sàng đứng lên khởi nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, thông qua hoạt động của các đảng viên, phu cao su ở các đồn điền Lộc Ninh, Hớn Quản, Bù Đốp... nhanh chóng được giác ngộ.
Đến giữa năm 1944, Xứ ủy Nam Kỳ chủ trương xúc tiến việc thành lập các đoàn thể Mặt trận Việt Minh ở Nam Bộ. Tỉnh Thủ Dầu Một đề ra phương châm nơi nào đã phục hồi cơ sở đảng thì tổ chức các hội cứu quốc (Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc), sau đó phát triển đến các nơi khác. Ở Lộc Ninh, sau một thời gian gây dựng cơ sở Chi bộ Đảng đã thành lập nhóm trung kiên gồm các ông Mé, Kỳ Trinh, Khiêm, Ba Đèn, Cai Loại và Hai Định làm nòng cốt vận động phong trào Việt Minh; các tổ chức cách mạng của quần chúng dưới hình thức hội được thành lập, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Với vai trò là Bí thư Chi bộ Lộc Ninh, đồng chí Lê Đức Anh đã tăng cường công tác vận động quần chúng, đưa Điều lệ Việt Minh vào phong trào công nhân và nhân dân trong vùng, đẩy mạnh tuyên truyền cách mạng trong nhân dân và công nhân các đồn điền cao su, chuẩn bị đón thời cơ để phát động quần chúng đứng lên khởi nghĩa.
2. Tham gia lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Đêm 09/3/1945, phát xít Nhật đảo chính thực dân Pháp, giành quyền cai trị Việt Nam, Đông Dương. Lực lượng Nhật chiếm đóng ở Lộc Ninh do một sĩ quan chỉ huy. Chúng sử dụng các đơn vị bộ binh giữ những vị trí quan trọng ở thị trấn, các đồn điền cao su Lộc Ninh, Hớn Quản và Bù Đốp. Cùng với việc thiết lập bộ máy cai trị, chúng thiết lập hệ thống kho tàng phục vụ cho hoạt động quân sự trong các đồn điền cao su. Thực tế, việc quản lý xã hội của phát xít Nhật ở đây rất lỏng lẻo. Đây là thời cơ tốt để ta phát triển lực lượng cách mạng. Về lực lượng, ta tổ chức và phát triển lực lượng hợp pháp là chủ yếu, hoạt động công khai, có một bộ phận hoạt động bí mật. Lúc này, Thanh niên cứu quốc và Phụ nữ cứu quốc là hai tổ chức hoàn toàn bí mật, còn tổ chức Thanh niên Tiền phong lấy biểu tượng cờ vàng, sao đỏ thì hoạt động công khai, hợp pháp.
Đầu năm 1945, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng trung kiên trong các nghiệp đoàn, chuẩn bị đấu tranh võ trang. Ở vùng đồn điền cao su, lực lượng nòng cốt của cách mạng là các nghiệp đoàn công nhân do Chi bộ Đảng vận động và tổ chức. Ở đồn điền cao su Lộc Ninh có 12 làng là 12 nghiệp đoàn, cùng với các nghiệp đoàn thợ cơ khí, thợ điện, thợ xây, thợ mộc,... tích cực hoạt động. Lúc đầu, ta chưa tổ chức đội vũ trang nhưng tất cả đã thống nhất với nhau, bí mật chuẩn bị vũ khí gồm gậy tầm vông vót nhọn, giáo mác, thanh niên người dân tộc Xtiêng thì sử dụng cung nỏ. Nhận thấy không thể chỉ nổi dậy khởi nghĩa bằng biểu tình mà phải có vũ khí, có đội vũ trang làm nòng cốt, đồng chí Lê Đức Anh đã trực tiếp sang tỉnh Kratie của Campuchia để mua súng rồi vận chuyển về. Tổ chức Việt kiều yêu nước ở Campuchia cũng tự động mua súng gửi về trong nước. Sau khi dự cuộc họp lần thứ 3 Ban Cán sự Đảng tỉnh Thủ Dầu Một trở về, từ tháng 3/1945, đồng chí Lê Đức Anh khẩn trương thúc đẩy các hoạt động chuẩn bị khởi nghĩa trên tất cả các làng Lộc Ninh, Đa Kia...
Trong thời gian này, cùng với các Hội cứu quốc người Kinh, đồng chí Lê Đức Anh tổ chức “Hội người Việt Nam mới”; đồng thời cũng là đội bán vũ trang ở các quận Hớn Quản, Bù Đốp, trong đó có hơn 40 người dân tộc Stiêng, sẵn sàng đứng lên khởi nghĩa khi thời cơ thuận lợi.
Nhận thấy thời cơ cách mạng đã đến, ngày 14/8/1945, Trung ương Đảng tiến hành Hội nghị toàn quốc ở Tân Trào, châu Tự Do (nay là huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang), kịp thời đưa ra chủ trương lãnh đạo toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Tiếp đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh ra lời hiệu triệu đồng bào và chiến sĩ cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền: “Giờ quyết định vận mệnh cho dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[103].
Hòa chung khí thế cách mạng sôi nổi trong cả nước, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Đảng bộ địa phương, đến tháng 8/1945, ở Lộc Ninh, lực lượng quần chúng đã hình thành các hội cứu quốc (Việt Minh), thanh niên tiền phong, các đội thanh niên bán vũ trang, đội tự vệ. Lực lượng này đứng chân trên địa bàn phía Bắc, góp phần đáng kể cho toàn tỉnh “hình thành một lực lượng bán vũ trang đông đảo gồm 150 đoàn thanh niên tiền phong, thanh niên cứu quốc có hơn 2 vạn đoàn viên”, sẵn sàng chờ lệnh đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền.
Sau khi dự Hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ về, đồng chí Văn Công Khai tổ chức cuộc họp Tỉnh ủy Thủ Dầu Một mở rộng (từ ngày 21 đến 23/8/1945), Hội nghị quyết định tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lỵ vào ngày 25/8/1945, giành chính quyền ở các quận và thị trấn vào ngày 24, hoặc 25 tháng 8/1945; không được chậm trễ. Hội nghị cũng quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Thủ Dầu Một, do đồng chí Văn Công Khai làm Chủ tịch. Khi kết thúc cuộc họp, đồng chí Văn Công Khai phân công từng người về triển khai các biện pháp thực hiện. Đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ phụ trách chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền ở các đồn điền cao su, hai huyện Hớn Quản, Bù Đốp, tỉnh Bình Phước và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Sau khi tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, đồng chí Lê Đức Anh tiếp tục tổ chức lực lượng chi viện cho thị xã Thủ Dầu Một và thành phố Sài Gòn khởi nghĩa giành chính quyền.
Tại Lộc Ninh, đồng chí Lê Đức Anh triệu tập cuộc họp bàn việc giành chính quyền và đề nghị phải thành lập ngay lực lượng vũ trang. Với vai trò là Ủy viên Ban Cán sự Đảng tỉnh Thủ Dầu Một, kiêm Bí thư Chi bộ Lộc Ninh, đồng chí Lê Đức Anh đã trực tiếp lãnh đạo công nhân, nhân dân, đồng bào dân tộc thiểu số đứng lên giành chính quyền. Thực hiện kế hoạch khởi nghĩa, sáng ngày 24/8/1945, hàng nghìn công nhân các làng, đồn điền cao su Lộc Ninh - Đa Kia cùng nông dân các địa phương nhất tề nổi dậy. Từng đoàn người tay cầm gậy, tầm vông vạt nhọn, xà beng, giáo mác, cung tên tiến vào các nhà máy, xí nghiệp đồn điền cao su. Làn sóng người vượt rào, leo tường, trương cờ đỏ, sao vàng hô vang khẩu hiệu: “Chính quyền về tay Việt Minh”, “Việt Nam độc lập muôn năm!”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!”.
Quần chúng biểu tình tiến vào chiếm các trụ sở hành chính, trụ sở cảnh sát trong thị trấn, các bốt canh, nơi ở và làm việc của bọn chủ sở đồn điền... Cùng lúc, một đội quân cảm tử, do đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy, đánh chiếm các mục tiêu của địch ở Lộc Ninh. Quân Nhật trong các đồn bốt bị quần chúng và lực lượng vũ trang áp đảo. Nhiều tên ngoan cố bị tiêu diệt, số còn lại buộc phải đầu hàng, toàn bộ vũ khí của chúng bị thu giữ; quân khởi nghĩa giành toàn thắng. Tại Bù Đốp, lực lượng khởi nghĩa thu được kho súng máy của địch.
Cùng với Lộc Ninh, nhân dân ở các quận Tân Uyên, Lái Thiêu, Bến Cát nổi dậy giành chính quyền trong buổi sáng ngày 24/8/1945. Lộc Ninh là một trong những địa phương giành chính quyền sớm trong tỉnh. Ngay tối hôm đó, đồng chí Lê Đức Anh tổ chức lực lượng gồm 300 người, trang bị vũ khí vừa thu được của địch và giáo mác, tầm vông... kéo xuống thị xã Thủ Dầu Một tham gia khởi nghĩa. Đến 7 giờ sáng ngày 25/8/1945, cuộc mít tinh lớn được tổ chức trọng thể trước tòa thị chính quận Châu Thành. Sau khi làm lễ chào cờ, đồng chí Văn Công Khai, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa đọc diễn văn tuyên bố chính quyền của địch đã về tay nhân dân.
Từ một thanh niên ở miền quê nghèo khó dưới ách thống trị của đế quốc, thực dân, sớm được giác ngộ lý tưởng cách mạng và trở thành đảng viên cộng sản trẻ tuổi, đồng chí Lê Đức Anh đã thể hiện chí khí cách mạng kiên cường của người chiến sĩ cộng sản kiên trung, bất khuất. Đồng chí tham gia hoạt động trong các hội Ái hữu, trong các nghiệp đoàn cao su Lộc Ninh, Quản Lợi, Xa Can, Xa Cát. Đồng chí lần lượt được giao: lãnh đạo phong trào công nhân cao su Lộc Ninh (năm 1942), Ủy viên Ban Cán sự Đảng tỉnh Thủ Dầu Một (năm 1943), kiêm Bí thư Chi bộ Đảng ở Lộc Ninh (năm 1944), tổ chức lực lượng trung kiên trong các nghiệp đoàn, chuẩn bị đấu tranh vũ trang (đầu năm 1945) và được phân công phụ trách chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền ở các đồn điền cao su Lộc Ninh và hai huyện Hớn Quản, Bù Đốp, tỉnh Bình Phước (8/1945). Dù ở bất cứ cương vị công tác, điều kiện, hoàn cảnh nào, đồng chí Lê Đức Anh luôn trung thành với Đảng, với Tổ quốc, giữ vững và phát huy phẩm chất đạo đức cách mạng của người đảng viên cộng sản, làm hết sức mình, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ và trọng trách được giao. Thắng lợi của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bình Phước nói chung, Lộc Ninh nói riêng trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có phần đóng góp quan trọng của đồng chí Lê Đức Anh, với vai trò tổ chức và trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy. Đây là cống hiến đầu tiên của đồng chí Lê Đức Anh, để lại dấu ấn quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Thiếu tá, ThS. PHAN ÁNH TUYẾT
Trong lịch sử đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đại tướng Lê Đức Anh là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam, vị Chủ tịch nước đã có nhiều đóng góp công sức cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thế kỷ XX. Việc nghiên cứu những hoạt động của đồng chí Lê Đức Anh trong những năm đầu tham gia cách mạng (1937 - 1945) không chỉ góp phần đúc kết, truyền thụ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn mà còn góp phần giáo dục tinh thần yêu nước và ý chí đấu tranh cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước bị mất độc lập, nhân dân mất tự do, phải chứng kiến cảnh người dân nô lệ sống cơ cực dưới chế độ thực dân, phong kiến đã thôi thúc người thiếu niên trẻ tuổi sớm dấn thân vào con đường đấu tranh cách mạng, cứu nước, cứu dân.
Tháng 7/1935, Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản đã đề xướng việc thành lập Mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân chủ bảo vệ hòa bình và cải thiện thời đời sống nhân dân. Ngày 17/6/1935, Mặt trận Bình dân Pháp được thành lập. Tình hình chính trị - xã hội ở nước ta có chuyển biến quan trọng khi Mặt trận Bình dân ở Pháp thắng cử (4/1936), Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp cử phái viên sang điều tra tình hình kinh tế - xã hội ở các nước thuộc địa, trong đó có các nước ở Đông Dương. Sự kiện này đã tạo những thuận lợi quan trọng cho cách mạng nước ta. Tháng 7/1936, Hội nghị Trung ương Đảng họp, đề ra chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế (đến tháng 3/1938 đổi thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương) chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, dân chủ và hòa bình. Một phòng trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ được phát động rộng khắp theo tinh thần mà Trung ương Đảng đã chỉ ra. Chính trong thời gian này, trong nhận thức và tư tưởng của chàng trai trẻ Lê Đức Anh bắt đầu có sự chuyển biến, giác ngộ cách mạng: “Trong tôi lúc đó xuất hiện một khao khát, tuy còn mơ hồ, chưa rõ nét, nhưng nó đang lớn dần. Từ không khí của phong trào dân chủ, sự hiểu biết của tôi cũng được nâng lên rất rõ”[104]. Từ những nhận thức ban đầu đó, cùng với hơi thở của phong trào cách mạng tại địa phương đang ngày đêm tác động trực tiếp đến suy nghĩ và hành động của chàng thanh niên Lê Đức Anh. Thời gian này, đồng chí Lê Đức Anh thường xuyên theo dõi, tìm đọc các tài liệu về hoạt động của phong trào cộng sản quốc tế, tìm hiểu các vấn đề về giai cấp, về chủ nghĩa tư bản, về Nguyễn Ái Quốc, Mặt trận Bình dân của nước Pháp... Đây là cơ sở ban đầu hình thành những nhận thức của đồng chí Lê Đức Anh về chính trị - xã hội và dần làm sâu sắc khát khao ban đầu còn mơ hồ của ông bằng mong muốn “làm một điều gì đó cùng với người dân lam lũ... thay đổi cuộc sống lầm than cơ cực”[105].
Căn cứ vào tình hình thực tiễn, Đảng ta đã khẳng định việc thành lập Mặt trận Dân chủ là một nhiệm vụ trọng tâm của Đảng. Trong thư gửi Mặt trận nhân dân Pháp, Chính phủ Pháp, Bộ trưởng Bộ Thuộc địa và Toàn quyền Đông Dương (8/1937), Đảng Cộng sản Đông Dương công khai nói rõ mục đích của mình là: “Đảng chúng tôi thành thực tuyên bố rằng trong giai đoạn lịch sử hiện thời ở Đông Dương, chúng tôi lấy việc lập Mặt trận Dân chủ chống thế lực thuộc địa phản động, đòi các quyền tự do, dân chủ đơn sơ cho toàn xứ Đông Dương là nhiệm vụ cao hơn hết”[106]. Trong thời gian này, chàng thanh niên Lê Đức Anh tích cực tham gia hoạt động cách mạng tại địa phương. Khi nghe tin đại diện Chính phủ Pháp sẽ sang điều tra tình hình ở Đông Dương, một cuộc vận động rất sôi nổi đã diễn ra ở Thừa Thiên Huế. Chàng trai trẻ Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ đi lấy chữ ký của nông dân các làng vào danh sách yêu cầu đối với thực dân Pháp. Thực chất nói là “lấy yêu cầu” nhưng đó là yêu sách đòi hỏi thực dân Pháp giảm thuế điền thổ và bỏ thuế thân. Những hoạt động của “phong trào dân chủ” ở địa phương lúc đầu là đấu tranh đòi giảm thuế dần tiến tới đòi giảm đi sâu, giảm sưu, giảm phu phen, lao dịch, đòi tự do, hòa bình. Như vậy, từ công việc ban đầu là tham gia đọc sách báo, tuyên truyền cho dân chúng, trao đổi về tình hình đất nước, đồng chí Lê Đức Anh đã tích cực tham gia trong cuộc biểu dương lực lượng, thể hiện khí thế đấu tranh sôi nổi, mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân nhằm thực hiện khẩu hiệu của Mặt trận Dân chủ do Đảng lãnh đạo, cùng nhân dân địa phương đấu tranh đòi giảm sưu, giảm thuế hà khắc của thực dân, phong kiến, đòi tự do, dân chủ cho làng quê bởi “Đây là quyền lợi sinh tồn chung cho xứ sở. Đây là tiền đồ phát triển của dân tộc, đây là sự liên hiệp thân ái và bình đẳng giữa các dân tộc. Đây là công cuộc của nền hòa bình nhân loại”[107].
Năm 1938, đồng chí Lê Đức Anh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Được đứng trong hàng ngũ của những người cộng sản là một sự kiện đánh dấu sự trưởng thành, chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của chàng trai trẻ Lê Đức Anh trên con đường hoạt động cách mạng. Đồng chí Lê Đức Anh hiểu và “sẵn sàng đón nhận mọi sự nguy hiểm, bắt bớ, tra tấn, tù đày từ bộ máy cai trị của thực dân Pháp và chính quyền phong kiến”[108] và ông cũng trân trọng sự tin tưởng của những người đã giới thiệu, kết nạp mình vào hàng ngũ của những người cộng sản.
Cuối năm 1938, đầu năm 1939, ở nước Pháp, Chính phủ Đảng Xã hội bị lật đổ, quyền lãnh đạo rơi vào tay phái hữu. Tại các nước thuộc địa của Pháp, thực dân Pháp thẳng tay khủng bố, đàn áp phong trào cách mạng, nhiều đảng viên và người yêu nước bị bắt. Tháng 10/1939, thực dân Pháp tiến hành khủng bố ở Thừa Thiên Huế, hệ thống cơ sở cách mạng bị vỡ ở nhiều nơi, phong trào cách mạng ở Phú Vang bị tổn thất nặng nề. Hầu hết các đảng viên ở Phú Vang bị bắt, số còn lại phải rút vào hoạt động bí mật nhằm bảo toàn lực lượng để duy trì hoạt động sau này. Thực hiện chủ trương chung là tất cả đảng viên rút vào hoạt động bí mật, đồng chí Lê Đức Anh bí mật rời quê hương lánh vào Hội An - Quảng Nam rồi vào Phan Rang và lên Đà Lạt hoạt động, sớm tìm đến với tổ chức cách mạng.
Sau những năm tháng âm thầm làm rất nhiều việc như: cu ly quét dọn, chế biến thực phẩm nguội, đánh máy chữ... và tìm cách liên lạc với tổ chức, đầu năm 1942, đồng chí Lê Đức Anh rời Đà Lạt xuống đồn điền cao su Lộc Ninh, tiếp tục làm thuê kiếm sống. Tại đây, ngoài việc chế biến thực phẩm nguội, đồng chí Lê Đức Anh còn được giao đi phân phát lương thực. Có thêm công việc đi phân phát lương thực và không bị quản chặt như phu cạo mủ cao su nên đồng chí Lê Đức Anh có “điều kiện đến các làng tiếp xúc với phu cao su vận động, xây dựng phong trào của phu cao su”[109]. Đây là những cơ sở, điều kiện rất thuận lợi để đồng chí nghĩ đến việc tìm và bắt liên lạc với tổ chức cách mạng.
Tại Lộc Ninh, hằng ngày tiếp xúc, làm việc và chứng kiến cuộc sống cơ cực của những phu cao su, đồng chí Lê Đức Anh đã nghĩ cách “bàn với họ làm sao giúp nhau để bảo đảm cho đời sống của người phu đỡ cực khổ”[110]. Từ những công việc hằng ngày là động viên, chia sẻ, nhắc các phu cao su: là người Việt với nhau phải đối xử với nhau cho tốt, không đánh mắng nhau; vận động nhắc nhở phu đi ngủ phải mắc mùng, không để muỗi đốt, ngừa sốt rét, giữ nơi ăn ở sạch sẽ, hạn chế dần chuyện bài bạc,... đồng chí Lê Đức Anh đã dần tổ chức, củng cố đời sống vật chất, tinh thần và hâm nóng, thắp sáng trong phu đồn điền cao su lòng tự tôn dân tộc, tinh thần đấu tranh cách mạng. Từ những công việc ban đầu đó, đồng chí Lê Đức Anh đã tiến hành giác ngộ, vận động, gây dựng và phát triển phong trào của các phu cao su. Khi phong trào cách mạng trong công nhân các đồn điền cao su ở Lộc Ninh đã phát triển nhanh và vững, đồng chí Lê Đức Anh tiếp tục gây dựng phong trào phát triển rộng khắp đến các đồn điền cao su lân cận như: Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch. Đây cũng là những cơ sở để gây dựng, phát triển và mở rộng phong trào cách mạng của tỉnh Thủ Dầu Một. Song song với công việc gây dựng phong trào cách mạng tại chỗ, đồng chí Lê Đức Anh tìm cách bắt liên lạc với tổ chức của Đảng.
Trong thời gian hoạt động ở đồn điền cao su Lộc Ninh, đồng chí Lê Đức Anh đã trực tiếp giác ngộ hàng trăm phu cao su, tuyển chọn và kết nạp được bốn người mà ông tin tưởng đó là “những người nòng cốt đại diện cho quyền lợi của công nhân lao động, những người đó phải kiên định”[111] để thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở đồn điền cao su Lộc Ninh. Tháng 02/1944, Chi bộ Đảng đồn điền cao su Lộc Ninh được thành lập gồm năm đảng viên[112]. Đồng chí Lê Đức Anh là Ủy viên Ban cán sự Đảng tỉnh Thủ Dầu Một[113] kiêm Bí thư Chi bộ và phụ trách vấn đề dân tộc thiểu số. Từ khi tổ chức Đảng ra đời, đồng chí Lê Đức Anh cùng Chi bộ Lộc Ninh thường lấy nhà thầy giáo Nhuận (một địa điểm tại chợ Lộc Ninh) làm một trong những nơi hội họp, cất giữ tài liệu mật của Đảng, đồng thời cũng là nơi liên lạc nhận tài liệu từ trên đưa xuống. Sau khi thành lập, theo chỉ thị của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, đồng chí Lê Đức Anh cùng Chi bộ Lộc Ninh khẩn trương gây dựng, phát triển lực lượng, đẩy mạnh tuyên truyền cách mạng trong công nhân và nhân dân vùng Hớn Quản, chuẩn bị đón thời cơ phát động quần chúng nhân dân, công nhân và đồng bào các dân tộc vùng lên khởi nghĩa.
Giữa năm 1944, Xứ ủy Nam Kỳ chủ trương xúc tiến việc thành lập các đoàn thể Mặt trận Việt Minh ở Nam Bộ. Tại Thủ Dầu Một, Tỉnh ủy đề ra phương châm: nơi nào đã phục hồi được cơ sở thì tổ chức các hội cứu quốc (công nhân cứu quốc, nông dân cứu quốc, thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc). Đầu năm 1945, tại Lộc Ninh, đồng chí Lê Đức Anh tập trung vào việc tổ chức lực lượng trung kiên trong các nghiệp đoàn, xây dựng được một số hội cứu quốc chuẩn bị sẵn sàng cho đấu tranh vũ trang.
Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính, hất cẳng Pháp độc chiếm Đông Dương. Đây là cơ hội thuận lợi để lực lượng cách mạng ở Nam Bộ nói chung và Thủ Dầu Một nói riêng phát triển cả về tổ chức và lực lượng. Ở vùng đồn điền cao su, lực lượng nòng cốt của cách mạng là các nghiệp đoàn công nhân do chi bộ đảng vận động và tổ chức. Ở Lộc Ninh có 12 làng là 12 nghiệp và các nghiệp đoàn thợ cơ khí, thợ điện, thợ xây, thợ mộc,... Các nghiệp đoàn công nhân lúc đầu chưa tổ chức thành những đội vũ trang nhưng tất cả đã thống nhất, bí mật chuẩn bị những vũ khí thô sơ như gậy tầm vông, giáo mác, đồng bào người dân tộc Xtiêng thì có cung nỏ chuẩn bị sẵn sàng trở thành đội vũ trang làm nòng cốt trong lực lượng nổi dậy khởi nghĩa.
Với tinh thần tích cực vận động, tổ chức và chỉ đạo sâu sát của Đảng, đến tháng 8/1945 ở Lộc Ninh, lực lượng quần chúng đã hình thành các hội cứu quốc, lực lượng thanh niên tiền phong, các đội thanh niên bán vũ trang, tự vệ... Lực lượng này nằm trên địa bàn phía bắc, góp phần đáng kể cho toàn tỉnh “hình thành một lực lượng bán vũ trang đông đảo gồm 150 đoàn thanh niên tiền phong, thanh niên cứu quốc có hơn 2 vạn đoàn viên”[114]. Trong số đó, “chỉ tính riêng số anh em người dân tộc Xtiêng đã có khoảng 40 người, tất cả bí mật rời khỏi đồn điền cao su, tập trung về vị trí xóm Bưng để chuẩn bị khí giới và luyện tập vũ trang, háo hức chờ lệnh khởi nghĩa”[115] sẵn sàng đứng lên giành chính quyền.
Ngày 15/8/1945, Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Quân Nhật ở tỉnh lỵ Thủ Dầu Một nói riêng và toàn cõi Đông Dương nói chung đang rất hoang mang, suy sụp. Một không khí chuẩn bị Tổng khởi nghĩa đang diễn ra khẩn trương, sôi nổi trong khắp cả nước. Tại các đồn điền cao su Lộc Ninh, Hớn Quản, Dầu Tiếng, tổ chức thanh niên cứu quốc, thanh niên tiền phong có nhiều hình thức hoạt động phong phú, công khai tuyên truyền khởi nghĩa, dán khẩu hiệu kiên quyết giành độc lập dân tộc; các đội vũ trang thì ráo riết luyện tập, chuẩn bị vũ khí. Lực lượng cách mạng đã làm chủ tình hình ở các vị trí xung yếu trên toàn tỉnh, chỉ chờ lệnh khởi nghĩa là sẽ đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 23/8/1945, đồng chí Lê Đức Anh được phân công phụ trách chỉ huy khởi nghĩa, lãnh đạo công nhân các đồn điền cao su và đồng bào dân tộc ở hai huyện Hớn Quản, Bù Đốp khởi nghĩa giành chính quyền2. Sáng 24/8/1945, hàng nghìn công nhân các làng, đồn điền cao su Lộc Ninh cùng nông dân ở các địa phương nhất tề nổi dậy, nhanh chóng làm chủ các trụ sở cơ quan hành chính trong thị trấn. Tại Hớn Quản, Đội vũ trang do đồng chí Lê Đức Anh thành lập và chỉ huy có quân số hơn 100 người, cùng với cung nỏ khoác vai, bao tên đeo ngang hông mà nhân dân trong vùng quen gọi là “Đội quân áo nâu” đã có cơ hội phát huy sức mạnh và phô trương thanh thế. Tại Bù Đốp, lực lượng khởi nghĩa thu được kho súng máy của địch. Cùng với Lộc Ninh, các quận Tân Uyên, Lái Thiêu, Bến Cát, lực lượng quần chúng nổi dậy giành chính quyền. Ngay trong đêm 24 rạng ngày 25/8/1945, lực lượng khởi nghĩa từ các quận huyện kéo quân về hợp điểm giành chính quyền ở tỉnh lỵ Thủ Dầu Một.
Như vậy, nhân dân Lộc Ninh đã nổi dậy tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền nhanh, gọn khi thời cơ đến. Thắng lợi đó là kết quả của 15 năm đấu tranh kiên cường, bất khuất của những người cộng sản và quần chúng cách mạng, trải qua những bước thăng trầm và bao hy sinh mất mát và là kết quả của cuộc vận động giải phóng dân tộc trong đó có công lao, đóng góp trực tiếp của đồng chí Lê Đức Anh.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Đại tướng, Chủ tịch nước Lê Đức Anh để lại nhiều dấu ấn quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, quân đội và nhân dân ta. Trong đó, những năm đầu hoạt động cách mạng (1937 - 1945) với bao khó khăn, thử thách đã tôi rèn đồng chí Lê Đức Anh trở thành người chiến sĩ cộng sản kiên cường, suốt đời chiến đấu hy sinh vì lý tưởng cách mạng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân.
Đại tá, ThS. NGUYỄN HỒNG HẢI
Đại tướng Lê Đức Anh là một trong những vị tướng lãnh đạo, chỉ huy xuất sắc và có uy tín lớn của quân đội ta. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh luôn gắn liền với bước trưởng thành và những chiến công hiển hách của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Là nhà quân sự xuất sắc, đồng chí luôn quan tâm đến công tác hậu cần. Thành công của công tác bảo đảm hậu cần cho toàn quân đánh thắng trong các cuộc kháng chiến, làm nghĩa vụ quốc tế có sự đóng góp to lớn của Đại tướng Lê Đức Anh.
Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả xin được làm rõ hơn vai trò của Đại tướng Lê Đức Anh với công tác hậu cần quân đội trên cương vị Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở chiến trường Campuchia từ năm 1981 đến năm 1986. Nổi bật ở một số nội dung chủ yếu sau:
1. Quan tâm chỉ đạo công tác hậu cần bảo đảm cho quân tình nguyện Việt Nam và giúp bạn xây dựng ngành hậu cần
Sau khi Campuchia được giải phóng thoát khỏi chế độ diệt chủng Khơ-me đỏ, cách mạng Campuchia đã phải đối phó ngay với cuộc phản kích quyết liệt, toàn diện của các thế lực thù địch. Chúng tiếp tục nuôi dưỡng tàn quân Khơ-me đỏ hòng giành lại những địa bàn chiến lược đã mất, thực hiện âm mưu trở lại thống trị Campuchia và cô lập làm suy yếu Việt Nam.
Theo thỏa thuận giữa hai Nhà nước Việt Nam và Campuchia, ngày 06/6/1981, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký Quyết định số 185/QĐ-QP thành lập Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, đặt phiên hiệu là Bộ Tư lệnh 719, Thượng tướng Lê Đức Anh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng được bổ nhiệm Tư lệnh theo Sắc lệnh số 106/LCT ngày 29/6/1981 của Chủ tịch nước. Thực hiện quyết định này, cơ quan đại diện Tổng cục Hậu cần tại Phnôm Pênh được chuyển thuộc Bộ Tư lệnh 719, với biên chế 37 người, trong đó có 17 sĩ quan và 20 hạ sĩ quan, chiến sĩ. Thượng tá Nguyễn Xuân Khôi, Phó Tham mưu trưởng Tổng cục được chỉ định phụ trách Đại diện Tổng cục Hậu cần trong Bộ Tư lệnh 719.
Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ quân sự và hậu cần trên đất bạn, Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam đã chỉ đạo cơ quan hậu cần các cấp phải tập trung thực hiện nhiều công tác cấp thiết, trong đó có ba nhiệm vụ chủ yếu: Một là, xây dựng tổ chức lực lượng hậu cần theo đúng yêu cầu của chiến trường; Hai là, hình thành các phương thức bảo đảm, các quy định, tiêu chuẩn, chế độ hậu cần, mối quan hệ giữa các cấp, các tổ chức hậu cần; Ba là, đẩy mạnh nhiệm vụ giúp bạn, đặc biệt là giúp xây dựng ngành Hậu cần Quân đội cách mạng Campuchia.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ quốc tế và giúp bạn theo thỏa thuận, tháng 5/1981, trên cơ sở lực lượng của Quân đoàn 4 và của các Quân khu 5, 7, 9 hoạt động trên đất Campuchia, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã thành lập các Mặt trận quân tình nguyện 479, 579, 779 và 979. Tiền phương Cục Hậu cần các quân khu, quân đoàn này được chuyển thành tổ chức Hậu cần Mặt trận 479, 579, 779, 979 trực thuộc Tư lệnh mặt trận và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Hậu cần Quân đoàn 4, các quân khu 5, 7, 9.
Về phân cấp bảo đảm, từ giữa năm 1981 trở đi, căn cứ vào tình hình thực tế và những chuyển biến tích cực ở Campuchia, sau khi thống nhất kế hoạch với hậu cần các quân khu, quân đoàn, Tổng cục Hậu cần chịu trách nhiệm bảo đảm trực tiếp cho lực lượng của các Mặt trận 479, 579 và 979 tại các căn cứ hậu cần mặt trận. Riêng Mặt trận 779 do Cục Hậu cần Quân khu 7 bảo đảm, khi cần thiết, Tổng cục Hậu cần chi viện vật chất, phương tiện. Từ năm 1982, theo Nghị định ký kết giữa hai nước, phương thức bảo đảm hậu cần được điều chỉnh, quân tình nguyện Việt Nam được nhận toàn bộ lương thực và một số thực phẩm tươi (như thịt, cá, rau...) tại các địa phương của Campuchia do bạn trực tiếp cung cấp. Đổi lại, Nhà nước và Bộ Quốc phòng Việt Nam viện trợ những vật chất khác cần thiết với giá trị tương đương, hoặc chi trả bằng ngân sách cho bạn. Sự điều chỉnh này đã giúp ngành hậu cần quân đội ta giảm được một khối lượng khá lớn vật chất phải vận chuyển từ Việt Nam sang, hạn chế được tổn thất, hư hỏng hàng hóa.
Nhiệm vụ bảo đảm hậu cần cho quân tình nguyện Việt Nam và giúp bạn thời kỳ này rất nặng nề, phức tạp, đối tượng bảo đảm lớn và đa dạng. Quân số bảo đảm bình quân năm 1981 là 17 vạn người; riêng lực lượng Campuachia do ta chịu trách nhiệm bảo đảm là hơn 5,1 vạn người. Trong đó, bộ đội và dân quân du kích lên tới 4,3 vạn người. Tất cả 22 đầu mối cơ sở trực thuộc Tổng cục Hậu cần ở phía Nam của các ngành quân y, quân lương, quân trang, vận tải, xăng dầu... đều tham gia bảo đảm cho quân tình nguyện và giúp bạn.
Về bảo đảm đời sống, thực hiện phương thức bảo đảm bằng hiện vật và theo tiêu chuẩn định lượng. Tư lệnh Lê Đức Anh yêu cầu hậu cần các mặt trận bám sát các ngành và địa phương bạn, tiếp nhận đủ lương thực và 5 mặt hàng thực phẩm cho Quân tình nguyện. Đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất của các đơn vị để đưa vào cải thiện bữa ăn cho bộ đội và giúp nhân dân Campuchia. Các mặt trận đều tích cực đầu tư lực lượng, kinh phí, mở rộng các cơ sở chăn nuôi, trồng trọt, đánh bắt cá và chế biến thủy hải sản, sản xuất vật liệu xây dựng... với nhiều quy mô và loại hình đạt hiệu quả tốt.
Về nơi ở, được sự ủng hộ giúp đỡ nhiều mặt của chính quyền và nhân dân Campuchia, từ năm 1981, ta đã có kế hoạch xây dựng nơi ăn, ở ổn định cho bộ đội tình nguyện. So với bộ đội tuyến 1, bộ đội ở tuyến sau có thuận lợi hơn, trong đó 75-90% quân số có nhà ở, 60-65% quân số có ván nằm; nhà kho, nhà xe bảo đảm đạt 70-75% nhu cầu.
Về sức khỏe của bộ đội, mối quan tâm hàng đầu, thường xuyên của Bộ Quốc phòng, của toàn chiến trường và cả hậu phương là tình hình bệnh tật, đặc biệt là bệnh sốt rét. Tư lệnh
Lê Đức Anh yêu cầu tăng cường cán bộ quân y, thuốc men, trang bị y tế phục vụ công tác cứu, chữa, đồng thời đầu tư nghiên cứu, xây dựng các cơ sở điều trị sốt rét. Đặc biệt, ta còn cử nhiều đoàn chuyên viên giỏi lên vùng biên giới trực tiếp theo dõi, nghiên cứu và thực hành điều trị, phòng dịch tại chỗ. Quân y mỗi trung đoàn biên giới được bổ sung 1 bác sĩ, 1 y sĩ chuyên khoa ngoại, có đủ trang thiết bị làm nhiệm vụ cứu chữa khẩn cấp và cơ bản cho thương binh, bệnh binh. Các đội điều trị và bệnh viện khu vực đều được bổ sung cán bộ và trang thiết bị, tăng cường chỉ đạo nghiệp vụ kỹ thuật, nhất là kỹ thuật cứu chữa vết thương do mìn và sốt rét nặng. Kết quả là số bệnh nhân sốt rét và số tử vong do sốt rét ác tính giảm đi, sức khỏe của bộ đội có khá hơn; tỷ lệ quân số khỏe toàn chiến trường năm 1981 là 94,5%, 6 tháng đầu năm 1982 là 95-96%.
Về công tác vận tải, thời gian này việc vận chuyển hàng hóa từ Việt Nam sang chiến trường Campuchia phải triển khai với khối lượng rất lớn: năm 1981 là 70 nghìn tấn và 6 tháng đầu năm 1982 là 50 nghìn tấn. Bên cạnh đó, hằng năm còn vận chuyển bình quân 60-70 nghìn lượt người qua lại trên các tuyến giao liên. Trong tổng khối lượng vận chuyển thì đường thủy chiếm tới 59%, ô tô 35%, đường sắt 5% và đường không 1%. Để tạo điều kiện cho ngành vận tải quân sự hoàn thành nhiệm vụ, có tới 57% số phương tiện đường thủy, 35% số phương tiện đường bộ (ô tô) được thuê từ các cơ quan, xí nghiệp, các ngành của Nhà nước và các địa phương. Riêng vận chuyển đường không do lực lượng vận tải của Không quân nhân dân Việt Nam đảm nhiệm. Về vận tải đường sắt, ta dựa hoàn toàn vào bạn.
Về công tác giúp bạn xây dựng ngành Hậu cần, chấp hành mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng Việt Nam và Chỉ thị của Tư lệnh quân tình nguyện, hậu cần các cấp hết sức quan tâm và trong thực hiện đã có bước phát triển mới. Ngành Hậu cần quân đội ta đẩy mạnh giúp bạn xây dựng tổ chức, bộ máy hậu cần quân đội; huấn luyện đào tạo cán bộ, nhân viên, xây dựng cơ sở vật chất hậu cần với phương châm ngành nào giúp ngành đó, cấp nào giúp cấp đó. Hệ thống chuyên gia hậu cần từ Tổng cục đến các quân khu, mặt trận, các đoàn quân sự, các sư đoàn được hình thành, đã giúp bạn một cách thiết thực, có hiệu quả. Chỉ trong một thời gian ngắn, ta đã giúp bạn xây dựng được 2 tiểu đoàn vận tải ô tô, 1 tiểu đoàn vận tải thủy, 1 xưởng may quân trang, 1 trại sản xuất (với 10 ha gieo trồng và chăn nuôi hơn 200 con lợn...), 1 bệnh viện đa khoa 300 giường bệnh, 1 đội vệ sinh phòng dịch, 1 đội sửa chữa doanh trại, Trường Sĩ quan Hậu cần và Trường Nhân viên Hậu cần, 1 kho xăng dầu có sức chứa 1.700 tấn. Những cơ sở này vừa mới hình thành tuy còn nhỏ bé, nhưng với sự giúp đỡ của chuyên gia hậu cần - kỹ thuật Việt Nam đã sớm phát huy được tác dụng đối với ngành Hậu cần Quân đội Campuchia.
Cùng với sự giúp đỡ của hậu cần các cấp trên đất Campuchia, từ thực tế công tác hậu cần của Quân đội Campuchia, Tư lệnh Lê Đức Anh đã chỉ đạo tăng cường chuyên gia về hậu cần và đề nghị bạn lựa chọn đưa cán bộ sang Việt Nam học tập. Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam đã lựa chọn, cử nhiều chuyên gia thuộc các chuyên ngành nghiệp vụ sang giúp bạn dài hạn, năm 1981 là 148 cán bộ, năm 1982 là 86 cán bộ, năm 1983 là 97 cán bộ, năm 1984 là 67 cán bộ. Các trường đào tạo về công tác hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam đã đón nhiều cán bộ quân đội Campuchia sang học tập. Chỉ tính trong 2 năm 1981 - 1982, Học viện Hậu cần, Học viện Quân y, Trung cấp Quân y của ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam đã tiếp nhận đào tạo 190 học viên Campuchia, nhận nuôi dưỡng bảo đảm cho 300 học viên Campuchia tại các trường khác của Việt Nam. Lãnh đạo và chỉ huy các nhà trường, học viện của ta đã tổ chức cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên chức trực tiếp làm công tác quản lý, giảng dạy, phục vụ bạn, quán triệt nghị quyết của Bộ Chính trị là phải coi “việc giúp bạn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là khâu then chốt trong toàn bộ nội dung giúp bạn của Đảng và Nhân dân ta nói chung và của mỗi ngành nói riêng”. Đồng thời, công tác đào tạo phải thực hiện tốt ba yêu cầu của Bộ Quốc phòng đề ra là: Bảo đảm cho học viên ra trường phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với cách mạng; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia; nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ huy và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho học viên Lào và học viên Campuchia.
Với sự giúp đỡ tận tình đó, ngành Hậu cần Quân đội cách mạng Campuchia đã có những bước trưởng thành rõ rệt. Ta bàn giao dần việc tổ chức bảo đảm hậu cần các lực lượng vũ trang bạn cho Tổng cục Hậu cần Quân đội cách mạng Campuchia tự đảm nhiệm từ tháng 6/1980. Riêng công tác bảo đảm, cứu chữa thương binh, bệnh binh của bạn vẫn do Quân y Việt Nam trực tiếp đảm trách. Từ đây, ta đã kết thúc giai đoạn “từ làm giúp sang giúp làm”, nơi nào bạn thiếu cán bộ hoặc cán bộ còn yếu về trình độ chuyên môn thì ta cử chuyên gia, cán bộ giúp đỡ, cố vấn nhưng bạn giữ cương vị phụ trách, chỉ huy. Chính vì vậy, ngành Hậu cần Quân đội cách mạng Campuchia đã nhanh chóng trưởng thành, đủ sức đảm đương nhiệm vụ sau khi quân tình nguyện Việt Nam rút về nước.
2. Chỉ đạo hậu cần, kỹ thuật chuẩn bị chu đáo, kịp thời, bảo đảm cho chiến dịch mùa khô 1984 - 1985 thắng lợi
Sau thời kỳ tranh chấp, địch ra sức củng cố và xây dựng thêm lực lượng, với ý đồ tập trung nỗ lực lớn nhất chuyển sang tiến công chiến lược vào mùa khô 1984 - 1985. Để kịp thời phá tan âm mưu của chúng, bước vào mùa khô 1984 - 1985, ta và bạn phối hợp chủ động mở chiến dịch tiến công liên tục, lần lượt đánh tan 16 căn cứ lớn của địch trên dọc biên giới Campuchia - Thái Lan. Chiến dịch này chia làm ba đợt: Đợt 1, tiến công các căn cứ Poi Bét, Đăng Cum, Ăm Pin. Đợt 2, đánh chiếm căn cứ Sư đoàn 320, Sư đoàn 474 và các căn cứ khác dọc biên giới phía tây Bát Tam Bang (Noọng Prư - Cao mê lai - Sơ đa - Ô đa). Đợt 3, đánh chiếm căn cứ Tà Tum và căn cứ Côla - Tà Lốc...
Để bảo đảm chắc thắng cho chiến dịch và căn cứ từ thực tế các cơ sở hậu cần trên toàn chiến trường Campuchia, Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam quyết định chọn phương án tác chiến chiến dịch là đánh lần lượt vào các căn cứ. Phương án này tạo thuận lợi cho ngành hậu cần có điều kiện tập trung khả năng phù hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp trên toàn chiến trường trong suốt thời gian dài chiến dịch. Hậu cần các cấp đã động viên lực lượng, dồn sức tập trung bảo đảm cho chiến dịch thắng lợi với quyết tâm cao.
Đầu tháng 8/1984, thực hiện mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng và quyết tâm tác chiến của Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam, Tổng cục Hậu cần đã tổ chức chỉ đạo vận chuyển vật chất cho các mặt trận. Sau hơn ba tháng tiến hành, đến tháng 11/1984, ngành Hậu cần quân tình nguyện đã chuyển giao được 337 tấn cơm sấy, 65 tấn lương khô, 1.421 tấn thực phẩm khô và đồ hộp. Trước khi hành quân chiếm lĩnh trận địa, các đơn vị tham chiến được cấp lương thực, thực phẩm đủ ăn trong một tháng; quân trang chiến đấu bảo đảm cấp đủ 100% quân số, quân trang thương binh tỷ lệ 12%, bổ sung tổn thất 7%, quân trang tử sĩ 1% quân số. Việc cất giữ quân tư trang chưa dùng của cá nhân được tổ chức chu đáo nên đã hạn chế mất mát. Các quân khu, mặt trận và đơn vị ngoài việc tiếp nhận hết khối lượng vật chất do Tổng cục Hậu cần bảo đảm còn huy động lượng vật chất tăng gia sản xuất tại chỗ và chi viện từ Việt Nam chuyển sang để tăng thêm nguồn thực phẩm, cải thiện đời sống cho bộ đội trong dịp Tết Nguyên đán Ất Sửu (1985) và trong những ngày chiến đấu căng thẳng.
Trước chiến dịch, để bảo đảm quân số chiến đấu, Tư lệnh Lê Đức Anh chỉ đạo các đơn vị cho bộ đội ăn bồi dưỡng, cấp thuốc bổ và uống thuốc phòng sốt rét cho 100% quân số. Trong thời gian chiến dịch, việc tổ chức bữa ăn được các cấp chỉ huy, hậu cần đơn vị rất quan tâm. Ngay cả khi đã vào chiếm lĩnh trận địa, bộ đội vẫn được bảo đảm ăn nóng, bữa ăn luôn có thịt và rau tươi. Nhờ đó, sức khỏe bộ đội bảo đảm, quân số tham gia chiến đấu cao.
Trong quá trình tiến hành chiến dịch, do điều kiện khí hậu, thời tiết và địa hình ở Campuchia, việc bảo đảm nước ăn uống, sinh hoạt cho bộ đội giữa mùa khô rất khó khăn. Trên đường biên có suối, nhưng đều ở phần đất Thái Lan. Trong nội địa Campuchia, giữa rừng sâu đa số các con suối đều cạn kiệt, nếu suối nào còn thì chỉ có nước đọng thành từng vũng và bị ô nhiễm hoặc bị địch bỏ chất độc. Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của “vấn đề nước”, Tư lệnh Lê Đức Anh yêu cầu hậu cần các cấp phải tìm mọi biện pháp để bảo đảm nhu cầu tối thiểu cho ăn và uống của bộ đội, mỗi người, mỗi ngày có từ 5 đến 7 lít nước. Ngành quân lương, quân trang cấp đủ bi đông loại 1 lít cho cá nhân, loại 5 - 10 lít cho mỗi xe tăng - thiết giáp, loại can 20 - 30 lít cho tiểu đội. Ngành doanh trại cung cấp thêm túi nhựa ni lông, thùng nước, téc, can, phuy. Ngoài ra, anh em bộ đội còn có sáng kiến tự tạo ống bương, tre, thùng đạn, vỏ đạn, sọt lót nilông để đựng nước, vận chuyển nước. Hậu cần các sư đoàn, mặt trận tổ chức tiếp nước từ phía sau lên từng trận địa bằng xe ô tô. Nơi xa như hướng Sư đoàn 309 thuộc Quân khu 7 phải đi tới 50 - 70km đường rừng, thường xuyên bị địch phục kích. Khi nước tới nơi, cán bộ đại đội chịu trách nhiệm phân phối cho từng trung đội, tiểu đội. Tại Mặt trận 579, có nơi phải dùng xe chở nước xa từ 15 đến 20km.
Công tác vệ sinh, phòng bệnh trong chiến dịch cũng được Tư lệnh Lê Đức Anh quan tâm, chỉ đạo, nhờ đó các cấp hậu cần chú trọng đặt ra từ đầu và có nhiều biện pháp bảo đảm, thực hiện đồng bộ. Lực lượng cán bộ chuyên môn quân y được tăng cường. Việc giáo dục cho bộ đội nêu cao tinh thần tiết kiệm, quản lý, sử dụng nguồn nước, chiến lợi phẩm được tiến hành chặt chẽ... nên không có dịch bệnh nào xảy ra. Tỷ lệ quân số khỏe của Mặt trận 479 đạt 96,02%, Mặt trận 579 đạt 94%, Mặt trận 779 đạt 97,07% và Mặt trận 979 đạt 91,62%. Công tác tổ chức cứu chữa thương binh của các cấp hợp lý, kịp thời và chu đáo; Quân y các mặt trận đều thu dung hết số thương binh, bệnh binh, chất lượng cấp cứu, điều trị ngày càng được nâng cao. Quân y trung đoàn và quân y sư đoàn bố trí ở cự ly thích hợp, bảo đảm thời gian cáng thương binh bằng vận tải bộ về các tuyến sau ngắn nhất. Công tác chuyển thương được chú trọng, tổ chức chặt chẽ bằng nhiều phương tiện: vận chuyển bộ, xe cứu thương, xe vận tải, xe thiết giáp M.113. Trong chiến dịch này, xe M.113 được chỉ huy các cấp sử dụng rộng rãi, máy bay trực thăng cũng được sử dụng nhiều để chuyển thương binh nặng từ các căn cứ hậu cần phía trước của các sư đoàn về các bệnh viện tuyến sau. Đội chuyển thương của Mặt trận 479 còn được trang bị thêm xe bọc thép để chuyển thương và hộ tống thương binh. Nhờ vậy, tính mạng thương binh, bệnh binh trên đường vận chuyển được bảo đảm, tạo điều kiện tốt cho việc cứu chữa, điều trị.
Ngành Xăng dầu đã bảo đảm tốt cho nhiệm vụ hậu cần và nhiệm vụ quân sự cho quân tình nguyện, cũng như giúp bạn theo mệnh lệnh. Nhất là bảo đảm cho các chiến dịch tác chiến mùa khô 1985 - 1986, không có phương tiện nào bị thiếu nhiên liệu hoặc bảo đảm không kịp thời, góp phần vào thắng lợi của chiến dịch. Ngoài phục vụ chiến dịch, Hậu cần quân tình nguyện còn có lượng xăng dầu dự trữ cho nhiệm vụ tiếp theo.
Ngành Vận tải quân sự hoàn thành vận chuyển một khối lượng lớn vật chất các loại và cơ động quân. Trong gần 9 tháng kể từ ngày dứt điểm chuẩn bị cho chiến dịch, lực lượng vận tải các cấp vừa phục vụ chiến dịch, vận chuyển tiếp nhận dự trữ cho mùa mưa năm 1985, vừa phục vụ nhiệm vụ xây dựng tuyến phòng thủ biên giới (K5). Vận tải tuyến chiến dịch, nhiệm vụ cũng hết sức nặng nề trong khi lực lượng, phương tiện có hạn. Nhưng do tổ chức vận tải linh hoạt, lúc phân tán, lúc tập trung và khắc phục nhiều khó khăn nên ngành Vận tải quân sự đã góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ngoài lực lượng vận tải của quân khu, mặt trận, quân đoàn, đơn vị, ta còn huy động được lực lượng tổng hợp của Nhà nước, thuê mướn phương tiện của các địa phương bạn. Mặt trận 579 đã sử dụng 116 xe ô tô vận tải, trong đó có 17 xe của bạn. Mặt trận 479 sử dụng 80 xe ô tô vận tải; ngoài ra còn tận dụng 200 chuyến xe tác chiến, 310 chuyến xe của bạn. Đặc biệt, để kịp tham gia đợt 2 chiến dịch trong đợt cơ động Sư đoàn 7, Quân đoàn 4 từ hậu phương sang giữa những ngày Tết Nguyên đán Ất Sửu năm 1985, Hậu cần Quân khu 7 đã huy động được trên 200 xe của Quân khu, của Thành phố Hồ Chí Minh và của Cục Vận tải Tổng cục Hậu cần. Đối với Mặt trận 979, ta đã sử dụng 248 xe ô tô vận tải và 18 tàu vận tải thủy, trong đó có 72 xe của các tỉnh, 47 xe của bạn, 10 xe của Tổng cục Hậu cần. Mặt trận 979 còn sử dụng vận tải đường không 17 chuyến máy bay AH-26 và 15 chuyến máy bay Mi-8, sử dụng cả vận tải đường sắt của bạn với 45 toa tàu 40 tấn chở được 180 tấn. Kết quả vận tải toàn chiến dịch: Mặt trận 479 đã vận chuyển được 15.705 tấn hàng bằng 1.597.940 tấn/km và 39.067 lượt người bằng 5.200.000 người/km; Mặt trận 579 vận chuyển được 6.835 tấn hàng bằng 1.052.194 tấn/km và 26.050 lượt người bằng 6.247.000 người/km; Mặt trận 979 vận chuyển được 23.163 tấn hàng bằng 2.882.318 tấn/km và 23.650 lượt người bằng 3.208.436 người/km.
Chiến dịch mùa khô năm 1984-1985 trên chiến trường Campuchia của quân tình nguyện Việt Nam phối hợp cùng với bạn đã giành được thắng lợi giòn giã, vang dội, có ý nghĩa chiến lược quan trọng, buộc địch sau đó phải chuyển hướng chiến lược, lùi sâu, tản mát trong đất Thái Lan, tạo điều kiện cho bạn nhanh chóng củng cố, xây dựng quân đội lớn mạnh về mọi mặt đủ sức hoàn thành nhiệm vụ. Ngành hậu cần các cấp của quân đội ta đã góp phần quan trọng bảo đảm cho chiến dịch thắng lợi. Trước hết, luôn bám sát nhiệm vụ quân sự và chỉ đạo của người chỉ huy để chủ động, có kế hoạch và triển khai tổ chức bố trí hậu cần hợp lý, liên hoàn, vững chắc. Đồng thời, ngành Hậu cần nỗ lực khắc phục khó khăn, dồn sức tập trung bảo đảm đủ, kịp thời mọi nhu cầu cho chiến đấu. Các mặt bảo đảm đời sống, sức khỏe, thương binh, bệnh binh, vận tải... đều hoàn thành tốt nhiệm vụ với chất lượng cao hơn nhiều so với giai đoạn trước.
Như vậy, khoảng thời gian từ giữa năm 1981 đến cuối năm 1986, chúng ta vừa làm nhiệm vụ quốc tế giúp Campuchia, đồng thời tiếp tục thực hiện nghĩa vụ quốc tế giúp cách mạng Lào. Nhiệm vụ tổ chức và bảo đảm hậu cần cho quân đội ta trong thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế thời kỳ này hết sức nặng nề, khó khăn, phức tạp. Suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia, đứng đầu là Tư lệnh Lê Đức Anh; sự giúp đỡ của các bộ, ngành chức năng, các đơn vị, địa phương, ngành Hậu cần quân đội luôn bám sát nhiệm vụ, ra sức khắc phục khó khăn, vượt qua gian khổ, hy sinh, tự lực tự cường, mưu trí sáng tạo, tận tụy phục vụ bộ đội, đặc biệt là đối với các đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ ở Campuchia. Do phải thực hiện nhiệm vụ ở nước bạn nên công tác hậu cần còn một số hạn chế, nhưng toàn ngành Hậu cần đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, tổ chức bảo đảm đầy đủ, kịp thời cho quân đội ta thực hiện thắng lợi và làm tròn nhiệm vụ quốc tế vẻ vang, được nhân dân Campuchia yêu mến.
Là vị tướng trận mạc trải qua thực tiễn nhiều năm chiến tranh, Đại tướng Lê Đức Anh thực sự là một nhà chỉ huy quân sự xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên từng cương vị công tác, Đại tướng luôn trăn trở, có tầm nhìn chiến lược, chuẩn bị chu đáo, chỉ đạo chiến trường sát sao để đi đến thắng lợi. Trong đó, công tác hậu cần quân đội luôn được Đại tướng đặc biệt quan tâm và coi là yếu tố quan trọng góp phần hoàn thành nhiệm vụ quốc tế giúp bạn.
Ngày nay, trong bối cảnh tình hình mới, kế thừa và vận dụng những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh về quân sự nói chung, về hậu cần nói riêng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, ngành Hậu cần quân đội tiếp tục phát huy truyền thống, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo, phấn đấu vượt qua khó khăn thử thách, hoàn thành tốt nhiệm vụ tham mưu, chỉ đạo, tổ chức bảo đảm hậu cần; tạo ra sự đồng bộ trong bảo đảm hậu cần cho các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trung tướng TRẦN DUY GIANG
Trên cương vị là Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, đồng chí Lê Đức Anh đã có những chỉ đạo chiến lược đúng đắn, kịp thời, hiệu quả về công tác bảo đảm kỹ thuật quân sự để Tổng cục Kỹ thuật và ngành Kỹ thuật quân sự hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế vẻ vang của mình.
1. Chỉ đạo của Tư lệnh về xây dựng hệ thống tổ chức, lực lượng kỹ thuật quân tình nguyện phù hợp với tình hình và yêu cầu nhiệm vụ trên chiến trường Campuchia
Trên chiến trường Campuchia, để thống nhất lãnh đạo, chỉ huy các mặt trận đánh địch và giúp cách mạng Campuchia, ngày 06/6/1981, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký Quyết định số 185/QĐ-QP thành lập Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (phiên hiệu là Bộ Tư lệnh 719). Ngay sau đó, ngày 29/6/1981, Chủ tịch nước quyết định bổ nhiệm Thượng tướng Lê Đức Anh làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Quân tình nguyện đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất của Bộ Tư lệnh 719. Tư lệnh Lê Đức Anh đồng thời là đại diện của Bộ Quốc phòng Việt Nam bên cạnh Bộ Quốc phòng Campuchia. Về công tác kỹ thuật, Tư lệnh Lê Đức Anh được ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ huy, chỉ đạo Tổng cục Kỹ thuật; Bộ Tư lệnh các quân khu 5, 7, 9 thực hiện công tác bảo đảm kỹ thuật và xây dựng hệ thống tổ chức lực lượng kỹ thuật cho quân tình nguyện và các đơn vị hoạt động trên chiến trường Campuchia.
Cơ quan đại diện của Tổng cục Kỹ thuật tại Campuchia được chuyển thành Cơ quan Kỹ thuật Mặt trận 719. Lực lượng quân tình nguyện ở Campuchia được tổ chức thành các mặt trận: 479 và 779 (thuộc Quân khu 7), 579 (thuộc Quân khu 5) và 979 (thuộc Quân khu 9). Các mặt trận đều thành lập Cục Kỹ thuật trên cơ sở cơ quan đại diện của Tổng cục Kỹ thuật tại Campuchia để quản lý, chỉ đạo bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho quân tình nguyện và lực lượng vũ trang của bạn. Trên cương vị được giao, Tư lệnh Lê Đức Anh chỉ đạo Tổng cục Kỹ thuật, Cục Kỹ thuật các quân khu 5, 7, 9 và cơ quan kỹ thuật các mặt trận tăng cường củng cố xây dựng hệ thống tổ chức biên chế, lực lượng các đơn vị kỹ thuật ở cơ quan và cơ sở, theo đó, tháng 7/1981, thành lập Cục Kỹ thuật Mặt trận 779, biên chế các phòng Tham mưu, Quân khí và Xe - máy; các ban Chính trị và Hậu cần; Kho vũ khí đạn và Tiểu đoàn sửa chữa tổng hợp. Tháng 5/1982, thành lập Cục Kỹ thuật Mặt trận 579, biên chế các phòng Tham mưu, Quân khí, Xe - máy và Tăng thiết giáp; các ban Chính trị và Hậu cần; các kho Q20, Q22, Q25 và Xưởng sửa chữa tổng hợp 381. Giữa năm 1982, thành lập Cục Kỹ thuật Mặt trận 979, biên chế các phòng Tham mưu, Quân khí, Xe - máy và Tăng thiết giáp; các ban Chính trị và Hậu cần; Xưởng 201B, Tiền phương Xưởng 202 và Kho vũ khí đạn.
Trên cơ sở các tổ chức kỹ thuật mới thành lập, Bộ Tư lệnh 719 chỉ đạo Tổng cục Kỹ thuật và ngành Kỹ thuật các quân khu 5, 7, 9 khẩn trương điều động cán bộ, nhân viên kỹ thuật, trang thiết bị và cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan quân khí, xe máy, tăng thiết giáp và các phân đội kỹ thuật hoạt động được ngay. Riêng Tổng cục Kỹ thuật đã điều động 489 cán bộ, nhân viên kỹ thuật, 244 lái xe có năng lực, trình độ, kinh nghiệm và 19 xe công trình, 30 tấn vật tư phụ tùng ô tô để sửa chữa cho Cơ quan Kỹ thuật Bộ Tư lệnh 719. Với lực lượng sẵn có và lực lượng bổ sung, Bộ Tư lệnh 719 đã xây dựng được Tiểu đoàn sửa chữa tổng hợp ở Mặt trận 479; các mặt trận 579, 779, 979 và Quân đoàn 4, mỗi đơn vị có một xưởng sửa chữa ở khu vực cơ bản; các sư đoàn, trung đoàn và lữ đoàn binh chủng có các đại đội hoặc trung đội sửa chữa. Chỉ trong thời gian ngắn, cơ quan Kỹ thuật Bộ Tư lệnh 719 cùng tiền phương cơ quan kỹ thuật các quân khu, cục kỹ thuật các mặt trận và các cơ sở kỹ thuật quân sự ở phía Nam hình thành hệ thống bảo đảm kỹ thuật cho quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu trên chiến trường Campuchia.
Trong điều kiện tác chiến, chiến đấu trên chiến trường Campuchia hết sức khó khăn về mọi mặt, nhưng nhờ có sự chỉ đạo sâu sát của Bộ Tư lệnh 719, Tổng cục Kỹ thuật và cơ quan kỹ thuật các quân khu, cục kỹ thuật các mặt trận luôn cố gắng bảo đảm lực lượng kỹ thuật cho quân tình nguyện sát theo biên chế. Chỉ tính đến tháng 12/1983, cán bộ, nhân viên ở cục kỹ thuật các mặt trận, phòng kỹ thuật sư đoàn, ban kỹ thuật trung đoàn có từ 70 đến 85%; thợ sửa chữa của các xưởng thuộc các mặt trận 579, 779, 979 có đến 60%; thợ ở các đại đội và trung đội sửa chữa của cấp sư đoàn, trung đoàn binh chủng có 56%; lái xe ô tô các loại có 67%; lái xe tăng thiết giáp có đến 86% so với biên chế.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thực tiễn trên chiến trường Campuchia, tháng 7/1981, Bộ Quốc phòng đã chỉ thị các quân khu đổi tên tiền phương bộ chỉ huy quân sự các tỉnh thành các đoàn quân sự. Thực hiện chỉ thị của Bộ Quốc phòng, Tư lệnh Lê Đức Anh đã thay mặt Bộ Tư lệnh 719 chỉ đạo các mặt trận ra quyết định về tổ chức biên chế cơ quan kỹ thuật của các đoàn quân sự ở các tỉnh. Cơ quan kỹ thuật của các đoàn quân sự được biên chế 5 người (4 sĩ quan, 1 hạ sĩ quan) do đồng chí Đoàn phó về công tác hậu cần - kỹ thuật phụ trách. Việc thành lập các đoàn quân sự đã góp phần chỉ đạo kịp thời, cụ thể, sâu sát, thực hiện tốt công tác kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu của quân tình nguyện và tạo tiền đề để xây dựng lực lượng kỹ thuật cho cách mạng Campuchia.
Kể từ năm 1981 đến năm 1984, ngành Kỹ thuật Quân đội ta đã cử nhiều đoàn chuyên gia sang giúp bạn về công tác kỹ thuật, sau đó thành lập Phòng chuyên gia kỹ thuật cho các mặt trận 479, 579, 779, 979. Theo chỉ đạo của Bộ Tư lệnh 719, Phòng chuyên gia kỹ thuật ở các mặt trận đã tuyển được nhiều đồng chí cán bộ kỹ thuật có phẩm chất đạo đức tốt và trình độ chuyên môn giỏi, có nhiều kinh nghiệm trong chỉ đạo nghiệp vụ của các chuyên ngành. Đến năm 1986, Phòng chuyên gia kỹ thuật của các mặt trận đã ổn định về tổ chức, biên chế gồm: Thủ trưởng phòng (2 người), ban kế hoạch (2 người), ban vũ khí (5 người), ban xe máy (3 người)... Việc thành lập các Đoàn quân sự và Phòng chuyên gia kỹ thuật đã góp phần chỉ đạo kịp thời, cụ thể, sâu sát, để bảo đảm thực hiện tốt công tác kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu của quân tình nguyện Việt Nam, đồng thời giúp xây dựng lực lượng kỹ thuật cho quân đội cách mạng Campuchia.
2. Chỉ đạo công tác bảo đảm kỹ thuật cho hoạt động tác chiến của quân tình nguyện Việt Nam vào mùa khô 1984 - 1986
Sau năm 1983, mặc dù bị đánh thiệt hại nặng nề trên các địa bàn chiến lược, nhưng được các thế lực bên ngoài giúp sức, lực lượng phản động Campuchia đẩy mạnh các hoạt động phá hoại. Nắm chắc tình hình địch và yêu cầu nhiệm vụ tác chiến trên chiến trường của quân tình nguyện, Tư lệnh Lê Đức Anh giao nhiệm vụ trực tiếp cho các mặt trận tiếp tục phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiến công các căn cứ của địch dọc biên giới Campuchia - Thái Lan, kết hợp với truy quét tàn quân địch trong nội địa, giúp nhân dân và lực lượng vũ trang cách mạng của bạn chủ động giành lại thế trận trên các địa bàn chiến lược và toàn bộ đất nước Campuchia vào mùa khô những năm 1984-1986.
Thực hiện quyết tâm của Bộ Quốc phòng, trong mùa khô 1984 - 1985, Tư lệnh Lê Đức Anh trực tiếp chỉ đạo Tổng cục Kỹ thuật và ngành Kỹ thuật tập trung mọi nỗ lực cao nhất để bảo đảm kỹ thuật cho các đơn vị tham gia tác chiến. Thực hiện nhiệm vụ, các nhà máy phía Nam của Tổng cục Kỹ thuật đã cử 23 đội sửa chữa cơ động với 256 cán bộ, thợ sửa chữa, nhân viên kỹ thuật phục vụ chiến dịch; Tổng cục điều động bổ sung 691 thợ kỹ thuật các loại và 145 lái xe cho Bộ Tư lệnh 719; các chuyên ngành cục kỹ thuật của các mặt trận và Quân đoàn 4 tăng cường lực lượng kỹ thuật bảo đảm kịp thời cho các đơn vị tham gia chiến dịch. Mặt trận 779 bảo đảm được 267 khẩu súng pháo và 31,2 tấn đạn súng cối; 22,2 tấn đạn chống tăng; 71 khẩu và 49,4 tấn đạn súng máy phòng không 12,7mm; 11.555 khẩu súng pháo và 269,6 tấn đạn súng bộ binh, 32 tấn lựu đạn…
Trên cơ sở lực lượng kỹ thuật của mặt trận và lực lượng tăng cường của Tổng cục Kỹ thuật, trước khi bước vào chiến dịch, các mặt trận, các sư đoàn, trung đoàn binh chủng đều tổ chức các tổ, đội sửa chữa trong biên chế. Các đội sửa chữa của Mặt trận 479 đã bảo dưỡng, sửa chữa nhỏ và vừa 7.569 khẩu súng bộ binh; 187 khẩu cối và ĐKZ; 94 khẩu súng máy phòng không và 278 khẩu pháo cao xạ; bảo dưỡng đồng bộ 25 tấn đạn; bảo dưỡng 330 xe và sửa chữa 65 lượt xe tăng thiết giáp; kiểm tra sửa chữa toàn bộ máy thông tin trên xe tăng thiết giáp hệ 2; bảo dưỡng lần một và lần hai được 1.139 xe ôtô và sửa chữa 360 lượt xe ôtô. Mặt trận 479 còn được bố trí hai đội sửa chữa tổng hợp ở khu vực tiền phương: Đội 1, biên chế 54 người, được trang bị 2 xe công trình, 2 cần cẩu, 5 xe ôtô vận tải, máy hàn điện, máy hàn gió đá, máy nạp điện...; Đội 2, biên chế 17 người, được trang bị 2 cần cẩu, 2 đầu máy kéo... Trong chiến dịch, các đội đã sửa chữa được 709 lượt xe ôtô, 75 lượt xe tăng, 2.270 lượt súng pháo các loại; cứu kéo được 35 xe ôtô, 10 xe tăng thiết giáp và 1 khẩu pháo 122mm của bạn.
Ở Mặt trận 579, Đội cứu kéo đã cứu kéo được 92 lượt xe hư hỏng, trục vớt được 1 khẩu pháo 155mm, 1 xe M54, 1 xe ủi. Đặc biệt, trong chiến dịch này, ngành Kỹ thuật cùng ngành Hậu cần của Mặt trận 579 đã huy động được nhiều phương tiện cất chứa, cơ động, để bảo đảm đủ nước cho bộ đội ăn uống, sinh hoạt và chiến đấu trên địa hình vùng cao giữa mùa khô hạn. Tại Mặt trận 979, ngoài các đội, trạm sửa chữa của đơn vị, còn tổ chức
3 đội sửa chữa cơ động đến sửa chữa trực tiếp cho 3 sư đoàn ở tuyến 1. Tổng cục Kỹ thuật tăng cường Đội sửa chữa cơ động của Nhà máy Z751 cùng với Xưởng sửa chữa của Mặt trận 979 tập trung sửa chữa các loại vũ khí trang bị kỹ thuật từ phía trước đưa về và sẵn sàng cơ động lúc cần thiết. Ngành Kỹ thuật của Mặt trận đã bảo đảm phương tiện kỹ thuật cơ động bộ đội liên tục trên các hướng, chia cắt địch. Kết thúc chiến dịch, một phần lực lượng kỹ thuật của quân tình nguyện được lệnh rút về nước. Bộ Tư lệnh 719 chỉ đạo các đơn vị bàn giao các cơ sở bảo đảm kỹ thuật cùng vũ khí, vật tư, phụ tùng thu được của địch và tăng cường một số thợ sửa chữa kỹ thuật cho các đơn vị tiếp tục tham gia chiến đấu ở chiến trường Campuchia.
Sau thắng lợi của chiến dịch tiến công chiến lược mùa khô 1984 - 1985, Đại tướng Tư lệnh Lê Đức Anh chỉ thị ngành Kỹ thuật điều chỉnh, ổn định tổ chức lực lượng, tăng cường bảo đảm cho các đơn vị làm nhiệm vụ phòng thủ và chuẩn bị cho chiến dịch mùa khô 1985 - 1986 với nhiệm vụ truy quét và tiêu diệt các căn cứ lõm, đánh cắt hành lang, đánh địch bu bám, hỗ trợ cho quần chúng phá thế kìm kẹp của địch. Chiến dịch chủ yếu là tác chiến truy quét địch, nhu cầu sử dụng vũ khí trang bị kỹ thuật không nhiều nên Bộ Tư lệnh chỉ đạo cơ quan Kỹ thuật Bộ Tư lệnh 719 và ngành kỹ thuật các đơn vị tham gia chiến đấu tự thực hiện công tác bảo đảm kỹ thuật.
3. Chỉ đạo giúp Quân đội cách mạng Campuchia xây dựng và phát triển lực lượng kỹ thuật quân sự
Căn cứ tình hình thực tế công tác đối ngoại giúp Campuchia, tháng 02/1980, Bộ Chính trị quyết định thành lập Tổng đoàn chuyên gia do đồng chí Lê Đức Anh phụ trách. Tiếp đó, tháng 6/1982, Bộ Chính trị thành lập Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia và chỉ định đồng chí Lê Đức Anh làm Trưởng ban. Tại Hội nghị hợp tác giúp đỡ về kinh tế, văn hóa, kỹ thuật giữa Việt Nam và Campuchia, thay mặt Ban Lãnh đạo Đoàn chuyên gia, Đại tướng Tư lệnh Lê Đức Anh nêu rõ: “Nguyện vọng của cán bộ bạn là tha thiết muốn làm chủ lấy đất nước của mình. Một chuyên gia khi về nước mà bạn chưa trưởng thành, chưa đảm đương được nhiệm vụ là chuyên gia đó không hoàn thành nhiệm vụ”.
Thực hiện chỉ đạo của Trưởng ban Lãnh đạo Đoàn chuyên gia và Tư lệnh 719 Lê Đức Anh, từ năm 1981 đến năm 1984, Phòng chuyên gia kỹ thuật ở tất cả các mặt trận được thành lập. Sau khi được bổ sung đủ biên chế, ổn định, Phòng chuyên gia kỹ thuật các mặt trận đã chủ động, tích cực giúp bạn chỉ đạo thực hiện công tác kỹ thuật và huấn luyện cho đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn của bạn. Với phương châm nói đi đôi với làm, coi trọng thực hành, thực tế nên bạn tiếp thu nhanh và vận dụng vào công tác tốt. Cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật của bạn ngày càng trưởng thành, đảm đương được nhiệm vụ chỉ đạo thực hiện công tác kỹ thuật, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang của bạn hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu. Đồng thời, Cơ quan Kỹ thuật Bộ Tư lệnh 719 cũng đã giúp bạn tiếp nhận 376 tấn, thu hồi 1.254 tấn, điều chuyển 6.606 tấn, phân loại sắp xếp 8.000 tấn, xử lý 1.874 tấn vũ khí trang bị kỹ thuật; khảo sát và sửa chữa 162 khẩu pháo các loại; sửa chữa và hiệu chỉnh 23.170 khẩu súng bộ binh; bảo quản và sửa chữa 300 tấn đạn dược. Tổ chức các đội sửa chữa cơ động sang sửa chữa tại chỗ cho bạn được 60 xe tăng, thiết giáp, 34 bộ đài thông tin trên xe, 17 xe ôtô vận tải, 100 khẩu pháo các loại, kiểm tra kỹ thuật 5.000 khẩu súng bộ binh, sửa chữa 1.760 khẩu súng pháo, 24 máy công cụ, 9 tàu; xây dựng một triền tàu ở Cô Công và trục vớt 50 chiếc tàu các loại. Với những yêu cầu về vật tư phụ tùng, những mặt hàng nào ta có thì cấp hoặc chuyển nhượng, nếu không có thì mua giúp; đặc biệt nhiều mặt hàng ta phải lấy trong số mua ở nước ngoài để viện trợ, cũng có những mặt hàng ta chịu thiếu để giúp bạn.
Từ năm 1981 đến năm 1986, được sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh 719, đứng đầu là đồng chí Lê Đức Anh, Tổng cục Kỹ thuật tiến hành giúp Campuchia xây dựng và phát triển lực lượng kỹ thuật: tháng 4/1981, khởi công xây dựng hoàn chỉnh một kho đạn có trữ lượng 2.000 tấn, một xưởng vũ khí có công suất sửa chữa 15.000 khẩu súng và 30 khẩu pháo mỗi năm. Tháng 9/1982, triển khai xây dựng Kho đạn (K82) có tổng diện tích xây dựng 1.355m2, được lắp đặt 36 tấn thiết bị. Năm 1983, xây dựng Trường Sĩ quan kỹ thuật, Trường Đào tạo lái xe - nhân viên kỹ thuật và cải tạo Trường Hạ sĩ quan kỹ thuật giúp bạn. Đồng thời, xử lý giúp bạn 500 tấn đạn cấp 5; nhận sửa chữa tại Việt Nam 30 xe ôtô, 10 xe tăng và cải tiến 300 khẩu ĐKZ82. Năm 1985, bàn giao kho chất nổ 2.000 tấn; lập phương án xây dựng xưởng sửa chữa cơ khí tổng hợp, sản xuất lựu đạn, mìn,... Tổng cục Kỹ thuật còn trang bị 75 xe thiết giáp M113 và 83 khẩu pháo, 71.559 khẩu súng; các loại đạn, lựu đạn, mìn với khối lượng 11.153,952 tấn; nhiều loại trang cụ phục vụ cho chiến đấu và tổ chức các đội sửa chữa cơ động sang sửa chữa tại chỗ giúp bạn. Ngoài ra, cán bộ kỹ thuật của ta đã kiểm tra xác định tình trạng kỹ thuật vũ khí, trang bị ở các sư đoàn 179, 286, 19 và 6 của bạn. Đặc biệt, tháng 5/1985, Thiếu tướng Nguyễn Văn Tiên, Phó Tư lệnh, Chủ nhiệm Kỹ thuật Mặt trận 719 chỉ đạo tổ chức huấn luyện cho ngành Kỹ thuật Quân đội cách mạng Campuchia với các nội dung: công tác tham mưu kỹ thuật; tham mưu chiến dịch và chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu; công tác bảo đảm của các chuyên ngành kỹ thuật.
Từ năm 1985, quân tình nguyện Việt Nam đã cùng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiêu diệt tất cả các căn cứ lớn của địch ở biên giới và bước đầu xây dựng tuyến phòng thủ biên giới (K5). Ngày 06/01/1986, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 02/QĐ-QP giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh 719 lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị quân tình nguyện và chuyên gia quân sự tiếp tục giúp bạn xây dựng Công trình K5. Công trình dài hơn 600km, trải dọc tuyến biên giới giữa Campuchia và Thái Lan gồm hệ thống tổ chức phòng thủ tập trung bộ đội chủ lực trên các trọng điểm và công sự chiến hào. Trong khi công trình K5 sử dụng nhiều phương tiện kỹ thuật, Tư lệnh Lê Đức Anh nhấn mạnh: “phải chuẩn bị ngay từ nay kế hoạch thật tỉ mỉ..., chuẩn bị lực lượng, vật tư công cụ chu đáo... các phương tiện bảo đảm phải đến tận tay người lao động để đạt được chất lượng theo yêu cầu và không lãng phí”. Dưới sự chỉ đạo của Tư lệnh, các bộ phận giúp bạn làm kế hoạch, cung ứng vật tư và quản lý thi công bảo đảm thời gian và đáp ứng về kỹ thuật. Mặt trận 479 bố trí chông sắt trên một khu vực rộng với diện tích 530.000m2, trải dài 82km. Sư đoàn 315 bố trí bãi mìn xung quanh các điểm cao, với chính diện rộng 14km và chiều sâu 4,5km. Sư đoàn 307 lập hệ thống vật cản gồm lưới dây thép gai bùng nhùng, rải chông chân chim dưới đáy hào; bố trí 32.788 quả mìn chống bộ binh, 288 quả mìn chống tăng.
Để bảm đảm vũ khí, trang bị cho Công trình K5, Tư lệnh Lê Đức Anh chỉ đạo Tổng cục Kỹ thuật giao cho các cơ sở phía Nam sản xuất một khối lượng lớn mìn M82, cải tiến súng bộ binh và sản xuất nhiều quân cụ, phụ tùng kỹ thuật theo yêu cầu trang bị cho từng chốt. Đặc biệt, theo yêu cầu của bạn, ta đã chi viện một số lượng lớn pháo, súng bộ binh, đạn, mìn... Số lượng vũ khí đạn này được bàn giao cho bạn tại cụm cứ điểm K5 an toàn, đầy đủ. Ngoài ra, còn giao cho hai nhà máy Z133 và Z153 tổ chức đào tạo, bồi dưỡng 30 cán bộ kỹ thuật và cử 5 chuyên gia sang giúp bạn về bảo đảm vũ khí trang bị kỹ thuật cho tuyến phòng thủ Công trình K5.
Đến giữa năm 1986, quân tình nguyện Việt Nam cùng các lực lượng cách mạng Campuchia hoàn thành cơ bản nhiệm vụ xây dựng các hạng mục công trình đúng thời gian quy định, hình thành tuyến phòng thủ dọc vùng biên giới phía Tây Campuchia. Giá trị của công trình K5 đúng như kết luận của Tư lệnh Lê Đức Anh tại Hội nghị sơ kết Đợt 1 mùa khô (1985 - 1986) là “Hình mẫu để khai thác các công trình chiến đấu cơ bản, lâu dài, sẵn sàng đối phó với chiến tranh”; đồng thời, thể hiện tinh thần quốc tế cao đẹp, tình đoàn kết, chiến đấu vì độc lập, tự do của hai dân tộc hai nước.
Những kinh nghiệm chỉ đạo về công tác bảo đảm kỹ thuật của Đại tướng Lê Đức Anh, Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Campuchia trong những năm 1981 - 1986 đã để lại những bài học quý, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với Tổng cục Kỹ thuật và ngành Kỹ thuật Quân đội nhân dân Việt Nam; bảo đảm kịp thời, đồng bộ số lượng và chất lượng vũ khí trang bị kỹ thuật cho quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia chiến đấu, đánh bại tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari, giúp nhân dân và quân đội cách mạng Campuchia xây dựng và bảo vệ đất nước. Đảng ủy, chỉ huy, đội ngũ cán bộ, chiến sĩ công nhân viên chức quốc phòng trong Tổng cục Kỹ thuật, những “người lính thợ kỹ thuật” luôn nêu cao tinh thần cách mạng, ý chí quyết tâm, tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, khắc phục khó khăn, gian khổ, phát huy truyền thống “Chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường” giữ vững và tăng cường tình đoàn kết hữu nghị, gắn bó giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Thiếu tướng TRẦN MINH ĐỨC
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh là một chiến sỹ cách mạng kiên trung, một vị tướng tài ba, một nhà chỉ huy xuất sắc, có tầm nhìn chiến lược. Ông đã được tôi luyện, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, có nhiều đóng góp lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế. Trong suốt thời gian trên cương vị là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, đồng chí đã cùng Quân ủy Trung ương tham mưu cho Đảng, Nhà nước vận dụng đúng đắn đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng, từng bước xây dựng kế sách giữ nước toàn diện, củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân và kết hợp quốc phòng - kinh tế, kinh tế - quốc phòng.
Trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, Bộ trưởng, Đại tướng Lê Đức Anh rất quan tâm đến việc xây dựng một nền công nghiệp quốc phòng “tự chủ, có khoa học kỹ thuật tiên tiến, có lực lượng cán bộ và nhân viên khoa học ngày càng phát triển”. Điều đó được thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
1. Tham mưu cho Hội đồng Bộ trưởng thành lập Tổng cục Công nghiệp quốc phòng - Kinh tế
Trong những năm 80, 90 của thế kỷ XX, nhiệm vụ cơ bản mà Đảng ủy Quân sự Trung ương giao cho Tổng cục Kỹ thuật đều có sự phát triển mới, nhất là khi nhiệm vụ quản lý và khai thác sử dụng một khối lượng lớn cơ sở vật chất kỹ thuật, vũ khí trang bị, nhiệm vụ bảo đảm kỹ thuật đã nảy sinh nhiều vấn đề bất cập. Bên cạnh đó, hệ thống quản lý, chỉ huy còn cồng kềnh, chồng chéo, qua nhiều khâu trung gian, lại thiếu chuyên sâu theo ngành, nên hiệu quả hoạt động ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế. Nhiệm vụ xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đó là: công tác quản lý các xí nghiệp quốc phòng còn chịu tác động lớn của cơ chế tập trung, bao cấp, chưa đủ cơ sở để chuyển nhanh sang cơ chế hoạch toán độc lập; hầu hết các xí nghiệp đều chưa phát huy được tiềm lực hiện có, chưa tạo được điều kiện để tranh thủ sự đầu tư của Nhà nước,.. Trước tình hình đó, việc chấn chỉnh lại tổ chức Tổng cục Kỹ thuật là một đòi hỏi rất cấp thiết. Bộ Quốc phòng đã triệu tập hội nghị cán bộ chủ chốt và đã thống nhất kết luận: Công nghiệp quốc phòng là một vấn đề chiến lược thuộc Bộ Quốc phòng quản lý nhưng tách thành một tổng cục riêng lấy tên là Tổng cục Công nghiệp quốc phòng.
Trên cương vị là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Đại tướng đã tham mưu cho Hội đồng Bộ trưởng thành lập Tổng cục Công nghiệp quốc phòng - Kinh tế (năm 1989) trực thuộc Bộ Quốc phòng trên cơ sở hợp nhất và sắp xếp lại cơ quan Tổng cục Kinh tế với cơ quan quản lý các xí nghiệp sản xuất quốc phòng để giúp Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lực lượng sản xuất của quân đội. Về mặt kinh tế, hoạt động của Tổng cục Công nghiệp quốc phòng - Kinh tế dưới sự chỉ đạo chung của Hội đồng Bộ trưởng thông qua các cơ quan chức năng của Nhà nước. Sau khi Tổng cục được thành lập, Đại tướng Lê Đức Anh đã giao Tổng cục Công nghiệp quốc phòng - Kinh tế chức năng giúp Bộ Quốc phòng làm tham mưu cho Nhà nước về động viên công nghiệp. Theo đó, Tổng cục sẽ thực hiện nghiên cứu, phát triển khả năng kỹ thuật và công nghệ của các ngành công nghiệp có thể động viên phục vụ quốc phòng vào sản xuất và sửa chữa tại các xí nghiệp kinh tế được động viên, từ đó đề xuất với Bộ Quốc phòng kế hoạch và quy chế động viên công nghiệp phục vụ quốc phòng.
Sự ra đời của Tổng cục Công nghiệp quốc phòng - Kinh tế (nay là Tổng cục Công nghiệp quốc phòng) đánh dấu bước phát triển mới của quân đội, đồng thời phản ánh tư duy chiến lược của Đại tướng Lê Đức Anh.
2. Tham mưu cho Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Chỉ thị về nhiệm vụ sản xuất quốc phòng và kinh tế của quân đội
Năm 1989, trước tình hình sản xuất của các nhà máy trong Tổng cục Công nghiệp quốc phòng - Kinh tế gặp khó khăn: Sản phẩm không có đầu ra, công nhân không có lương, sản xuất bị đình đốn, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, dần ổn định sản xuất cho các đơn vị. Theo đó đồng chí đã cùng Bộ Quốc phòng tham mưu cho Hội đồng Bộ trưởng ra Chỉ thị về nhiệm vụ sản xuất quốc phòng và kinh tế của quân đội. Nội dung Chỉ thị xác định rõ trên cơ sở bảo đảm nhiệm vụ quân sự quốc phòng, cho phép Bộ Quốc phòng được huy động cơ sở vật chất, kỹ thuật, bao gồm nhà máy, xí nghiệp, kho tàng, bến cảng, nhà cửa, đất đai hiện đang quản lý, các vật tư, thiết bị cần thanh lý để đưa vào sản xuất phục vụ quốc phòng và kinh tế; các tổ chức tổng công ty, công ty, liên hiệp và xí nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng là đơn vị sản xuất - kinh doanh hoạt động theo chế độ hạch toán độc lập theo đúng điều lệ xí nghiệp quốc doanh do Nhà nước ban hành. Các cơ sở sản xuất của quân đội có đủ điều kiện được phép hợp tác kinh tế với nước ngoài.
Có thể khẳng định Chỉ thị của Hội đồng Bộ trưởng có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị công nghiệp quốc phòng lúc bấy giờ. Thực hiện Chỉ thị này, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã cho phép Tổng cục Công nghiệp quốc phòng hợp tác lao động kỹ thuật với Libi và cử cán bộ, nhân viên kỹ thuật sang làm việc với các nhà máy công nghiệp quốc phòng của nước bạn. Qua đó, củng cố tình đoàn kết giữa các dân tộc và cũng góp phần giải quyết được công việc cho một số lượng lớn cán bộ, nhân viên kỹ thuật tại các cơ sở công nghiệp quốc phòng.
3. Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ sản xuất quốc phòng và kinh tế của quân đội
Để triển khai chủ trương kết hợp quốc phòng với kinh tế, Đại tướng Lê Đức Anh đã chủ trì hội nghị về triển khai làm kinh tế của một số đơn vị quân đội ở phía Bắc. Tại hội nghị, đồng chí đã chỉ đạo thành lập một số cơ sở làm kinh tế, như: Tổng công ty Bay chuyên dùng, Công ty Dịch vụ trên biển,... hoạt động sản xuất, kinh doanh theo chế độ hạch toán kinh tế. Đối với các xí nghiệp công nghiệp quốc phòng phải rà soát để việc thực hiện hạch toán kinh tế ngày càng có hiệu quả và cần xã hội hóa các xí nghiệp này, gắn các xí nghiệp với địa phương. Trong điều kiện đặt hàng sản xuất quốc phòng rất thấp, Bộ trưởng đã cho phép các xí nghiệp được làm hàng kinh tế từ 80-90%; đồng thời chỉ đạo các xí nghiệp phải tính toán các mặt để định hướng kỹ thuật cho từng xí nghiệp... Cùng với đó, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng tập thể Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) chỉ đạo đẩy mạnh nhiệm vụ lao động sản xuất kinh tế của quân đội, nhấn mạnh các mục tiêu phải đạt được trong thực hiện sản xuất kinh tế là tạo thêm được cơ sở vật chất kỹ thuật cho quốc phòng; bảo đảm đời sống cho bộ đội, cán bộ, công nhân, viên chức quốc phòng; duy trì và phát triển năng lực sản xuất của các xí nghiệp quốc phòng; đóng góp tích cực cho yêu cầu xây dựng kinh tế và xã hội. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, Đại tướng Lê Đức Anh đã kiên quyết chỉ đạo phải bảo đảm nguyên tắc tự chủ về tài chính cho các cơ sở, không được để thất thoát tài sản, nhà cửa, vật tư quốc phòng. Các đơn vị phải báo cáo đầy đủ, trung thực tình hình hoạt động về Bộ Quốc phòng.
Nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ sản xuất quốc phòng và làm kinh tế năm 1990 đã đề ra phương hướng củng cố hệ thống các xí nghiệp quốc phòng, nâng cao chất lượng sản phẩm quốc phòng, đồng thời tăng cường sản xuất các mặt hàng kinh tế với năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng khá hơn. Củng cố các tổ chức làm kinh tế, từng bước ổn định nhiệm vụ và mặt hàng, phấn đấu đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao hơn, góp phần xây dựng, mở rộng các vùng kinh tế mới, xây dựng các công trình trọng điểm của Nhà nước,...
Đối với các xí nghiệp quốc phòng, Đảng ủy Quân sự Trung ương yêu cầu “Phấn đấu duy trì năng lực sản xuất quốc phòng hiện có, không để xuống cấp các dây chuyền sản xuất vũ khí, đồng thời đầu tư chiều sâu để nâng cao năng suất và chất lượng của một số nhà máy, chuẩn bị điều kiện để xây dựng mới một số nhà máy có nhu cầu bức thiết... Hoàn chỉnh quy hoạch dài hạn và kế hoạch 5 năm về xây dựng công nghiệp quốc phòng theo phương hướng, mục tiêu đã được Bộ Chính trị xác định. Chuyển mạnh các xí nghiệp quốc phòng sang cơ chế quản lý mới...”.
4. Tư duy chiến lược trong xây dựng tiềm lực công nghiệp quốc phòng
Quan tâm đến sự nghiệp xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, tháng 10/1990, Đồng chí Đại tướng, Bộ trưởng đã làm việc với Tổng cục Tổng cục Công nghiệp quốc phòng - Kinh tế. Tại buổi làm việc, đồng chí đã chỉ đạo công nghiệp quốc phòng phải đi lên từ thực tại nền kinh tế nước ta. Đến năm 2000, phải tập trung nghiên cứu, sản xuất vũ khí mang vác cho sư đoàn bộ binh trở xuống, trong đó, phải chú ý đến đặc điểm địa hình rừng núi, sông ngòi, đồng lầy và cách đánh của ta. Một số loại vũ khí mang vác phải nghiên cứu cải tiến để đi vào hiện đại... Khi cần, phải huy động cả nền kinh tế, nền công nghiệp đất nước. Công nghiệp quốc phòng phải từng bước thay đổi dần máy móc, thiết bị. Trước mắt phải phấn đấu sản xuất cho được thuốc phóng, thuốc nổ. Cùng với đó, từng bước phải sửa chữa, sản xuất tàu chiến, phương tiện cơ động trên biển.
Về tổ chức, đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo giữa các xí nghiệp sản xuất và sửa chữa cần liên kết lại, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng - Kinh tế giúp bộ làm chức năng quản lý nhà nước các đơn vị này. Ở nước ta ít nhất cần xây dựng hai khu công nghiệp quốc phòng: phía Bắc và phía Nam (tốt nhất là có cả khu vực miền Trung). Các xí nghiệp quốc phòng sản xuất hàng kinh tế là nhằm mục đích duy trì và phát triển năng lực công nghiệp quốc phòng. Tốt nhất nên chọn những mặt hàng có công nghệ tương tự để sản xuất. Song, cũng phải quan tâm đến quy luật thị trường, vì thế phải đa dạng hóa sản phẩm để tạo việc làm, thu nhập cho cán bộ, công nhân viên. Điều quan trọng là phải làm ra hàng tốt để giữ tín nhiệm... Trong hợp tác kinh tế với nước ngoài, phải chặt chẽ về cơ chế.
Đối với các đơn vị làm kinh tế, Đại tướng căn dặn: các đơn vị làm kinh tế phải đứng chân trên các địa bàn chiến lược quan trọng thuộc vùng rừng núi, hải đảo có nhiều khó khăn, phải có chính sách hồ trợ cần thiết và bố trí sỹ quan chỉ huy. Đối với các đơn vị kinh tế thông thường thì phải quản lý theo cơ chế kinh tế nhà nước, không có chiếu cố. Đơn vị nào làm ăn thua lỗ, không có hiệu quả thì giải thể. Các đơn vị quân đội không được buôn lậu, không được buôn đi bán lại để kiếm lời, không được kinh doanh khách sạn, du lịch... Để làm tốt điều đó, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng - Kinh tế tập trung giúp Bộ chỉ đạo xây dựng phát triển công nghiệp quốc phòng, phần kinh tế chỉ giúp Bộ quản lý nhà nước, tổng hợp tình hình, còn chủ yếu giao cho các quân khu, quân chủng, binh chủng trực tiếp quản lý các tổ chức kinh tế thuộc quyền.
5. Nghị quyết về phát triển công nghiệp quốc phòng và quân đội làm kinh tế 5 năm (1991 - 1995)
Năm 1991, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Nghị quyết về phát triển công nghiệp quốc phòng và quân đội làm kinh tế 5 năm (1991 - 1995). Nghị quyết xác định: “Trên cơ sở bảo đảm sẵn sàng chiến đấu, tích cực huy động quân đội tham gia xây dựng kinh tế với hiệu quả ngày càng cao, thực hiện đóng góp cho quốc phòng và cho nền kinh tế của đất nước. Củng cố và từng bước phát triển hệ thống công nghiệp quốc phòng phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, góp phần nâng cao tiềm lực quốc phòng”.
Từ định hướng trên, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng - Kinh tế đã nêu ra yêu cầu cụ thể đối với nhiệm vụ xây dựng công nghiệp quốc phòng là duy trì, củng cố hệ thống xí nghiệp công nghiệp quốc phòng, nâng cao chất lượng sản phẩm quốc phòng, đồng thời tích cực sản xuất hàng kinh tế với chất lượng và hiệu quả ngày càng tốt hơn. Cải tiến, sản xuất vũ khí mang vác theo hướng hiện đại, sản xuất các phụ tùng thay thế cần thiết, sản xuất các vật liệu bảo quản vũ khí trang bị ở vùng nhiệt đới, vùng biển, triển khai xây dựng một số nhà máy sản xuất có nhu cầu cần thiết (như đạn con, thuốc phóng...).
Có thể nói, với tư duy chiến lược của mình, đồng chí Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh đã tạo ra bước ngoặt lớn đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền công nghiệp quốc phòng. Phát huy truyền thống vẻ vang của ngành Quân giới Việt Nam anh hùng, xứng đáng với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí cố Bộ trưởng, Đại tướng Lê Đức Anh, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng đã từng bước đổi mới tổ chức, lực lượng, cơ chế quản lý, khắc phục khó khăn vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ sản xuất quốc phòng và kinh tế, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội trong giai đoạn mới.
Trung tướng, TS. TRẦN HỒNG MINH
Đại tướng Lê Đức Anh tham gia cách mạng từ rất sớm, vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 5/1938. Tháng 8/1945, đồng chí tham gia quân đội và giữ nhiều chức vụ chỉ huy từ đại đội, chi đội, trung đoàn đến Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Dù ở cương vị lãnh đạo, chỉ huy nào trong quân đội, sau này là Chủ tịch nước, đồng chí luôn là nhà lãnh đạo, chỉ huy thao lược, có tầm nhìn chiến lược sâu rộng và có nhân cách lớn; đã góp phần to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong quá trình hoạt động cách mạng, Đại tướng Lê Đức Anh luôn quan tâm đến giáo dục, đào tạo cán bộ; đặc biệt là đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược. Và sự quan tâm đó được thể hiện trên những vấn đề chủ yếu sau:
1. Đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược đáp ứng mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng quân đội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1991 là giai đoạn Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn, khi đó Đại tướng Lê Đức Anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã đề xuất với Bộ Chính trị nhiều vấn đề hệ trọng của đất nước; nhất là về lĩnh vực quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; về tổ chức xây dựng quân đội vững mạnh, giảm biên chế quân số thường trực gắn liền với điều chỉnh bố trí lực lượng, tạo thế chiến lược trên phạm vi toàn quốc. Đây là một trong những sự kiện lớn nhất trong lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam; phù hợp với sự nghiệp đổi mới được Đại hội lần thứ VI của Đảng khởi xướng, khắc phục được những khó khăn của đất nước, nâng cao khả năng tác chiến của các lực lượng vũ trang, giữ vững và tăng cường được khả năng phòng thủ đất nước. “Đó là con đường đổi mới trong xây dựng Quân đội nhân dân, đổi mới công cuộc xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ quốc phòng và an ninh, kết hợp chặt chẽ công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc”.
Thực hiện đổi mới trong xây dựng quân đội nhân dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân đã đặt ra việc tăng cường xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ các cấp; nhất là đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược là vấn đề mang tính chiến lược, có ý nghĩa quyết định sự phát triển của quân đội cả trước mắt và lâu dài. Đại tướng Lê Đức Anh là Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã chủ trì cùng các đồng chí trong Thường vụ Đảng ủy ra Nghị quyết số 115/NQ-ĐUQSTW về công tác nhà trường quân đội. Nghị quyết nêu rõ chủ trương mới về mục tiêu, chương trình, nội dung đào tạo và xác định rõ đối tượng tác chiến của quân đội: “từ mục tiêu đào tạo chỉ huy tham mưu chiến dịch, chiến lược sang đào tạo sư đoàn trưởng, huấn luyện chiến thuật theo hướng sư đoàn bộ binh tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng với đối tượng là quân “xanh”. Đại tướng luôn quan tâm và sâu sát với công tác đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược. Ngày 31/8/1987, Đại tướng đã trực tiếp chủ trì Hội nghị quán triệt Nghị quyết số 115/NQ-ĐUQSTW về công tác nhà trường cho các lãnh đạo, chỉ huy và cơ quan các học viện, nhà trường, trong đó có Học viện Quân sự cấp cao. “Hội nghị đã chỉ rõ nhiệm vụ của các Học viện, nhà trường là:
- Từng học viện, từng trường xác định chương trình, mục tiêu, yêu cầu, nội dung, thời gian, phương pháp để thực hiện Nghị quyết số 115/NQ-ĐUQSTW của thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương.
- Do chuyển đổi mục tiêu, yêu cầu huấn luyện - đào tạo, nên trước mắt các học viện, nhà trường phải tập trung nhân lực, trí tuệ khẩn trương biên soạn mới, sửa đổi hệ thống tài liệu, giáo trình, giáo án, tưởng định, tập bài cho phù hợp. Biên soạn được đến đâu vận dụng vào các lớp đang học để anh em đóng góp ý kiến tiếp tục sửa chữa bổ sung hoàn chỉnh chuẩn bị cho khóa sau”. Đại tướng sau khi nghe báo cáo đề nghị của Giám đốc Học viện Quân sự cấp cao, đã quyết định đồng ý cho Học viện Quân sự cấp cao hoãn chiêu sinh lớp đào tạo sư đoàn trưởng khóa X sau một khóa để tập trung làm tốt công tác chuẩn bị và biên soạn lại tài liệu, giáo trình có chất lượng.
Qua thực hiện Nghị quyết số 115/NQ-ĐUQSTW và kết quả các khóa đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược; sau này mục tiêu, nhiệm vụ đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược tiếp tục được bổ sung cho phù hợp với nhiệm vụ xây dựng quân đội và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ của Học viện Quân sự cấp cao: “Lấy đào tạo ra trường là sư đoàn trưởng làm mục tiêu đào tạo, đồng thời phải giỏi về công tác tham mưu, để có thể về làm công tác tham mưu ở cơ quan cấp quân đoàn, quân khu và ở Bộ, nhưng khi cần vẫn xuống làm sư đoàn trưởng được”.
Đồng thời với việc tổ chức lớp đào tạo dài hạn hai năm với đối tượng đào tạo sư đoàn trưởng, Học viện tổ chức lớp bổ túc cán bộ chiến lược theo sự chỉ đạo của Bộ trưởng và Công văn số 297/NT của Cục Nhà trường - Bộ Tổng Tham mưu về tổ chức lớp bổ túc cán bộ chiến lược với đối tượng chiêu sinh là “thủ trưởng quân khu, quân đoàn và tương đương, đi học theo quy hoạch cán bộ chủ trì quân khu, quân đoàn”, qua khóa học, học viên được bồi dưỡng một số vấn đề cơ bản và phát triển mới của đường lối quân sự, nghệ thuật quân sự và khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), nâng cao trình độ chỉ huy-tham mưu ba cấp2.
2. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược, nâng cao năng lực tư duy, tác phong công tác
Căn cứ vào Nghị quyết số 115/NQ-ĐUQSTW, chỉ thị của Bộ trưởng, Học viện Quân sự cấp cao nắm vững mục tiêu, nhiệm vụ, yêu cầu đào tạo để tập trung xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác huấn luyện, nghiên cứu khoa học cả về nội dung và phương pháp, quán triệt ngày càng sâu hơn những quan điểm, tư tưởng quân sự và sự phát triển mới. Trước hết nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ giáo viên, cán bộ quản lý học viên.
Trên cơ sở đó, Học viện Quân sự cấp cao xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo cho từng đối tượng, thời gian đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược dài hạn, ngắn hạn báo cáo Bộ phê duyệt. Chương trình, nội dung đào tạo được phân bổ phù hợp cả về giảng dạy lý luận, thảo luận và tập bài; với lớp đào tạo sư đoàn trưởng hai năm có chương trình đi thực tập hai tháng ở các quân khu, quân đoàn. Nội dung đào tạo được phân bổ thích hợp giữa các môn học, tập trung nghiên cứu nghệ thuật quân sự, phương thức tác chiến mới đánh đối tượng tác chiến là quân “xanh”. Chú trọng nghiên cứu lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam trong chiến tranh giải phóng và bảo vệ biên giới; rút ra những kinh nghiệm quý báu và vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ huy, chỉ đạo đơn vị tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Vận dụng phương pháp đào tạo phù hợp, học viên dễ hiểu, dễ tiếp thu, phát huy tính sáng tạo của học viên, vận dụng tư duy lý luận vào thực tiễn đạt hiệu quả. Kết hợp giữa phương pháp dạy học tích cực với phương pháp tổ chức tham quan các đơn vị; giành nhiều thời gian thực hành thảo luận, tập bài, diễn tập và thực tế, thực tập ở các đơn vị.
Thực hiện chỉ đạo của Bộ, ngày 17/10/1988, Học viện tổ chức lớp đào tạo khóa IX đi thực tập hai tháng ở các Quân khu 1, 2, 3 và Quân đoàn 1, Quân đoàn 2 trên cương vị sư đoàn phó và tham mưu trưởng sư đoàn. Trong thời gian thực tập, học viên vận dụng chuyển hướng sang huấn luyện với đối tượng tác chiến mới là quân “xanh”. Trong thời gian thực tập ở các đơn vị, học viên có điều kiện kiểm nghiệm những vấn đề lý luận đã học trong thực tiễn chỉ huy đơn vị.
3. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học quân sự luôn gắn với đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược
Nghiên cứu khoa học quân sự luôn gắn với đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đề ra đường lối đổi mới đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Về lĩnh vực quốc phòng, trên cương vị Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung nghiên cứu, điều chỉnh tổ chức biên chế lực lượng thường trực; bố trí chiến lược của quân đội cho phù hợp với kế hoạch phòng thủ cơ bản trong thời kỳ mới; xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng công nghiệp quốc phòng tự chủ, có khoa học - kỹ thuật tiên tiến phát huy được sức mạnh toàn dân, toàn diện, tạo nên sức mạnh phòng thủ đất nước và đủ sức mạnh giải quyết thắng lợi mọi tình huống chiến tranh. Với tầm nhìn chiến lược, tư duy lý luận, nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn của Đại tướng cùng với các đồng chí trong Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng làm cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng đề xuất Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 02/NQ-TW ngày 30/7/1987 xác định nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo.
Cùng với việc lãnh đạo, chỉ đạo biên soạn văn bản hướng dẫn và triển khai thực hiện đổi mới về lĩnh vực quốc phòng; Đại tướng lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan Bộ Quốc phòng, nhất là chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu và các học viện, nhà trường đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, biên soạn tài liệu, giáo trình đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược. Tập huấn cán bộ về những quan điểm, chủ trương, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng về quân sự, quốc phòng, về phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính, lâu dài, tự lực, tự chủ và đoàn kết quốc tế... đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Đại tướng Lê Đức Anh rất chú trọng đến công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, rút ra những kinh nghiệm để vận dụng vào thực tiễn bảo vệ Tổ quốc. Ngày 01/9/1987, Đại tướng quyết định thành lập Hội đồng chỉ đạo biên soạn công trình nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong 30 năm chiến tranh giải phóng và chỉ đạo Học viện Quân sự cấp cao tổ chức bộ phận biên tập lịch sử quân sự và nghệ thuật chiến dịch trong 30 năm chiến tranh giải phóng. Qua đó, rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu vào nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ; nâng cao năng lực vận dụng linh hoạt vào thực tiễn chỉ huy, chỉ đạo huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Trước tình hình, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, công tác đào tạo cán bộ được chú trọng; bảo đảm cho học viên nắm vững tư duy lý luận mới, phù hợp với tổ chức biên chế trang bị, phương pháp tác chiến với đối tượng tác chiến mới. Ngày 11/7/1991, Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trực tiếp nghe Học viện Quân sự cấp cao báo cáo nội dung hai giáo trình về sư đoàn bộ binh đánh đối tượng mới bằng vũ khí mang vác trong tiến công và phòng ngự2.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu khoa học bảo đảm cho việc biên soạn giáo trình, tài liệu giảng dạy cho học viên đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược đạt chất lượng, hiệu quả hơn. Nâng cao trình độ tư duy lý luận để vận dụng vào thực tiễn lãnh đạo, chỉ huy, chỉ đạo ở cơ quan, đơn vị sau này.
4. Bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên là nhiệm vụ quan trọng, quyết định đến chất lượng đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược. Mặc dù ở cương vị lãnh đạo, chỉ huy bận nhiều công việc, nhưng Đại tướng Lê Đức Anh luôn dành thời gian, sâu sát quan tâm đến công tác nhà trường, quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược; nhất là chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược. Đại tướng chỉ đạo cơ quan Bộ Quốc phòng trên cơ sở chuyển hướng đào tạo cán bộ theo tinh thần Nghị quyết số 115/NQ-ĐUQSTW để thống nhất và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược. Theo chỉ đạo của Bộ trưởng, từ ngày 01 đến 22/9/1988, cơ quan Bộ Quốc phòng tổ chức tập huấn chiến thuật cấp sư đoàn cho hơn 300 cán bộ, giảng viên từ cấp thiếu tá trở lên cho các học viện, nhà trường (Học viện Quân sự cấp cao, Học viện Kỹ thuật quân sự, Học viện Quân y, Học viện Chính trị - quân sự và Trường trung cấp Biên phòng) và giao cho Học viện Quân sự cấp cao chủ trì.
Đại tướng Lê Đức Anh luôn quan tâm công tác xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực tư duy, phương pháp và tác phong sư phạm của đội ngũ giảng viên, yêu cầu giảng viên không chỉ có năng lực tư duy lý luận, giỏi về chuyên môn sư phạm mà phải thành thạo trong vận dụng vào thực tiễn, trong lãnh đạo, chỉ huy để từ đó thực hiện chương trình, nội dung đào tạo cán bộ có hiệu quả, là tấm gương để học viên học tập noi theo. Đại tướng luôn quan tâm đến chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược; giáo trình, tài liệu nghiên cứu phải bám sát nhiệm vụ, xác định rõ đối tượng tác chiến và có phương pháp tác chiến, công tác tổ chức chuẩn bị, thực hành tác chiến phù hợp để học viên nghiên cứu, tiếp thu nhanh và vận dụng hiệu quả vào thực tiễn. Ngày 23/02/1990, Đại tướng đã giao nhiệm vụ cho Học viện Quân sự cấp cao cử cán bộ Học viện và 5 đồng chí giảng viên theo dõi diễn tập, cùng cơ quan Bộ Quốc phòng tổng kết rút kinh nghiệm biên soạn tài liệu chiến dịch phòng ngự quân khu.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Đại tướng Lê Đức Anh đã có những đóng góp quan trọng, góp phần cùng với Đảng, Nhà nước, Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ Quốc phòng đề ra chủ trương, đường lối, quyết sách đúng đắn góp phần đưa cách mạng nước ta giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và nhiệm vụ quốc tế; cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với những đóng góp to lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng, lý luận và hoạt động thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục - đào tạo nói chung, công tác đào tạo cán bộ chiến dịch, chiến lược nói riêng của Đại tướng Lê Đức Anh mãi mãi là những bài học quý báu cho chúng ta luôn trân trọng, tiếp tục kế thừa, phát triển cho hôm nay và mai sau để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Trung tướng, PGS.TS. TRẦN VIỆT KHOA
Đại tướng Lê Đức Anh là một trong những nhà lãnh đạo chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí đã có những đóng góp quan trọng cho đất nước trên nhiều phương diện: Đấu tranh giải phóng dân tộc; bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới. Cuộc đời binh nghiệp của Đại tướng Lê Đức Anh phần lớn gắn với các chiến trường, mặt trận khó khăn, ác liệt, cùng quân và dân ta làm nên những chiến công lừng lẫy, đồng thời đóng góp cho sự phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam cả về chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật.
Đầu năm 1945, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng trung kiên trong các nghiệp đoàn cao su chuẩn bị đấu tranh vũ trang. Tháng 8/1945, đồng chí được phân công phụ trách chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền ở đồn điền cao su và hai huyện Hớn Quản, Bù Đốp tỉnh Bình Phước; tham gia Tỉnh ủy lâm thời, chỉ huy giành chính quyền ở Lộc Ninh; phụ trách quân sự phía Bắc tỉnh Thủ Dầu Một và lần lượt giữ các chức vụ Chính trị viên Chi đội 1 (sau là Trung đoàn 301), Trung đoàn ủy viên, Tỉnh ủy viên Thủ Dầu Một. Do có khả năng về công tác tham mưu quân sự nên từ cuối năm 1948, từ một cán bộ chính trị, đồng chí Lê Đức Anh trở thành cán bộ quân sự chuyên lo xây dựng lực lượng, tổ chức chiến đấu cho bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng: Quân khu ủy viên, Tham mưu trưởng Khu 7; Quân khu ủy viên, Tham mưu trưởng Khu 8; Quân khu ủy viên, Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn; Quân khu ủy viên và Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ.
Trên cương vị người chỉ huy quân sự, Đại tướng Lê Đức Anh có nhiều sáng kiến, chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang phù hợp với điều kiện và nghệ thuật tác chiến của bộ đội ta ở chiến trường Nam Bộ. Cụ thể, cuối năm 1949 đầu năm 1950, khi quân Pháp mở nhiều cuộc hành quân càn quét, uy hiếp vùng giải phóng của ta ở phía Đông và Đông bắc Sài Gòn - Gia Định, đồng chí Lê Đức Anh đề xuất ý kiến mở chiến dịch tiến công trên địa bàn Bến Cát nhằm tiêu hao sinh lực địch bằng cách đánh giao thông kết hợp với công đồn diệt tháp canh để đánh viện binh địch. Bộ Tư lệnh Nam Bộ đã đồng ý với đề xuất và cử đồng chí Lê Đức Anh làm Tham mưu trưởng. Thắng lợi của Chiến dịch Bến Cát để lại những kinh nghiệm quý về nghệ thuật tác chiến, đó là: Mở ra một lối đánh đồn bằng chiến thuật đặc công mà trước đây do điều kiện trang bị của ta không thể đánh được địch trong công sự. Khi đánh được đồn bằng lối đánh đặc công đã tác động vào tinh thần binh lính, làm cho địch hoang mang, tạo hiệu quả tích cực trong công tác địch vận, binh vận; đồng thời đánh dấu cục diện chiến trường chuyển sang một giai đoạn mới “từ chỗ ta bị động đối phó với các cuộc hành quân càn quét của địch, nay ta đã bắt đầu chủ động tổ chức những trận tiến công có quy mô chiến dịch”.
Cũng vào thời điểm những năm 1949-1950, khi ở miền Bắc, cuộc kháng chiến chống Pháp chuyển từ giai đoạn cầm cự sang giai đoạn tổng phản công và tiến công địch, nên ta đẩy nhanh việc xây dựng các đơn vị chủ lực quy mô lớn cấp đại đoàn (sư đoàn); trong khi nhiều người muốn áp dụng điều này ở miền Nam, nhưng đồng chí Lê Đức Anh kiên quyết đề nghị chỉ xây dựng lực lượng vũ trang đến cấp tiểu đoàn. Thực tiễn sau đó ở chiến trường Nam Bộ cho thấy, việc xây dựng lực lượng vũ trang đến cấp trung đoàn, liên trung đoàn là không phù hợp, ta buộc phải quay trở lại xây dựng lực lượng vũ trang cấp tiểu đoàn (như đề xuất của đồng chí Lê Đức Anh) và thực tế, các tiểu đoàn của ta đã phát huy tốt vai trò và hiệu quả tác chiến ở vùng sau lưng địch, nơi địch tập trung bình định, xây dựng thành hậu phương để thực hiện chiến lược “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” trong suốt thời gian từ năm 1951 đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc... Với những đóng góp quan trọng đó, cuối năm 1952 đầu năm 1953, đồng chí Lê Đức Anh được vinh dự tổ chức đoàn cán bộ ra Chiến khu Việt Bắc để báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Tổng Tham mưu về kinh nghiệm đánh đồn theo kiểu đặc công.
Sau Hiệp định Giơnevơ (năm 1954), đồng chí Lê Đức Anh có mặt trong đội ngũ cán bộ miền Nam tập kết ra miền Bắc. Từ năm 1955 đến năm 1963, ông được bổ nhiệm là Cục phó
Cục Tác chiến, rồi Cục phó, Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu và trở thành Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm 1964, ông trở lại miền Nam, giữ chức Tham mưu trưởng Miền và cùng Quân ủy Miền, Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo lực lượng vũ trang chiến đấu trên chiến trường Nam Bộ. Khi ông từ miền Bắc vào tới Bộ Chỉ huy Miền cũng là lúc cơ quan Bộ Chỉ huy rục rịch chuẩn bị mở chiến dịch tiến công Bình Giã. Đồng chí Lê Đức Anh đã cùng cơ quan tham mưu vừa tích cực soạn thảo và triển khai kế hoạch xây dựng, phát triển lực lượng, vừa rốt ráo làm công tác chuẩn bị cho chiến dịch. Sau hơn một tháng chiến đấu, Chiến dịch Bình Giã thắng lợi, tạo đà cho bộ đội địa phương, dân quân du kích miền Đông Nam Bộ phát triển mạnh mẽ.
Cũng từ cọ sát thực tiễn tổ chức, chỉ đạo tác chiến, đồng chí Lê Đức Anh đã khái quát được những vấn đề lớn, có giá trị cả về lý luận và thực tiễn. Đồng chí Lê Đức Anh rút ra 3 điểm: Một là, về phía địch, khi ta chọn đúng và đánh đòn hiểm thì lập tức địch hoang mang, nao núng tinh thần. Hai là, người chỉ huy phát động được tinh thần chủ động sáng tạo của bộ đội từ cơ sở trở lên, thì không những ta khắc phục được những hạn chế vốn có (về vũ khí, trang bị), để tìm ra cách đánh mới có hiệu quả, mà còn làm cho bộ đội, nhất là cán bộ chỉ huy các cấp luôn phát huy được tinh thần chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm trong quá trình phát triển chiến đấu. Ba là, cấp trên dù khi chưa hiểu rõ cấp dưới, ra lệnh, thì cấp dưới phải nghiêm chỉnh chấp hành, nhưng tùy từng tình hình mà có những quyết định cho đúng, quyết định kịp thời, quyết định tại chỗ, không theo lệnh trên một cách rập khuôn máy móc. Mạnh dạn quyết định dùng chủ lực và hỏa lực tăng cường để tiến công quyết liệt khi biết rõ quân địch đã dao động hoang mang, quân ta đang ở thế thượng phong thì phải dấn tới giành chiến thắng cao nhất.
Sau một số chiến dịch quy mô nhỏ nhưng hiệu quả cao, như các chiến dịch Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài và nhiều trận lớn, nhỏ trên khắp miền Nam đã góp phần làm cho chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ bị phá sản, buộc chúng phải chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa lực lượng chiến đấu Mỹ và quân của một số nước đồng minh vào miền Nam trực tiếp tham chiến trong tình thế bị động. Năm 1967, địch mở cuộc hành quân Junction City đánh lên Chiến khu Dương Minh Châu (vùng đứng chân của Trung ương Cục)... Dưới sự chỉ đạo của Bộ Chỉ huy Miền, trực tiếp là Tham mưu trưởng Lê Đức Anh, ngay từ khi làm công tác chuẩn bị chiến dịch, đồng chí Lê Đức Anh (bí danh Sáu Nam) đã đưa ra sáng kiến tổ chức lại chiến trường ở vùng không có dân thành một tổ chức quân sự theo lãnh thổ, biến các cơ quan dân sự kháng chiến thành các đơn vị hành chính huyện – xã; lấy vũ khí từ các kho đang lưu giữ ở dọc biên giới Việt Nam - Campuchia trang bị cho các nhân viên dân sự... Sáng kiến đó đã tạo ra thế chiến tranh nhân dân trên một địa bàn không có dân để phân tán, căng kéo lực lượng địch, tạo nên bất ngờ lớn đối với địch; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị chủ lực tác chiến ở vòng ngoài tập trung đánh những đòn mạnh vào bên sườn và phía sau đội hình quân địch, gây thiệt hại nặng cho các cụm quân Mỹ. Kết quả là: Tuy mở đầu chiến dịch, quân Mỹ chủ động tiến công, nhưng ta từ chỗ tạo được thế chủ động về chiến thuật, về cách đánh, đã chuyển thành sự chủ động về chiến dịch; kiên quyết, liên tục phản công đánh bại những cuộc tiến công của địch, giành được thắng lợi lớn.
Trong đợt tiến công Tết Mậu Thân (1968), đồng chí Lê Đức Anh được phân công chỉ huy bộ đội ở hướng tây - tây nam Sài Gòn, từ Long An đánh vào khu vực Quận 5 và Biệt khu Thủ đô, Tổng nha Cảnh sát và Cảnh sát đô thành: Qua cọ xát với thực tế và đánh giá tình hình địch - ta, đồng chí đã đề xuất với Bộ Tư lệnh Miền không nên mở đợt 2 đánh vào nội đô nữa khi không còn yếu tố bí mật, bất ngờ; theo ông, đợt 2 có mở thì nên đánh ra vùng ven đô và phụ cận; nhất là khi đợt 2 kết thúc, ông đã đề nghị dứt khoát “thôi, rút ra”, với lý do khi không còn yếu tố bí mật bất ngờ, không còn thời cơ và không đủ lực thì quân ta nên rút ra, riêng với lực lượng Biệt động thành tiếp tục ở lại, thực hiện “điều lắng” (tan, hòa vào dân) để tiếp tục kháng chiến lâu dài... Nhưng trên thực tế, ta vẫn tiến hành những cú “đánh bồi” vào nhiều nơi trong nội đô ở đợt 2 và đợt 3. Những đòn đánh đó tuy có góp phần gây tiếng vang, nhưng ta tiếp tục bị tổn thất lớn hơn, nhiều khó khăn hơn. Điều đó cho thấy những ý kiến đề xuất của ông Lê Đức Anh có cơ sở, sát tình hình chiến trường và có giá trị chỉ đạo về chiến lược.
Cuối năm 1969, đồng chí Lê Đức Anh được cấp trên giao nhiệm vụ làm Tư lệnh Quân khu 9. Lúc này Quân khu đang gặp rất nhiều khó khăn, lực lượng chính trị sa sút nghiêm trọng, nhiều địa phương, cán bộ lực lượng vũ trang cơ sở bị tróc khỏi địa bàn, buộc phải “ly hương”, có nơi buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Song, dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, sự chỉ huy trực tiếp của Tư lệnh Lê Đức Anh, thế và lực của Quân khu 9 từng bước được khôi phục và có sự chuyển biến mạnh mẽ; từ chỗ bị địch lấn chiếm gần hết đất, hết dân và hoàn toàn nằm trong thế bị động chống đỡ với các đòn đánh phá của địch, các lực lượng của Quân khu đã gượng dậy và chuyển dần sang chủ động tiến công, đẩy lùi quân địch dần vào sát thị xã, thị trấn và buộc chúng phải hủy bỏ kế hoạch “Tô dày, lấp kín U Minh”.
Đặc biệt, khi Hiệp định Pari được ký kết (ngày 27/01/1973), hai bên phải ngừng bắn tại chỗ, nhưng quân đội Sài Gòn không chấp hành Hiệp định, chúng vẫn tổ chức tiến công ta. Trong bối cảnh đó, đồng chí Lê Đức Anh - Tư lệnh Quân khu 9 chủ trương tiến công vũ trang nếu địch tiếp tục gây hấn và lấn chiếm. Từ chủ trương đúng đắn đó, từ tháng 3 đến tháng 8/1973, trên vùng đất Chương Thiện, Cần Thơ, lực lượng vũ trang và nhân dân Tây Nam Bộ đã chiến đấu ngoan cường, bẻ gãy các cuộc hành quân lấn chiếm quy mô lớn, đánh bại 75 tiểu đoàn và kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” của địch. Bộ Chỉ huy Miền (B2) đã lấy gương điển hình của Quân khu 9 phổ biến để các đơn vị khác tiếp tục tiến công quân địch cho đến ngày toàn thắng... Ghi nhận sự đúng đắn về những quyết định của đồng chí Lê Đức Anh, sau này Bộ Chính trị, Trung ương Đảng đã phong quân hàm vượt cấp cho ông từ Đại tá lên Trung tướng.
Sự đóng góp về nghệ thuật quân sự của đồng chí Lê Đức Anh còn được thể hiện trong quá trình chỉ đạo xây dựng kế hoạch tác chiến mùa khô năm 1974 - 1975. Đồng chí Lê Đức Anh nhận định từ trước đến nay, diệt địch hành quân dã ngoại, địch đi cứu viện (nghĩa là diệt địch ở bên ngoài cứ điểm) là sở trường của ta; nhưng khi ta đưa được tăng, pháo vào đánh, bộ đội phấn khởi; đồng thời khi ta đánh được quân địch trong căn cứ có công sự, lô cốt vững chắc thì quân địch lập tức hoang mang dao động... Tuy vậy, nếu chủ lực của ta vẫn đánh theo kiểu đội hình “đầu nhọn đuôi dài” và “bộc phá liên tục” để mở cửa trước sự phòng thủ có dự phòng của địch thì không được, mà có được cũng thương vong lớn; trường hợp ta dùng xe tăng đi trước, dẫn bộ binh theo sau, trong khi địch có hoả lực nói chung, hoả lực chống tăng nói riêng rất mạnh, thì cũng khó thành công... Để khắc phục hạn chế đó, đồng chí đưa ra sáng kiến về phương pháp tác chiến, đó là: Cùng lúc ta tiến hành mở hai cửa mở và tổ chức tập huấn chiến thuật đó cho bộ đội. Sự phát triển trong cách đánh đó có ý nghĩa thiết thực để quân và dân miền Đông Nam Bộ tiếp tục làm nên chiến thắng vang dội trong Chiến dịch Đường 14 - Phước Long vào cuối năm 1974, đầu năm 1975; tạo cho lượng lượng vũ trang B2 một địa bàn chiến lược quan trọng, có thể uy hiếp trực tiếp phía đông quốc lộ 13 và hệ thống phòng thủ của địch trên hướng Bắc Sài Gòn; làm thay đổi đáng kể tương quan về thế trận trên chiến trường Đông Nam Bộ có lợi cho ta. Đây cũng là một “Trận trinh sát chiến lược” thăm dò khả năng quân đội Sài Gòn và sự can thiệp của Mỹ, góp phầp làm sáng tỏ hơn những cơ sở để Bộ Chính trị hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam...
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Trung tướng Lê Đức Anh đảm trách chỉ huy và lãnh đạo trực tiếp cánh quân tiến công trên hướng Tây - Tây Nam Sài Gòn (Đoàn 232) - một trong năm cánh quân của đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng. Với tài năng và kinh nghiệm phong phú, đồng chí đã chỉ huy Đoàn 232 khắc phục rất hiệu quả những khó khăn của địa hình, nhanh chóng chia cắt quân địch trên tuyến quốc lộ số 4, không để chúng co cụm về cố thủ ở Cần Thơ và thực hiện thành công các nhiệm vụ chia cắt các lực lượng địch ở nội đô Sài Gòn và miền Đông với lực lượng địch ở vùng đồng bằng sông Cửu Long; tiến công Biệt khu Thủ đô và Tổng nha Cảnh sát, sau đó hợp điểm cùng các cánh quân khác tại Dinh Độc Lập vào trưa ngày 30/4/1975. Đòn tiến công trên hướng Tây - Tây Nam Sài Gòn để lại những kinh nghiệm quý về nghệ thuật sử dụng lực lượng binh chủng hợp thành đánh địch trên chiến trường đồng bằng, sông nước và đô thị.
Ngay sau ngày miền Nam được giải phóng, đồng chí Lê Đức Anh đảm nhận cương vị Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 9. Thời gian này, Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng có chủ trương giảm biên chế đối với quân đội, giải quyết cho đi lao động xuất khẩu, chuyển ngành, phục viên một số lượng lớn cán bộ, chiến sĩ; nhiều đơn vị trong toàn quân đã thực hiện chủ trương của trên. Nhưng với nhãn quan chiến lược sáng suốt, đồng chí Lê Đức Anh sớm nhận thấy tình hình biên giới Campuchia có diễn biến phức tạp, căng thẳng. Đồng chí bàn bạc trong Đảng ủy, Bộ Tư lệnh và thống nhất tạm thời chưa thực hiện chủ trương của trên, đồng thời quyết định giữ lại nhiều hạ sĩ quan, chiến sĩ có tinh thần dũng cảm, gan dạ, ý thức tổ chức kỷ luật tốt, cùng nhiều cán bộ đã trải qua chiến đấu, có năng lực, trình độ và khả năng chỉ huy; giữ lại những đơn vị có truyền thống đánh giặc, có nền nếp chính quy tốt và đề nghị thành lập Sư đoàn 330... Bởi vậy, khi bộ đội ta thực hiện nhiệm vụ giúp bạn Campuchia đánh đổ lực lượng phản động Pôn Pốt - Iêngxary, thì Sư đoàn 330 của Quân khu 9 là một trong những đơn vị chủ lực, thiện chiến, có sức chiến đấu mạnh mẽ trong việc trừng trị tội ác của bè lũ phản động Pôn Pốt - Iêng Xary, góp phần giúp bạn giải phóng nhiều địa bàn quan trọng. Đặc biệt, khi tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xary gây chiến tranh xâm lược trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, đồng chí Lê Đức Anh được điều về làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7 kiêm Chỉ huy trưởng Tiền phương của Bộ. Trên cương vị mới, đồng chí Lê Đức Anh đã lãnh đạo, chỉ huy bộ đội thực hiện kịp thời và có hiệu quả cao nhiệm vụ bảo vệ biên giới Tây Nam, giải phóng nhân dân Campuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng và hồi sinh đất nước. Đồng chí luôn thể hiện bản lĩnh, tính quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân. Khi toàn quân thực hiện cơ chế mới theo Nghị quyết số 07/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa V) “Về việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, sự nghiệp quốc phòng và thực hiện chế độ một người chỉ huy trong quân đội”, bỏ chế độ đảng ủy, bỏ chức vụ chính ủy, chính trị viên, thiết lập cơ chế “một người chỉ huy” và “hội đồng công tác chính trị”... nhưng, Thượng tướng Lê Đức Anh đã đề nghị Bộ Chính trị cho phép Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Campuchia vẫn duy trì chế độ đảng ủy.
Khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới (từ cuối năm 1986) trên cương vị là Tổng Tham mưu trưởng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh tiếp tục có những đóng góp quan trọng cho công cuộc xây dựng quốc phòng; ổn định tình hình biên giới phía Bắc; bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc trong thời kỳ đổi mới; đặc biệt là tư tưởng: huyện là pháo đài quân sự; tỉnh, thành phố là khu vực phòng thủ... Đây là những vấn đề chiến lược liên quan trực tiếp đến sự phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam trong hiện tại, tương lai.
Có thể nói, những dẫn giải, minh chứng trình bày ở trên tuy còn rất khiêm tốn, nhưng đã đủ cho thấy Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng tài ba, giỏi về chỉ huy tác chiến chiến thuật, nghệ thuật chiến dịch, đồng thời là một cán bộ chiến lược sắc sảo đúng như cố thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nhận xét: “Công bằng mà đánh giá, không có nhiều tướng lĩnh như anh Lê Đức Anh”. Đặc biệt, những đóng góp về lĩnh vực nghệ thuật quân sự của Đại tướng Lê Đức Anh không chỉ có ý nghĩa lớn lao trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn trên các chiến trường nóng bỏng, góp phần quan trọng để quân và dân ta lập nên những chiến công oanh liệt, có tính thời đại mà ngày nay, những kinh nghiệm đó vẫn còn nguyên giá trị, góp phần định hướng, vận dụng và phát triển nghệ thuật quân sự của dân tộc ta trong tình hình mới.
Đại tá, PGS.TS. NGÔ TRỌNG CƯỜNG
Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng trận mạc, một nhà chỉ huy xuất sắc, có tầm nhìn chiến lược, có chiến thuật tài tình và xử lý linh hoạt các tình huống phức tạp, trọn đời phấn đấu, công hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân ta. Cuộc đời binh nghiệp của Đại tướng gắn với nhiều chiến trường Nam, Bắc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả trên chiến trường nước bạn. Đại tướng đã dành phần nhiều công sức, thời gian để chăm lo xây dựng và góp phần vào sự trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Ông từng chỉ huy bộ đội tham gia những trận đánh, chiến dịch quan trọng, những sự kiện mang tính bước ngoặt của chiến tranh như: Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, cuộc chiến đấu chống lấn chiếm vùng giải phóng năm 1973, chiến dịch Đường 14 - Phước Long cuối năm 1974 - đầu năm 1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975 và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hồi sinh dân tộc.
Là một vị tướng tài ba, một nhân cách đức độ, giản dị, gần gũi, từng trải và trưởng thành từ trận mạc, Đại tướng là một trong số ít những cán bộ quân đội đã trải qua cả bốn chiến trường trong suốt 40 năm: Tham gia 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp; tham gia chỉ huy tại chiến trường miền Nam chống đế quốc Mỹ trong 11 năm (1964 - 1975); chỉ huy chiến trường Campuchia trong 7 năm (1979 - 1986); tham gia chỉ huy chiến trường biên giới phía Bắc trong 3 năm (1986 - 1989). Chính vì thế, Đại tướng rất thấu hiểu tầm quan trọng đặc biệt của việc xây dựng sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Từ tháng 02/1987 đến tháng 8/1991, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, trước những biến động phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực, đồng chí đã cùng Đảng ủy Quân sự Trung ương tham mưu cho Đảng, Nhà nước nhiều quyết sách về quân sự, quốc phòng phù hợp với diễn biến tình hình mới. Trong đó có những quyết định táo bạo, đúng đắn như việc giảm quân số từ 1,5 triệu người xuống còn 45 vạn, điều chỉnh thế bố trí chiến lược về quân sự trên phạm vi cả nước, nhất là ở biên giới phía Bắc, triển khai xây dựng khu vực phòng thủ và thế trận quốc phòng toàn dân...; đồng thời, vận dụng đúng đắn đường lối chính trị, quân sự của Đảng, từng bước xây dựng kế sách giữ nước một cách toàn diện, củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân; chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp đúng đắn về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc và biển, đảo của Tổ quốc, làm tốt nhiệm vụ quốc tế, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống. Đặc biệt, Đại tướng luôn luôn quan tâm chăm lo xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện, có sức mạnh to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình ấy, Đại tướng rất chú trọng xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Đại tướng từng khẳng định: “Trong nhiệm vụ xây dựng quân đội, chúng ta phải kiên trì nguyên tắc xây dựng quân đội lấy chính trị làm cơ sở. Phải từng bước đổi mới các mặt hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, nâng cao chất lượng và hiệu quả xây dựng quân đội về chính trị, lấy việc củng cố nguyên tắc và kiện toàn cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng làm trọng tâm, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là khâu then chốt, phát huy bản chất và truyền thống cách mạng tốt đẹp của Đảng, của quân đội, bảo đảm cho quân đội vững vàng về chính trị trong mọi tình huống diễn biến phức tạp, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp của quân đội, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ”.
Vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trước yêu cầu xây dựng Quân đội nhân dân “theo hướng chính quy, ngày càng hiện đại, có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, lấy chất lượng chính trị làm cơ sở”, Đại tướng đã đưa ra quan điểm: “Phải nắm vấn đề cấp bách quan trọng bậc nhất hiện nay là triển khai thực hiện quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp..., đồng thời giải quyết vững chắc nhu cầu về cán bộ cơ sở, khắc phục tình hình mất cân đối để từng bước đi vào ổn định số lượng, tỷ lệ và cơ cấu cán bộ, giữ gìn và từng bước nâng cao chất lượng”2. Theo đó, Đại tướng rất quan tâm chỉ đạo thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp trong quân đội nói chung và đội ngũ cán bộ chính trị nói riêng.
Không chỉ chỉ đạo chung về nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong các học viện, nhà trường quân đội, Đại tướng còn có những chỉ đạo rất cụ thể về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị các cấp. Tháng 01/1990, trên cương vị là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng đã đến thăm và làm việc với Học viện Chính trị quân sự (nay là Học viện Chính trị) - trung tâm giáo dục, đào tạo cán bộ chính trị và nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn hàng đầu của quân đội. Tại đây, Đại tướng biểu dương Học viện đã quán triệt đường lối đổi mới của Đảng, đổi mới toàn diện công tác giáo dục, đào tạo, đưa cải cách giáo dục đi vào chiều sâu, bên cạnh đó Đại tướng còn chỉ rõ tầm quan trọng của việc đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục cho đội ngũ cán bộ chính trị, đặc biệt là cán bộ cao cấp để họ nắm vững những quan điểm, nguyên tắc đổi mới của Đảng. Đại tướng nhấn mạnh tính cấp thiết của việc giáo dục truyền thống yêu nước và quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, học viên nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên định mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, Đại tướng đã chỉ thị cho Học viện phải tổ chức tốt việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ chính trị trong toàn quân, trong đó chú trọng nâng cao chất lượng các lớp bồi dưỡng về lý luận chính trị cho cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược (gọi tắt là lớp Bổ túc A). Đồng thời, Đại tướng yêu cầu Học viện phải quan tâm công tác tổng kết, rút kinh nghiệm các khoá đào tạo, các lớp bồi dưỡng cán bộ chính trị để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo.
Theo Đại tướng, trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị phải thực hiện đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, tiếp tục đưa cải cách giáo dục đi vào chiều sâu. Đẩy mạnh đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy - học, hướng vào thực hiện mục tiêu nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên định mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, kiên trì con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn, xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị của quân đội có năng lực chuyên môn tốt, có kỷ luật cao, phẩm chất lối sống trong sạch, lành mạnh, bảo đảm cho cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, góp phần quyết định vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Đại tướng yêu cầu phải chú trọng trang bị kiến thức toàn diện, nhất là kiến thức, kỹ năng tiến hành công tác đảng, công tác chính trị để từng bước đổi mới các mặt hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, nâng cao chất lượng và hiệu quả xây dựng quân đội về chính trị. Theo đó, để đội ngũ cán bộ chính trị trong quân đội có đủ phẩm chất, năng lực, phát huy được vai trò, vị trí, hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của người cán bộ chính trị và biết chỉ đạo, tổ chức thực hiện đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, trực tiếp tạo sự vững mạnh về chính trị của quân đội thì điều mấu chốt là phải đào tạo, bồi dưỡng họ một cách toàn diện, trong đó chú trọng trang bị những kiến thức, kỹ năng chuyên môn công tác đảng, công tác chính trị. Do đó, trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị phải trang bị đầy đủ hệ thống kiến thức cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, pháp luật, quản lý nhà nước,... nhất là tập trung bồi dưỡng, trang bị kiến thức chuyên sâu, kỹ năng, kinh nghiệm chỉ đạo, tiến hành hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, có khả năng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong hoạt động thực tiễn tại đơn vị.
Quá trình đào tạo, bồi dưỡng phải thường xuyên bồi dưỡng rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống cho đội ngũ cán bộ chính trị và đòi hỏi mỗi học viên phải kết hợp giữa học tập với rèn luyện không ngừng nâng cao năng lực và phẩm chất của người cán bộ chính trị trong quân đội đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ cơ bản lâu dài cho yêu cầu xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, đồng thời là những tấm gương cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị noi theo. Theo Đại tướng, trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quân đội nói chung, cán bộ chính trị nói riêng phải phát huy sự nỗ lực, tích cực, tự giác học tập, rèn luyện hoàn thiện phẩm chất, năng lực, phong cách và tác phong công tác của người cán bộ quân đội.
Năng lực chuyên môn và phẩm chất của người cán bộ có được là phải nhờ quá trình học tập, rèn luyện. Những kiến thức nhà trường trang bị chỉ là những vấn đề cơ bản có tính định hướng, hướng dẫn về phương pháp. Điều quan trọng nhất để tự hoàn thiện nhân cách, xây dựng phong cách và tác phong công tác của mình đòi hỏi mỗi cán bộ phải thực sự nỗ lực, không ngừng tự học tập, tự rèn luyện. Vì thế, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị phải thực hiện phương châm biến quá trình đào tạo, bồi dưỡng thành tự đào tạo, tự bồi dưỡng; chú trọng cả đào tạo và giáo dục hướng vào nâng cao năng lực và xây dựng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức lối sống cho đội ngũ cán bộ chính trị. Chỉ khi nào phát huy được sự nỗ lực, tích cực, tự giác học tập, rèn luyện hoàn thiện phẩm chất, năng lực, phong cách và tác phong công tác của người học mới tạo chuyển biến trong nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng, bảo đảm đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị.
Là một vị tướng có nhiều kinh nghiệm hoạt động thực tiễn ở chiến trường vào những giai đoạn khó khăn nhất của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, Đại tướng Lê Đức Anh rất quan tâm đến công tác tổng kết chiến tranh. Trong hồi ký “Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng”, Đại tướng viết đã có hai lần đề nghị với cấp trên xin không nhận chức vụ cao hơn khi được bổ nhiệm để dành thời gian làm công tác tổng kết. Tuy nhiên, nguyện vọng đó không được Trung ương chấp nhận. Vì thế, khi làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trong chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị của quân đội, Đại tướng lưu ý phải chú trọng tổng kết, rút kinh nghiệm để không ngừng nâng cao chất lượng. Trong dịp Đại tướng về thăm Học viện Chính trị (tháng 01/1990), sau khi nghe báo cáo tình hình lớp bồi dưỡng về lý luận chính trị cho cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược (lớp Bổ túc A khoá I) tại Học viện Chính trị, khai giảng ngày 05/9/1989 gồm 22 đồng chí, trong đó có 7 đồng chí Thiếu tướng, 14 đồng chí Đại tá và 1 đồng chí Trung tá, Bộ trưởng đã lưu ý đây là lớp bồi dưỡng đầu tiên nên phải chú trọng nâng cao chất lượng và kịp thời sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy cho các khoá tiếp theo để không ngừng nâng cao chất lượng.
Là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam, Học viện Chính trị đã quán triệt sâu sắc những quan điểm của Đảng, của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về đổi mới giáo dục, đào tạo và thực hiện nghiêm túc những lời huấn thị của Đại tướng Lê Đức Anh khi về thăm Học viện cách đây hơn 30 năm. Từ đó đến nay, thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị của Quân đội, đặc biệt là trong 15 năm tiến hành đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chính ủy cấp trung, sư đoàn, Học viện đã không ngừng hoàn thiện mô hình, mục tiêu, yêu cầu đào tạo và thường xuyên đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy - học, hướng vào đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng với chức trách, nhiệm vụ đảm nhiệm khi ra trường. Những năm gần đây, với chủ trương: tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đổi mới toàn diện, đồng bộ giáo dục và đào tạo, tiếp tục đột phá đổi mới nội dung gắn với đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học, phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực người học theo mô hình, mục tiêu đào tạo, Học viện Chính trị đã đào tạo, bồi dưỡng hàng ngàn cán bộ chính trị cấp trung, sư đoàn có đủ phẩm chất, năng lực hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao khi ra trường, góp phần xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị.
Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Đại tướng Lê Đức Anh và cũng để tưởng nhớ anh linh Đại tướng sau gần hai năm đi vào cõi vĩnh hằng, nghiên cứu, tìm hiểu, làm rõ hơn những đóng góp của Đại tướng đối với cách mạng, đối với nhân dân, đối với quân đội, trong đó có công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam là điều rất cần thiết. Cuộc đời hoạt động và cống hiến cách mạng của Đại tướng đối với đất nước, nhân dân, nhất là đối với quân đội đã được Đảng, Nhà nước, nhân dân, quân đội ghi nhận. Trong đó, không thể thiếu, không thể quên sự đóng góp của Đại tướng đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Chính sự đóng góp ấy góp phần khẳng định Đại tướng Lê Đức Anh thực sự là “một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta” như đánh giá của cố Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Đỗ Mười.
Trung tướng, PGS.TS. NGUYỄN VĂN BẠO
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Đại tướng Lê Đức Anh trải qua nhiều chức vụ khác nhau, từ Chính trị viên Chi đội Vệ quốc đoàn Thủ Dầu Một đến Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch nước, rồi Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ở cương vị nào, ông cũng có quan hệ công tác và đặc biệt quan tâm đến Sài Gòn - Chợ Lớn, Thành phố Hồ Chí Minh, một trung tâm lớn về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội và đối ngoại của cả nước. Riêng trong những năm 1948 - 1950, ông trực tiếp giữ trách nhiệm Tham mưu trưởng Khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Có lối tư duy sắc sảo, biện chứng và mẫn cảm với xu thế phát triển của thực tiễn, bản lĩnh chỉ huy quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, ông đã cùng cấp ủy Đảng và Bộ Tư lệnh Sài Gòn - Chợ Lớn chỉ huy lực lượng vũ trang xây dựng, chiến đấu và công tác, góp phần quan trọng vào tiến trình phát triển phong trào chiến tranh du kích ở vùng đô thị sau lưng địch.
1. Tham mưu trưởng Khu Sài Gòn - Chợ Lớn
Sau hơn ba năm gây chiến tranh xâm lược ở Việt Nam và Đông Dương, nước Pháp ngày càng chìm sâu trong khủng hoảng. Nền kinh tế kiệt quệ từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai phục hồi chậm chạp, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Trong khi đó, chi phí của cuộc chiến tranh xâm lược “chớp nhoáng” ở Đông Dương trở nên quá tải. Chỉ tính từ tháng 01/1947 đến tháng 7/1950, Pháp thay đổi Thủ tướng, Chính phủ và tổ chức nhân sự đến 8 lần. Tại Đông Dương, sau thất bại ở Việt Bắc thu - đông 1947, thế bố trí chiến lược tại chiến trường Bắc Bộ bị rúng động và tinh thần chiến đấu của đội quân viễn chinh Pháp bắt đầu sa sút. Tình hình ấy buộc Pháp phải chuyển hướng chiến lược chiến tranh.
Tại Nam Bộ, nếu trước đó Pháp chỉ dùng biện pháp quân sự là chủ yếu, thì giờ đây phải chuyển trọng tâm hoạt động sang bình định nhằm giữ vững và củng cố vùng tạm chiếm, thực hiện chiến tranh tổng lực, đánh phá cơ sở kinh tế, chính trị và các cơ sở dự trữ của lực lượng kháng chiến. Về chính trị, chúng xúc tiến thành lập chính quyền bù nhìn trung ương và địa phương, lôi kéo các tổ chức tôn giáo và sử dụng lực lượng vũ trang giáo phái (Thiên Chúa giáo, Cao Đài, Hòa Hảo...) chống kháng chiến. Về quân sự, Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Nam Kỳ - tướng Nyo - bố trí lại chiến trường, bỏ bớt những đồn bót nhỏ lẻ, tập trung lực lượng chủ yếu ở xung quanh Sài Gòn. Chúng ráo riết phát triển các đơn vị người Việt trong quân đội Pháp, đưa số quân ngụy từ 25.000 (năm 1947) lên đến 80.000 (năm 1948); đồng thời điều chuyển 4 tiểu đoàn bộ binh và 1 tiểu đoàn pháo binh từ miền Bắc vào Sài Gòn, đưa lực lượng địch ở Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ lên tới 25.438 tên (Pháp và Lê Dương: 5.574, quân đội Pháp người Việt Nam: 19.864). Cũng từ năm 1948, tướng Boyer De Latour đến Sài Gòn, thay Nyo làm Tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại Nam Bộ. Kế hoạch bình định Nam Bộ được bổ sung “chiến thuật tháp canh De Latour”. Đến mùa thu năm 1949, thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và hai tỉnh Chợ Lớn, Gia Định có 516 đồn bót tháp canh với 10.000 quân.
Sang năm 1950, mặc dù Pháp đã điều động nhiều đơn vị ra chiến trường Bắc Bộ và Trung Bộ, nhưng quân số tại Sài Gòn - Chợ Lớn không giảm do vẫn tiếp tục được tăng cường viện binh từ Pháp sang Việt Nam và phát triển thêm “quân đội quốc gia” tại chỗ. Riêng trong tháng 01/1950, Pháp đưa sang Sài Gòn 16.679 tên, gần 370 tấn đạn dược và 174 tấn quân nhu. Trong lúc đó, chính phủ Bảo Đại triển khai chiến dịch xây dựng “quân đội quốc gia độc lập trong Liên hiệp Pháp”. Xung quanh thành phố Sài Gòn, tính đến cuối tháng 01/1950, ở phía đông và bắc, quân địch có 14.242 tên (1.913 lính Pháp và Lê dương, 1.703 lính quân đội Bảo Đại, 1.003 lính Khmer đánh thuê, 2.151 lính Cao Đài phản động, 171 lính Công giáo phản động và 6.401 lính bảo an); ở phía tây và nam, quân địch có 4.856 tên (1.134 lính Pháp và Lê dương, 2.384 lính quân đội Bảo Đại, 729 lính Khmer đánh thuê, 609 lính Cao Đài phản động). Kế hoạch của thực dân Pháp là muốn đẩy lực lượng kháng chiến ra xa các đô thị, nhất là Sài Gòn - Chợ Lớn, hòng tạo ra một cục diện mới, dứt điểm cuộc bình định Nam Bộ để tập trung lực lượng trở lại chiến trường miền Bắc Bộ, Trung Bộ và Lào.
Trước những động thái mới của thực dân Pháp, vấn đề đặt ra là cần phải điều chỉnh tổ chức quân sự theo lãnh thổ nhằm tạo điều kiện cho Sài Gòn - Chợ Lớn chủ động trong hoạt động chống chiến lược bình định của địch phù hợp với vị thế đặc điểm địa bàn. Tháng 12/1948, theo đề nghị của Bộ Tư lệnh Nam Bộ (do Trung tướng Nguyễn Bình làm Tư lệnh), Ủy ban Kháng chiến - hành chính Nam Bộ ban hành quyết định tách thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn cùng tỉnh Gia Định, tỉnh Chợ Lớn và một phần tỉnh Tây Ninh thuộc Khu 7 để thành lập Khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Khu Sài Gòn - Chợ Lớn trực thuộc Bộ Tư lệnh Nam Bộ, Bộ Tư lệnh gồm: đồng chí Tô Ký - Quyền Tư lệnh, đồng chí Phan Trọng Tuệ - Chính ủy, đồng chí Huỳnh Văn Một - Phó Tư lệnh, đồng chí Lê Đức Anh - Tham mưu trưởng.
Đang giữ chức vụ Tham mưu trưởng Khu 8, cuối năm 1948, ông Lê Đức Anh nhận được lệnh về chiến khu Vườn Thơm nhận nhiệm vụ Tham mưu trưởng Khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Tại đây, ông cùng Bộ Tư lệnh Khu chỉ đạo lực lượng vũ trang kiện toàn tổ chức và đẩy mạnh hoạt động tác chiến cả trong và ngoại vi thành phố.
2. Chỉ đạo kiện toàn, phát triển lực lượng vũ trang
Từ trước tháng 12/1948, lực lượng vũ trang hoạt động trên địa bàn Sài Gòn - Chợ Lớn gồm hai hệ thống: lực lượng vũ trang nội thành đặt dưới sự chỉ đạo của Thành ủy, do Thành đội chỉ huy và lực lượng vũ trang ngoại thành trực thuộc Bộ Tư lệnh Khu 7. Lực lượng nội thành gồm 10 ban công tác (gọi là Ban công tác Thành). Ở ngoại thành Sài Gòn, các chi đội trực phát triển thành các trung đoàn. Sau khi xuống cơ sở nắm chắc tổ chức biên chế, khả năng hoạt động và nhu cầu của chiến trường, Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đề nghị Bộ Tư lệnh Khu kiện toàn lại lực lượng vũ trang. Theo đó, 10 ban công tác Thành biên chế lại thành 5 ban, lấy phiên hiệu từ 16 đến 20. Cả năm ban nói trên đều trực thuộc Bộ Tư lệnh Khu do Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ huy. Mỗi ban gồm chủ yếu các bộ phận chiến đấu tại chỗ trong nội thành, đồng thời có những bộ phận đảm bảo và phục vụ chiến đấu ở ngoại ô, vùng ven. Các ban được phân công phụ trách từng phạm vi khu vực xác định. Cùng lúc, hệ thống dân quân Thành được củng cố lại, mỗi khu vực đều có binh công xưởng. Thành đội Sài Gòn - Chợ Lớn có một dân quân xưởng với 73 công nhân, một số quận, hộ đều có ban rờ sạc và tổ vũ khí. Tự vệ Thành có Ban vũ khí phát triển thành Binh công xưởng của 5 ban công tác với 80 công nhân.
Đứng chân hoạt động ở địa bàn ngoại thành, Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn có các trung đoàn 300, 306, 308, và 312. Để tạo sự phối hợp nhịp nhàng trong hoạt động tác chiến giữa nội và ngoại vi thành phố, thực hiện “trong đánh, ngoài đánh”, Tham mưu trưởng Lê Đức Anh chỉ đạo thành lập một mặt trận chung, lấy tên là Mặt trận quân sự Thành Sài Gòn - Chợ Lớn. “Mặt trận” gồm 5 ban công tác Thành trong nội đô và 5 tiểu đoàn bao vây xung quanh thành phố (1 tiểu đoàn của Trung đoàn 306 ở Gò Vấp, 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 312 ở Hóc Môn, 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 300 ở Cần Giuộc, 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 308 ở Trung Huyện và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 306 ở Thủ Đức).
Tiếp đó, tháng 11/1949, chấp hành chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (ngày 18/8/1949) “về xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân trong giai đoạn tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công”, Bộ Tư lệnh Nam Bộ chỉ đạo sắp xếp lại chiến trường, tổ chức lại lực lượng vũ trang theo hướng thành lập các liên trung đoàn, tiểu đoàn tập trung, đại đội độc lập. Theo đó, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn được mở rộng về phía Tây Bắc, gồm thêm toàn bộ địa bàn tỉnh Tây Ninh. Thực hiện chủ trương trên, Tham mưu trưởng Lê Đức Anh chỉ đạo các trung đoàn tổ chức lại lực lượng, mỗi trung đoàn xây dựng 1 tiểu đoàn chủ lực cơ động và các đại đội độc lập hoạt động tại từng địa bàn được phân công. Theo đó, Trung đoàn 300 Dương Văn Dương có 1 tiểu đoàn chủ lực và 2 đại đội độc lập, 1 đại đội “đặc biệt”, 1 đại đội binh chủng (pháo binh và công binh) hoạt động tại Nhà Bè, Cần Giuộc và khu vực phía nam thành phố. Trung đoàn 308 có 1 đại đội chủ lực và 2 đại đội độc lập hoạt động tại tỉnh Chợ Lớn và khu vực phía tây thành phố. Trung đoàn 311 có 1 đại đội chủ lực và 2 đại đội độc lập hoạt động tại Tây Ninh. Riêng Trung đoàn 306 và Trung đoàn 312 nhập lại thành Liên trung đoàn 306-312, gồm 1 tiểu đoàn chủ lực và 6 đại đội độc lập hoạt động ở các huyện phía bắc và tây thành phố. Ngoài ra, Bộ Tư lệnh Khu còn thành lập 1 tiểu đoàn chủ lực cơ động lấy phiên hiệu 870. Trong nội thành, ngày 19/12/1949, các ban công tác Thành nhập lại, thành lập Tiểu đoàn Quyết tử 950 trực thuộc Bộ Tư lệnh Khu. Tiểu đoàn gồm 3 đại đội mang phiên hiệu 3018, 3019, 3020.
Cùng với việc tổ chức lại bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, lực lượng dân quân, du kích được chú trọng xây dựng. Tự vệ ở khu phố, xí nghiệp trong thành phố phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Tính đến cuối năm 1949, toàn Khu Sài Gòn - Chợ Lớn có tổng cộng 3.505 đội viên du kích xã, riêng Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn có 36 tiểu đội không thoát ly. Bên cạnh lực lượng không thoát ly, các huyện ngoại thành đều xây dựng lực lượng du kích tập trung. Huyện Thủ Đức có 2 tiểu đội. Các huyện Nhà Bè, Hóc Môn, Gò Vấp, Trung Quận mỗi nơi có 1 tiểu đội.
Lúc này, trên chiến trường Khu Sài Gòn - Chợ Lớn đã hình thành lực lượng vũ trang ba thứ quân: bộ đội chủ lực (các tiểu đoàn chủ lực trong Liên trung đoàn 306-312, các trung đoàn 300, 308, 311 và Tiểu đoàn 870); bộ đội địa phương (các đại đội trong Liên trung đoàn, trung đoàn và Tiểu đoàn Quyết tử 950); tự vệ Thành Sài Gòn - Chợ Lớn và dân quân du kích các huyện ngoại thành. Chỉ đạo của Tham mưu trưởng Lê Đức Anh về việc tổ chức lại lực lượng vũ trang đã tạo ra những điều kiện mới để lực lượng vũ trang Khu Sài Gòn - Chợ Lớn xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, đẩy mạnh hoạt động tác chiến trong giai đoạn “tích cực cầm cự chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công”.
3. Chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động tác chiến
Cùng Bộ Tư lệnh Khu, Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đã chỉ huy lực lượng vũ trang Sài Gòn - Chợ Lớn đẩy mạnh hoạt động quân sự, vừa đánh địch càn quét khủng bố, vừa chủ động phục kích, tập kích tiêu diệt tiêu hao quân địch cả ở trong và ngoài thành phố.
Trong nội thành, các Ban công tác, Liên tác chiến đấu quân, Đại đội du kích, Công an xung phong tập kích nhóm sĩ quan Pháp trên đường Chasseloup Laubat (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai), trong rạp chiếu bóng Majestic trên đường Catinat (nay là đường Đồng Khởi); đốt cháy kho xăng ở Tân Sơn Nhất, tàu vận tải Brellel trọng tải 8.000 tấn trên sông Sài Gòn và một xà lan chứa xăng dầu tại cảng Nhà Bè; cùng các mục tiêu khác tại Thị Nghè, Bà Chiểu, Gò Vấp, cầu Rạch Chiếc, ngã ba Chữ Y, Nhà Bè, Chợ Đệm, Phú Thọ Hòa, hộ 17, 18 Chợ Lớn. Chỉ tính riêng 6 tháng cuối năm 1949, các đại đội du kích tác chiến 93 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 67 tên địch, bắt sống 24 tên. Từ cuối năm 1949, các lực lượng vũ trang nội thành như Tiểu đoàn Quyết tử, tự vệ, công an xung phong chuyển sang tiến công địch theo theo phương châm “đẩy mạnh vận động chiến tiến tới”, tập kích các nhà hàng Royal, Bombay, Khánh Hội, rạp chiếu bóng Nam Quang, cảng Sài Gòn, đường Mac Mahon (nay là đường Nam Kỳ khởi nghĩa). Riêng trong tháng 01/1950, các lực lượng vũ trang nội thành tổ chức 42 trận tác chiến đánh địch và phá hoại kinh tế, 7 lần vũ trang tuyên truyền, loại khỏi vòng chiến đấu 81 tên, thiêu hủy 3 xe cơ giới, 6 tàu ghe, 600 vỏ xe hơi, thu 3 súng và nhiều đồ quân dụng, dân dụng khác.
Tại các huyện ngoại thành, dưới sự chỉ huy của Tham mưu trưởng Lê Đức Anh, hoạt động quân sự của các lực lượng vũ trang kháng chiến diễn ra ở quy mô lớn hơn, chủ yếu là đánh địch càn quét bắn phá vào vùng du kích và vùng căn cứ địa, phục kích các đoàn vận tải quân sự (thủy, bộ) và tập kích đồn bót tháp canh, cơ sở hậu cần của chúng. Trong năm 1949, lực lượng du kích các huyện Hóc Môn, Thủ Đức, Nhà Bè đã độc lập tác chiến 207 trận, phối hợp tác chiến 171 trận, đánh khuấy rối 288 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 862 tên địch, bắt sống 18 tên, phá hủy 2 bót, 17 xe, 139 căn nhà của bọn Việt gian phản động, thu 66 súng, 38 lựu đạn, 266 viên đạn và nhiều quân trang quân dụng. Hoạt động quân sự của lực lượng vũ trang Khu Sài Gòn - Chợ Lớn đã góp phần tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, giữ vững và đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh, hạn chế và từng bước đánh bại chiến lược bình định của thực dân Pháp ở Nam Bộ.
Trong xu thế “chuyển mạnh sang tổng phản công”, phối hợp với các chiến dịch tại Tây Nguyên, Lào và Bắc Bộ, đầu năm 1950, Tham mưu trưởng Lê Đức Anh tham mưu cho Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn chủ trương mở một chiến dịch trên đường số 7 và đường 14, nhằm: “1. Mở rộng khu giải phóng từ đường số 1 (Gia Định) qua tới đường số 13 và đường xe lửa Lộc Ninh - Thủ Dầu Một. 2. Bảo đảm sự an toàn cho căn cứ An Thành và Hóc Môn là hai căn cứ chủ yếu của Khu Sài Gòn và nhiều cơ quan chính đảng huyện Bến Cát và tỉnh Gia Định. 3. Chiếm được miền kinh tế phì nhiêu từ Rạch Kiến lên tới Bến Súc để làm kho tiếp tế lương thực dồi dào sau này. 4. Để làm bàn đạp đánh mạnh vào vườn cao su Dầu Tiếng, Hớn Quản và đường số 13 và đường xe lửa Lộc Ninh - Thủ Dầu Một. 5. Ngưng trệ chương trình lấn chiếm hoàn toàn huyện Hóc Môn của địch”. Bộ Tư lệnh đồng ý với đề xuất của Tham mưu trưởng và ban hành quyết định thành lập “Ban chỉ huy chiến dịch” gồm Nguyễn Văn Thi (Chỉ huy trưởng), Trần Đình Xu (Chỉ huy phó), Lê Đức Anh (Tham mưu trưởng).
Công tác chuẩn bị cho đợt hoạt động được tiến hành khẩn trương ngay đầu năm 1950. Lực lượng tham gia đợt hoạt động gồm 1 tiểu đoàn chủ lực tăng cường của liên trung đoàn 306-312, 1 tiểu đoàn chủ lực và một đại đội độc lập của liên trung đoàn 301-310, 1 đại đội độc lập của huyện Bến Cát, lực lượng dân quân du kích hai huyện Hóc Môn, Gò Vấp và lực lượng công đoàn cao su đồn điền Dầu Tiếng. Phòng Chính trị Khu chuẩn bị phương án động viên bộ đội, tuyên truyền địch ngụy vận, động viên nhân dân ủng hộ và tham gia đợt hoạt động. Đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn và các cơ sở quân nhu của bộ đội tích cực chuẩn bị lương thực và thực phẩm và thuốc men sẵn sàng phục vụ. Đợt hoạt động diễn ra trong ba ngày (25-27) tháng 01/1950. Kết quả, bộ đội và du kích đã loại khỏi vòng chiến đấu 84 tên địch, phá hỏng 3 xe thiết giáp, 3 cầu, thu nhiều súng đạn (trong đó có 6 súng máy) và một số đồ dùng quân sự khác. Mặc dù không đạt được triệt để mục đích đề ra ban đầu, đợt hoạt động đã làm gián đoạn giao thông địch trong một thời gian dài, sau đó buộc địch phải giảm bớt hoạt động trên đường số 5 Hóc Môn và đoạn đường xe lửa Dĩ An - Lái Thiêu. Đây là đợt tiến công quân sự tập trung lớn nhất của lực lượng vũ trang Khu Sài Gòn - Chợ Lớn kể từ đầu cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Pháp; cũng là trận chỉ huy cấp chiến dịch đầu tiên của ông Lê Đức Anh, một người chưa từng được đào tạo về quân sự, về công tác tham mưu, chỉ huy binh chủng hợp thành.
Tháng 8/1950, để thực hiện chủ trương “tiến tới tổng phản công thắng lợi”, tăng cường lực lượng cho Khu 7, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn giải thể để thành lập Đặc khu, gồm Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và một phần các huyện vùng ven như Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè, Trung Huyện. Ông Lê Đức Anh rời Sài Gòn - Chợ Lớn, hành quân về Chiến khu Đ làm Tham mưu trưởng Khu 7. Trong vòng hai năm giữ trách nhiệm Tham mưu trưởng Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, ông đã để lại nhiều dấu ấn trong xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân phù hợp với đặc điểm địa bàn, trong hoạt động tác chiến tiến công địch cả ở nội đô và vùng ven, trong thiết kế và tổ chức một “chiến dịch” lớn và duy nhất của Sài Gòn - Chợ Lớn, Gia Định trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Đại tá, PGS.TS. HỒ SƠN ĐÀI
Trong những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến, đồng chí Lê Đức Anh là Trung đội trưởng vũ trang công nhân cao su với hơn 100 người. “Đội quân áo nâu” hay “Đội quân cung tên” theo cách gọi thân thuộc của nhân dân dưới sự chỉ huy của ông đã kéo quân từ Lộc Ninh, Hớn Quản về tham gia chiến đấu tại Mặt trận số 2 (còn gọi là mặt trận phía Bắc), góp phần giam chân quân Pháp suốt hơn một tháng, làm thất bại ý đồ “đánh nhanh, thắng nhanh” của chúng. Cuối năm 1945, trên cương vị Chính trị viên Tiểu đoàn 1, ông đã cùng với các đồng chí Nguyễn Văn Ngọ, Lê Danh Cát chỉ huy đơn vị bảo vệ an toàn căn cứ Sở Chỉ huy Nam Bộ kháng chiến ở Thuận Lợi, Lạc An (Biên Hòa); tổ chức tập kích quận lỵ Hớn Quản giành thắng lợi, khiến cho địch vùng này phải co lại, không dám mạo hiểm càn quét tràn lan như trước, nhân dân vô cùng phấn khởi, các nghiệp đoàn cao su ở đây được gây dựng lại.
Sau Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ mở rộng họp ngày 10/12/1945 tại Bình Hòa Nam (nay thuộc huyện Đức Huệ, tỉnh Long An), lực lượng vũ trang của Nam Bộ, từ các đơn vị tự vũ trang được tổ chức thành các chi đội. Cả Nam Bộ có 25 chi đội. Mỗi chi đội đứng chân và hoạt động trên địa bàn một tỉnh. Đầu năm 1946, đồng chí Lê Đức Anh được Tỉnh ủy Thủ Dầu Một điều về làm Chính trị viên Chi đội 1, khi đó đang đứng chân tại quận Lái Thiêu. Chi đội 1 hoạt động trên địa bàn trải dài từ Lái Thiêu đến các huyện Châu Thành, Tân Uyên, Bến Cát, Dầu Tiếng, Hớn Quản. Đến cuối tháng 3/1946, thực dân Pháp cơ bản chiếm đóng được toàn bộ Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, đồng chí Chính trị viên Chi đội 1 Lê Đức Anh, thời điểm này được chỉ định là Tỉnh ủy viên tỉnh Thủ Dầu Một, cuối năm 1946 được Tỉnh ủy phân công làm Bí thư Quận ủy lâm thời Hớn Quản, đã cùng Ban Chỉ huy Chi đội và cán bộ các ngành tăng cường giáo dục, động viên cán bộ, chiến sĩ, nhân dân vượt qua khó khăn; chỉ đạo gấp rút củng cố, phát triển thực lực mọi mặt; dựa chắc vào nhân dân, kiên quyết chống lại mưu đồ “bình định” Nam Bộ và thủ đoạn hòng tiêu diệt các lực lượng kháng chiến, tách Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam của thực dân Pháp. Chi đội 1 do đồng chí Lê Đức Anh làm Chính trị viên nổi tiếng đánh giặc giỏi và có kỷ luật dân vận tốt. Khẩu hiệu “Không ra đi khi chưa trồng rau để lại cho người đến sau; không được đi khi chưa múc đầy ang nước; không đi khi nhà cửa chưa quét dọn sạch sẽ” đã trở thành nếp sống của bộ đội Chi đội 1.
Nhờ phương hướng xây dựng, phát triển đúng, Chi đội 1 phát triển mạnh cả về chính trị, tư tưởng, lực lượng trang bị, vũ khí cũng như kinh nghiệm và khả năng chiến đấu. Quân số Chi đội 1 lên tới 1.500 người, 1.350 súng trường, 28 tiểu liên, 18 trung liên, 10 đại liên. Chiến lợi phẩm thu được, ngoài trang bị cho đơn vị trong Chi đội, Ban Chỉ huy Chi đội còn hỗ trợ cho các xã chiến đấu. Nhiều trận đánh như: trận chống càn tại xã An Tây (Bến Cát, tháng 8/1947), trận bến Ông Khương (ngày 30/10/1947), trận chống địch càn quét vào căn cứ Vĩnh Lợi - Bình Chánh (ngày 18/11/1947), trận tiêu diệt “Chiến khu quốc gia” Quới Bình Tây ngày 10/12/1947 đã toàn thắng, gây ảnh hưởng lớn đối với chiến trường miền Đông Nam Bộ. Qua những trọng trách được giao, đồng chí Lê Đức Anh luôn luôn thể hiện bản lĩnh, sự năng động và linh hoạt của tuổi trẻ, đã cùng với tập thể Ban Chỉ huy các cấp vạch ra phương hướng hoạt động cho đơn vị sát, đúng, kịp thời.
Ngày 27/3/1948, Khu ủy Khu 7 họp hội nghị quyết định trên cơ sở các chi đội trên chiến trường miền Đông Nam Bộ phát triển thành 10 trung đoàn bộ binh chủ lực Miền. Theo đó, Chi đội 1 của Tỉnh Thủ Dầu Một được đổi tên thành Trung đoàn 301 (ngày 14/6/1948) do đồng chí Huỳnh Kim Trương làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Lê Đức Anh làm Chính trị viên. Trung đoàn gồm 3 tiểu đoàn và một số đại đội trực thuộc. Đại đội 1 thành Tiểu đoàn 901 hoạt động ở vùng Lái Thiêu, Thủ Dầu Một; Đại đội 2 thành Tiểu đoàn 902 hoạt động ở quận Châu Thành; Đại đội 3 thành Tiểu đoàn 903 và ba đại đội 2707, 2708, 2709 hoạt động ở Bến Cát, Hớn Quản, Lộc Ninh.
Tháng 10/1948, do yêu cầu chống địch bình định, đồng chí Lê Đức Anh được điều về làm Tham mưu trưởng Khu 8. Cuối năm 1948, thấy được tố chất và năng lực tham mưu quân sự của đồng chí Lê Đức Anh, Xứ ủy Nam Bộ điều ông về làm Tham mưu trưởng Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, một địa bàn trọng điểm, nơi diễn ra những trận đánh quyết liệt giữa quân và dân ta với quân đội thực dân Pháp. Từ đây, đồng chí Lê Đức Anh chuyển từ cán bộ chính trị sang làm cán bộ quân sự, chuyên lo xây dựng lực lượng, tổ chức chiến dịch, xây dựng và phát triển chiến thuật cho bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương. Dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh và cá nhân ông, lực lượng vũ trang Khu Sài Gòn - Chợ Lớn không ngừng được kiện toàn về tổ chức và đẩy mạnh hoạt động tác chiến, thực hiện nhiều trận đánh hiệu suất cao, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch. Lực lượng nội thành gồm 5 ban công tác trực thuộc Bộ Tư lệnh Khu do Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ huy. Các chi đội phát triển thành các trung đoàn 300, 301, 304, 306, 307, 308, 310, 311, 312. Hệ thống dân quân thành được củng cố lại, mỗi khu vực đều có công binh xưởng.
Tháng 9/1949, sau Hội nghị quân sự Nam Bộ do Xứ ủy Nam Bộ triệu tập, Bộ Tư lệnh Nam Bộ tổ chức phân bố lại chiến trường, củng cố lại nhân sự chủ chốt ở cấp khu và cấp tỉnh. Đồng chí Lê Đức Anh tiếp tục được chỉ định làm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Khu Sài Gòn - Chợ Lớn lúc này mở rộng thêm hai tỉnh Gia Định và Tây Ninh.
Tháng 11/1949, chấp hành chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 18/8/1949 về xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân trong giai đoạn tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công, Bộ Tư lệnh Nam Bộ chỉ đạo tổ chức lại lực lượng vũ trang theo hướng thành lập các liên trung đoàn, tiểu đoàn tập trung, đại đội độc lập. Theo đó, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn được mở rộng về phía Tây Bắc, thêm toàn bộ tỉnh Tây Ninh. Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đã chỉ đạo các trung đoàn tổ chức lại lực lượng, mỗi trung đoàn xây dựng 1 tiểu đoàn chủ lực cơ động và các đại đội độc lập hoạt động trên từng địa bàn được phân công. Trung đoàn 300 hoạt động ở Nhà Bè, Cần Giuộc; Trung đoàn 308 hoạt động tại Chợ Lớn; Trung đoàn 311 hoạt động tại Tây Ninh; sáp nhập Trung đoàn 306 và Trung đoàn 312 thành liên trung đoàn 306-312... Ngoài ra, còn thành lập Tiểu đoàn chủ lực cơ động 870. Lực lượng dân quân, du kích cũng được chú trọng xây dựng. Tính đến cuối năm 1949, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn có 3.505 đội viên du kích xã, 36 tiểu đội không thoát ly; lực lượng du kích các huyện Hóc Môn, Thủ Đức, Nhà Bè độc lập tác chiến 207 trận, phối hợp tác chiến 171 trận, đánh quấy rối 288 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 862 tên, phá hủy 17 xe, thu 66 súng, 38 lựu đạn,...
Chiến trường Nam Bộ bước vào năm 1950 ngày càng trở lên khốc liệt do thực dân Pháp ráo riết áp dụng chiến thuật “bình định” 5 điểm của viên tướng De Latour (rút bỏ những khu vực hẻo lánh khó giữ, dùng giáo dân vũ trang để chống phá kháng chiến của Việt Minh, hợp tác với giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo để chống phá kháng chiến của Việt Minh, dùng chiến thuật đồn bốt tháp canh; bao vây căn cứ địa Đồng Tháp Mười, căn cứ Chiến khu Đ, kiểm soát vùng kinh tế trù phú Hậu Giang). Quân Pháp liên tục mở các cuộc hành quân càn quét, uy hiếp vùng giải phóng phía Đông và Đông Bắc Sài Gòn - Gia Định. Trên cương vị là Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, ông đề xuất với Bộ Tư lệnh hạ quyết tâm tìm mọi biện pháp phá chiến thuật De Latour của thực dân Pháp; mở một chiến dịch tiến công trên địa bàn Bến Cát nhằm tiêu diệt sinh lực địch bằng cách đánh giao thông kết hợp với công đồn diệt tháp canh để đánh viện binh; tác chiến kết hợp với phá hoại để mở rộng khu căn cứ của ta.
Đề xuất của ông đã được chấp thuận. Ngày 21/01/1950, Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn quyết định mở chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát và giao cho ông làm Tham mưu trưởng chiến dịch nhằm tiêu diệt các đoàn convoy, đồn Bến Súc, lực lượng tiếp viện của địch; phá đường sá, cầu; bao vây bức rút đồn, tháp canh Bến Cát, Suối Rứa, Cần Nôm, Ông Cộ, Xi Nô, Rạch Kiến, Xóm Bưng. Sở chỉ huy chiến dịch, lúc đầu đặt ở Thanh Tuyền và về cuối chuyển sang An Thành. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm một tiểu đoàn chủ lực của liên Trung đoàn 306-312, một tiểu đoàn chủ lực và một đại đội độc lập của liên Trung đoàn 301-310, một đại đội độc lập của huyện Bến Cát, lực lượng dân quân du kích hai huyện Hóc Môn, Gò Vấp và lực lượng công đoàn cao su đồn điền Dầu Tiếng. Chiến dịch thu được thắng lợi lớn, loại khỏi chiến đấu gần 100 tên địch, phá hủy 3 xe bọc thép, làm gián đoạn giao thông của địch trong khoảng thời gian dài, thậm chí, chúng còn phải sử dụng trực thăng tiếp tế cho đồn điền cao su Dầu Tiếng, quân ta phá cầu Bến Cát. Ngoài ra, riêng trong tháng 01/1950, lực lượng vũ trang nội thành Sài Gòn tổ chức 42 trận tác chiến đánh địch, 7 lần vũ trang tuyên truyền, loại khỏi vòng chiến đấu 81 tên địch, thiêu hủy 3 xe cơ giới, 6 tàu ghe, 600 vỏ xe hơi. Tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ đã khẳng định: “Chiến dịch Bến Cát đánh dấu một bước trưởng thành quan trọng của lực lượng vũ trang Quân khu 7, đưa phong trào kháng chiến của quân dân miền Đông Nam Bộ hòa nhập với cuộc kháng chiến trên chiến trường cả nước”1. Chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát và chiến dịch Cầu Kè, Trà Vinh (từ ngày 7 đến ngày 26/12/1949) là hai chiến dịch tiến công đầu tiên của lực lượng vũ trang Nam Bộ làm thay đổi cục diện chiến trường, từ chỗ ta bị động đối phó với các cuộc hành quân càn quét của địch sang chủ động tổ chức những trận tiến công quy mô chiến dịch. Tài năng quân sự của đồng chí Lê Đức Anh ngày càng được thực tiễn chiến trường khẳng định, sau chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát, ông được bổ nhiệm làm Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ.
Tháng 8/1950, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn giải thể để thành lập Đặc khu, gồm thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và một phần các huyện Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè, Trung Huyện, nhằm tăng cường lực lượng cho Khu 7, Xứ ủy điều đồng chí Lê Đức Anh về làm Tham mưu trưởng Khu 7.
Tháng 5/1951, Trung ương Cục quyết định phân chia lại chiến trường, giải thể ba khu 7, 8, 9, sáp nhập 20 tỉnh của Nam Bộ thành 11 tỉnh ghép, chia Nam Bộ thành hai phân liên khu và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Đồng chí Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Phân liên khu miền Đông Nam Bộ gồm 5 tỉnh Gia Ninh, Thủ Biên, Bà Lớn, Mỹ Tho, Long Châu Sa. Ông tiếp tục cùng với các đồng chí Trần Văn Trà, Phạm Hùng chỉ đạo quân và dân Phân liên khu miền Đông Nam Bộ đẩy mạnh hoạt động chống lại chính sách “bình định” của thực dân Pháp, xây dựng bộ đội chủ lực Khu và lực lượng du kích vũ trang.
Tháng 12/1952, đồng chí Lê Đức Anh được Xứ ủy Nam Bộ giao nhiệm vụ tổ chức một đoàn 12 cán bộ, trong đó có ông tham gia, do đồng chí Lê Duẩn làm trưởng đoàn xuất phát từ Nam Bộ ra Trung ương họp tại Việt Bắc, kết hợp với báo cáo kinh nghiệm đánh đồn, diệt tháp canh của địch trên chiến trường Nam Bộ. Khi qua Khu 6, Khu 5, đoàn để lại tổ ba người phổ biến kinh nghiệm và cùng bộ đội khu thực hành đánh đồn. Ngày 13/5/1953, đoàn công tác ra tới Tân Trào, được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham gia “Lớp chỉnh đảng” do đồng chí Lê Văn Lương phụ trách. Tháng 12/1953, Đoàn lên đường quay trở vào Nam Bộ. Đang trên đường vào Nam Bộ thì được tin trên chiến trường Tây Bắc diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ, quân và dân ta giành được toàn thắng trong chiến dịch lớn nhất này.
Như vậy, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng chí Lê Đức Anh lần lượt trải qua những cương vị từ Trung đội trưởng, Chính trị viên Tiểu đoàn, Chi đội, Trung đoàn, Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ, Tham mưu trưởng Phân liên khu miền Đông Nam Bộ. Ông chủ yếu hoạt động chỉ đạo, chỉ huy trên chiến trường miền Đông Nam Bộ - chiến trường chống thực dân Pháp cam go quyết liệt nhất ngay từ những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến. Đồng chí Lê Đức Anh đã chủ động tham mưu và trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh, chiến dịch mang lại hiệu suất cao, góp phần căng kéo, phân tán, tiêu hao, tiêu diệt một khối binh lực lớn quân đội viễn chinh Pháp trên chiến trường ba nước Đông Dương. Tài năng quân sự của ông ngày càng được khẳng định và được thực tiễn chiến tranh kiểm nghiệm. Chiến trường Nam Bộ trong những năm 1951 - 1954 dưới sự chỉ huy của cá nhân ông và tập thể Bộ Tư lệnh đã thực sự trở thành một chiến trường sôi động, chia lửa đắc lực với chiến trường chính Bắc Bộ mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi lẫy lừng năm châu chấn động địa cầu, góp phần đưa sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Việt Nam toàn thắng.
Có thể nói, đồng chí Lê Đức Anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên cương vị, chức trách mà Đảng, quân đội và nhân dân tin cậy giao cho ông. Những chiến công quan trọng về quân sự trên chiến trường miền Đông Nam Bộ những năm 1945 - 1954 mãi mãi ghi đậm dấu ấn của ông - một trí tuệ lớn mang tầm chiến lược.
Đại tá, TS. Nguyễn Văn Quyền
Trong những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến, đồng chí Lê Đức Anh là Trung đội trưởng vũ trang công nhân cao su với hơn 100 người. “Đội quân áo nâu” hay “Đội quân cung tên” theo cách gọi thân thuộc của nhân dân dưới sự chỉ huy của ông đã kéo quân từ Lộc Ninh, Hớn Quản về tham gia chiến đấu tại Mặt trận số 2 (còn gọi là mặt trận phía Bắc), góp phần giam chân quân Pháp suốt hơn một tháng, làm thất bại ý đồ “đánh nhanh, thắng nhanh” của chúng. Cuối năm 1945, trên cương vị Chính trị viên Tiểu đoàn 1, ông đã cùng với các đồng chí Nguyễn Văn Ngọ, Lê Danh Cát chỉ huy đơn vị bảo vệ an toàn căn cứ Sở Chỉ huy Nam Bộ kháng chiến ở Thuận Lợi, Lạc An (Biên Hòa); tổ chức tập kích quận lỵ Hớn Quản giành thắng lợi, khiến cho địch vùng này phải co lại, không dám mạo hiểm càn quét tràn lan như trước, nhân dân vô cùng phấn khởi, các nghiệp đoàn cao su ở đây được gây dựng lại.
Sau Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ mở rộng họp ngày 10/12/1945 tại Bình Hòa Nam (nay thuộc huyện Đức Huệ, tỉnh Long An), lực lượng vũ trang của Nam Bộ, từ các đơn vị tự vũ trang được tổ chức thành các chi đội. Cả Nam Bộ có 25 chi đội. Mỗi chi đội đứng chân và hoạt động trên địa bàn một tỉnh. Đầu năm 1946, đồng chí Lê Đức Anh được Tỉnh ủy Thủ Dầu Một điều về làm Chính trị viên Chi đội 1, khi đó đang đứng chân tại quận Lái Thiêu. Chi đội 1 hoạt động trên địa bàn trải dài từ Lái Thiêu đến các huyện Châu Thành, Tân Uyên, Bến Cát, Dầu Tiếng, Hớn Quản. Đến cuối tháng 3/1946, thực dân Pháp cơ bản chiếm đóng được toàn bộ Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, đồng chí Chính trị viên Chi đội 1 Lê Đức Anh, thời điểm này được chỉ định là Tỉnh ủy viên tỉnh Thủ Dầu Một, cuối năm 1946 được Tỉnh ủy phân công làm Bí thư Quận ủy lâm thời Hớn Quản, đã cùng Ban Chỉ huy Chi đội và cán bộ các ngành tăng cường giáo dục, động viên cán bộ, chiến sĩ, nhân dân vượt qua khó khăn; chỉ đạo gấp rút củng cố, phát triển thực lực mọi mặt; dựa chắc vào nhân dân, kiên quyết chống lại mưu đồ “bình định” Nam Bộ và thủ đoạn hòng tiêu diệt các lực lượng kháng chiến, tách Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam của thực dân Pháp. Chi đội 1 do đồng chí Lê Đức Anh làm Chính trị viên nổi tiếng đánh giặc giỏi và có kỷ luật dân vận tốt. Khẩu hiệu “Không ra đi khi chưa trồng rau để lại cho người đến sau; không được đi khi chưa múc đầy ang nước; không đi khi nhà cửa chưa quét dọn sạch sẽ” đã trở thành nếp sống của bộ đội Chi đội 1.
Nhờ phương hướng xây dựng, phát triển đúng, Chi đội 1 phát triển mạnh cả về chính trị, tư tưởng, lực lượng trang bị, vũ khí cũng như kinh nghiệm và khả năng chiến đấu. Quân số Chi đội 1 lên tới 1.500 người, 1.350 súng trường, 28 tiểu liên, 18 trung liên, 10 đại liên. Chiến lợi phẩm thu được, ngoài trang bị cho đơn vị trong Chi đội, Ban Chỉ huy Chi đội còn hỗ trợ cho các xã chiến đấu. Nhiều trận đánh như: trận chống càn tại xã An Tây (Bến Cát, tháng 8/1947), trận bến Ông Khương (ngày 30/10/1947), trận chống địch càn quét vào căn cứ Vĩnh Lợi - Bình Chánh (ngày 18/11/1947), trận tiêu diệt “Chiến khu quốc gia” Quới Bình Tây ngày 10/12/1947 đã toàn thắng, gây ảnh hưởng lớn đối với chiến trường miền Đông Nam Bộ. Qua những trọng trách được giao, đồng chí Lê Đức Anh luôn luôn thể hiện bản lĩnh, sự năng động và linh hoạt của tuổi trẻ, đã cùng với tập thể Ban Chỉ huy các cấp vạch ra phương hướng hoạt động cho đơn vị sát, đúng, kịp thời.
Ngày 27/3/1948, Khu ủy Khu 7 họp hội nghị quyết định trên cơ sở các chi đội trên chiến trường miền Đông Nam Bộ phát triển thành 10 trung đoàn bộ binh chủ lực Miền. Theo đó, Chi đội 1 của Tỉnh Thủ Dầu Một được đổi tên thành Trung đoàn 301 (ngày 14/6/1948) do đồng chí Huỳnh Kim Trương làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Lê Đức Anh làm Chính trị viên. Trung đoàn gồm 3 tiểu đoàn và một số đại đội trực thuộc. Đại đội 1 thành Tiểu đoàn 901 hoạt động ở vùng Lái Thiêu, Thủ Dầu Một; Đại đội 2 thành Tiểu đoàn 902 hoạt động ở quận Châu Thành; Đại đội 3 thành Tiểu đoàn 903 và ba đại đội 2707, 2708, 2709 hoạt động ở Bến Cát, Hớn Quản, Lộc Ninh.
Tháng 10/1948, do yêu cầu chống địch bình định, đồng chí Lê Đức Anh được điều về làm Tham mưu trưởng Khu 8. Cuối năm 1948, thấy được tố chất và năng lực tham mưu quân sự của đồng chí Lê Đức Anh, Xứ ủy Nam Bộ điều ông về làm Tham mưu trưởng Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, một địa bàn trọng điểm, nơi diễn ra những trận đánh quyết liệt giữa quân và dân ta với quân đội thực dân Pháp. Từ đây, đồng chí Lê Đức Anh chuyển từ cán bộ chính trị sang làm cán bộ quân sự, chuyên lo xây dựng lực lượng, tổ chức chiến dịch, xây dựng và phát triển chiến thuật cho bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương. Dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh và cá nhân ông, lực lượng vũ trang Khu Sài Gòn - Chợ Lớn không ngừng được kiện toàn về tổ chức và đẩy mạnh hoạt động tác chiến, thực hiện nhiều trận đánh hiệu suất cao, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch. Lực lượng nội thành gồm 5 ban công tác trực thuộc Bộ Tư lệnh Khu do Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ huy. Các chi đội phát triển thành các trung đoàn 300, 301, 304, 306, 307, 308, 310, 311, 312. Hệ thống dân quân thành được củng cố lại, mỗi khu vực đều có công binh xưởng.
Tháng 9/1949, sau Hội nghị quân sự Nam Bộ do Xứ ủy Nam Bộ triệu tập, Bộ Tư lệnh Nam Bộ tổ chức phân bố lại chiến trường, củng cố lại nhân sự chủ chốt ở cấp khu và cấp tỉnh. Đồng chí Lê Đức Anh tiếp tục được chỉ định làm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Khu Sài Gòn - Chợ Lớn lúc này mở rộng thêm hai tỉnh Gia Định và Tây Ninh.
Tháng 11/1949, chấp hành chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 18/8/1949 về xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân trong giai đoạn tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công, Bộ Tư lệnh Nam Bộ chỉ đạo tổ chức lại lực lượng vũ trang theo hướng thành lập các liên trung đoàn, tiểu đoàn tập trung, đại đội độc lập. Theo đó, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn được mở rộng về phía Tây Bắc, thêm toàn bộ tỉnh Tây Ninh. Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đã chỉ đạo các trung đoàn tổ chức lại lực lượng, mỗi trung đoàn xây dựng 1 tiểu đoàn chủ lực cơ động và các đại đội độc lập hoạt động trên từng địa bàn được phân công. Trung đoàn 300 hoạt động ở Nhà Bè, Cần Giuộc; Trung đoàn 308 hoạt động tại Chợ Lớn; Trung đoàn 311 hoạt động tại Tây Ninh; sáp nhập Trung đoàn 306 và Trung đoàn 312 thành liên trung đoàn 306-312... Ngoài ra, còn thành lập Tiểu đoàn chủ lực cơ động 870. Lực lượng dân quân, du kích cũng được chú trọng xây dựng. Tính đến cuối năm 1949, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn có 3.505 đội viên du kích xã, 36 tiểu đội không thoát ly; lực lượng du kích các huyện Hóc Môn, Thủ Đức, Nhà Bè độc lập tác chiến 207 trận, phối hợp tác chiến 171 trận, đánh quấy rối 288 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 862 tên, phá hủy 17 xe, thu 66 súng, 38 lựu đạn,...
Chiến trường Nam Bộ bước vào năm 1950 ngày càng trở lên khốc liệt do thực dân Pháp ráo riết áp dụng chiến thuật “bình định” 5 điểm của viên tướng De Latour (rút bỏ những khu vực hẻo lánh khó giữ, dùng giáo dân vũ trang để chống phá kháng chiến của Việt Minh, hợp tác với giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo để chống phá kháng chiến của Việt Minh, dùng chiến thuật đồn bốt tháp canh; bao vây căn cứ địa Đồng Tháp Mười, căn cứ Chiến khu Đ, kiểm soát vùng kinh tế trù phú Hậu Giang). Quân Pháp liên tục mở các cuộc hành quân càn quét, uy hiếp vùng giải phóng phía Đông và Đông Bắc Sài Gòn - Gia Định. Trên cương vị là Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, ông đề xuất với Bộ Tư lệnh hạ quyết tâm tìm mọi biện pháp phá chiến thuật De Latour của thực dân Pháp; mở một chiến dịch tiến công trên địa bàn Bến Cát nhằm tiêu diệt sinh lực địch bằng cách đánh giao thông kết hợp với công đồn diệt tháp canh để đánh viện binh; tác chiến kết hợp với phá hoại để mở rộng khu căn cứ của ta.
Đề xuất của ông đã được chấp thuận. Ngày 21/01/1950, Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn quyết định mở chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát và giao cho ông làm Tham mưu trưởng chiến dịch nhằm tiêu diệt các đoàn convoy, đồn Bến Súc, lực lượng tiếp viện của địch; phá đường sá, cầu; bao vây bức rút đồn, tháp canh Bến Cát, Suối Rứa, Cần Nôm, Ông Cộ, Xi Nô, Rạch Kiến, Xóm Bưng. Sở chỉ huy chiến dịch, lúc đầu đặt ở Thanh Tuyền và về cuối chuyển sang An Thành. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm một tiểu đoàn chủ lực của liên Trung đoàn 306-312, một tiểu đoàn chủ lực và một đại đội độc lập của liên Trung đoàn 301-310, một đại đội độc lập của huyện Bến Cát, lực lượng dân quân du kích hai huyện Hóc Môn, Gò Vấp và lực lượng công đoàn cao su đồn điền Dầu Tiếng. Chiến dịch thu được thắng lợi lớn, loại khỏi chiến đấu gần 100 tên địch, phá hủy 3 xe bọc thép, làm gián đoạn giao thông của địch trong khoảng thời gian dài, thậm chí, chúng còn phải sử dụng trực thăng tiếp tế cho đồn điền cao su Dầu Tiếng, quân ta phá cầu Bến Cát. Ngoài ra, riêng trong tháng 01/1950, lực lượng vũ trang nội thành Sài Gòn tổ chức 42 trận tác chiến đánh địch, 7 lần vũ trang tuyên truyền, loại khỏi vòng chiến đấu 81 tên địch, thiêu hủy 3 xe cơ giới, 6 tàu ghe, 600 vỏ xe hơi. Tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ đã khẳng định: “Chiến dịch Bến Cát đánh dấu một bước trưởng thành quan trọng của lực lượng vũ trang Quân khu 7, đưa phong trào kháng chiến của quân dân miền Đông Nam Bộ hòa nhập với cuộc kháng chiến trên chiến trường cả nước”1. Chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát và chiến dịch Cầu Kè, Trà Vinh (từ ngày 7 đến ngày 26/12/1949) là hai chiến dịch tiến công đầu tiên của lực lượng vũ trang Nam Bộ làm thay đổi cục diện chiến trường, từ chỗ ta bị động đối phó với các cuộc hành quân càn quét của địch sang chủ động tổ chức những trận tiến công quy mô chiến dịch. Tài năng quân sự của đồng chí Lê Đức Anh ngày càng được thực tiễn chiến trường khẳng định, sau chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát, ông được bổ nhiệm làm Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ.
Tháng 8/1950, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn giải thể để thành lập Đặc khu, gồm thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và một phần các huyện Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè, Trung Huyện, nhằm tăng cường lực lượng cho Khu 7, Xứ ủy điều đồng chí Lê Đức Anh về làm Tham mưu trưởng Khu 7.
Tháng 5/1951, Trung ương Cục quyết định phân chia lại chiến trường, giải thể ba khu 7, 8, 9, sáp nhập 20 tỉnh của Nam Bộ thành 11 tỉnh ghép, chia Nam Bộ thành hai phân liên khu và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Đồng chí Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Phân liên khu miền Đông Nam Bộ gồm 5 tỉnh Gia Ninh, Thủ Biên, Bà Lớn, Mỹ Tho, Long Châu Sa. Ông tiếp tục cùng với các đồng chí Trần Văn Trà, Phạm Hùng chỉ đạo quân và dân Phân liên khu miền Đông Nam Bộ đẩy mạnh hoạt động chống lại chính sách “bình định” của thực dân Pháp, xây dựng bộ đội chủ lực Khu và lực lượng du kích vũ trang.
Tháng 12/1952, đồng chí Lê Đức Anh được Xứ ủy Nam Bộ giao nhiệm vụ tổ chức một đoàn 12 cán bộ, trong đó có ông tham gia, do đồng chí Lê Duẩn làm trưởng đoàn xuất phát từ Nam Bộ ra Trung ương họp tại Việt Bắc, kết hợp với báo cáo kinh nghiệm đánh đồn, diệt tháp canh của địch trên chiến trường Nam Bộ. Khi qua Khu 6, Khu 5, đoàn để lại tổ ba người phổ biến kinh nghiệm và cùng bộ đội khu thực hành đánh đồn. Ngày 13/5/1953, đoàn công tác ra tới Tân Trào, được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham gia “Lớp chỉnh đảng” do đồng chí Lê Văn Lương phụ trách. Tháng 12/1953, Đoàn lên đường quay trở vào Nam Bộ. Đang trên đường vào Nam Bộ thì được tin trên chiến trường Tây Bắc diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ, quân và dân ta giành được toàn thắng trong chiến dịch lớn nhất này.
Như vậy, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng chí Lê Đức Anh lần lượt trải qua những cương vị từ Trung đội trưởng, Chính trị viên Tiểu đoàn, Chi đội, Trung đoàn, Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ, Tham mưu trưởng Phân liên khu miền Đông Nam Bộ. Ông chủ yếu hoạt động chỉ đạo, chỉ huy trên chiến trường miền Đông Nam Bộ - chiến trường chống thực dân Pháp cam go quyết liệt nhất ngay từ những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến. Đồng chí Lê Đức Anh đã chủ động tham mưu và trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh, chiến dịch mang lại hiệu suất cao, góp phần căng kéo, phân tán, tiêu hao, tiêu diệt một khối binh lực lớn quân đội viễn chinh Pháp trên chiến trường ba nước Đông Dương. Tài năng quân sự của ông ngày càng được khẳng định và được thực tiễn chiến tranh kiểm nghiệm. Chiến trường Nam Bộ trong những năm 1951 - 1954 dưới sự chỉ huy của cá nhân ông và tập thể Bộ Tư lệnh đã thực sự trở thành một chiến trường sôi động, chia lửa đắc lực với chiến trường chính Bắc Bộ mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi lẫy lừng năm châu chấn động địa cầu, góp phần đưa sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Việt Nam toàn thắng.
Có thể nói, đồng chí Lê Đức Anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên cương vị, chức trách mà Đảng, quân đội và nhân dân tin cậy giao cho ông. Những chiến công quan trọng về quân sự trên chiến trường miền Đông Nam Bộ những năm 1945 - 1954 mãi mãi ghi đậm dấu ấn của ông - một trí tuệ lớn mang tầm chiến lược.
Đại tá, TS. Nguyễn Văn Quyền
Tháng 4/1974, sau khi từ miền Bắc trở lại chiến trường miền Nam, đồng chí Lê Đức Anh được Đảng, Nhà nước thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng. Cũng trong thời gian này, đồng chí được Bộ Tư lệnh Miền phân công chỉ đạo xây dựng kế hoạch tác chiến mùa khô 1974 - 1975. Do yêu cầu về chiến lược, việc xây dựng kế hoạch tác chiến trên các địa bàn được tiến hành khẩn trương, chiến trường Đông Nam Bộ không nằm ngoài yêu cầu đó.
Tháng 10/1974, Nam Bộ dần chuyển sang mùa khô, các đơn vị chủ lực Miền kết thúc huấn luyện chỉ huy và chuyển sang tập trung luyện tập cho bộ đội đánh công kiên, bắt đầu thực hiện kế hoạch của các hướng. Trên hướng Tây Ninh, khi quân ta bao vây núi Bà Đen, tiến công các đồn bốt và phá ấp chiến lược và vùng ven thị xã Tây Ninh, quân địch ở đây
bỏ chạy. Lập tức, Sư đoàn 25 quân địch từ Củ Chi kéo lên Tây Ninh. Như vậy, bước đầu của kế hoạch đã được thực hiện suôn sẻ; ta đã nghi binh, thu hút, căng kéo lực lượng của địch trên chiến trường.
Do tầm quan trọng của hướng mở hành lang, Trung tướng Lê Đức Anh cùng cơ quan tham mưu xây dựng kế hoạch cụ thể, trình hội nghị Bộ Tư lệnh Miền và Trung ương Cục thông qua. Lúc này, tuyến đường Đông Trường Sơn, cả đường ô tô và đường ống xăng dầu đã mở tới Bù Đốp (Lộc Ninh). Phát huy ưu thế của tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn cho giai đoạn chiến lược quyết định, chủ lực Miền có nhiệm vụ tiến công các vị trí địch, mở rộng, hoàn chỉnh các vùng căn cứ, chuẩn bị cho các hướng (bắc, tây bắc, đông và tây Sài Gòn), thực hiện bao vây cô lập và ép Sài Gòn ngày càng chặt. Để hoàn thành kế hoạch tác chiến mùa khô, ngay từ đầu, chủ lực ta phải giải phóng Đường 14 từ Đồng Xoài lên đến giáp Quảng Đức để mở rộng căn cứ Miền về phía sau giáp Tây Nguyên và nối liền căn cứ Miền về phía đông Sài Gòn, tạo điều kiện mở đường và dự trữ vật chất, phương tiện kỹ thuật, hậu cần cho hướng này.
Tình hình chiến trường miền Nam từ nửa cuối năm 1974 chuyển biến nhanh chóng, ngày càng có lợi cho ta. Thế trận tiến công mới hình thành từ Bắc vào Nam, từ Trị - Thiên đến Tây Nguyên, Khu 5, miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Bộ đội chủ lực trên chiến trường được tổ chức tới cấp quân đoàn, gồm 16 sư đoàn bộ binh và các lữ đoàn, trung đoàn, binh chủng bố trí trên các địa bàn chiến lược. Hệ thống đường chiến lược, chiến dịch mở rộng và ngày hoàn chỉnh. Dự trữ vật chất trên các chiến trường tương đối lớn. Từ khi chuyển sang phản công, các lực lượng vũ trang ở miền Nam đã chặn đứng hoạt động bình định, lấn chiếm của địch, giành lại thế chủ động, củng cố bàn đạp tiến công trên các hướng chiến lược, tạo thế áp sát các thành phố, các căn cứ địch, các đường giao thông.
Về phía địch, đứng trước khó khăn do quân Mỹ rút ra và viện trợ của Mỹ giảm sút, đặc biệt là phải đương đầu với các chiến dịch, đợt hoạt động lớn của ta từ cuối năm 1973, quân đội Sài Gòn phải chuyển sang xây dựng, tổ chức và chiến đấu theo kiểu “con nhà nghèo”. Nạn đào ngũ, rã ngũ trong quân đội Sài Gòn ngày càng gia tăng. Các đơn vị chủ lực bị buộc phải phân tán, khả năng cơ động và chi viện hỏa lực giảm nhiều so với năm 1972. Từ hành quân lấn chiếm quy mô lớn, những tháng cuối năm 1974, quân đội Sài Gòn buộc phải lui về phòng ngự, chỉ tổ chức được những cuộc hành quân lùng sục nhỏ.
Ngày 30/9/1974, tại Hà Nội, Bộ Chính trị họp bàn kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976. Bộ Chính trị nhận định: Mỹ đã rút thì việc quay lại không phải dễ. Dù Mỹ có can thiệp trở lại trong chừng mực nào thì chúng cũng không xoay chuyển được tình thế. Các thế lực xâm lược bành trướng đều có âm mưu rất nguy hiểm đối với Việt Nam và khu vực Đông Nam Á, nhưng lúc này chưa sẵn sàng. Đây là thời cơ thuận lợi để quân và dân ta mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến bước cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất nước nhà”.
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trên khắp chiến trường miền Nam, quân và dân ta đẩy mạnh hoạt động, tiếp tục tạo thế, tạo lực cho cuộc tiến công chiến lược. Tình thế chiến lược tạo thời cơ để bộ đội chủ lực mở những chiến dịch hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, tiến công các vị trí, địa bàn trọng yếu, giành thắng lợi quyết định. Trên chiến trường Đông Nam Bộ, Bộ Tư lệnh Miền quyết tâm giải quyết mục tiêu Đường 14 càng sớm càng tốt. Trên cơ sở đề xuất của cơ quan tham mưu, Bộ Tư lệnh Miền đã trao đổi, thảo luận và thống nhất nhận định: Hiện nay ở Đông Nam Bộ, địch tập trung phòng thủ vững chắc ở Sài Gòn, cố thủ những nơi đã chiếm đóng sâu trong vùng giải phóng như An Lộc, Chơn Thành, Phước Long làm bàn đạp đánh phá hậu phương ta. Do vậy, muốn giải phóng Đường 14, ta phải diệt cho được mục tiêu Đồng Xoài vì đây là vị trí then chốt của tỉnh Phước Long... Khi ta làm chủ Đồng Xoài, địch ở tỉnh lỵ Phước Long sẽ lập tức rơi vào trạng thái bị cô lập. Đến đây, ta chỉ cần bao vây lại đó, quân địch ở đây sẽ không còn tác dụng gì nữa. Đạt được những điều này không những sẽ làm cho căn cứ hậu phương của ta hoàn chỉnh mà còn tạo ra được một tác động tâm lý và chính trị rất có lợi cho ta.
Từ nhận định đó, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền quyết định sử dụng Quân đoàn 4 mở chiến dịch ở khu vực Đường số 14 - Phước Long. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, mở rộng đầu cầu tuyến hành lang chiến lược, tạo điều kiện đưa lực lượng vào vùng trung tuyến.
Giữa tháng 11/1974, đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục và đồng chí Trần Văn Trà, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Miền ra miền Bắc. Đồng chí Võ Văn Kiệt được giao phụ trách Trung ương Cục, đồng chí Lê Đức Anh được giao phụ trách Tư lệnh Bộ Tư lệnh Miền. Giữ trọng trách trong thời điểm mở chiến dịch, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Bộ Tư lệnh Chiến dịch gấp rút triển khai chuẩn bị mọi mặt. Về lực lượng tham gia chiến dịch gồm Quân đoàn 4 (2 sư đoàn bộ binh 7, 9), Sư đoàn Bộ binh 3 (chủ lực Miền), Trung đoàn Đặc công 429, 1 trung đoàn pháo binh, 3 tiểu đoàn pháo phòng không, 20 xe tăng, xe thiết giáp, 1 trung đoàn công binh, 2 tiểu đoàn địa phương Bình Long, Phước Long và lực lượng địa phương các huyện, xã trên địa bàn.
Trong thời gian chuẩn bị, đồng chí Lê Đức Anh nhất trí với chủ trương của Bộ Tư lệnh chiến dịch là duy trì hoạt động của Sư đoàn 9 và một bộ phận của Sư đoàn 7 ở Đường 7 và Đường 16 - Tân Uyên để giữ bí mật và tiếp tục tạo thế chiến dịch. Bộ Tư lệnh chiến dịch lúc đầu dự kiến chọn Đồng Xoài là hướng chủ yếu, Bù Đăng là hướng thứ yếu; tiến công bằng phương thức hiệp đồng binh chủng, có xe tăng và pháo 130mm chi viện. Nhưng sau đó, chấp hành chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu là chưa đánh Đồng Xoài và chưa được sử dụng xe tăng, pháo 130mm để giữ bí mật lực lượng, tiết kiệm đạn pháo lớn cho các đợt tiến công sau và để thăm dò từng bước phản ứng của địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch xác định lại quyết tâm: Sử dụng Sư đoàn 3 (thiếu), Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7), 1 tiểu đoàn đặc công tiến công trên hướng chủ yếu Bù Đăng; 2 tiểu đoàn bộ binh (Sư đoàn 7) và 2 tiểu đoàn đặc công tiến công trên hướng thứ yếu Bù Na; hướng phối hợp là chi khu Bù Đốp do đặc công tỉnh Bình Phước đảm nhiệm.
Là người chịu trách nhiệm cao nhất về lãnh đạo, chỉ huy quân sự, trước những tình huống khó khăn đặt ra trong Chiến dịch, đồng chí Lê Đức Anh trăn trở, suy đi tính lại để tìm phương án tối ưu. Sau đợt tiến công đầu tiên giành thắng lợi nhanh chóng (14/12 - 17/12), quân ta chiếm giữ Bù Đăng, cắt Đường 14 ở cây số 19, đồng thời diệt 17 đồn bốt của địch từ Bù Na đến Liễu Đức. Lực lượng địch tại các đồn bốt dồn về chi khu Đồng Xoài. Thắng lợi bước đầu mở ra thời cơ thuận lợi để đánh chiếm Đồng Xoài, đồng chí Lê Đức Anh điện báo cáo và xin ý kiến Bộ Tổng Tư lệnh: “Trên Đường số 14, ta giải phóng hoàn toàn đoạn từ cầu 11 gần Đồng Xoài, đến khỏi Bù Đăng giáp ranh giới chi khu Kiến Đức... Ở Bù Đăng, Vĩnh Thiện, Bù Na, ta thu được bốn khẩu pháo và 7.000 đạn pháo, trên 3.000 súng các loại, bắt 300 tù binh. Sẽ tiếp tục truy lùng...”.
Được sự đồng ý của Bộ Tổng Tư lệnh, đồng chí Lê Đức Anh triệu tập đồng chí Hoàng Cầm, Tư lệnh Quân đoàn 4 đến Sở Chỉ huy Bộ Tư lệnh Miền, thông báo cho đồng chí Hoàng Cầm về chủ trương của Bộ Tổng Tư lệnh, đồng ý cho Quân đoàn đánh Đồng Xoài; trao đổi rất kỹ về kế hoạch bước hai của chiến dịch, tiến công giải quyết dứt điểm cụm cứ điểm Đồng Xoài. Các bước tiếp sau hoặc song song với tiến công Phước Long cũng được tính tới, trong đó đặt ra yêu cầu về tăng pháo cỡ lớn yểm trợ và sử dụng Sư đoàn 9 tham gia chiến đấu.
Theo nhiệm vụ được giao và thực hiện ý định của trên, hai ngày 23 và 24/12/1974, Quân đoàn 4 lệnh cho Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) được tăng cường một tiểu đoàn đặc công (Trung đoàn 429), ba khẩu pháo 105 ly, một khẩu 120 mm, một khẩu pháo 85 mm và một tiểu đoàn pháo cao xạ hiệp đồng tiến công đánh chiếm, làm chủ các chi khu Bù Đốp (còn gọi là Bù Đốp lưu vong), đồn Phước Tín, Phước Trù, Phước Quả.
Khi quân địch bị thu hút về hướng Bù Đốp đúng như ý định của ta, đồng chí Lê Đức Anh lệnh cho Quân đoàn 4 lập tức triển khai lực lượng tiêu diệt căn cứ chi khu Đồng Xoài. Nhiệm vụ đánh Đồng Xoài do Sư đoàn 7 đảm nhiệm, hướng tiến công chủ yếu giao cho Trung đoàn 141. Vào 5 giờ 37 phút ngày 26/12, quân ta nổ súng tiến công Đồng Xoài; đến 15 giờ, ta làm chủ hoàn toàn chi khu Đồng Xoài. Sau 4 ngày chiến đấu, ta diệt 2 chi khu, nhiều đồn bốt, đánh tan 2 tiểu đoàn địch, thu nhiều vũ khí (có 3 nghìn đạn pháo), giải phóng hoàn toàn Đường 14, Đường 311 đến sát chân núi Bà Rá.
Trước tình hình chiến dịch phát triển thuận lợi, địch phản ứng yếu ớt, Bộ Tư lệnh Miền họp phân công các đồng chí Lê Đức Anh, Năm Ngà và Lê Văn Tưởng, mỗi đồng chí phụ trách theo dõi, chỉ đạo một hướng tiến công trong Đợt 3 chiến dịch. Trên thực tế, mọi hành động của chiến dịch phải phục tùng ý đồ chiến lược. Bước đi của Chiến dịch Đường 14 - Phước Long là sau Bù Đăng thấy rõ điều kiện dứt điểm Đồng Xoài, sau Đồng Xoài thấy rõ khả năng giải phóng thị xã Phước Long đã chín muồi. Qua điện trao đổi giữa Bộ Tư lệnh Miền với Bộ Tổng Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng và đồng chí Trần Văn Trà đang dự Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng ngoài Hà Nội vẫn dành thời gian theo sát diễn biến chiến dịch, trao đổi với các đồng chí trong Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tham mưu về những chủ trương, biện pháp để xử lý các dữ kiện phát triển của tình hình.
Ngày 27/12, sau khi nhận điện của đồng chí Trần Văn Trà thông báo ý kiến của đồng chí Lê Duẩn và các đồng chí trong Thường trực Quân ủy Trung ương đồng ý để B2 được dùng tăng và pháo 130mm vào trận đánh thị xã Phước Long, đồng chí Lê Đức Anh điện chỉ đạo đồng chí Hoàng Cầm: “Bộ thông báo có khả năng địch điều động 1 - 2 lữ dù về Quân đoàn 3. Anh Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng chỉ thị ta phải tranh thủ thời cơ địch đang hoang mang và lực lượng tổng dự bị chưa về tới, phát triển nhanh chóng vây ép A1 (thị xã Phước Long), đồng thời có kế hoạch tiêu diệt quân viện lên B1 (Đồng Xoài) và A1”.
Rạng sáng 31/12/1974, Quân đoàn 4 được tăng cường Trung đoàn 16, hai tiểu đoàn pháo cao xạ, nổ súng tiến công thị xã Phước Long. Bộ đội ta xung phong đánh chiếm hệ thống công sự bảo vệ vòng ngoài, diệt chi khu Phước Bình, chiếm núi Bà Rá. Địch tập trung lực lượng, ngoan cố chặn các đường tiến công vào thị xã. Máy bay địch ném bom, bắn phá vào đội hình quân ta. Quân đoàn 4 quyết định dùng pháo bắn mạnh vào các mục tiêu trong thị xã; đồng thời dùng hỏa lực phòng không đánh trả máy bay địch. Bỏ qua các ổ đề kháng vòng ngoài, các mũi thọc sâu nhanh chóng đột phá, đánh chiếm các mục tiêu quan trọng. Đến 19 giờ ngày 06/01/1975, quân ta giải phóng toàn bộ thị xã Phước Long.
Trải qua 24 ngày đêm chiến đấu, Chiến dịch Đường 14 - Phước Long đã kết thúc thắng lợi. Kết quả, quân ta tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch ở Phước Long (diệt 1.160, bắt 2.146 quân địch, 1 nghìn ra trình diện), bắn rơi và phá huỷ 15 máy bay, 4 pháo 155mm, 3 xe thiết giáp; thu 3.125 súng các loại, 2 máy bay C-113, 100 xe quân sự, hơn 10 nghìn đạn pháo; giải phóng toàn tỉnh Phước Long với hơn 50 nghìn dân; tạo ra địa bàn chiến lược quan trọng uy hiếp trực tiếp phía đông Đường 13 và hệ thống phòng thủ của địch trên hướng Bắc Sài Gòn.
Chiến dịch Đường 14 - Phước Long giành thắng lợi mang ý nghĩa “một đòn trinh sát chiến lược”. Là tỉnh đầu tiên ở miền Nam được giải phóng. Vùng căn cứ của ta ở Đông Nam Bộ được mở rộng, tạo thế liên hoàn, vững chắc. Chiến thắng Phước Long cho thấy sự suy yếu của quân đội Sài Gòn và khả năng phản ứng rất hạn chế của Mỹ, tạo thêm cơ sở để Hội nghị Bộ Chính trị (18/12/1974 - 08/01/1975) khẳng định quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam.
Trong suốt Chiến dịch, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh luôn theo sát và có sự chỉ đạo kịp thời. Trên cơ sở Bộ Tư lệnh Miền dưới sự điều hành của đồng chí Lê Đức Anh đã xây dựng kế hoạch chính xác, thể hiện ở việc chọn khu vực và hướng tiến công, đánh vào điểm tương đối yếu, sơ hở trong hệ thống phòng thủ của quân đội Sài Gòn. Thắng lợi trên đã đánh dấu bước trưởng thành của bộ đội chủ lực ta. Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã nắm vững ý định của cấp trên, chớp thời cơ, kiên quyết phát triển tiến công, giành thắng lợi lớn so với dự kiến; đồng thời, sử dụng cách đánh chiến dịch và các hình thức chiến thuật phù hợp khi đánh địch phòng ngự.
Thượng tá, ThS. Lê Quang Lạng
Khi tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari xâm lược Việt Nam ở biên giới Tây Nam, chấp hành Chỉ thị của Quân ủy Trung ương “kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của nước ta, không dung thứ bất cứ sự xâm lấn nào”, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 7 đã hạ quyết tâm “chiến đấu bảo vệ toàn vẹn tuyến biên giới quân khu, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, các cơ sở sản xuất, kho tàng”. Tháng 6/1978, Trung tướng Lê Đức Anh được Trung ương Đảng bổ nhiệm làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, nhận thấy lực lượng vũ trang Quân khu được củng cố và tăng cường, hậu phương và hậu cần - kỹ thuật ổn định, các địa phương chi viện cho phía trước tốt..., trên cương vị mới của mình cùng với nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy chiến đấu, Tư lệnh Lê Đức Anh đã chỉ đạo công tác bảo đảm hậu cần - kỹ thuật đáp ứng yêu cầu tác chiến bảo vệ biên giới Tây Nam (giai đoạn 6/1978 - 01/1979). Những chỉ đạo kịp thời, sáng tạo của đồng chí được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau:
Chỉ đạo việc xây dựng, bố trí lực lượng hậu cần - kỹ thuật quân sự cho tác chiến bảo vệ biên giới Tây Nam
Trong điều kiện lực lượng chuyên môn hậu cần - kỹ thuật thiếu; lương thực, thực phẩm khó khăn, lượng dự trữ chưa nhiều, để bảo đảm cho lực lượng vũ trang Quân khu tác chiến bảo vệ biên giới Tây Nam, sau khi nhận nhiệm vụ tại Quân khu 7, trên cương vị là Chính ủy Quân khu, đồng chí Lê Đức Anh cùng với Đảng ủy Quân khu ra Nghị quyết nêu rõ: “Kiện toàn tổ chức hậu cần từ Quân khu đến các đơn vị, cơ sở, phối hợp với các ngành của tỉnh và thành phố, xây dựng mạng lưới hậu cần và bảo đảm kỹ thuật ở địa phương, bảo đảm nhiệm vụ xây dựng, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang và chi viện mặt trận biên giới”. Công tác kỹ thuật được Tư lệnh Lê Đức Anh giao nhiệm vụ cụ thể là: “Nhanh chóng củng cố cơ quan quản lý các cấp, ra sức củng cố hệ thống kho xưởng nhất là xưởng tổng hợp, xưởng sửa chữa vũ khí, tổ chức đầy đủ các trạm sửa chữa ở các đơn vị trực tiếp chiến đấu và các trạm sửa chữa của các tỉnh, thành, đồng thời quy hoạch các kho vũ khí kể cả ở tiền phương và ở phía sau”.
Do quân số tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu của Quân khu phát triển rất nhanh, nhất là bộ đội địa phương ở các tỉnh, huyện giáp biên giới với Campuchia nên việc tổ chức xây dựng lực lượng hậu cần - kỹ thuật cũng gấp rút được tăng cường, mở rộng. Bộ Tư lệnh và Tư lệnh Lê Đức Anh chỉ đạo thành lập các tiểu đoàn vận tải ô tô, bệnh viện, đội điều trị; thành lập trạm sản xuất vũ khí ở các xưởng của Quân khu và các tỉnh, thành, đồng thời, chỉ đạo Cục Hậu cần Quân khu tiếp nhận giúp đỡ của Cục Quân nhu Tổng cục Hậu cần tổ chức 3 trạm chế biến thực phẩm tại Tây Ninh, trục đường số 1 - Xa Mát để tiếp nhận thịt lợn, cá, rau từ phía sau và chế biến đậu phụ cung cấp cho các bếp ăn của bộ đội tuyến biên giới. Ngoài ra, Bộ Tư lệnh chỉ đạo các cơ quan Quân khu khẩn trương điều động cán bộ, vật chất, phương tiện kỹ thuật thuộc các đoàn hậu cần Miền giải thể về các phân đội hậu cần - kỹ thuật của tỉnh, huyện; các trung đoàn, tiểu đoàn bộ đội địa phương mới thành lập, giải quyết được một phần thiếu lực lượng ở cơ sở.
Để tiến hành công tác bảo đảm hậu cần - kỹ thuật đạt hiệu quả cao nhất cho lực lượng vũ trang tác chiến ở biên giới Tây Nam, Tư lệnh Lê Đức Anh chỉ đạo Đại tá Võ Văn Lân, Chủ nhiệm Hậu cần Quân khu 7 triển khai những căn cứ (bộ phận) để kịp thời bảo đảm vật chất, vũ khí trang bị cho các đơn vị chiến đấu: Trên hướng đường số 13, có căn cứ Lộc Ninh, gồm cụm kho tổng hợp, Bệnh viện dã chiến 7C, Đội điều trị cơ động Tiền phương. Trên hướng đường số 22, đi theo Sở chỉ huy Quân khu có Căn cứ 1, gồm kho cơ động ở suối Nước Trong, Bệnh viện dã chiến 7A tại Cần Khởi (phía tây bắc tỉnh Tây Ninh). Bộ phận cơ bản của Cục Hậu cần có Bệnh viện 7A ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện 7B ở Biên Hòa và Bệnh viện 7C ở Thủ Đức. Kho vũ khí trang bị có kho phía trước ở Hoa Lư, Lộc Ninh (Sông Bé), Tha La và Bến Cầu (Tây Ninh). Đến giai đoạn 2 tổ chức thêm Kho Xóm Bưng (sau dời lên Hoa Lư), sử dụng kho Cẩm Giàng của Tây Ninh, kho ở Long An và Minh Hoà của Quân khu làm kho trung chuyển; các kho Đồng Dù và Suối Nhạn là kho cơ bản. Tổ chức các đội sửa chữa từ các xưởng Z77, Z78 và C9 tăng cường cho Sư đoàn 5 và Sư đoàn 7; tổ chức Đội sửa chữa cơ động ôtô Z73, Đội sửa chữa súng pháo OX1; Đội cứu kéo đứng chân ở Lộc Ninh, Sông Bé. Trong tháng 10/1978, Bộ Tư lệnh chỉ đạo phải triển khai xây dựng xong Kho quân khí Tiền phương ở Tây Ninh có sức chứa 800 đến 1.000 tấn; ở Sông Bé, phát triển kho từ 300 tấn lên 1.000 tấn; ngay trong mùa khô 1978 - 1979 phải thành lập Trạm sửa chữa dự bị Z82 và Đội 5 vận tải thủy.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, dưới sự chỉ đạo của Tư lệnh Lê Đức Anh, lực lượng hậu cần - kỹ thuật đã nhanh chóng xây dựng thêm một số phân đội và hình thành thế bố trí khá vững chắc, đáp ứng kịp thời yêu cầu của tác chiến từ những ngày đầu cho đến khi đánh địch ra khỏi biên giới Tây Nam.
Chỉ đạo thực hiện công tác chuẩn bị vật chất hậu cần, vũ khí, trang bị kỹ thuật cho tác chiến bảo vệ biên giới Tây Nam
Để công tác chuẩn bị hậu cần - kỹ thuật cho tác chiến bảo vệ biên giới Tây Nam đạt hiệu quả tốt, Nghị quyết của Đảng ủy Quân khu đã yêu cầu: “Khai thác, tận dụng mọi khả năng vật tư, trang bị của Nhà nước phân phối và bản thân đơn vị, đẩy mạnh sản xuất, nhất là lương thực, thực phẩm... chuẩn bị một bước cho kế hoạch phòng thủ đất nước một cách cơ bản, vững chắc”.
Thực hiện Nghị quyết, Bộ Tư lệnh, Tư lệnh Quân khu Lê Đức Anh chỉ đạo Cục Hậu cần bám sát nhiệm vụ tác chiến, huy động mọi khả năng vật chất của quân đội, của Nhà nước và địa phương tại chỗ. Chỉ đạo các đơn vị tiếp nhận của Tổng cục Hậu cần bổ sung lượng vật chất sẵn sàng chiến đấu, gồm 10.000 suất lương thực, thực phẩm và 10.000 suất quân trang chiến đấu. Bộ Tư lệnh chỉ đạo quân nhu tìm mọi biện pháp bảo đảm ưu tiên cho bộ đội được ăn 100% gạo; cấp đủ 20g dầu mỡ, 1,5g mì chính, 50g thực phẩm khô/người/ngày. Ngoài ra, thường xuyên có 15 ngày lương khô, gạo sấy; hàng tuần cung cấp từ 1 đến 2 lần chất tươi gồm 100g thịt, cá tươi và 200g rau xanh, bầu, bí; bảo đảm đủ mỗi người 2 bộ quân phục dài, 2 bộ quần áo lót, 1 áo trấn thủ cùng tăng, võng, tấm đắp, bình tông, túi gạo, túi cơm. Đồng thời, chỉ đạo Trạm chế biến cá của Quân khu hợp đồng với Trạm thực phẩm Khu vực 5 của Tổng cục Hậu cần để cung cấp nước đá và điều hòa lượng cá giữa các trạm.
Để huy động địa phương tại chỗ, trong quá trình chuẩn bị chiến đấu, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ đạo tận dụng mọi phương tiện vận chuyển sẵn có và huy động tại chỗ để phục vụ... Tính đến hết tháng 9/1978, toàn Quân khu đã huy động 116.211 lượt người với 1.193.075 ngày công. Vật tư phương tiện đã huy động trên 1 triệu lít xăng dầu, hàng vạn lít nhớt (dầu bôi trơn), hàng trăm tấn xi măng, sắt thép; hàng vạn chuyến ô tô vận tải, máy ủi và máy xúc. Quân khu và Thành phố Hồ Chí Minh động viên trên 1.000 người làm căn cứ, góp 1 triệu ngày công; vận chuyển được 20.000 tấn đạn, 30.000 tấn nhu yếu phẩm, 100.000 tấn gạo.
Quá trình chuẩn bị lực lượng kỹ thuật, Đảng ủy, Chính ủy Quân khu Lê Đức Anh yêu cầu “Phải nỗ lực bảo đảm trang bị kỹ thuật cho sẵn sàng chiến đấu, đủ biên chế, có chất lượng, đồng bộ, có dự trữ. Trước mắt lo bảo đảm hoàn chỉnh cho lực lượng chiến đấu về vũ khí, khí tài, trang bị xe, máy...”. Chấp hành sự chỉ đạo, trong một thời gian ngắn ngành Kỹ thuật Quân khu đã bảo đảm đủ vũ khí trang bị các loại: Xưởng OX1 sản xuất cung cấp 51.000 quả mìn; lực lượng ô tô tham gia chiến đấu đến tháng 01/1979 là 1.200 xe; bảo đảm 107 xe tăng thiết giáp (có 53 xe tăng), tăng cường Đại đội thiết giáp cho tỉnh đội Long An; bảo đảm kỹ thuật 250 khẩu pháo (có 126 khẩu pháo phòng không).
Thực hiện Nghị quyết của Đảng ủy Quân khu lãnh đạo “Bảo đảm vũ khí trang bị kịp thời cho chiến đấu; nắm chắc thực lực, phương tiện...; đẩy mạnh hơn nữa công tác sửa chữa các xưởng, tổ chức các trạm sửa chữa...”, Cục Hậu cần trong Sở Chỉ huy Tiền phương được sự chỉ đạo của Tư lệnh Lê Đức Anh đã giao nhiệm vụ cho các xưởng của Quân khu hợp đồng với các đội sửa chữa cơ động của Bộ, các trạm sửa chữa của các sư đoàn 5, 302, 303 và các đội sửa chữa của các trung đoàn kỹ thuật binh chủng để thống nhất chỉ huy bảo đảm kỹ thuật, bố trí đội hình, vị trí đóng quân của từng xưởng, trạm, kho ở cự ly thích hợp; đồng thời kịp thời triển khai công tác bảo đảm kỹ thuật ở giai đoạn đầu và giai đoạn tiếp theo của chiến dịch. Quy định hư hỏng nhẹ các trạm ở từng đơn vị tự khắc phục, hư hỏng vừa do các trạm của sư đoàn, trung đoàn và các xưởng tiền phương đảm nhiệm. Tất cả các xe - máy, vũ khí, khí tài hư hỏng nặng không khắc phục được, kéo về các xưởng ở hậu phương sửa chữa; các kho vũ khí đạn luôn bảo đảm cơ số, sẵn sàng cấp đúng, đủ, đồng bộ cho các đơn vị.
Chỉ đạo thực hiện công tác bảo đảm hậu cần - kỹ thuật quân sự trong quá trình tác chiến bảo vệ biên giới Tây Nam
Trong quá trình tác chiến bảo vệ biên giới Tây Nam, Tư lệnh Lê Đức Anh cùng Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu xác định “tập trung nỗ lực cao nhất, góp phần tích cực nhất giành thắng lợi quyết định”. Đảng ủy, Tư lệnh Quân khu Lê Đức Anh đã lãnh đạo, chỉ đạo Cục Hậu cần cử nhiều cán bộ thuộc các chuyên ngành tham mưu hậu cần, quân nhu, quân y, vận tải, quân khí, xe máy... xuống các mũi, các hướng tác chiến để trực tiếp chỉ đạo, giúp đỡ các đơn vị triển khai công tác bảo đảm. Do phạm vi bảo đảm mở ra rất nhanh cả chính diện và chiều sâu nên lực lượng hậu cần - kỹ thuật quân sự các cấp luôn bám sát đội hình chiến đấu của bộ đội để phục vụ.
Quá trình chiến đấu bảo vệ biên giới, các đơn vị phía sau chi viện cho phía trước được hàng nghìn tấn lương thực, thực phẩm bằng nguồn tăng gia sản xuất được và thu mua ở hậu phương nên mức ăn của bộ đội chiến đấu ở phía trước bảo đảm mỗi người/ngày được từ 730 đến 740g gạo, từ 50 đến 60g thịt, cá, mỡ; nhiệt lượng bình quân đạt từ 2.600 đến 2.700 kcal; bộ đội chiến đấu hầu hết được ăn hai nóng, một nguội, ngày nào cũng có thịt, cá và có 1 bữa canh, rau tươi; uống nước đun sôi và dự trữ bi đông nước mang theo; lượng dự trữ lương thực, thực phẩm thường xuyên ở đơn vị có từ 15 đến 20 ngày, ở phía sau từ 2 đến 5 ngày. Thực hiện chỉ đạo của Tư lệnh Lê Đức Anh, toàn bộ lương thực, thực phẩm đưa từ Việt Nam sang được lực lượng quân nhu các cấp luôn bám sát đội hình chiến đấu, kịp thời tiếp tế bổ sung. Trong chiến đấu bộ đội phải di chuyển liên tục, tổ chức bảo đảm quân nhu gặp rất nhiều khó khăn nhưng hàng tháng bình quân mỗi chiến sĩ vẫn được 1 hộp sữa, 0,5kg đường, 5 gói mì tôm; cán bộ 2 hộp sữa, 1kg đường và 10 gói mì tôm; quân trang được cấp đầy đủ, bình quân 2,8 bộ quần áo/người.
Trong suốt quá trình chiến đấu bảo vệ biên giới, quân y Quân khu bảo đảm cho bộ đội thường xuyên được uống thuốc phòng chống sốt rét, tiêm phòng các loại dịch, kết hợp với phun DDT, nằm màn chống muỗi; theo dõi, xử lý kịp thời tình hình bệnh dịch nên không để xảy ra vụ dịch nào đáng kể, tỷ lệ quân số khỏe đạt bình quân 97%. Để kịp thời cứu chữa thương, bệnh binh (tổng số thương vong 39.106 người), Tư lệnh Lê Đức Anh chỉ đạo Cục Hậu cần huy động sử dụng 14 bệnh viện phía sau, 4 bệnh viện dã chiến, 14 đội điều trị và một số đội phẫu thuật. Đồng thời chỉ đạo sử dụng tất cả các phương thức vận chuyển thương, bệnh binh bằng đường bộ, đường sông, đường không, đường biển; số thương binh nặng được chuyển bằng máy bay về các bệnh viện hậu phương của Quân khu và Tổng cục Hậu cần.
Tuy thời gian tác chiến diễn biến nhanh, nhưng do thực hiện chỉ đạo kịp thời của Tư lệnh Lê Đức Anh về nhiệm vụ bảo đảm đạn dược nên trong quá trình chiến dịch, chiến đấu, các xe chở đạn đi theo từng hướng, từng đơn vị luôn bổ sung kịp thời đủ các cơ số đạn cho từng chủng loại vũ khí bị tiêu hao (số đạn tiêu thụ đến ngày 08/02/1979 là 1.242,1 tấn). Các đơn vị tham gia chiến đấu thu được 141.391 tấn vũ khí, 62.168 tấn đạn 2.189 tấn chất nổ; có đơn vị thu cao như Sư đoàn 303 thu được 81 tấn, Sư đoàn 302 thu được 80 tấn. Tính riêng từ ngày 10/6 đến ngày 30/7/1978 đã thu được 369 súng (có 1 cối 120mm), 23,6 tấn đạn, chất nổ; phá hủy 100 súng, 2 kho đạn với 10 tấn. Lượng vũ khí, đạn dược chiến lợi phẩm này được tổ chức thu gom, bảo quản, phân loại và sử dụng một phần để đánh địch. Lực lượng kỹ thuật Quân khu bố trí cho các đơn vị ở tuyến trước cứ 1 xe có 1,5 lái, 3 xe có 1 thợ, đội hình tiếp theo cứ 1 xe có 1,2 lái, từ 30 đến 35 xe có tổ thợ 3 người. Đội sửa chữa Z78 và Đội cứu kéo C9 bám sát đội hình Sư đoàn 5. Hỗ trợ cho các đơn vị tiến quân còn có Xưởng Z77 và 2 đội sửa chữa cơ động của xưởng Z73 và Z75. Trong thời gian tác chiến, các xưởng và các trạm đã bảo dưỡng được 539 xe và sửa chữa nhỏ hàng trăm lượt xe. Trong chiến đấu, Sư đoàn 302 được tăng cường 50 xe cùng với số xe trong biên chế hành quân vượt sông Mê Kông đánh chiếm thị xã Xàmrông, tỉnh Ốtđômiênchay với quãng đường đến 800 km. Xe tăng, xe thiết giáp được bảo đảm đủ số lượng và tình trạng kỹ thuật tốt chi viện cho các đơn vị; có 42 xe tăng và xe thiết giáp bị hỏng, lực lượng kỹ thuật đã khắc phục, sửa chữa được 32 xe để kịp thời tham gia đội hình chiến đấu.
Từ giữa năm 1978 đến đầu năm 1979, quân và dân ta kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới Tây Nam. Đây là lần đầu tiên lực lượng vũ trang Quân khu 7 thực hiện công tác bảo đảm cho chiến đấu với nhiều vật chất hậu cần, binh khí kỹ thuật và lượng tiêu thụ rất lớn. Nhiệm vụ bảo đảm hậu cần - kỹ thuật là hết sức nặng nề, khó khăn, phức tạp, nhưng trong suốt quá trình thực hiện, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu Trung tướng Lê Đức Anh đã cùng Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 chỉ đạo công tác hậu cần - kỹ thuật luôn bám sát nhiệm vụ quân sự, ra sức khắc phục khó khăn, vượt qua gian khổ, hy sinh, tự lực tự cường, mưu trí sáng tạo, tổ chức bảo đảm đầy đủ, kịp thời thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam Tổ quốc.
Đại tá, ThS. Ngô Nhật Dương
Sau ngày đất nước Campuchia được giải phóng (07/01/1979), Chính phủ hai nước Việt Nam - Campuchia ký Hiệp ước hòa bình, hữu nghị, hợp tác toàn diện, cam kết ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt, bằng mọi hình thức cần thiết nhằm tăng cường khả năng bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và công cuộc lao động hòa bình của nhân dân mỗi nước. Trên tinh thần “giúp nhân dân nước bạn là tự mình giúp mình”, Đảng và Nhà nước ta đã điều động một lực lượng lớn cán bộ các cấp sang làm chuyên gia giúp bạn. Đến cuối năm 1980, ta đã có 22 đoàn chuyên gia trung ương, 20 đoàn chuyên gia tỉnh, thành phố sang giúp bạn. Để thống nhất lãnh đạo, chỉ huy, nâng cao hiệu suất chiến đấu và công tác của các lực lượng Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, ngày 18/5/1981, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 36/QUTW về tổ chức quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia và thành lập Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia (phiên hiệu Bộ Tư lệnh 719) do đồng chí Lê Đức Anh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện và đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam giúp bạn.
Để giúp bạn truy quét tàn quân địch, Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam - Lê Đức Anh chỉ đạo các lực lượng: Ta giúp bạn phát động phong trào toàn dân đánh địch, địch vận, tiêu diệt và làm tan rã, suy yếu địch, đánh bại âm mưu giành dân, mở rộng chiến tranh du kích của chúng. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân cùng chính quyền và các tổ chức cách mạng, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Ta sử dụng phương thức tổng hợp vừa đánh địch ngoài rừng, vừa phát động quần chúng bóc ngầm, kêu gọi người lầm đường về với cách mạng; vừa giáo dục quần chúng thực hiện “3 không, 1 báo”, vừa giúp dân sản xuất, ổn định đời sống.
Thực hiện chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, những năm 1981 - 1983, Bộ Tư lệnh Mặt trận 779 lãnh đạo chỉ huy đơn vị tổ chức đánh địch ở các trọng điểm như: căn cứ quân khu trung tâm, căn cứ Sư đoàn 920, Sư đoàn 616 ở Môn Đôn Ky Ri, núi Chi, phía đông tây sông Sen, sông Sa Tông, sông Chi Nít, ven Biển Hồ... Mặt trận còn tổ chức các lực lượng chuyên trách đánh đường dây hành lang vận chuyển, hành quân của địch với lực lượng vừa và nhỏ, trang bị gọn nhẹ bằng nhiều hình thức chiến thuật: tập kích, phục kích tiêu diệt... khi có điều kiện thì tập trung lực lượng cấp trung đoàn tiến công tiêu diệt địch. Hoạt động của lực lượng tập trung đánh địch ngoài địa hình thường xuyên gắn liền với những hoạt động tổng hợp của quần chúng, phát động mạnh mẽ phong trào toàn dân đánh giặc: phát quang địa hình, xây dựng làng, xã chiến đấu, gắn chiến đấu bên ngoài với bên trong, tác chiến với xây dựng. Từ đó, ta tiêu diệt các toán địch bu bám ven các phum, căn cứ lõm gần dân, bóc gỡ địch ngầm, đẩy mạnh 3 phong trào cách mạng ở cơ sở gắn liền với kèm cặp giúp bạn trưởng thành. Tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn 5 tỉnh Kam Pong Thom, Kam Pong Cham, Svay Rieng, Prey Veng, Cro Che ngày càng được củng cố. Ở Prey Veng và Svay Rieng, hoạt động vũ trang của địch hầu như không xuất hiện. Tình hình phía đông sông Mê Kông ngày càng ổn định, phía tây sông Mê Kông tuy còn phức tạp nhưng có chiều hướng phát triển tốt.
Ngày 08/6/1982, Bộ Chính trị ra Quyết định số 132-QĐ/TW về việc thành lập Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia tại Campuchia thay cho Ban Phụ trách công tác Campuchia. Đồng chí Lê Đức Anh đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban. Nhằm giúp bạn xây dựng thực lực cách mạng mạnh lên, đủ sức đứng vững, tự đảm nhiệm toàn diện được một số địa bàn, đồng chí Lê Đức Anh đã họp bàn với Ban Cán sự 719 và ra Nghị quyết số 15A, ngày 08/2/1981. Nghị quyết nêu rõ: Công tác giúp bạn phải “xây dựng lực lượng cách mạng Campuchia ngày càng vững mạnh về mọi mặt và mạnh hơn hẳn địch, trở thành lực lượng quyết định cuối cùng thắng lợi cách mạng Campuchia” mà trọng tâm là “giúp bạn xây dựng các lực lượng vũ trang cách mạng mau chóng trưởng thành về mọi mặt, gắn bó với nhân dân, thực sự trở thành lực lượng nòng cốt của nhân dân Campuchia trong sự nghiệp bảo vệ thành quả cách mạng và bảo vệ Tổ quốc”.
Chấp hành Nghị quyết số 15A của Ban Cán sự 719, Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 chỉ đạo hai Mặt trận 779, 479 phối hợp cùng bạn tăng cường kiện toàn, củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang của bạn trong địa bàn Quân khu phụ trách. Tại Mặt trận 779, ngoài các tiểu đoàn, trung đoàn thuộc Binh đoàn 4 và các đơn vị binh chủng khác mà Mặt trận có trách nhiệm xây dựng và bàn giao giúp Bộ Quốc phòng Campuchia, tính đến năm 1983, Mặt trận đã giúp 5 tỉnh của Campuchia xây dựng được 2 trung đoàn, 15 tiểu đoàn và 78 đại đội. Các đơn vị vũ trang Campuchia được trang bị đầy đủ vũ khí. Lực lượng chuyên gia của Mặt trận tổ chức giúp bạn từ cấp tiểu đoàn, trung đoàn và cử phái viên đến cấp đại đội. Đoàn Quân sự tỉnh (thuộc Mặt trận) cử chuyên gia sang giúp tỉnh đội, huyện đội của bạn. Về lực lượng dân quân, năm 1980, toàn Mặt trận phát triển được gần 35.000 người, trang bị 13.915 súng. Đến năm 1983, tăng lên gần 50.000 người, trang bị 16.724 súng. Lực lượng dân quân có chất lượng, tinh thần chiến đấu tốt, tạo được niềm tin trong nhân dân. Nhiều đơn vị dân quân của bạn đã tác chiến độc lập hoặc phối hợp tham gia tác chiến cùng ta, đánh địch, thu vũ khí, bảo vệ ấp, xã (như dân quân một số xã thuộc tỉnh Kam Pong Thom).
Trong công tác xây dựng Đảng, đoàn, tổ nòng cốt, đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo các lực lượng quân tình nguyện Việt Nam: “Các tổ chức cơ sở bạn có mạnh thì bạn mới điều hành được công việc và cùng dân thực sự làm chủ ở xã, huyện. Trong đó công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng và tổ nòng cốt ở cấp xã, huyện là then chốt nhất”. Quán triệt chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, Bộ Tư lệnh Mặt trận 779 lãnh đạo chỉ huy các lực lượng phát triển được 5 ban cán sự tỉnh, 1 Đảng ủy binh đoàn, 26 chi bộ Đảng, 68 chi đoàn thanh niên, 614 tổ nòng cốt (tính đến tháng 10/1983).
Để phát động phong trào toàn dân tham gia xây dựng thực lực cách mạng, củng cố chính quyền, xây dựng ấp, xã vững mạnh, dưới sự chỉ đạo của Tư lệnh Lê Đức Anh, Bộ Tư lệnh Mặt trận 719 đã phổ biến Đề án 153, vận động xây dựng 3 phong trào (đánh địch và địch vận, xây dựng lực lượng, sản xuất) vững mạnh ở cơ sở. Tháng 7/1983, tại Hội nghị tổng kết việc hợp tác giúp đỡ về kinh tế, văn hóa, kỹ thuật giữa Việt Nam và Campuchia, đồng chí Lê Đức Anh đã nhấn mạnh: “Chúng ta phải giúp bạn mạnh lên, tự mình đảm đương cuộc đấu tranh trong thế liên minh chiến lược, chiến đấu ba nước Đông Dương... Nguyện vọng của cán bộ bạn là tha thiết muốn làm chủ lấy đất nước của mình. Một chuyên gia khi về nước mà bạn chưa trưởng thành, chưa đảm đương được nhiệm vụ là chuyên gia đó không hoàn thành nhiệm vụ, dù đồng chí đó làm việc ngày đêm... Vì thế, cần giúp bạn “nâng ba phong trào cách mạng” (đánh địch và địch vận, xây dựng lực lượng, sản xuất) lên một bước mới, với chất lượng mới”.
Thực hiện Đề án 153 của Bộ Tư lệnh 719 và chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, Mặt trận 779 đã tham mưu cho bạn lựa chọn nhân sự theo quy định. Chính quyền các cấp cơ bản đảm đương được nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, phục hồi sản xuất, phát triển văn hoá, y tế, đánh giá được tình hình trong ấp, xã thuộc địa phương mình quản lý. Tính đến cuối năm 1983, trên địa bàn 5 tỉnh đã có sự biến đổi to lớn về nhiều mặt (so với đầu năm 1979), lực lượng bạn đã lớn mạnh, cán bộ bạn đã trưởng thành. Nhiều huyện có khả năng đảm đương được nhiệm vụ đánh địch bảo vệ địa phương, an ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững.
Những năm 1984 - 1986, cách mạng Campuchia bước sang một giai đoạn mới. Đất nước được hồi sinh sau những nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh. Nhưng quân Pôn Pốt và lực lượng phản động được sự giúp đỡ của các thế lực bên ngoài dựa vào căn cứ ở vùng biên giới Campuchia - Thái Lan cố đẩy mạnh các hoạt động phá hoại, hòng tạo ra thế 2 vùng, 2 chính phủ có lợi cho chúng. Trước tình hình đó, đồng chí Lê Đức Anh giao nhiệm vụ trực tiếp cho các mặt trận (trong đó có Mặt trận 779) tiếp tục phối hợp với các lực lượng vũ trang Campuchia chiến đấu và bộ đội công binh làm nòng cốt giúp bạn xây dựng công trình phòng thủ biên giới (K5) nhằm tạo thế trận đánh địch, bảo vệ biên giới, hạn chế địch tiến công từ biên giới và nội địa.
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Tư lệnh 719, những năm 1984 - 1985, Mặt trận 779 phối hợp với các lực lượng bạn mở các đợt hoạt động tổng hợp thường xuyên và cao điểm đánh vào khu vực trọng điểm có căn cứ địch ở các tỉnh phía Bắc, khu vực Biển Hồ và ở những tỉnh đã bàn giao. Kết quả, đã làm tan rã một số tiểu đoàn của Sư đoàn 920 địch, đánh thiệt hại một bộ phận Sư đoàn 612, Sư đoàn 801, Sư đoàn 417 và SRK. Qua chiến đấu, bạn bước đầu thấy trách nhiệm vai trò làm chủ trong tổ chức điều hành các hoạt động tổng hợp của Ban chỉ huy thống nhất các cấp, vai trò tham mưu của chỉ huy tỉnh, huyện đội. Nhiều trận đánh, bạn đã tác chiến độc lập và phối hợp có hiệu quả; một số tiểu đoàn, đại đội đánh địch tiến bộ, bóc gỡ được nhiều địch ngầm. Năm 1986, trước tình hình địch tập trung lực lượng lớn liên tiếp đánh vào Sithôkandal, KangMia, đồng chí Lê Đức Anh ra chỉ thị cho Mặt trận 779 tổ chức lực lượng, phối hợp với bạn triển khai xuống các phum, xã yếu, vùng ven rừng, vùng giáp ranh, vận động quần chúng đánh địch, bóc ngầm, củng cố cơ sở. Thực hiện chỉ thị của Tư lệnh Lê Đức Anh, Mặt trận đã tiến hành các đợt hoạt động lớn, kết hợp với lực lượng bạn và cấp trên đánh vào hành lang, lực lượng thâm nhập, các lõm căn cứ, các sư đoàn địch ở Môn Đôn Kiri, núi Chi, tuyến sông Sen Chi Ních, Ôsala và Biển Hồ.
Quá trình xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, nhiều đồng chí thắc mắc, cho rằng làm công trình phòng thủ (K5) tốn kém, không cần thiết. Đồng chí Lê Đức Anh đã giải thích cho bộ đội hiểu hết ý nghĩa và giá trị thiết thực của công trình: Một là, có tuyến tuần tra biên giới thì các đơn vị vũ trang của bạn vững tâm hơn, dám đảm nhận bảo vệ tuyến đường biên thì quân tình nguyện Việt Nam mới rảnh tay thực hiện nhiệm vụ của đơn vị chủ lực, cơ động chiến lược đúng như mục tiêu mà ta và bạn đề ra. Hai là, nếu lúc đó để bạn đứng ra tổ chức những trận đánh lớn hoặc một cuộc vận động cách mạng lớn thì bạn chưa làm được; nhưng để bạn đứng ra tổ chức cho dân đào hào, trồng tre phòng thủ biên giới thì bạn làm được và làm tốt. Như vậy, công trình K5 là nơi tập dượt cho bạn biết làm công tác vận động, tổ chức quần chúng. Được sự động viên, khích lệ của Bộ Tư lệnh 719, mùa khô năm 1986 - 1987, các mặt trận (trong đó có Mặt trận 779) đã hoàn thành công trình tuyến phòng thủ biên giới (K5) và bàn giao cho bạn để bạn tiếp tục củng cố. Công trình K5 thực sự là công trình của toàn dân, toàn quân Campuchia và quân tình nguyện Việt Nam. Thể hiện được tình đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt Nam - Campuchia.
Để công tác vận động quần chúng, xây dựng thực lực cách mạng, củng cố chính quyền đạt hiệu quả cao, đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo tăng cường các tổ công tác của Trung ương, tỉnh cùng lực lượng các mặt trận xuống cơ sở xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và tổ chức quần chúng, củng cố tổ sản xuất. Mặt trận 779 đưa đại đội vũ trang tuyên truyền, các đội công tác cùng chuyên gia của Trung ương, tỉnh đi sâu xuống cơ sở, phum, xã phổ biến hướng dẫn các chủ trương, chính sách của cách mạng; vận động quần chúng rào làng xã chiến đấu đánh địch, binh vận, tích cực sản xuất. Qua đó, những năm 1984 - 1986, phong trào toàn dân đánh giặc, rào làng, xã chiến đấu, phát quang địa hình... phát triển mạnh mẽ, sản xuất thu mua nông sản đạt và vượt chỉ tiêu. Đời sống vật chất tinh thần nhân dân nhiều nơi được nâng lên rõ rệt. Cùng với đó, công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh, số lượng và chất lượng đảng viên tăng nhanh. Cấp ủy và chính quyền Campuchia có bước trưởng thành, cơ cấu tổ chức đảng chặt chẽ từ quân khu xuống đơn vị địa phương. Các hoạt động đánh địch tại địa phương, rào làng xã, thị trấn, thị xã, bảo vệ giao thông đều do bạn tự làm, có sự giúp đỡ của chuyên gia quân sự.
Trong công tác giúp bạn xây dựng lực lượng vũ trang, Mặt trận 779 giúp bạn xây dựng lực lượng cho cấp trên, đưa đi tăng cường các địa bàn trọng điểm và xây dựng lực lượng trên địa bàn Quân khu 2 vững mạnh. Đến cuối năm 1986, lực lượng vũ trang bạn cơ bản đủ 3 thứ quân, chủ lực Quân khu 2 ngày càng trưởng thành nhanh chóng về số lượng, chất lượng được nâng lên, từng bước tự làm chủ từng khu vực trọng điểm và sẵn sàng tự đảm đương toàn bộ địa bàn khi quân tình nguyện Việt Nam rút về nước.
Mười năm làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia (1979 - 1989), ta và bạn đã cùng làm nên cuộc cách mạng hồi sinh một đất nước từ tiêu điều, hoang tàn thành một quốc gia có hệ thống chính trị mới được xây dựng từ trung ương đến địa phương, kinh tế - xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân dần ổn định và từng bước cải thiện. Tổ chức đảng, chính quyền và lực lượng vũ trang Campuchia phát triển nhanh chóng, tự đảm đương lãnh đạo, điều hành được công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước một cách vững vàng. Để hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quốc tế là công lao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhưng chúng ta không thể không khẳng định vai trò quan trọng của Đại tướng Lê Đức Anh. Với nhãn quan của nhà quân sự chiến lược, với kinh nghiệm của vị Tư lệnh nhiều mặt trận, chiến dịch quan trọng, đồng chí đã lãnh đạo, chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (trong đó có tập thể cán bộ, chiến sĩ Mặt trận 779) bằng mồ hôi, trí tuệ và xương máu của mình hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang, góp phần tô thắm thêm tình đoàn kết giữa hai quốc gia, hai dân tộc Việt Nam - Campuchia.
Đại tá, TS. LÊ HỒNG ĐIỆP
Lịch sử thế giới hiện đại ghi nhận khá nhiều trường hợp quân đội nước ngoài đưa quân ra ngoài lãnh thổ cứu nguy cho dân tộc khác, điển hình như Hồng quân Liên Xô đã giải phóng hàng loạt nước Đông Âu khỏi sự thống trị của phát xít Đức; hay cùng thời điểm Việt Nam phối hợp với Mặt trận Dân tộc Đoàn kết Cứu nước Campuchia, tiến hành tổng phản công lật đổ chế độ phản động Pôn Pốt, cứu nhân dân Campuchia khỏi họa diệt chủng, thì ở châu Phi quân đội Tandania tiến hành phản công, lật đổ chính quyền Amin, cứu nhân dân Uganđa khỏi chế độc tài do viên tướng coi Hitle là thần tượng. Tuy nhiên, chỉ duy nhất, quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia được nhân dân xứ sở Chùa Tháp gọi tên “Đạo quân nhà Phật”. Với một đất nước Phật giáo là quốc đạo, tên gọi đó thật sự thiêng liêng. Hoạt động của đội quân đó gắn liền với vị chỉ huy Lê Đức Anh - người có nhiều năm tháng đảm nhiệm trọng trách thay mặt Đảng, Nhà nước, quân đội trực tiếp chỉ huy lực lượng giúp bạn.
Trong khoảng thời gian hai tuần cuối tháng 12/1978 và đầu tháng 01/1979, bằng các đòn phản công - tiến công quyết liệt, quân và dân Việt Nam đã đập tan cuộc xâm lược của quân Pôn Pốt, thu hồi toàn bộ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Tuy nhiên, “Do phát triển tiến công giành thắng lợi nhanh, lực lượng địch bị tan rã lớn, chưa bị tiêu diệt gọn (tàn quân còn nhiều, một số nơi chúng còn tổ chức chỉ huy và phương tiện thông tin liên lạc, còn khống chế dân, tích trữ lương thực, đạn dược để phát động chiến tranh du kích). Lực lượng cách mạng Campuchia chưa phát triển kịp theo yêu cầu, hậu quả của chế độ nô dịch tàn bạo của bọn Pôn Pốt - Iêng Xary còn rất nặng nề... nên còn nhiều việc phải giải quyết...”. Trước tình hình đó, Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia đề nghị Việt Nam để quân tình nguyện ở lại giúp Campuchia bảo vệ thành quả cách mạng, khôi phục lại đất nước.
Đây là nhiệm vụ vô cùng nặng nề, bởi còn 4 vạn binh lính của Pôn Pốt chạy về vùng biên giới Campuchia - Thái Lan, ẩn khuất ở vùng rừng núi hiểm trở, trà trộn trong dân. Cơ quan đầu não, hệ thống chỉ huy vẫn còn, với lực lượng đông nên chúng khống chế được một vùng rộng lớn. Lợi dụng việc thông thạo địa hình, lại có hậu thuẫn của nước ngoài nên các đơn vị quân Pôn Pốt liên tục đánh chiếm các trục giao thông huyết mạch, các địa bàn chiến lược, hòng khôi phục lại nhà nước Campuchia dân chủ. Trong khi đó, sau 3 năm 8 tháng 20 ngày cầm quyền, chế độ độc tài Pôn Pốt đã tàn phá đất nước Campuchia hết sức nghiêm trọng: 5.857 trường học, 796 bệnh viện, phòng thí nghiệm bị phá bỏ, 1.968 ngôi chùa, 108 đền thờ bị đập phá, tàn sát 3.314.768 người; đưa đi mất tích gần 570.000 người, làm cho 141.848 người bị tàn phế, hơn 200.000 trẻ em bị mồ côi. Ruộng đồng bị bỏ hoang, gia đình ly tán, người dân gần như kiệt sức, lương thực, thuốc men cạn kiệt.
Với cương vị Phó Ban thứ nhất Ban Công tác K, Tư lệnh tiền phương Bộ Quốc phòng ở Campuchia, đồng chí Lê Đức Anh đã có những chỉ đạo kịp thời các hoạt động quân sự truy quét tàn quân Pôn Pốt, đồng thời làm nhiệm vụ giúp dân xây dựng lại cuộc sống mới. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến vai trò của ông trong chỉ đạo quân tình nguyện giúp nhân dân Campuchia ổn định cuộc sống.
Trước cảnh tượng hết sức đau lòng, khi người dân Campuchia kiệt sức, không có cơm ăn, thuốc uống, đồng chí Lê Đức Anh đã đề xuất “việc đầu tiên bây giờ là quân đội và chuyên gia chúng ta phải tập trung cứu đói, cứu đau cho dân”. Ý kiến đó được tập thể lãnh đạo nhất trí, cụm từ “cứu đói, cứu đau” được phổ biến đến tận các đơn vị. Trong khi lương thực, thuốc men chưa vận chuyển đến kịp, cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện đã san sẻ định lượng của mình cho nhân dân nước bạn. Những hoạt động điển hình như: Sư đoàn 7 cử các tổ cứu đói giúp nhân dân ba huyện thuộc tỉnh Kandan; Sư đoàn 9 thành lập các tổ công tác mang gạo và thuốc chữa bệnh giúp nhân dân tỉnh Công Pông Chơnăng; cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 341 nhịn ăn bữa sáng để giúp nhân dân huyện Mung; Sư đoàn 339 mỗi tuần một lần chở gạo xuống giúp nhân dân huyện Lệch. Các đoàn 24, 25, 71 quyên góp gạo tiết kiệm hàng ngày gửi giúp nhân dân các huyện còn lại của tỉnh Kandan. Các tiểu đoàn địa bàn của lực lượng quân tình nguyện Quân khu 5 đã cứu đói cho 114.644 người. Trong 6 tháng đầu năm 1979, cán bộ và chiến sĩ Quân đoàn 4 đã tiết kiệm, giúp đỡ nhân dân Campuchia 247 tấn gạo; bàn giao cho quân đội cách mạng Campuchia một khối lượng lớn chiến lợi phẩm, gồm 5.000 tấn lúa, 100 tấn muối, hơn 100 tấn đường, 70.000 hộp sữa và hơn 30.000 mét vải3.
Tạo điều kiện cho quân tình nguyện thực hiện nhiệm vụ, mặc dù đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng Chính phủ Việt Nam đã viện trợ 45.000 tấn lương thực cho nhân dân Campuchia. Số gạo này được các đơn vị quân tình nguyện nhanh chóng chuyển đến tay người dân xứ Chùa Tháp, kịp thời có “cái ăn”. Sau đó, lực lượng quân tình nguyện được giao nhiệm vụ nhanh chóng giúp bạn mở cảng biển Công Pông Xom và khôi phục đường sắt nối từ cảng đến đến Phnôm Pênh, góp phần vận chuyển hơn 150.000 tấn lương thực của các nước viện trợ đến với người dân. Ngoài nguồn lương thực viện trợ, cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam còn tổ chức cho dân đi lấy lương thực địch cất giấu ở các kho trong rừng. Từ tháng 4 đến tháng 7/1979, các đơn vị tình nguyện thuộc Quân khu 7 đã thu 3.515 tấn thóc, 20 tấn muối. Bằng các biện pháp tích cực, khẩn trương, đến cuối năm 1980 đầu năm 1981, ta đã giúp bạn ngăn chặn được nạn đói.
Thực hiện mệnh lệnh “Cứu đau” của đồng chí Lê Đức Anh, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã lập các trạm quân y dã chiến, kịp thời cứu chữa cho nhân dân nước bạn. Nhiều trường hợp bị kiệt sức, bị bệnh tật trầm trọng đã được cứu khỏi cái chết. Như cháu Xa Văn Ni lên 8 tuổi được y tá Chu Trọng Tố thuộc Đại đội 10 Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 141 Sư đoàn 7 (Quân đoàn 4) cứu sống trong tình trạng đói lả, hấp hối chờ chết. Hàng trăm cháu khác ở trong tình trạng tương tự được các cán bộ, chiến sĩ các mặt trận 479, 579, 779, 979 đem về nuôi dưỡng ở các trại mồ côi. Trong 6 tháng đầu năm 1979, riêng các đơn vị tình nguyện của Quân đoàn 4 đã khám chữa bệnh cho 120.000 lượt người2. Tiếp đó, đội ngũ quân y các đơn vị đã cùng chuyên gia y tế Việt Nam giúp chính quyền Campuchia từng bước khôi phục hệ thống chăm sóc sức khoẻ, tổ chức khám chữa bệnh cho người dân. Đồng thời giúp nhân dân vệ sinh thôn, xóm sạch sẽ, thực hiện phòng, chống dịch bệnh. Những căn bệnh phổ biến như sốt rét, bệnh đường ruột, bệnh ngoài da, suy dinh dưỡng,... dần được đẩy lùi. Để bảo đảm điều kiện chăm sóc sức khỏe cho nhân dân nước bạn, cùng với thiết lập cơ sở khám chữa bệnh, công tác đào tạo nhân viên y tế được chú trọng, chỉ riêng Quân khu 9, trong hai năm 1979 - 1980, đã đào tạo cho các tỉnh kết nghĩa 243 y sĩ, y tá.
Được sẻ chia lon gạo, viên thuốc trong lúc cái chết đã kề bên, người dân Campuchia ghi lòng tạc dạ sự giúp đỡ chí nghĩa, chí tình của quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam. Càng hiểu sâu sắc những phẩm chất tốt đẹp của người lính cách mạng, của Bộ đội Cụ Hồ, càng tin tưởng ủng hộ bộ đội Việt Nam.
Nhằm giúp nhân dân Campuchia nhanh chóng ổn định cuộc sống, thực hiện mệnh lệnh của đồng chí Lê Đức Anh, các đơn vị quân tình nguyện đã khẩn trương huy động và sử dụng mọi phương tiện đưa những người dân từ các trại tập trung mà bọn Pôn Pốt gọi là công xã, là “mô hình xã hội chủ nghĩa”, trở về quê hương, bản quán; “ khôi phục lại phum, sóc, làng, xã, dựng lại nhà cửa chùa chiền. Ruộng đất vườn tược của ai thì được trả lại cho người nấy. Các tầng lớp xã hội, các nghề nghiệp cũng khôi phục lại”. Đối với những nơi điều kiện an ninh chưa cho phép đưa dân trở về, bộ đội tình nguyện đã động viên bà con tạm ở lại làm ăn. Chỉ trong năm 1979, các đơn vị tình nguyện của Quân khu 9 đã đưa 7.700 gia đình trở về quê cũ, huy động lực lượng và vật liệu xây dựng nhà ở giúp 1.600 dân Campuchia ổn định nơi ăn ở. Trên địa bàn 4 tỉnh Đông Bắc Campuchia, các đơn vị tình nguyện Quân khu 5 tập trung ô tô chia làm hai đợt đưa 290.536 người trở về quê cũ. Tính chung, quân tình nguyện Việt Nam đã đưa hơn 1 triệu người dân3 đang chịu cảnh màn trời, chiếu đất trở về quê cũ sớm ổn định cuộc sống.
Cùng với “cứu đói, cứu đau”, giúp dân trở về quê cũ, dưới sự giúp đỡ của quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam, nhân dân Campuchia dần khôi phục lại sản xuất. Đến cuối năm 1979, cả nước Campuchia đã lập được hơn 46 nghìn tổ sản xuất (mỗi tổ gồm từ 10 đến 15 gia đình, với 20 - 30 lao động, canh tác trên một diện tích chừng 20 hécta đất)4. Người lao động tự do sản xuất và tự hưởng hoa lợi của riêng mình. Được sự hỗ trợ của cơ quan hậu cần trong nước, các đơn vị quân tình nguyện đã vận chuyển hạt giống, trâu bò, nông cụ cho nhân dân có điều kiện sản xuất. Riêng năm 1979, Quân khu 9 đã hỗ trợ 1.000 tấn hạt giống, gần 2.000 con giống (gồm trâu, bò, lợn), 20 máy cày, bừa, hơn 13.000 công cụ cầm tay, hàng vạn dụng cụ gia đình5.
Trước tình hình tàn quân Pôn Pốt đe dọa, lôi kéo, khống chế nhân dân Campuchia, thực hiện chỉ thị của đồng chí Lê Đức Anh “Bảo vệ tính mạng và an toàn của nhân dân bạn phải được đặt lên hàng đầu, như bảo vệ nhân dân mình”. Bộ đội tình nguyện Việt Nam mở các đợt truy quét, củng cố an ninh khắp các địa bàn, đem lại cuộc sống bình yên cho người dân. Tuy nhiên, vị Tư lệnh quân tình nguyện luôn nhắc nhở: “không lấy tiêu diệt làm đích mà làm cho chúng tan rã là chính”. Vì vậy, ông đã không sử dụng từ “chiến dịch” trong các đợt truy quét quân Pôn Pốt mà gọi đó là “đợt hoạt động”, với ý nghĩa bao hàm là phải đẩy mạnh công tác binh vận, để quân Pôn Pốt bỏ ngũ và rã ngũ là chủ yếu. Thấu hiểu ý định của người chỉ huy, các đơn vị quân tình nguyện ra sức vận động, thuyết phục người dân Campuchia vận động chồng con, anh em trở về với nhân dân, về với chính nghĩa. Cảm nhận từ sự giúp đỡ chí tình của bộ đội Việt Nam, hiểu được biện pháp nhân đạo nên nhân dân xứ Chùa Tháp đã hết lòng cùng bộ đội Việt Nam làm công tác binh vận có hiệu quả. Đến năm 1987, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 43% tàn quân Pôn Pốt, trong đó chủ yếu là gọi hàng. Bằng biện pháp binh vận nên trong hàng ngũ của quân Pôn Pốt thường xuyên xảy ra các vụ binh biến, đầu hàng tập thể, từ nhóm 3 đến 5 người đến cả đại đội, tiểu đoàn,...
Với sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, người dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, khỏi nạn đói, khỏi đe dọa của bệnh tật, được đưa về quê hương bản quán. Về đến đâu được bộ đội giúp đỡ ổn định nơi ăn chốn ở, giúp công cụ, cây, con giống phát triển sản xuất; được chở che trước sự đe dọa của tàn quân Pôn Pốt; được thấy lòng bao dung, khoan hồng đối với binh lính chế độ cũ,... Trước sự giúp đỡ chí nghĩa, chí tình đó, người dân Campuchia đã dành cho quân tình nguyện Việt Nam tên gọi “Đạo quân nhà Phật”. Tên gọi đó cũng được Thủ tướng Hunxen khẳng định trong dịp dự Lễ khánh thành Khu di tích lịch sử địa điểm thành lập Đoàn 125 tại Đồng Nai, tháng 01/2012: “Nhân dân Campuchia có niềm tin, chỉ có tiên, có Phật mới cứu giúp được những phận người khi gặp khó khăn khốn cùng. Đúng vào lúc người dân Campuchia sắp chết, chỉ còn biết chắp tay khẩn cầu tiên, Phật tới cứu thì bộ đội tình nguyện Việt Nam xuất hiện. Bộ đội Việt Nam chính là đội quân nhà Phật”.
Thành công trong giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi đói rét, ốm đau, không nhà cửa, xây dựng lại cuộc sống là cơ sở quan trọng để củng cố, bảo vệ chính quyền cách mạng nước bạn. Kết quả đó đã thể hiện tầm nhìn sâu rộng nhưng hết sức thực tế của đồng chí Lê Đức Anh; xuất phát từ tình thương đồng loại, đầy lòng nhân ái, đồng chí coi nhân dân Campuchia cũng như đồng bào mình. Nhớ lời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” đã thôi thúc đồng chí phát huy vai trò của đội quân tình nguyện, theo đó, những người lính tình nguyện vừa làm nhiệm vụ chiến đấu, vừa công tác và lao động sản xuất. Thực hiện mệnh lệnh của người chỉ huy, những người lính tình nguyện đã hòa mình, gắn bó giúp nhân dân Campuchia anh em thực hiện một cuộc hồi sinh dân tộc vĩ đại, từng bước khắc phục những hậu quả khủng khiếp, sự tàn phá mà chế độ Pôn Pốt đã gây ra; giữ vững đạo đức, phẩm chất của quân đội cách mạng, nêu tấm gương sáng về việc tôn trọng phong tục, tập quán và truyền thống văn hóa của nhân dân nước bạn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc tế.
Để có được như vậy, người chỉ huy Lê Đức Anh đã luôn “quán triệt và giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ phải đề phòng và chống mọi biểu hiện của tư tưởng nước lớn và tư tưởng ban ơn, phải thấy rõ mình sang giúp bạn là làm cho chính mình”. Đồng chí chỉ thị: “Bộ đội Việt Nam và chuyên gia tình nguyện Việt Nam chúng ta ở bên đất bạn Campuchia chỉ được phép dùng khí trời để thở và nước lã để sinh hoạt, ngoài ra không được tơ hào, tự ý lấy bất cứ cái gì của bạn. Ngược lại sẵn sàng cho bạn tất cả những gì bạn cần mà mình có”2 và coi “kỷ luật dân vận” là “kỷ luật sắt chiến trường”. Đến ngày hoàn thành nhiệm vụ trở về Tổ quốc, đồng chí chỉ thị: “Tất cả những gì tốt nhất, trừ trang bị vũ khí đều phải để lại cho bạn”. Thực hiện mệnh lệnh đó, lương thực, thuốc men, từng trang bị nhỏ nhất nơi doanh trại đóng quân đều được bộ đội ta bàn giao cho chính quyền bạn; kề ngày rút quân, các đơn vị quân tình nguyện vẫn khẩn trương giúp dân làm nhà, làm đường, đào kênh mương,...
Hành trang ngày về Tổ quốc của người lính tình nguyện vẫn là chiếc ba lô nhẹ tênh chứa bộ quân phục bạc màu vì nắng gió của xứ sở Chùa Tháp, nhưng thật đong đầy sự quyến luyến, tình cảm mà người dân Campuchia dành cho họ. Đó là tài sản quý giá nhất, là kết quả những người lính tình nguyện thực hiện mệnh lệnh của người chỉ huy Lê Đức Anh - vị tướng của “Đạo quân nhà Phật”.
Đại tá, TS. Lê Thanh Bài
Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968, từ năm 1969 đến năm 1973, quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đã kiên cường bám trụ, đánh bại các kế hoạch bình định lấn chiếm của địch. Đây là giai đoạn gian khổ, ác liệt nhất, nhưng đánh dấu sự thắng lợi của một chủ trương đúng đắn, táo bạo, kịp thời của quân và dân vùng đất “chín rồng” nhằm giữ vững vùng giải phóng, tạo thế và lực mới để giành thắng lợi quyết định trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Trong thắng lợi này, vai trò của Trung tướng Lê Đức Anh, nguyên Tư lệnh Quân khu 9, vị chỉ huy có tầm nhìn và tài thao lược quân sự có ý nghĩa quan trọng.
Sau thất bại Tết Mậu Thân năm 1968, Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Mục tiêu cơ bản là tiếp tục giữ miền Nam Việt Nam, ngăn chặn phong trào cách mạng ở Đông Dương, giảm sự dính líu và tránh sự thất bại của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Thực hiện âm mưu đó, địch tiến hành phản kích, thực hiện chiến lược quân sự “quét và giữ” để lấn đất, giành dân, đẩy lùi lực lượng vũ trang, cơ sở và phong trào cách mạng quần chúng.
Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long, lúc này Quân đoàn 4 ngụy tập trung mọi nỗ lực, ra sức phản kích quyết liệt và tổ chức phòng thủ, giữ chặt các khu vực mới chiếm lại. Chúng tập trung toàn bộ lực lượng dưới sự yểm trợ tối đa của không quân và hải quân Mỹ tiến hành tranh chấp quyết liệt với ta ở khu vực vùng ven, đặc biệt là ở Cần Thơ, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Bến Tre; đồng thời khôi phục và giữ chặt tuyến Lộ 4 (nay là Quốc lộ 1) từ Long An đến Cà Mau; tuyến đường thủy kênh Chợ Gạo và sông Măng Thít.
Nhằm đẩy lùi lực lượng ta ra khỏi thành phố, thị xã, địch tiến hành bình định cấp tốc để lấn đất, giành dân. Chúng tổ chức nhiều cuộc hành quân đánh vào vùng Bảy Núi (An Giang), vùng 4 Kiến Tường, vùng 20/7 (Mỹ Tho), Giồng Trôm (Bến Tre), nhưng đều bị quân và dân các địa phương đánh trả quyết liệt. Tiêu biểu cho ý chí kiên cường bám trụ trong bom đạn ác liệt của kẻ thù là cuộc chiến đấu suốt 128 ngày đêm của quân và dân tỉnh An Giang tại đồi Tức Dụp, vào cuối năm 1968 đầu năm 1969. Đồng thời, địch cũng tập trung lực lượng quy mô lớn mở cuộc hành quân “thăm dò U Minh”, nhưng đều bị ta chặn đánh gây nhiều thiệt hại, phá tan ý đồ xâm lấn ban đầu.
Thời gian này, theo sự chỉ đạo của Quân ủy Miền, quân và dân đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục tổ chức tiến công mùa Hè năm 1969. Tuy có nhiều cố gắng để phối hợp với chiến trường nhằm tạo thế trên mặt trận chính trị, ngoại giao, nhưng do lực lượng ta liên tục tiến công, quân số tiêu hao, không có đủ thời gian để củng cố lực lượng, cùng với đó vũ khí, trang bị thiếu, nên kết quả đợt tiến công mùa Hè đạt rất thấp. Từ thực tế đó, đến tháng 6/1969, Quân ủy Miền tiếp tục chỉ thị phải ra sức đẩy mạnh tiến công quân sự liên tục, căng kềm địch ra để tiêu diệt và tiêu hao một cách rộng khắp. Thực hiện chỉ thị đó, quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đã cố gắng tiến công để kiềm chế, ngăn chặn kế hoạch “bình định cấp tốc” của địch nhằm tạo thế đứng mới cho nhân dân, cơ quan chỉ đạo các cấp và lực lượng vũ trang, củng cố lại thế tiến công ba mũi của quần chúng ở cơ sở.
Tuy nhiên, mọi cố gắng không đạt được ý định đề ra, do lực lượng chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương của ta đều tổn thất nghiêm trọng, trong nội bộ lãnh đạo, chỉ huy Khu ủy và Bộ Tư lệnh xuất hiện một số bất đồng. Trong khi đó, địch đã phát hiện ta gặp nhiều khó khăn về bổ sung quân số và chuẩn bị vật chất hậu cần, nên tập trung lực lượng phản kích quyết liệt, tạm thời đẩy lùi lực lượng ta ra khỏi thành phố, thị xã. Chúng đẩy mạnh các chương trình bình định, lấn chiếm nhanh chóng các vùng nông thôn rộng lớn, dần dần ta mất thế tiến công, lực lượng bị giảm sút. Trong vòng một năm, ở nhiều địa phương, cán bộ, lực lượng vũ trang cơ sở bị tróc khỏi địa bàn; quần chúng tự động né tránh bom đạn, chạy ra vùng địch kiểm soát... Lúc bấy giờ, ở Khu 9 địch đã bình định, lấn chiếm gần hết vùng giải phóng trước đây, chỉ còn căn cứ U Minh và khu giải phóng Nam Cà Mau. Quân và dân miền Tây Nam Bộ bắt đầu bước vào thời kỳ khó khăn nghiêm trọng nhất, tưởng chừng như không vượt qua được.
Trước tình hình Quân khu 9 đang gặp nhiều khó khăn, tháng 7/1969, Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền giao nhiệm vụ cho đồng chí Lê Đức Anh về làm Tư lệnh Quân khu 9. Sau đó, đồng chí Võ Văn Kiệt cũng được điều về làm Bí thư Khu ủy - Chính ủy Quân khu. Là một cán bộ quân sự dày dạn kinh nghiệm trận mạc, luôn bám sát chiến trường, dám nhìn thẳng vào sự thật, nên khi về đến địa bàn đảm nhiệm, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng các đồng chí trong Thường vụ Khu ủy nghiêm túc đánh giá lại tình hình địch - ta từ sau Tết Mậu Thân; phân tích những khó khăn và thuận lợi cơ bản của chiến trường để lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm cao, dẫu khó khăn nghiệt ngã mấy cũng phải cố gắng để làm chuyển biến tình hình, xứng đáng với lòng tin của lãnh đạo cấp trên cũng như của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đang mong đợi. Trước mắt, tập trung củng cố về tổ chức, khâu trọng yếu nhất là tạo nên sự đoàn kết thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo phương châm tác chiến, phương thức đấu tranh cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, khôi phục lực lượng chính trị ở những vùng sa sút,... từ đó khôi phục lại thế và lực của Quân khu 9.
Với quyết tâm đó, chỉ trong thời gian ngắn, Tư lệnh Quân khu Lê Đức Anh đã xác định rõ ràng chủ trương trong Thường vụ Khu ủy về vấn đề Đảng lãnh đạo. Theo đó nguyên tắc lãnh đạo là tập thể lãnh đạo, nhưng chỉ huy ở tất cả các cấp chỉ có một người cấp trưởng, cấp phó là giúp việc cho cấp trưởng, quyền hạn, trách nhiệm phân định rõ ràng. Một số đồng chí trong Bộ Tư lệnh Quân khu 9 được bổ sung vào Thường vụ và Khu ủy. Tất cả những công việc thuộc về quân sự liên quan đến tác chiến, vũ khí, trang bị, hậu cần, kỹ thuật,... giao cho Quân khu điều hành, Khu ủy không còn ôm đồm bao biện làm thay. Từ đây xác định rõ: Đảng lãnh đạo tập thể bằng nghị quyết, chỉ huy quân sự do Bộ Tư lệnh Quân khu chịu trách nhiệm, và chế độ lãnh đạo từ trên xuống dưới thực hiện theo quy định của Trung ương Cục.
Với vai trò là Tư lệnh Quân khu, đồng chí Lê Đức Anh rất chú trọng đến việc duy trì kỷ luật, kỷ cương, sinh hoạt của lực lượng vũ trang. Vì vậy, khi về nhận nhiệm vụ, thấy ở U Minh thiếu gạo, thiếu muối, bộ đội đói và rách, sinh hoạt ở lán, ở ngoài xóm với dân, ăn mặc thì tùy tiện, v.v. nhằm chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng với Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 9 bàn bạc và tìm cách tháo gỡ khó khăn, bảo đảm đủ trang bị, ăn mặc, giữ cho bộ đội có tư thế tác phong. Cán bộ cấp trên phải làm gương cho cấp dưới, đặc biệt ai uống rượu phải nghiêm khắc kiểm điểm, có thông báo rộng rãi.
Công tác chỉ đạo nổi bật nhất của Đại tướng Lê Đức Anh giai đoạn này là cùng Thường vụ Khu ủy đề ra nhiều quyết sách táo bạo nhằm bám trụ và đánh địch bình định, lấn chiếm trên địa bàn Quân khu như: Phòng ngự bám trụ chiến đấu theo hình thức phòng ngự linh hoạt, kết hợp phản công đánh vào một số cứ điểm. Phòng ngự bám trụ tiêu hao địch, giữ vững trận địa, không để tróc địa bàn. Địch chốt ở đâu thì bám trụ vây lại, đánh liên tục bằng nhiều hình thức, làm cho địch phải co lại,... Nắm vững thời cơ kiên quyết phản công địch. Phải xây dựng và phát triển lực lượng, nhất là củng cố, xây dựng bộ đội chủ lực, mới tạo được điều kiện để phản công và phá được thế tiến công của địch.
Với những quyết sách do đồng chí Lê Đức Anh và Thường vụ Khu ủy Quân khu 9 đề ra, các đơn vị đã được phân công bám trụ ở từng địa bàn cụ thể: Trung đoàn 1 ở Long Mỹ, Trung đoàn 3 bám trụ trên địa bàn then chốt giữa hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần của Quân khu cũng có kế hoạch bám trụ và đánh địch. Lúc đó, Khu ủy cũng có ý kiến đề nghị Quân khu 9 nên di chuyển cơ quan về Nam Cà Mau để có điều kiện ổn định làm việc, nhưng với tầm nhìn chiến lược, đồng chí Lê Đức Anh khẳng định: Nếu lui về Cà Mau, địch lấn tới và theo đó sẽ mất đất, mất dân không còn chỗ nào đứng chân nữa, do đó hạ quyết tâm bám trụ ở U Minh Thượng, đồng thời triển khai Sở Chỉ huy Tiền phương của Quân khu ở Long Mỹ (Cần Thơ) chỉ cách hàng rào đồn địch mấy trăm mét. Mặc dù Sở Chỉ huy nằm sát đồn địch, nhưng đồng chí Lê Đức Anh luôn là người thường trực chỉ huy tại đây. Việc làm đó đã có tác động mạnh mẽ đối với cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền. Quyết tâm và hình ảnh tiên phong ấy cũng đã làm “điểm tựa” cho các xã vùng địch lấn chiếm noi theo. Số cán bộ bị tróc địa bàn, chạy sang xã khác, dần dần quay trở lại địa phương thực hiện 3 bám (bám đất, bám dân, bám địch), khôi phục phong trào chiến tranh du kích. Thời kỳ này, cán bộ đảng, cán bộ mặt trận đều cầm súng đánh giặc. Nhiều địa phương ở miền Tây Nam Bộ, bí thư chi bộ làm đội trưởng du kích, xây dựng các lõm căn cứ chiến đấu suốt mấy năm ác liệt nhất. Cùng với đó, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo bộ đội tỉnh và huyện gắn chặt với dân quân du kích trong tác chiến và xây dựng. Nhất là ra sức tập trung xây dựng bộ đội chủ lực của Quân khu (lúc này Trung đoàn 10 và Trung đoàn 20 cũng được chi viện từ miền Bắc vào), các lực lượng phải đứng vững trên địa bàn cơ động, giữ được thế liên hoàn giữa các khu vực chiến trường. Đội hình hậu cần tại chỗ được triển khai, hành lang giao thông liên lạc từ Khu lên Miền và xuống các tỉnh, huyện, xã thông suốt tạo điều kiện cho công tác chỉ đạo, chỉ huy xử trí các tình huống kịp thời hơn.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9, trong đó có vai trò của đồng chí Lê Đức Anh với tinh thần tích cực tiến công và phản công bằng những phương thức thích hợp, đã giúp cho quân và dân miền Tây Nam Bộ phá lỏng, phá rã thế kìm kẹp của địch ở nhiều nơi, mở được một số lõm giải phóng, phát triển được thế làm chủ của nhân dân xã, ấp. Điều quan trọng nhất là các đảng bộ địa phương đã bám được trong dân, trong đó có trên 1.000 ấp trước đây bị địch kìm kẹp hoàn toàn, nay đã xây dựng được cơ sở đảng và bắt đầu phát huy tác dụng lãnh đạo với quần chúng, đẩy lùi quân địch dần vào sát thị xã, thị trấn. Từ đó, Quân khu 9 từng bước vượt qua được những thử thách ác liệt của thời kỳ khó khăn nghiêm trọng nhất (1969 - 1971), tạo ra những điều kiện thuận lợi để cùng toàn Miền thực hiện cuộc tiến công chiến lược trong năm 1972, đánh bại bước đầu chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ và quân đội Sài Gòn.
Khi đế quốc Mỹ buộc phải ký kết Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (năm 1973), một số chiến trường tạm ngừng bắn, nhưng ở Quân khu 9 địch tiếp tục o ép, gây ra nhiều khó khăn cho cách mạng. Trong bối cảnh đó, đồng chí Lê Đức Anh đã nhận định, đánh giá đúng bản chất kẻ thù, sớm xác định hành động phá hoại Hiệp định và những thủ đoạn xảo quyệt của địch, chỉ ra những mặt yếu mới của địch, nhất là tinh thần sa sút, nên đã có kế hoạch tiến công quân sự kết hợp tiến công chính trị, binh vận ở cơ sở tương đối tốt. Phong trào bao vây đồn bốt địch phát triển, nên những cuộc hành quân của địch tuy liên tục nhưng kết quả rất hạn chế. Từ đó, kịp thời đề xuất với Thường vụ Khu ủy, chủ trương: Bố trí 4 trung đoàn chủ lực của Quân khu 9 ở địa bàn trọng điểm Chương Thiện - ngày nay là Hậu Giang (Trung đoàn 1 ở đông bắc Long Mỹ, Trung đoàn 10 ở tây nam Long Mỹ, Trung đoàn 20 ở tây Vị Thanh, Trung đoàn 2 cơ động vùng cửa ngõ U Minh, Trung đoàn 3 ở Tam Bình). Đồng thời, kịp thời uốn nắn những tư tưởng lệch lạc, suy nghĩ đơn giản, ảo tưởng hòa bình, thiếu cảnh giác, trông chờ Ủy ban quốc tế và Ban Liên hiệp quân sự. Đồng chí đi kiểm tra và chỉ thị cho các lực lượng vũ trang: Đứng vững trên địa bàn Quân khu quy định, nếu địch bung ra lấn chiếm thì kiên quyết trừng trị; giữ vững quyền làm chủ hiện có, vận động binh sĩ địch bỏ ngũ; sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt các đơn vị địch xâm phạm vùng giải phóng,...
Khi ấy, với tầm nhìn chiến lược và sâu sát chiến trường, đồng chí Lê Đức Anh đã nắm được kế hoạch bình định lấn chiếm của địch đang tích cực triển khai với khẩu hiệu “trên hòa bình, dưới chiến tranh; ngoài hòa hợp, trong bình định”, mà trọng điểm là bình định lấn chiếm Chương Thiện trước rồi đến U Minh, Cà Mau. Chúng chia kế hoạch bình định lấn chiếm Chương Thiện làm hai bước: bước một, từ tháng 02 đến tháng 5/1973, lấy lại các vùng đã mất trước khi có Hiệp định và lấn chiếm các vùng quan trọng nhất; bước hai, từ tháng 6 đến tháng 10, tiếp tục thực hiện kế hoạch bình định ở những nơi chưa làm được. Chính vai trò chủ động, quyết đoán và chịu trách nhiệm của người chỉ huy, nên khi nắm chắc kế hoạch của địch, đồng chí Lê Đức Anh một mặt báo cáo xin ý kiến của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Trung ương Cục miền Nam (về quân sự xin ý kiến của Bộ Tư lệnh Miền cho lực lượng vũ trang tiếp tục tiến công địch); mặt khác quyết tâm tích cực chuẩn bị mọi mặt tiến công và phản công trừng trị quân địch vi phạm Hiệp định Pari.
Mặc dù, lúc đó cấp trên chưa thấu hiểu hết tình hình ở miền Tây Nam Bộ, luôn nhắc nhở thực hiện “5 cấm chỉ” (cấm bao vây đồn bốt, cấm gỡ đồn bốt, cấm đánh địch bung ra, cấm pháo kích và cấm xây dựng ấp, xã chiến đấu) với phương châm “lấy đấu tranh chính trị làm cơ sở, đấu tranh vũ trang làm hậu thuẫn” và chỉ thị rút các trung đoàn về căn cứ U Minh để học tập, chỉnh huấn. Nhưng, với cương vị là người chỉ huy cao nhất của Quân khu 9, trên cơ sở bám sát chủ trương, kế hoạch mà Khu ủy đã thông qua, đồng chí Lê Đức Anh vẫn kiên định triển khai mọi lực lượng đánh bại kế hoạch bình định lấn chiếm Chương Thiện của địch, giữ được địa bàn then chốt, tiếp tục củng cố và mở rộng vùng giải phóng. Tại đây, ta đã đánh bại 75 lượt tiểu đoàn cùng với kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của chúng, kết thúc bằng cuộc hành quân cuối cùng của địch tháng 11/1973, bị bẻ gãy hoàn toàn, buộc địch phải chấm dứt bình định lấn chiếm địa bàn này, tạo điều kiện hỗ trợ cho các địa phương khác liên tục tiến công và giành thắng lợi. Điều này một lần nữa thể hiện sự nhạy bén, sáng tạo của đồng chí Lê Đức Anh cùng tập thể Thường vụ Khu ủy Khu 9. Điều đó chẳng những “không đi chệch đường lối của Đảng”, mà còn giúp cho Trung ương thấy được thực tế tình hình, củng cố thêm cơ sở vững chắc để kịp thời ra Nghị quyết số 21 (tháng 8/1973) với chủ trương, sách lược đúng đắn trong điều kiện Mỹ, ngụy vi phạm Hiệp định Pari là: Tiếp tục con đường bạo lực cách mạng, tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ để tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Những năm 1969-1973, trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh đã cùng tập thể Khu ủy lãnh đạo, chỉ huy quân và dân miền Tây Nam Bộ vượt qua giai đoạn khó khăn ác liệt nhất trong việc đánh địch bình định lấn chiếm trên địa bàn. Qua đó, để lại trong lòng quân và dân miền Tây Nam Bộ hình ảnh một người chỉ huy quân sự với bản lĩnh chính trị vững vàng; tinh thần cách mạng tiến công; gắn bó với dân, với cán bộ, chiến sĩ; khả năng tổng hợp phân tích tình hình sắc sảo, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, kịp thời đề xuất những chủ trương sáng tạo, đúng đắn, đưa phong trào cách mạng của quân và dân nơi đây vượt qua khó khăn, phát triển có tính bước ngoặt.
Quá trình hoạt động đó góp phần làm nên hình ảnh và tên tuổi của vị tướng tài ba, thao lược của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, mãi mãi là niềm tự hào và là tấm gương sáng cho Đảng bộ, quân và dân miền Tây Nam Bộ, trong đó có lực lượng vũ trang Quân khu 9 học tập noi theo. Những cống hiến to lớn của Đại tướng Lê Đức Anh đã để lại cho chúng ta, đặc biệt là đội ngũ cán bộ các cấp trong lực lượng vũ trang Quân khu 9 thấm thía những bài học kinh nghiệm lịch sử vô giá có tính quy luật, nhắc nhở người lính trên những chặng đường đi tới là: Người lãnh đạo, chỉ huy phải luôn xây dựng mối quan hệ đoàn kết thật sự trên cơ sở xác định rõ chức trách, nhiệm vụ của từng tổ chức, cá nhân để làm gương cho cán bộ, chiến sĩ; thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không mơ hồ ảo tưởng; nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng, kiên định tư tưởng tiến công trong mọi hoàn cảnh, tình huống,... Đặc biệt, là bài học giữ vững quan điểm, nguyên tắc của Đảng, nhưng tránh làm một cách giáo điều máy móc; phải linh hoạt, nhạy bén, sâu sát, tư duy theo kịp sự phát triển nhanh chóng và phức tạp của tình hình. Từ đó, phát huy tinh thần sáng tạo, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm và hành động trên cơ sở có dự báo khoa học trong vận dụng đường lối quân sự của Đảng phù hợp với thực tiễn, hoàn cảnh cụ thể đặt ra, luôn chủ động nắm bắt thời cơ để lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng vũ trang Quân khu thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao trên địa bàn chiến lược Tây Nam trong thời kỳ mới.
Trung tướng NGUYỄN XUÂN DẮT
Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh là nhà chính trị, quân sự xuất sắc của cách mạng Việt Nam, có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ở bất cứ cương vị công tác nào, đồng chí cũng quán triệt sâu sắc đường lối chính trị, quân sự của Đảng, luôn chủ động, sáng tạo, bám sát chiến trường, bám sát thực tiễn, quyết đoán, nhanh nhạy, dám chịu trách nhiệm và cũng rất giản dị, sâu sắc, nhân văn trong cuộc sống. Những năm 1976 - 1978, trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí đã cùng tập thể Đảng ủy Quân khu 9 đã đưa ra các quyết định đúng đắn, kịp thời lãnh đạo, chỉ huy quân và dân Quân khu 9 chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, đập tan âm mưu xâm lược của tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước đứng trước nhiều khó khăn, thử thách to lớn do hậu quả nặng nề của chiến tranh. Giữa lúc lực lượng vũ trang Quân khu 9 cùng với cấp ủy, chính quyền và nhân dân các địa phương trên địa bàn đang nỗ lực ổn định tình hình, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền, truy quét tàn quân địch và trấn áp các thế lực thù địch, thì bọn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary đã cho quân đánh chiếm một số đảo trong vùng biển Tây Nam. Ngày 05/5/1975, chúng đổ quân đánh chiếm các đảo Thổ Chu, Phú Quốc, Hòn Ông, Hòn Bà, cướp bóc tài sản, giết hại dã man đồng bào ta, bắt đi 600 người dân vô tội. Trên tuyến biên giới trên bộ từ Hà Tiên - Kiên Giang đến Mộc Hóa - Long An, chúng dùng lực lượng bộ binh, có pháo binh chi viện, xâm lấn biên giới; có nơi chúng lấn sâu vào lãnh thổ nước ta, xua quân đi cướp của, giết người, gây nhiều đau thương tang tóc, gây tổn hại truyền thống đoàn kết lâu đời, tình tương thân, tương ái giữa nhân dân ta và nhân dân Campuchia dọc tuyến biên giới.
Trong bối cảnh đồng bằng sông Cửu Long vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh, chấp hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 ngày 29/9/1975 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam Về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới và sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Miền đã tiến hành sắp xếp lại tổ chức các đơn vị và tổ chức quân sự. Ngày 11/11/1975, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Quân khu 9 trên cơ sở sáp nhập Quân khu 8 và Quân khu 9 (T2 và T3). Bộ Tư lệnh Miền bổ sung một số cán bộ lãnh đạo về tăng cường cho Quân khu 9. Theo đó, tháng 02/1976, đồng chí Lê Đức Anh (bí danh Sáu Nam), Phó Tư lệnh Bộ Chỉ huy Miền về giữ chức Tư lệnh Quân khu 9; đồng thời, Bộ Chính trị chỉ định đồng chí làm Bí thư Đảng ủy lâm thời Quân khu.
Với chức trách, nhiệm vụ được giao, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng tập thể Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân Khu 9 nhanh chóng ổn định tình hình, điều chỉnh vị trí đóng quân của các cơ quan, đơn vị; sắp xếp, ổn định tổ chức lực lượng vũ trang Quân khu và thành lập thêm một số đơn vị để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Nhờ nắm chắc, đánh giá đúng tình hình, đồng chí luôn chủ động xây dựng kế hoạch ứng phó kịp thời, hiệu quả với mọi tình huống phức tạp. Điển hình như vụ bạo loạn ngày 16/11/1976 ở tỉnh Cửu Long. Các phần tử phản động người Khmer lợi dụng vấn đề dân tộc kết hợp với bọn tàn quân Pôn Pốt tổ chức gây bạo loạn vũ trang ở 15 điểm thuộc các huyện Tiểu Cần, Cầu Kè, Trà Cú với những hành động hết sức nguy hiểm như đánh chiếm mục tiêu, lợi dụng các vật cản để cố thủ, chống trả lại chính quyền cách mạng. Đồng chí cùng Đảng ủy Quân khu 9 ngay từ đầu đã chủ trương phải giải quyết khôn khéo, mềm dẻo nhưng cương quyết, dứt khoát, không để đổ máu và không sử dụng lực lượng chủ lực xuống xử lý, dẹp bạo loạn. Chủ trương đúng, sự cương quyết, dứt khoát của đồng chí đã được Tỉnh ủy Cửu Long quán triệt, chấp hành và chỉ đạo lực lượng công an phối hợp với lực lượng tại chỗ xử lý, nhanh chóng trấn áp, dập tắt các điểm bạo loạn, sớm ổn định tình hình trật tự trị an trên địa bàn.
Một việc rất quan trọng mà đồng chí đã chỉ đạo ngay sau khi đảm nhiệm Tư lệnh Quân khu 9, đó là: Kiểm kê tất cả tài sản rồi thông qua quy chế quản lý và sử dụng, kể cả số vũ khí có trong biên chế sau chiến tranh còn lại và số vũ khí, khí tài, phương tiện, cơ sở vật chất thu được của địch (số này rất nhiều, cả về số lượng và chủng loại). Qua thanh, kiểm tra đã giúp cho lãnh đạo, chính quyền và chỉ huy các cấp quản lý, sắp xếp lại cơ sở vật chất theo quy chế bảo quản và quy định an toàn; thống kê, phân loại được số lượng, chất lượng các chủng loại; củng cố được hệ thống kho tàng... nên đã ngăn chặn được nguy cơ cháy nổ, mất an toàn, ngăn chặn được tình trạng xuống cấp của vũ khí, khí tài, vật chất, trang bị, ngăn chặn được thất thoát, lãng phí; thu hồi được nhiều vật chất bị chiếm dụng trái phép; giữ gìn và sử dụng có hiệu quả một khối lượng vật chất, phương tiện khá lớn sau chiến tranh.
Cùng thời gian này, Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng có chủ trương giảm biên chế đối với quân đội, giải quyết cho đi lao động xuất khẩu, chuyển ngành, phục viên số lượng lớn cán bộ, chiến sĩ. Nhiều đơn vị trong toàn quân, nhất là ở khu vực phía Nam đã thực hiện chủ trương của trên. Riêng Quân khu 9, đồng chí đã thể hiện rõ tính quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm, rất thận trọng trước những diễn biến phức tạp, căng thẳng tình hình biên giới với Campuchia. Đồng chí bàn bạc trong Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 thống nhất và quyết định giữ lại nhiều hạ sĩ quan, chiến sĩ cùng cán bộ có năng lực, trình độ, khả năng chỉ huy đã trải qua chiến đấu, có tinh thần dũng cảm, gan dạ, ý thức tổ chức kỷ luật tốt, trong đó có cả các đồng chí quê ở phía Bắc. Trên cơ sở đó đã đề nghị thành lập Sư đoàn 330, gồm 3 trung đoàn bộ binh: Trung đoàn Bộ binh 1- U Minh, Trung đoàn Bộ binh 1- Đồng Tháp (đổi phiên hiệu thành Trung đoàn Bộ binh 2) và Trung đoàn Bộ binh 3 - Cửu Long. Đây là những đơn vị có truyền thống đánh giặc, lập công trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, có nền nếp chính quy tốt, địa bàn hoạt động khắp các tỉnh trên địa bàn Quân khu 9 nhưng trọng điểm là vùng biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Ngoài ra, còn quyết định thành lập Trường Hạ sĩ quan Quân khu để chủ động, trực tiếp đào tạo cán bộ trung đội trưởng, trung đội phó, tiểu đội trưởng và một số chiến sĩ đã qua chiến đấu nhằm tạo nguồn cán bộ cơ sở có kinh nghiệm chiến đấu, chăm lo đầu vào làm nền tảng để xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp của lực lượng vũ trang Quân khu 9. Đối với nhiệm vụ xây dựng kinh tế, đồng chí đã cùng tập thể Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định điều chuyển nhiệm vụ của Sư đoàn 4 sang khai hoang xây dựng nông trường sản xuất ở vùng Tứ giác Long xuyên (thuộc hai tỉnh An Giang và Kiên Giang); Sư đoàn 8 khai hoang, xây dựng nông trường sản xuất ở vùng Đồng Tháp Mười (thuộc hai tỉnh Đồng Tháp và Long An), đào kênh từ sông Vàm Cỏ Tây qua sông Tiền để phát triển nông nghiệp.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, lực lượng vũ trang Quân khu đã thực hiện đúng chủ trương của Đảng về tinh giảm tổ chức biên chế, giải thể, sáp nhập và rút gọn nhiều đầu mối đơn vị; đồng thời chuyển nhiều đơn vị sang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế, nhờ vậy quân số thường trực đã giảm nhưng Quân khu vẫn giữ được ba sư đoàn. Vì vậy, khi bọn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary cho quân xâm lấn biên giới Tây Nam, Quân khu 9 đã chủ động đối phó, không bị rơi vào tình trạng bỏ trống địa bàn. Riêng Sư đoàn 330 là một trong những đơn vị chủ lực có sức chiến đấu mạnh mẽ, đã trừng trị thích đáng tội ác của bè lũ phản động Pôn Pốt - Iêng Xary.
Đặc biệt, trước tình hình biên giới Tây Nam ngày càng căng thẳng, với tầm nhìn xa trông rộng, nhận định, đánh giá đúng tình hình, đồng chí đã cùng tập thể Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 đề nghị Bộ Quốc phòng tổ chức, xây dựng thêm một số đơn vị nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, cuối năm 1976, Quân khu quyết định thành lập Trung đoàn Thiết giáp 26, Trung đoàn Công binh 25, Trung đoàn Thông tin 29 và tổ chức thêm 08 trung đoàn để thay thế Sư đoàn 4, Sư đoàn 8 trở lại làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam. Tháng 3/1978, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Sư đoàn Bộ binh 339 trực thuộc Quân khu 9 gồm ba trung đoàn bộ binh 8, 9, 10, Trung đoàn Pháo binh 11 và các tiểu đoàn trực thuộc, địa bàn hoạt động trên hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Lực lượng vũ trang địa phương ở bốn tỉnh biên giới Tây Nam của Quân khu cũng được thành lập, gồm các Trung đoàn Bộ binh 24, 162 và 163 tỉnh An Giang; Trung đoàn 152 và 18 tỉnh Kiên Giang; Trung đoàn 159 và 160 tỉnh Long An và Trung đoàn 320 tỉnh Đồng Tháp. Các tỉnh còn lại đều có một khung trung đoàn, trong đó có một tiểu đoàn đủ quân, sẵn sàng tập trung chi viện cho các tỉnh biên giới.
Để đối phó với các hành động gây hấn của bè lũ phản động Pôn Pốt - Iêng Xary, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, đứng đầu là Tư lệnh Quân khu Lê Đức Anh, đã chủ trương chỉ đạo các đơn vị tích cực ngăn chặn, đẩy lùi mọi hành động khiêu khích của địch, đánh bật chúng về bên kia biên giới, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, đồng thời đẩy mạnh truy quét bọn phản động trong nội địa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, kiên quyết giành thế chủ động trên toàn tuyến biên giới. Quân khu phân chia chiến trường biên giới thành 2 khu vực trọng điểm: Trọng điểm 1 là biên giới tỉnh An Giang (hướng phòng thủ chủ yếu); trọng điểm 2 là biên giới Kiên Giang (hướng thứ yếu); hướng phối hợp là tỉnh Long An và tỉnh Đồng Tháp. Trên cơ sở quyết tâm tác chiến phòng thủ bảo vệ biên giới, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo đưa lực lượng phía sau lên xây dựng một số chốt và cụm chốt phòng thủ vững chắc, có giao thông hào kết hợp với ụ súng, vật cản nhằm đánh bại các đợt tiến công của địch. Đồng thời, chỉ đạo các tỉnh biên giới tập trung cải tạo công sự trận địa, xây dựng ấp, xã chiến đấu và từ một đến hai xã tổ chức thành một cụm chiến đấu như ở Hà Tiên, Châu Đốc và Tịnh Biên. Lực lượng công binh Quân khu chủ trì xây dựng các công trình phòng thủ ở năm khu vực: Bắc Hà Tiên, Giang Thành - Phú Mỹ, Hà Tiên - núi Trầu, núi Tượng - Vĩnh Gia và Châu Đốc - núi Sam, bố trí hàng trăm bãi vật cản hỗn hợp; huy động nhiều lực lượng tham gia rào dây kẽm gai, rào tre, đào chiến hào, giao thông hào, hầm chứa đạn; phối hợp với ngành giao thông vận tải các tỉnh cải tạo, sửa chữa cầu, đường trên nhiều quốc lộ, tỉnh lộ, mở nhiều tuyến đường cơ động cho phương tiện binh khí kỹ thuật; khảo sát, cải tạo nhiều bến bãi, nhiều hang động trên hướng biên giới làm kho dã chiến. Đồng chí chỉ đạo lực lượng hậu cần - kỹ thuật Quân khu tích cực vận chuyển, xây dựng các kho tổng hợp tuyến trước, triển khai các bệnh viện dã chiến, các đội điều trị, các trạm - xưởng sửa chữa; bố trí lực lượng vận tải thủy - bộ trên cả ba khu vực: An Giang, Kiên Giang và Đồng Tháp - Long An. Đến đầu năm 1978, ngành hậu cần Quân khu đã vận chuyển hàng nghìn tấn vũ khí, đạn dược, lương thực - thực phẩm, hàng hóa xuống các kho tuyến trước ở cả ba hướng, có thể bảo đảm cùng lúc cho trên 40.000 các bộ, chiến sĩ trong Quân khu và các đơn vị chủ lực của Bộ tăng cường cho Quân khu 9.
Nhờ tích cực chuẩn bị chu đáo, nên khi tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary cho quân đánh sang toàn tuyến biên giới Tây Nam, riêng Quân khu 9 không bị hẫng hụt, không rơi vào tình trạng “bỏ trống địa bàn” như những nơi khác. Điều đó đã được minh chứng, khi đêm 30/4/1977, địch đồng loạt tiến công trên toàn tuyến biên giới nước ta, trong đó có biên giới địa bàn Quân khu 9. Chỉ trong thời gian ngắn, đồng chí Lê Đức Anh đã kịp thời chỉ đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang Quân khu 9 chặn đánh quyết liệt, gây cho chúng nhiều thiệt hại, khôi phục toàn bộ khu vực biên giới ở hướng An Giang. Khi địch chuyển hướng tiến công sang tuyến biên giới thuộc tỉnh Kiên Giang, lực lượng ta đã chủ động đánh địch ngay từ đầu; đồng thời mở chiến dịch tiến công sang đất Campuchia nhằm mục đích tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận sinh lực địch; bảo vệ công cuộc xây dựng hòa bình của nhân dân ta; đánh phá bàn đạp xuất phát tiến công của địch sang đất ta và tạo điều kiện cho lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia nổi dậy.
Nhiều trận đánh mang đậm dấu ấn chỉ đạo của Tư lệnh Lê Đức Anh, tiêu biểu như:
Trận vận động tiến công tại ấp Bắc Đay, xã Nhơn Hội, huyện Phú Châu của Trung đoàn 2, Sư đoàn 330 ngày 15/01/1978. Đây là trận tiến công địch phòng ngự trong công sự đạt hiệu suất chiến đấu cao. Các đơn vị đã triệt để lợi dụng yếu tố bí mật, bất ngờ, nghi binh có hiệu quả, nâng cao được trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng. Ta đã đẩy địch vào thế bị động, đối phó lúng túng và nhanh chóng bị tiêu diệt, giành lại toàn bộ vùng đất bị địch lấn chiếm; khôi phục lại tình hình biên giới, tạo ổn định để nhân dân trở về bám ruộng vườn làm ăn sinh sống.
Trận tiến công tiêu diệt địch lấn chiếm biên giới nước ta ở khu vực núi Phú Cường, huyện Tịnh Biên của Sư đoàn Bộ binh 330 (được tăng cường), ngày 19/01/1978. Đây là trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô cấp sư đoàn tăng cường đạt hiệu suất chiến đấu cao. Thắng lợi của trận đánh có ý nghĩa quan trọng trên tuyến biên giới Tây Nam; ta đã loại khỏi vòng chiến đấu một bộ phận quan trọng sinh lực địch, bẻ gãy ý đồ tiến công vào sâu lãnh thổ ta. Thắng lợi của trận đánh đã thể hiện rõ trình độ chỉ huy tác chiến hiệp đồng binh chủng của các cấp chỉ huy lực lượng vũ trang Quân khu 9.
Trận chiến đấu phòng ngự tại bắc Hà Tiên của Tiểu đoàn 207 tỉnh Kiên Giang (ngày 24/4/1978). Dù địch đông hơn ta gấp nhiều lần, nhưng ta đã giành được thắng lợi có ý nghĩa quan trọng. Ta vận dụng nhiều cách đánh và thủ đoạn sáng tạo, giữ vững trận địa, tổ chức phản kích đẩy lùi quân địch, khôi phục lại toàn bộ khu vực bị địch chiếm đóng. Trận đánh đã để lại nhiều kinh nghiệm quý cho lực lượng vũ trang địa phương trong tác chiến phòng ngự bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
Đến ngày 05/5/1978, theo yêu cầu nhiệm vụ mới, đồng chí Lê Đức Anh được Trung ương điều động làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7. Như vậy, chỉ trong thời gian hơn hai năm giữ trọng trách Tư lệnh Quân khu 9 trong thời điểm miền Tây Nam Bộ còn nhiều khó khăn và tình hình vô cùng phức tạp, trên cương vị Tư lệnh Quân khu, đã trải qua hai cuộc kháng chiến, nhất là từng có thời gian công tác ở địa bàn này nên đồng chí đã chỉ đạo hoàn thành nhiều nhiệm vụ lớn: Sắp xếp lại tổ chức lực lượng vũ trang Quân khu, vừa tham gia xây dựng kinh tế, vừa giữ được lực lượng tại ngũ, không những không gây sự biến động lớn về tổ chức biến chế mà còn tạo được sự ổn định chung trong Quân khu. Đồng thời, ta thực hiện được công tác đào tạo nguồn cán bộ cơ sở, làm nền tảng để xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp sau này. Đặc biệt, khi tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary tiến hành các hoạt động khiêu khích, tiến công xâm lược biên giới, với sự quyết đoán, nhanh nhạy, dự đoán trước tình hình, đồng chí đã cùng tập thể Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu lãnh đạo, chỉ huy quân và dân Quân khu 9 chủ động làm tốt công tác chuẩn bị, tích cực xây dựng lực lượng, thế trận và cơ sở vật chất bảo đảm cho tác chiến phòng thủ; tổ chức chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, chủ động tiến công, phản công, khôi phục lại tuyến biên giới, tạo thế và lực cho chiến dịch tổng phản công lật đổ chế độ diệt chủng, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam.
Đại tướng Lê Đức Anh đã đi xa nhưng đức độ, tài năng, phong cách lãnh đạo, chỉ huy của đồng chí mãi mãi là niềm tự hào và là tấm gương sáng cho Đảng bộ, chính quyền, quân và dân Quân khu 9 học tập, noi theo. Ngày nay, sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, bên cạnh những thời cơ và thuận lợi cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Học tập và noi gương đồng chí Lê Đức Anh, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 9 tiếp tục trau dồi bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; nắm vững tinh thần cách mạng tiến công; chủ động nắm, dự báo, đánh giá sát đúng tình hình, kịp thời xử lý hiệu quả các tình huống không để bị động bất ngờ, nhất là trên các địa bàn trọng điểm, biên giới, biển đảo. Tích cực chấn chỉnh tổ chức, lực lượng theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, bảo đảm nâng cao sức mạnh chiến đấu, phù hợp với yêu cầu của nghệ thuật tác chiến hiện nay, ưu tiên cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, tuyến biên giới, biển đảo. Tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ, “thế trận lòng dân” vững chắc, chú trọng hướng vào địa bàn cơ sở, xây dựng điểm mô hình chốt dân quân bảo vệ biên giới Tây Nam. Không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện, trình độ sẵn sàng chiến đấu, vận dụng sát vào điều kiện cụ thể của Quân khu trên địa bàn sông nước. Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng các cấp trong lực lượng vũ trang Quân khu 9; quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời làm tốt công tác đối ngoại quốc phòng, gắn với những hoạt động thiết thực nhằm góp phần củng cố, xây dựng tuyến biên giới Tây Nam trên địa bàn hòa bình, ổn định và phát triển.
Trung tướng Huỳnh Chiến Thắng
Năm 1969, phong trào cách mạng ở Khu 9 gặp muôn vàn khó khăn, thử thách. Trong bối cảnh đó, đồng chí Lê Đức Anh - Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Miền được tin tưởng, lựa chọn điều về làm Tư lệnh Quân khu 9, Phó Bí thư Khu ủy. Đây là một chủ trương đúng đắn nhằm tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Khu ủy và Quân khu, củng cố tổ chức, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, khôi phục lại thế và lực của Khu. Trong thời gian đảm nhiệm Tư lệnh Quân khu, đồng chí đã có đóng góp to lớn vào việc củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng khôi phục và phát triển phong trào kháng chiến ở Quân khu 9.
Trong năm 1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta ở miền Nam đã giáng một đòn mạnh mẽ vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc địch phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt ném bom đánh phá miền Bắc từ Vĩ tuyến 20 trở ra, bước vào bàn đàm phán với ta ở Pari. Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” bị phá sản, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, chủ trương rút dần quân Mỹ về nước, tiếp tục chi viện, xây dựng quân đội Sài Gòn đủ sức đương đầu với Quân Giải phóng miền Nam, thực hiện biện pháp quét và giữ đi đôi với tăng cường bình định nông thôn.
Ở Quân khu 9 nói riêng và nhiều địa bàn khác trên chiến trường miền Nam nói chung, từ nửa cuối năm 1968, khi sức tiến công của ta giảm sút, yếu tố bất ngờ không còn, địch nhanh chóng củng cố, phản kích quyết liệt, đẩy lực lượng ta ra khỏi các thành phố, thị xã. Với vũ khí hiện đại, lực lượng đông, địch giành lại vùng nông thôn đã mất và đánh lấn ra, đẩy bật quân ta ra khỏi địa bàn có dân. Cùng với đó, địch còn sử dụng các loại máy bay, có cả máy bay chiến lược B.52 đánh phá, phát quang nhiều cánh rừng, tàn phá nặng nề nhiều làng mạc. Địch sử dụng xe tăng, xe bọc thép, xe đặc chủng quân sự, các loại tàu chiến, xuồng, bo bo bắn phá và tung quân càn quét, dồn dân, bình định suốt ngày đêm. Địch trang bị vũ khí cho dân vệ và cả lực lượng phòng vệ dân sự. Bằng những thủ đoạn đánh phá tổng hợp, với các phương tiện chiến tranh hiện đại, địch tiến hành càn quét liên tục, chà đi xát lại nhiều lần trên từng khu vực nhằm tách cơ sở của ta ra khỏi địa bàn ấp, xã để đóng đồn bốt và thực hiện bình định. Chúng tăng cường xây dựng hệ thống đồn bốt dày đặc khắp các ấp, xã. Mỗi xã có ít từ 3 đến 6 đồn, nhiều nhất là từ 14 đến 15 đồn, thậm chí xã Lục Sĩ Thành (cù lao Mây) nam Trà Ôn có tới 29 đồn. Đến cuối năm 1969, địch đã “bình định lấn chiếm gần hết vùng giải phóng trước đây, chỉ còn căn cứ U Minh và khu giải phóng nam Cà Mau”.
Trong khi đó, sau Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, lực lượng vũ trang Quân khu bị tổn thất nặng nề, phải rút khỏi vùng ven đô thị, đồng bằng. Bộ đội chủ lực quân số thiếu hụt nghiêm trọng, không được bổ sung. Quân khu 9 buộc phải giải tán Trung đoàn 2 để lấy quân số bổ sung cho Trung đoàn 1, nhưng quân số cũng chỉ có khoảng 600 cán bộ, chiến sĩ. Ở cấp tỉnh, trước đây có 2 đến 3 tiểu đoàn, nay chỉ còn 1 tiểu đoàn, quân số khoảng 100 cán bộ, chiến sĩ. Ở cấp huyện, trước có 2 đến 3 đại đội, nay chỉ còn 1 đại đội với vài chục cán bộ, chiến sĩ, thậm chí có huyện chỉ còn 1 trung đội. Tỉnh Cà Mau còn 13 xã giải phóng nhưng chỉ tuyển được 7 tân binh bổ sung cho bộ đội chủ lực Khu, 6 tân binh bổ sung cho bộ đội huyện. Toàn Khu (chưa tính tỉnh Vĩnh – Trà) có 12.000 cán bộ, chiến sĩ bỏ ngũ về nhà4. Lực lượng chính trị sa sút nghiêm trọng. Ở nhiều địa phương cán bộ lực lượng vũ trang cơ sở tróc khỏi địa bàn hoạt động. Ở Vĩnh Long và các huyện nam sông Măng Thít ta không còn chủ lực, địa bàn bỏ trống hoàn toàn... Địch bình định được vùng ruột Vĩnh - Trà, gây cho ta nhiều khó khăn, quần chúng không còn chỗ dựa, phong trào cách mạng sa sút. Trong hai năm 1968-1969, hơn 10.000 cán bộ, chiến sĩ bị bắt, hơn 30.000 cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Lực lượng chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương đều mất sức chiến đấu nghiêm trọng. Có 50 xã trong tổng số 250 xã, đảng viên bỏ chạy khỏi xã; 40 xã có 1 đến 2 đảng viên, không có chi bộ; lực lượng du kích ở các xã, ấp đầu năm 1968 có 45.000 người, đến cuối năm 1969 chỉ còn 6.200 người.
Trước tình hình muôn vàn khó khăn, thử thách đó, Tư lệnh Lê Đức Anh đã cùng Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu đánh giá thấu đáo tình hình, xác định những chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị... Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong lãnh đạo, chỉ huy, đồng chí đã cùng Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất việc phân cấp, phân quyền trong công tác lãnh đạo, chỉ huy ở các cấp, theo đó công tác lãnh đạo của Khu ủy, là tập thể lãnh đạo; chỉ huy ở các cấp chỉ có một cấp trưởng, cấp phó là giúp việc cho cấp trưởng. Về phương thức lãnh đạo, Khu ủy lãnh đạo bằng nghị quyết; Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ huy về quân sự, mọi công tác quân sự do Quân khu điều hành. Trên cơ sở đó, đồng chí cùng tập thể Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu xây dựng, củng cố mối đoàn kết, thống nhất giữa lãnh đạo với chỉ huy, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, tạo niềm tin, phấn khởi cho quân và dân Khu 9 hăng hái chiến đấu chống kẻ thù.
Trước tình hình địch bình định, bao vây, phong tỏa mọi hướng, ta gặp khó khăn mọi mặt, cả về trang bị và đời sống, bộ đội thiếu thốn, chấp hành quy định chưa nghiêm, trong chiến đấu còn tổn thất nhiều.., đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục khó khăn về hậu cần, kỹ thuật, cương quyết chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật trong bộ đội, nhờ đó nâng cao sức mạnh chiến đấu của các đơn vị.
Sau khi bình định lấn chiếm được đại bộ phận vùng đông dân, địch âm mưu lấn chiếm U Minh trong năm 1969. Để phá kế hoạch bình định của địch, đồng chí cùng Bộ Tư lệnh Quân khu đề xuất: Duy trì, xây dựng khối bộ đội chủ lực, đánh lớn, đánh những trận tiêu diệt nhằm vào quân cơ động yểm trợ lấn chiếm, kết hợp với chiến tranh du kích rộng rãi, bao gồm du kích cơ quan, du kích các xã trong căn cứ đánh bại các mũi càn quét tại chỗ, tạo điều kiện cho địa phương có điều kiện củng cố, khôi phục và phát triển phong trào nổi dậy và tiến công của quần chúng. Từ tháng 9/1969 đến tháng 02/1970, địch mở hai cuộc hành quân lấn chiếm U Minh, song với chủ trương, giải pháp lãnh đạo sát đúng, đồng chí đã cùng Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy quân và dân Khu 9 đánh bại hai cuộc hành quân của địch, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của chúng, bảo vệ vững chắc căn cứ U Minh.
Sau khi đánh bại địch lấn chiếm U Minh lần hai, Bộ Tư lệnh Quân khu xuất hiện hai khuynh hướng chủ trương khác nhau trong chỉ đạo đánh địch. Với bản lĩnh, tính cách thận trọng, kiên quyết, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đồng chí đã phân tích thấu đáo tình hình mọi mặt. Tại Hội nghị Khu ủy tháng 9/1970 ở U Minh Hạ, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ rõ: lực lượng vũ trang phải bám dân, sống trong dân, làm chỗ dựa cho dân, cùng với dân hình thành lực lượng tổng hợp tiến công địch. Bộ đội tập trung kết hợp với dân quân, du kích thường xuyên tổ chức tiến công địch. Xây dựng và phát triển lực lượng, nhất là bộ đội chủ lực để phản công và phá thế tiến công của địch.
Quán triệt sâu sắc nghị quyết của Khu ủy, đồng chí chỉ đạo, tổ chức, điều chỉnh lại lực lượng trên chiến trường. Theo đó, Trung đoàn 1 ở Long Mỹ; Trung đoàn 3 ở Vĩnh - Trà, trụ bám trên địa bàn then chốt giữa hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh; các cơ quan Quân khu đều xây dựng kế hoạch bám trụ và đánh địch. Việc bám trụ đánh địch của các cơ quan Quân khu trong điều kiện hết sức khó khăn, ác liệt, Khu ủy có ý kiến nên chuyển các cơ quan Quân khu về nam Cà Mau. Với tư duy sắc sảo, đồng chí cùng Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ rõ: nếu chuyển về nam Cà Mau thì sẽ khó khăn trong chỉ đạo, chỉ huy, ảnh hưởng tới phong trào, đồng thời nếu rút đi thì địch sẽ lấn chiếm, ta mất đất, mất chỗ đứng chân. Do vậy, đồng chí cùng Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định bám trụ ở U Minh Thượng, đồng thời triển khai tiền phương Quân khu ở Long Mỹ (Cần Thơ) sát căn cứ địch và đồng chí thường xuyên có mặt ở đây để chỉ đạo, chỉ huy đánh địch, xử lý tình huống kịp thời.
Dưới sự chỉ đạo, chỉ huy sâu sát, kịp thời của Tư lệnh Lê Đức Anh, bộ đội địa phương và dân quân, du kích Quân khu 9 được củng cố; cán bộ trở lại các địa phương, thực hiện bám đất, bám dân, bám địch, hoạt động tích cực. Các căn cứ chiến đấu, phong trào chiến tranh du kích từng bước được khôi phục. Năm 1970, khi được cấp trên tăng cường hai trung đoàn (Trung đoàn 10, Trung đoàn 20), đồng chí cùng Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ đạo, tổ chức bổ sung quân số cho ba trung đoàn chủ lực, bố trí lại lực lượng chiến đấu trên chiến trường. Theo đó, Trung đoàn 1 tiến lên Phụng Hiệp (Cần Thơ); Trung đoàn 2 ở Long Mỹ; Trung đoàn 3 ở Măng Thít, vùng ruột của Vĩnh - Trà; Trung đoàn 10 ở Cà Mau; Trung đoàn 20 về khu vực Giồng Riềng (Rạch Giá). Với thế bố trí như vậy, ta đã tạo nên thế trận phòng thủ vững chắc cho Quân khu. Phong trào đấu tranh cách mạng ở Quân khu 9 cũng từng bước được phục hồi, phát triển.
Từ năm 1970 đến năm 1972, đồng chí Lê Đức Anh cùng Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy quân và dân Khu 9 khắc phục mọi khó khăn, thiếu thốn, giành được nhiều thắng lợi lớn, trong đó tiêu biểu là cuộc phản công mùa mưa năm 1971, đánh bại kế hoạch “tô dày, lấp kín U Minh” của địch; tiến công tổng hợp năm 1972 với 6 đợt cao điểm. Trong các đợt hoạt động đó, quân và dân Khu 9 đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, phá hủy nhiều tàu chiến, ca nô, máy bay, phương tiện chiến tranh, bóc gỡ nhiều đồn bốt, phá ấp chiến lược, giải phóng hàng vạn dân..., lực lượng vũ trang được củng cố, có bước phát triển mới. Chỉ tính riêng trong đợt phản công đánh địch lấn chiếm bình định U Minh lần thứ ba, từ ngày 06/9/1971 đến ngày 12/9/1971, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.057 tên địch. Trong tiến công tổng hợp năm 1972, với 6 đợt cao điểm, từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1972, Quân khu giành được thắng lợi to lớn: tiêu diệt, tiêu hao, làm tan rã gần 1 vạn tên địch; tiêu diệt 6 tiểu đoàn, 1 liên đội, 1 chi đoàn, 97 đại đội, 329 trung đội, giải tán và làm tan rã 20.000 phòng vệ dân sự; đánh chìm, cháy 213 tàu, phá hủy 234 xe quân sự, 192 khẩu pháo, bắn rơi 151 máy bay, phá hủy 51 kho, phá sập 51 cầu, thu 8.896 súng các loại và 474 máy vô tuyến điện; tiêu diệt 4 chi khu, 2 yếu khu, 6 căn cứ trung đoàn, tiểu đoàn; bức rút, bức hàng 916 đồn bốt; giải phóng 400 ấp, với khoảng 800.000 dân. Lực lượng vũ trang lớn mạnh, du kích tăng 50%, bộ đội địa phương tỉnh, huyện tăng 20-50% quân số2.
Những thắng lợi đó có ý nghĩa to lớn, làm thay đổi tương quan so sánh lực lượng có lợi cho ta. Từ chỗ bị địch lấn chiếm gần hết đất, hết dân, ta trong thế bị động chống đỡ, Quân khu 9 đã chuyển sang thế chủ động đánh địch, tiến công đẩy lui địch về sát các thành phố, thị xã, thị trấn, góp phần đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ. Các cơ sở cách mạng được khôi phục ở hơn 1.000 ấp. Lực lượng vũ trang phát triển, trụ bám được ở các vùng đông dân, chiến tranh du kích phát triển. Bộ đội chủ lực đứng vững trên địa bàn, phối hợp chặt chẽ cùng bộ đội địa phương, dân quân, du kích, tạo sức mạnh tổng hợp ba thứ quân trong tác chiến. Hình thành được thế chiến lược vững chắc, liên hoàn, đánh bại âm mưu phân tuyến, phân vùng của địch. Qua đó, củng cố niềm tin, cổ vũ, động viên quân và dân Khu 9 vượt qua mọi gian khó, hiểm nguy, tiếp tục chiến đấu kiên cường, dũng cảm, đẩy mạnh phong trào kháng chiến.
Trước những thất bại liên tiếp trên các chiến trường, cùng với thất bại thảm hại trong chiến tranh phá hoại miền Bắc, đặc biệt là trong chiến dịch Lainơbêchcơ II (Linebacker) (từ ngày 18 đến ngày 29/12/1972), đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, nối lại đàm phán và ký Hiệp định Pari (ngày 27/01/1973), rút hết quân về nước. Song với bản chất hiếu chiến, ngoan cố, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn trắng trợn vi phạm Hiệp định, hô hào “tràn ngập lãnh thổ”. Nguyễn Văn Thiệu - Tổng thống chính quyền Sài Gòn công khai tuyên bố: Ngừng chiến, nhưng không ngừng bắn, không thi hành Hiệp định Pari. Chúng tiếp tục đẩy mạnh các cuộc tiến công, càn quét, lấn chiếm, bình định.
Trên địa bàn Khu 9, địch ra sức càn quét, bình định, chiến tranh tiếp diễn ác liệt. Với tư duy nhạy bén, rút kinh nghiệm trong thi hành Hiệp định Giơnevơ năm 1954, đồng chí Lê Đức Anh cùng Khu ủy đã đánh giá, nhận định tình hình chính xác, từ đó đề nghị lên trên: Tiếp tục giữ thế tiến công, kiên quyết đánh trả địch lấn chiếm, bình định, đẩy mạnh đấu tranh chính trị, binh vận, giữ vững thành quả cách mạng. Khi Bộ Tư lệnh Miền chỉ thị cho Quân khu 9 rút hai trung đoàn chủ lực về phía sau, đồng chí báo cáo xin vẫn duy trì thế bố trí chiến lược hiện tại, không rút các trung đoàn chủ lực về phía sau, vì rút chủ lực về phía sau địch sẽ lấn chiếm.
Trên cơ sở chủ trương Khu ủy đã xác định, đồng chí cùng Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ thị cho các lực lượng vũ trang Quân khu: Tiếp tục chiến đấu, kiên quyết trừng trị địch vi phạm Hiệp định, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, hỗ trợ cho nhân dân đòi hòa bình, dân chủ. Quán triệt và chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Quân khu, lực lượng vũ trang Quân khu tiếp tục bám trụ, cương quyết đánh địch lấn chiếm, phát động và hỗ trợ quần chúng đấu tranh chính trị buộc địch thi hành Hiệp định, đồng thời đẩy mạnh công tác binh vận (Riêng trong tháng 5/1973, có 1.300 binh sĩ địch ở khu vực trọng điểm rã ngũ)2.
Đồng chí cùng Bộ Tư lệnh Quân khu trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, cụ thể, bằng nhiều phương pháp đấu tranh linh hoạt, phù hợp, tiến công địch cả về quân sự, chính trị và binh vận, đánh bại kế hoạch lấn chiếm, bình định của địch, giữ được địa bàn then chốt, củng cố và mở rộng vùng giải phóng. Nhân dân các vùng giải phóng trở về ngày càng đông, dần ổn định đời sống. Các căn cứ địa phương được xây dựng, củng cố vững mạnh về mọi mặt. Điều đó minh chứng chủ trương của Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 là đúng đắn, thể hiện tầm nhìn, tư duy nhạy bén, sáng tạo, trách nhiệm cao của tập thể Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9. Đồng chí Lê Đức Anh với cương vị Phó Bí thư Khu ủy, Tư lệnh Quân khu có vai trò quan trọng, đóng góp to lớn vào chủ trương, biện pháp lãnh đạo, đồng thời trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trên địa bàn Khu 9.
Có thể thấy, trong thời gian giữ cương vị Phó Bí thư Khu ủy, Tư lệnh Quân khu 9, mặc dù tình hình Khu 9 gặp muôn vàn khó khăn, thử thách, nhưng, với tài năng chính trị - quân sự, tầm nhìn chiến lược, tư duy sắc sảo, phân tích, đánh giá chính xác tình hình, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đồng chí đã đóng góp nhiều công sức, trí tuệ, cùng Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đề ra những chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát đúng, phù hợp với từng giai đoạn của cuộc chiến tranh; từng bước vượt qua mọi khó khăn, hiểm nguy, khôi phục và phát triển phong trào kháng chiến trên địa bàn, đánh bại các thủ đoạn chiến thuật, chiến lược quân sự của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, góp phần to lớn vào thắng lợi hoàn toàn của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vào mùa Xuân năm 1975.
Thượng tá, ThS. NGUYỄN VĂN BÌNH
Bước sang năm 1969, trên chiến trường miền Nam, Mỹ và quân đội Sài Gòn tiến hành bình định quyết liệt vùng nông thôn, trọng điểm là đồng bằng sông Cửu Long; đồng thời chúng tăng cường đánh phá tuyến giao thông vận tải chiến lược và các căn cứ của ta ở vùng biên giới giữa hai nước Việt Nam và Campuchia. Hoạt động đánh phá quyết liệt của địch đã gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất; tình trạng thiếu vũ khí, trang bị, lương thực, thuốc men diễn ra ở nhiều nơi, liên tục, trong nhiều ngày. Trước tình hình đó, đồng chí Lê Đức Anh đã lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sáng tạo trong công tác hậu cần miền Tây Nam Bộ, góp phần quan trọng vào thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1969 - 1974). Sự chỉ đạo linh hoạt, sáng tạo, kịp thời của đồng chí được thể hiện trên một số nội dung chính sau:
1. Chỉ đạo xây dựng căn cứ, vùng giải phóng bảo đảm hậu cần tại chỗ cho lực lượng vũ trang
Căn cứ U Minh Thượng với diện tích hàng trăm nghìn hécta, là vùng đất có nhiều nông, hải sản phong phú, đa dạng. Xác định “U Minh Thượng cũng là nơi cung cấp sức người và của cho cuộc kháng chiến ở miền Tây, là địa bàn cơ động lực lượng vũ trang Quân khu 9 tồn tại và xây dựng lớn mạnh, là nơi xuất phát tiến công địch ở Cần Thơ và vùng biên giới Hà Tiên tiếp giáp với nước bạn Campuchia”, vì vậy, sau khi đảm nhiệm giữ chức Tư lệnh Quân khu 9 (năm 1969), đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Bộ Tư lệnh, Tiền phương Khu ủy Khu 9 lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng vũ trang miền Tây Nam Bộ liên tục bám trụ ở U Minh Thượng để lãnh đạo nhân dân kháng chiến.
Ngoài U Minh Thượng, để đẩy mạnh tạo nguồn hậu cần tại chỗ phục vụ nhiệm vụ quân sự và bước phát triển mới của cách mạng, Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ đạo tiếp tục củng cố, bố trí lại các căn cứ, cơ sở hậu cần theo khu vực đã có ở vùng giải phóng. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tư lệnh Quân khu, lực lượng hậu cần được bố trí ở bốn vùng: vùng Vị Thanh và vùng Chương Thiện phục vụ địa bàn ba tỉnh Cần Thơ, Rạch Giá và Sóc Trăng; vùng Vĩnh Trà và vùng ven biên giới Châu Hà (Châu Đốc - Hà Tiên) phục vụ từ Bảy Núi đến Hà Tiên và U Minh - Năm Căn. Mỗi vùng có cán bộ Phòng Hậu cần phụ trách, có các bộ phận chuyên môn nghiệp vụ. Dựa vào cấp ủy và cơ sở cách mạng địa phương trong vùng, Bộ Tư lệnh Quân khu tổ chức trong căn cứ hệ thống kho tàng, cơ sở quân y, lực lượng vận tải, tạo nguồn dự trữ “lót ổ” và bảo đảm vật chất cho lực lượng vũ trang cơ động tác chiến trên địa bàn. Các căn cứ ở vùng giải phóng có lực lượng bảo đảm hoàn chỉnh, có dự trữ vật chất tương đối lớn và đồng bộ đã tạo nên thế trận hậu cần liên hoàn, vững chắc trên từng chiến trường, nâng cao rõ rệt khả năng bảo đảm cho các nhiệm vụ cần kíp trước mắt và chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc tiến công chiến lược khi có thời cơ.
Thực hiện sự chỉ đạo của Tư lệnh Quân khu, trong căn cứ ở vùng giải phóng, Hậu cần Quân khu còn xây dựng cơ sở sản xuất tự túc thành “Căn cứ quốc phòng”, gồm hai tiểu nông trường sản xuất nông nghiệp với 400 hécta lúa ở Ô Môi, Vĩnh Thuận (Rạch Giá) và Căn cứ 701 (U Minh Hạ) và các cơ sở thương nghiệp, chăn nuôi, đánh bắt cá, 5 nhà máy chà lúa, cơ sở làm nước mắm, trạm sửa chữa cơ khí, trại chuồng... Căn cứ quốc phòng có nhiệm vụ tạo sản phẩm và tài chính phục vụ cho yêu cầu chiến đấu, cải thiện đời sống vật chất cho bộ đội, một phần phục vụ nhân dân. Năm 1973, căn cứ quốc phòng thu hoạch được 16.000 giạ lúa (1 giạ = 20kg), 3 tấn tôm khô, 200.000 lít nước mắm, 30 tấn cá muối bảo đảm bình quân đầu người tự túc lương thực được 1,5 tháng/năm. Kết quả sản xuất tự túc, tự cấp lương thực, thực phẩm, tài chính hàng năm ở các cơ quan, đơn vị Quân khu là rất lớn, không những đã giải quyết một phần thiếu hụt ngân sách, mà còn góp phần ổn định và cải thiện đời sống sinh hoạt của bộ đội.
Chấp hành chủ trương của Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền về việc yêu cầu các địa phương bằng mọi cách phải kiên quyết “bám đất, bám dân” phục vụ nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, Tư lệnh Quân khu 9 Lê Đức Anh trực tiếp chỉ đạo cho bộ đội ở vùng căn cứ, vùng giải phóng phải “xây dựng quan điểm quần chúng, có lòng tin vào dân, dựa vào dân, dùng phương thức của dân để bảo đảm hậu cần”. Ông cho rằng “không sát dân, không làm theo phương thức của dân, dân xa lánh bộ đội thì lòng tin của dân vào bộ đội giảm sút nghiêm trọng; không tiếp xúc với dân thì bộ đội mất chỗ dựa, không lấy lương thực”2.
Thực hiện chỉ đạo của đồng chí Tư lệnh, trong các vùng căn cứ, vùng giải phóng, bộ đội ta đã có những giải pháp cụ thể như thực hiện chính sách người cày có ruộng, tổ chức làm ăn tập thể (vần đổi công), hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, đẩy mạnh sản xuất thâm canh tăng vụ, khai hoang phục hóa, làm thủy lợi... Phong trào sản xuất, phát triển kinh tế, ổn định dân cư, cải thiện đời sống nhân dân nhiều nơi lên rất mạnh. Kết thúc đợt hoạt động tác chiến năm 1972, đánh giá về công tác bảo đảm hậu cần tại chỗ, Tư lệnh Lê Đức Anh nêu rõ: “đội hình hậu cần các cấp triển khai từng bước tuy chưa hoàn chỉnh, nhưng phù hợp với tình hình và bảo đảm được yêu cầu của toàn chiến trường. Về cơ bản, ta đã triển khai được đội hình hậu cần chiến lược, hậu cần chiến dịch từ sau ra trước, từ trên xuống dưới”.
Từ năm 1973, diện tích trồng lúa của huyện Long Mỹ (Cần Thơ) cho thu hoạch tăng hàng nghìn tấn so với trước. Ngoài việc đẩy mạnh sản xuất tăng vụ, huyện Châu Thành A (Rạch Giá) tạm cấp 5.800 hécta đất cho 1.136 hộ dân, tổ chức huy động nhân dân làm thủy lợi, khơi 4 con kênh dài gần 4km, đào mới hơn 3km mương, 3 cống ngăn mặn, giải quyết hàng chục hécta ruộng cho lực lượng vũ trang trên địa bàn tự túc lương thực. Nhờ vậy, trong hai năm 1973 và 1974, các tỉnh Khu 9 đã thu hoạch được 4.500.000 giạ lúa. Tỉnh Mỹ Tho, nơi thường xuyên diễn ra các trận chiến đấu ác liệt, năm 1973 cũng thu tài chính được 320 triệu đồng (tăng 75 triệu so với năm 1972), sang năm 1974 thu đạt trên 431 triệu đồng (tiền Việt Nam Cộng hòa)…
Tại các căn cứ, vùng giải phóng miền Tây Nam Bộ, Tư lệnh Lê Đức Anh chỉ đạo phải “xây dựng công tác bảo đảm hậu cần có quan điểm chiến đấu: phải tiến công địch, giành giật với địch để bảo đảm tính mạng, tài sản, lương thực, chiến đấu để lấy vũ khí địch đánh địch; chiến đấu để bảo đảm giao liên vận tải (đội vận tải cũng là đội quân chiến đấu, có thể đánh tàu, đánh giao thông cũng được), các cơ quan cũng phải chiến đấu bảo vệ sản xuất”. Năm 1973, khi địch thực hiện âm mưu “Bóp dạ dày Việt cộng”, đưa quân lấn chiếm đất đai, đốt, phá lúa của dân, thu mua phá giá, vơ vét lúa gạo của ta, cấm ngặt nhân dân chuyển gạo ra vùng giải phóng, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Bộ Tư lệnh Quân khu 9 và chính quyền các tỉnh Tây Nam Bộ chỉ đạo quyết liệt cuộc chiến đấu bảo vệ lúa gạo của nhân dân. Đến mùa gặt, bộ đội và du kích đứng chân ở đâu đều phải tích cực bảo vệ vòng ngoài, giúp dân thu hoạch lúa, gặt đến đâu đem về cất giấu đến đấy. Ở Vĩnh Viễn (Cần Thơ), nhân dân ấp 2 và ấp 6 đã đấu tranh với chỉ huy và thuyết phục binh lính địch để được vào gặt lúa ở các ruộng sát đồn. Cơ quan kinh tài, hậu cần các cấp phối hợp với các đoàn thể cách mạng cơ sở vừa tích cực thu mua lúa đảm phụ ở vùng giải phóng, vừa vận động các hình thức đóng góp khác, tổ chức kho lúa trong dân, nhờ dân cất giữ bảo quản và bảo vệ, giải quyết cơ bản nguồn lương thực, tài chính tại chỗ phục vụ lực lượng vũ trang.
Sau khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đến Cần Thơ và nâng chính sách thu mua lúa gạo lên hàng “Quốc sách”, địch đề ra kế hoạch cướp lúa gọi là “Kế hoạch Trần Khánh Dư”. Thực hiện kế hoạch trên, địch sử dụng Sư đoàn 9 hỗ trợ cướp lúa ở Bạc Liêu và Sóc Trăng. Trên cơ sở nắm được ý đồ và kế hoạch của địch, Bộ Tư lệnh Quân khu chủ trương chống lấn chiếm kết hợp với chống cướp lúa, kiên định nguyên tắc bám trụ vững chắc kết hợp cơ động tiến công và chỉ đạo các địa phương đấu tranh chống biên thu, gom lúa, thu mua lúa gạo trả bằng tấm phiếu. Cuối năm 1973, cuộc hành quân lớn của địch thất bại hoàn toàn làm cho kế hoạch lấn chiếm và cướp lúa bị phá vỡ buộc Tổng thống Thiệu chỉ thị cho Vùng 4 phải thực hiện “biện pháp thu, vét lúa gạo phải mềm dẻo hơn và thừa nhận quyền lưu thông lúa gạo trong từng vùng”.
2. Chỉ đạo tổ chức xây dựng hành lang vận chuyển vũ khí, đạn dược
Từ đặc điểm miền Tây Nam Bộ là chiến trường xa nhất của miền Nam, cùng với đó, thế bố trí lực lượng địch, ta xen kẽ, địa hình trống trải, sông rạch chằng chịt, lại bị địch chia cắt, kiểm soát gắt gao nên việc tiếp nhận chi viện vũ khí, đạn dược từ hậu phương miền Bắc và từ miền Đông Nam Bộ rất khó khăn. Hiểu rõ vai trò của hành lang vận tải luôn là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng để bảo đảm vũ khí, đạn, Tư lệnh Lê Đức Anh đã trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo tập trung xây dựng, phát triển tổ chức vận tải chuyên nghiệp và vận tải nhân dân, mở rộng các tuyến hành lang bằng các hình thức vận chuyển bí mật, công khai, bán công khai, đáp ứng nhu cầu vận tải tiếp tế cung cấp phục vụ chiến trường.
Để tiếp nhận vũ khí, đạn dược của trên chi viện trước sự ngăn chặn của địch, năm 1969, Bộ Tư lệnh Quân khu giao cho Đoàn 195 thực hiện nhiệm vụ nhận hàng ở biên giới Campuchia. Vào mùa khô, Đoàn 195 bí mật vác bộ qua kênh Vĩnh Tế, còn về mùa nước nổi, dùng xuồng chở ban đêm. Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ đạo Phòng Hậu cần tổ chức lực lượng quần chúng cách mạng sử dụng loại ghe (thuyền) hai đáy của quân và dân miền Tây Nam Bộ để vận chuyển vũ khí hợp pháp vào ban ngày, mỗi chiếc chở từ 0,5 đến 2 tấn vũ khí. Với những loại vũ khí lớn như súng, đạn cối 120mm và ĐKZ75mm thì được chở bằng “xá” (thuyền loại lớn) trọng tải 30 tấn. Tháng 8/1969, ghe (thuyền) hai đáy đầu tiên bắt đầu hoạt động ở khu vực Vĩnh Trà. Chuyến vận chuyển thứ nhất theo sông Sở Thượng đi sâu vào cù lao Bình Thành rồi đi xuống địa bàn tỉnh Kiến Phong 50km, rồi từ đó đi vào sông Tiền qua sông Hậu. Để che mắt địch, các thuyền chất đầy trái cây, nông sản ở trên còn ở dưới là vũ khí đạn, đạn dược. Nhờ hình thức vận chuyển này, Quân khu đã tiếp nhận và vận chuyển an toàn một khối lượng lớn vũ khí đạn của trên chi viện. Vũ khí, đạn vận chuyển về được bố trí ở hệ thống kho quân khí được tổ chức thành 9 đơn vị tương đương cấp đại đội mang phiên hiệu từ H1 đến H9, trải dọc các tuyến đường từ biên giới Campuchia về đến Quân khu 9. Các kho có nhiệm vụ tiếp nhận bảo quản, giữ gìn và phân phối vũ khí, đạn trên từng tuyến, từng khu vực theo kế hoạch và quy định của Bộ Tư lệnh Quân khu.
Cùng với việc mở đường vận chuyển vũ khí, đạn từ Campuchia về miền Tây Nam Bộ, sau một thời gian nghiên cứu, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 đã tổ chức thử nghiệm một đơn vị vận tải biển cải trang thành ngư dân bí mật ra miền Bắc vận chuyển vũ khí vào chiến trường. Sau chuyến đi thử nghiệm, Quân ủy Trung ương đồng ý cho Quân khu 9 sử dụng phương thức này và cấp tiền cho Quân khu đóng thuyền và mua sắm trang thiết bị. Đồng thời, Quân ủy còn giao cho Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân chọn 5 địa điểm trên các đảo ngoài khơi để cho tàu miền Bắc đưa hàng đến rồi từ đó Quân khu dùng thuyền để chuyển vào bờ. Thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương, ngày 27/7/1971, Tư lệnh Quân khu 9 quyết định thành lập Đoàn S950 với nhiệm vụ tổ chức những đội thuyền vận tải nhận hàng từ các điểm trung chuyển vào bờ cất giấu. Để thực hiện nhiệm vụ, Đoàn S950 tổ chức thành 2 bộ phận: bộ phận không hợp pháp hoạt động ở vùng căn cứ bảo đảm xây dựng bến bãi; bộ phận hợp pháp hoạt động ở thị xã Rạch Giá và thị trấn Rạch Soi. Đây là hai thị xã đang bị chiếm đóng. Mọi công tác chuẩn bị hoàn thành nhưng do địch kiểm soát gắt gao nên tàu hải quân ta không vào giao hàng được. Trước tình hình đó, sau khi đề nghị và được Quân ủy Trung ương chấp thuận, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định tổ chức hai thuyền vượt biển ra Bắc nhận hàng. Trong chuyến đi này, thuyền gặp sóng lớn, bị hỏng nặng dạt vào đảo Hải Nam (Trung Quốc). Cuối năm 1971, hai thuyền của Quân khu chở 13,5 tấn vũ khí về tới Rạch Giá an toàn. Tuy số lượng hàng mang về không nhiều nhưng có ý nghĩa to lớn đối với chiến trường miền Tây Nam Bộ, tạo niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ Đoàn S950 tiếp tục thực hiện các chuyến đi tiếp theo.
Sang năm 1972, để đáp ứng yêu cầu vũ khí, đạn cho hoạt động tác chiến, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 phát triển Đoàn 195 thành Trung đoàn 195 (biên chế 3 tiểu đoàn T70, 410 và 200) và hai tiểu đoàn độc lập mang phiên hiệu 195K và 195S. Tiểu đoàn 195K đảm nhiệm tuyến vận tải từ sông Sở Thượng qua Lò Gò và giao hàng cho Trung đoàn 195 ở Túc Mía. Tiểu đoàn 195S đảm nhiệm tuyến vận tải ở sông Sở Thượng về cửa khẩu Hồng Ngự giao hàng cho đơn vị S.804. Ngoài vận tải vũ khí, đạn, Trung đoàn 195 còn có nhiệm vụ đào kênh khai luồng vận chuyển, đánh các chốt và đồn bốt địch đóng trên tuyến hành lang vận chuyển do đơn vị phụ trách. Ngoài ra, theo sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Quân khu, Phòng Hậu cần tổ chức thêm một phân đội vận tải bán hợp pháp thuộc biên chế đơn vị S804, sử dụng 4 ghe kiểu Thái Lan vận tải vũ khí, đạn tuyến ven biển từ Lục Sơn (Hà Tiên) về An Biên (Rạch Giá).
Đầu năm 1973, được Trung ương chi viện tài chính và Bộ Tư lệnh Hải quân tăng cường lực lượng, Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ đạo Đoàn 371 (đổi phiên hiệu từ Đoàn 950) mua thêm 8 tàu có trọng tải mỗi chiếc 20 tấn, đóng mới 2 tàu có sức chở 120 tấn, thành lập thêm Công ty Như Long đặt trụ sở ở Sài Gòn, có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, tổ chức phương tiện tiếp tục vượt biển ra miền Bắc đưa vũ khí, đạn dược về Quân khu. Đoàn 371 vừa đánh bắt cá, chở hàng thuê, vừa tổ chức mỗi chuyến 2 đến 3 tàu ra vịnh Bắc Bộ nhận vũ khí, đạn đưa về Quân khu. Đến tháng 11/1973, Đoàn 371 đã đưa được 31 chuyến với tổng số 520 tấn vũ khí, đạn dược về các bến Cà Mau và Trà Vinh an toàn. Đặc biệt, cuối năm 1973, Đoàn sử dụng hai tàu mang biển số Sài Gòn - 158 và Sài Gòn - 159 từ Bến Hố (Cà Mau) đưa Tư lệnh Quân khu 9 Lê Đức Anh ra Hà Nội nhận nhiệm vụ mới. Trên đường đi gặp sự cố, tàu Sài Gòn - 159 bị chìm ở vùng biển Trà Vinh; tàu Sài Gòn - 158 đến ngang Vũng Tàu cũng bị hỏng phải cập cảng sửa chữa rồi mới tiếp tục đưa Tư lệnh Lê Đức Anh ra miền Bắc an toàn. Hoạt động của Đoàn 371 đang thuận lợi thì bị địch phát hiện và triệt phá nên sau đó Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 9 phải quyết định giải thể Đoàn. Trong hai năm 1973 và 1974, lực lượng vận tải chuyên nghiệp của quân và dân Khu 9 bằng phương thức vận tải đa dạng, sáng tạo và quả cảm, đã vượt qua nhiều khó khăn và thử thách ác liệt, tiếp nhận và vận chuyển trên 2.900 tấn vũ khí, đạn từ Trung ương về chi viện, cung cấp cho lực lượng vũ trang Quân khu, trong đó các lực lượng công khai thực hiện vận chuyển gần 2.500 tấn.
3. Chỉ đạo tự lực sản xuất vũ khí, đạn dược tại chiến trường
Trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long, những năm (1969 - 1972), nhu cầu vũ khí, đạn rất lớn, trong khi đó, mức độ chi viện của trên có hạn. Trước tình hình thiếu vũ khí, đạn dược một cách nghiêm trọng, nhất là loại đạn hỏa lực như đạn B40, đạn H12, ĐKB cải tiến và thuốc nổ, để giải quyết khó khăn,
Tư lệnh Lê Đức Anh đã đứng ra “phân phối từng viên đạn hỏa lực”. Sang năm 1972, lo tình hình vẫn chưa được cải thiện, Tư lệnh Quân khu buộc phải ra “quy định việc sử dụng đạn hỏa lực trong đánh đồn phải tính toán cân nhắc không để phí đạn”2. Điển hình như trong tháng 7/1972, Trung đoàn 2 có nhiệm vụ đánh 10 đồn, dự trù phải có 400 quả đạn B40 nhưng trong kho chỉ có 60 quả, Bộ Tư lệnh chỉ ưu tiên cho Trung đoàn nhận 20 quả. Đồng thời, Bộ Tư lệnh chủ trương “đặc công hóa bộ binh” để giảm bớt mức sử dụng đạn hỏa lực, phát động phong trào dùng vũ khí chiến lợi phẩm và chỉ đạo các xưởng tích cực đẩy mạnh sản xuất, cải tiến một số vũ khí có hỏa lực mạnh phục vụ cho nhu cầu tác chiến như phi lôi, các loại bệ phóng đạn cơ lớn, đạn B40... Ngoài ra, Tư lệnh Lê Đức Anh còn yêu cầu “lực lượng vũ trang từ tỉnh trở xuống phải tự lực giải quyết vũ khí (tự sản xuất, lấy của địch), các cơ quan cũng phải chiến đấu để bảo vệ sản xuất. Chủ lực Quân khu phải tự giải quyết 1/3 (lấy của địch). Tổ chức thu gom bom đạn lép, đồng thời xây dựng hệ thống công trường sản xuất từ ấp lên khu, sản xuất các loại vũ khí tự tạo và sửa chữa các vũ khí hư hỏng, cải tiến các đầu đạn pháo thành các loại mìn, cải tiến các loại vũ khí thô sơ. Đó là phương hướng rất cơ bản, một phần giải quyết trước mắt, mặt khác giải quyết những khó khăn”4.
Chấp hành nghị quyết Trung ương Cục cùng Chỉ thị số 02/CT-74 của Khu ủy và chỉ đạo của Tư lệnh Quân khu 9, ngoài việc “lấy súng địch đánh địch” (mỗi năm thu được 5.000 đến 6.000 súng, riêng năm 1972 thu 10.000 súng), với tinh thần tự lực tự cường, hệ thống xưởng quân giới Quân khu nhờ lợi thế tổ chức tập trung, năng lực được nâng lên, bảo vệ khá an toàn, giữ vững và phát triển được nhịp độ sản xuất, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều với chất lượng ngày càng tốt hơn, trở thành nguồn vũ khí, đạn bảo đảm tại chỗ quan trọng cho các lực lượng vũ trang chiến đấu và có dự trữ. Điển hình ở Cà Mau, Ban Quân giới khẩn trương xây dựng thêm 3 phân xưởng vũ khí tại ba xã Phú Mỹ, Tân Hưng và Dương Thế Trân. Trong đó có một phân xưởng chuyên làm bệ phóng và sửa chữa súng hỏng nhẹ, một phân xưởng chuyên làm vỏ đạn và một phân xưởng hóa chất. Trong Quân khu có 100/402 xã sản xuất được mìn, lựu đạn, mìn định hướng. Tại Hội nghị tổng kết chiến dịch tổng hợp đánh địch bình định năm 1972, Tư lệnh Lê Đức Anh đã nhận xét đánh giá: “Hệ thống xưởng quân giới, công trường sản xuất, sửa chữa vũ khí hình thành từ khu đến xã. Hệ thống kho tàng cũng được triển khai từ sau ra trước, từ trên xuống dưới”.
Đặc biệt, trong điều kiện rất thiếu thiết bị, máy móc chuyên dùng và trình độ tay nghề còn hạn chế, khi được giao nhiệm vụ sản xuất đạn B40, Phân xưởng A2 của Xưởng 201 đã quyết tâm sản xuất đạn B40. Nhóm kỹ thuật vừa thiết kế kỹ thuật, vừa trực tiếp sản xuất thử. Sau 4 tháng làm việc với nỗ lực lớn, tháng 8/1973, Phân xưởng A2 sản xuất thử được 7 quả đạn B40. Qua thử nghiệm, đạn đạt các thông số kỹ thuật như đạn B40 Trung Quốc sản xuất và đến cuối năm 1973 đạn B40 được đưa vào sản xuất ổn định ở Phân xưởng A2, với trung bình 250 quả mỗi tháng. Ngoài ra, thực hiện chỉ đạo của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu, các tỉnh ủy miền Tây Nam Bộ phát động phong trào “toàn dân sưu tầm súng đạn”, để cung cấp nguyên hóa liệu kịp thời cho các xưởng sản xuất vũ khí. Chỉ trong vòng một tháng, Đại đội sưu tầm tỉnh Cà Mau đã thu được 3.720 đầu đạn pháo 105mm, 640kg thuốc nitrô, 400 kg thuốc TNT, 453kg nhôm, 200kg chì, 54kg đồng thau; Ban Tiếp liệu tỉnh Cà Mau thu mua, vận chuyển an toàn về xưởng tỉnh 10 tấn kim loại, 10 phuy dầu, 5 phuy xăng, 200 cuộn dây diện, 670 lố pin đèn...
Những năm (1969 - 1974), trong điều kiện công tác hậu cần miền Tây Nam Bộ gặp nhiều khó khăn, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng tạo của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 9 trực tiếp là Tư lệnh Lê Đức Anh, lực lượng hậu cần đã giải quyết tốt từ việc tiếp nhận, vận chuyển hàng hóa từ miền Bắc đưa vào, đến việc thu mua và khai thác nguồn hậu cần tại chỗ, kể cả việc tổ chức tăng gia sản xuất lương thực, thực phẩm, quân trang, thuốc quân y, vũ khí trang bị... góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn. Những kinh nghiệm chỉ đạo về công tác hậu cần trên chiến trường Tây Nam Bộ trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tiếp tục được phát huy hiệu quả trong những năm tiếp theo, góp phần tích cực xây dựng thế trận hậu cần, bảo vệ vững chắc vùng cực Nam của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại tá, ThS. ĐỖ VĂN HINH
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, tuy ở chiến trường đồng bằng sông Cửu Long thời gian không dài (1969-1974), nhưng dấu ấn của đồng chí Lê Đức Anh, Tư lệnh Quân khu 9 để lại hết sức sâu đậm. Đó là những năm đồng chí Lê Đức Anh cùng Bộ Tư lệnh Quân khu và Khu ủy Khu 9 lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân đồng bằng sông Cửu Long xây dựng, củng cố lực lượng về mọi mặt, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, giữ vững nhiều địa bàn chiến lược, tạo đà cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi đến thắng lợi hoàn toàn vào năm 1975.
Trở lại tình hình, từ năm 1969, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, chủ trương rút dần quân viễn chinh về nước, đồng thời phát triển lực lượng quân đội Sài Gòn để gánh vác chiến tranh, thực chất là thực hiện chính sách “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam”. Biện pháp cơ bản của địch là thỏa hiệp với một số nước lớn xã hội chủ nghĩa nhằm cô lập cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam; tiến công đánh phá tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn; đẩy mạnh chương trình “bình định” nhằm chiếm đất, giành dân với cách mạng, trọng điểm là đồng bằng sông Cửu Long.
Về phía ta, tuy đã giành được thắng lợi hết sức to lớn về chiến lược trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, nhưng sau đó, cách mạng miền Nam gặp rất nhiều khó khăn. Tại chiến trường đồng bằng sông Cửu Long, vùng căn cứ địa đông dân bị địch bình định lấn chiếm gần hết, lực lượng cách mạng phần lớn bị mất sức chiến đấu và bật ra khỏi địa bàn. Sau khi cùng Chính ủy Phạm Hùng và Tư lệnh Hoàng Văn Thái ra Hà Nội báo cáo về tình hình miền Nam với Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Đức Anh về lại chiến trường B2 và được cử làm Tư lệnh Quân khu 9.
Giữa năm 1969, đồng chí Lê Đức Anh chính thức đảm nhận chức vụ Tư lệnh Quân khu 9. Thời điểm đó, ở đồng bằng sông Cửu Long do chưa nhận thức đầy đủ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, để quân địch phản công lấn tới, còn ta thì mất đất, mất dân. Địch đã bình định lấn chiếm gần hết vùng đông dân trước đây, chỉ còn căn cứ U Minh và Khu giải phóng Cà Mau. Lực lượng vũ trang sức chiến đấu bị giảm sút... Đây là thử thách không nhỏ đối với đồng chí Lê Đức Anh.
Với kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo dạn dày, từng trải qua nhiều cương vị và nhiều chiến trường khác nhau, lại nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là sự hỗ trợ, giúp đỡ hiệu quả của đồng chí Võ Văn Kiệt - Bí thư Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 - đứng đầu là Tư lệnh Lê Đức Anh - đã tập trung củng cố tổ chức, kiện toàn lực lượng vũ trang, góp phần khôi phục lại lực lượng chính trị, chỉ đạo phương châm tác chiến, phương thức đấu tranh, khôi phục lại thế và lực của toàn Khu 9, tạo sự chuyển biến mới ở đồng bằng sông Cửu Long. Nhớ về thành công này, Thiếu tướng Nguyễn Văn Niên, nguyên Đoàn trưởng Đoàn 6 Pháo binh Quân khu 9 nhấn mạnh: “Một điều rất bình thường nhưng rất có ý nghĩa, khi xuống Khu 9 làm Bí thư Khu ủy, đồng chí Võ Văn Kiệt lấy bí danh là Tám Thuận, còn đồng chí Lê Đức Anh đặt bí danh là Chín Hòa. Cặp song trùng này đã tạo bầu không khí đoàn kết, phấn khởi, gây được niềm tin của quần chúng vào sự lãnh đạo, chỉ huy của các đồng chí - hạt nhân đoàn kết đã nhanh chóng trở thành nòng cốt cho sự đoàn kết thống nhất giữa Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu, giữa Đảng - lực lượng vũ trang - Mặt trận giải phóng và đoàn thể cách mạng cùng nhân dân toàn Khu 9 thành một khối vững chắc, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược...”.
Năm 1970, tình hình đồng bằng Sông Cửu Long vẫn hết sức khó khăn và ác liệt. Địch tập trung binh, hỏa lực, huy động nhiều phương tiện chiến tranh (xe lội nước, tàu chiến, cả máy bay ném bom chiến lược B52) đánh phá dồn dập, tiến công vào căn cứ U Minh, khu rừng tràm 390 - nơi Sở Chỉ huy Quân khu 9 đứng chân. Trước tình hình đó, trong Khu ủy có ý kiến khuyên Quân khu chuyển cơ quan về phía Nam Cà Mau để bảo đảm an toàn. Sau khi phân tích tình hình, cân nhắc mọi mặt, Tư lệnh Quân khu 9 Lê Đức Anh quyết định bám trụ ở U Minh Thượng, đồng thời triển khai Sở Chỉ huy tiền phương của Quân khu tại Long Mỹ (Cần Thơ), sát đồn Tô Ma của địch. Thời gian này, Tư lệnh Lê Đức Anh thường xuyên có mặt ở đây để chỉ đạo mọi hoạt động của Quân khu. Quyết định quyết đoán và hoạt động đầy bản lĩnh của đồng chí Lê Đức Anh đã cổ vũ, động viên mạnh mẽ tinh thần đối với quân và dân đồng bằng sông Cửu Long.
Về phía địch, đến giữa năm 1971, về cơ bản chúng đã lấn chiếm được U Minh Thượng và âm mưu mở rộng xuống khu vực phía Nam Cà Mau. Phân tích đúng tình hình và với quyết tâm bẻ gãy ý đồ của địch, Tư lệnh Quân khu 9 Lê Đức Anh quyết định mở đợt phản công lớn vào mùa mưa năm 1971 ở U Minh, tập trung trong vùng bình định trọng điểm của địch, đồng thời phát động phong trào đánh địch rộng khắp trên các chiến trường bằng lực lượng tại chỗ. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, cuộc phản công của quân và dân Quân khu 9 kết thúc thắng lợi, buộc địch phải hủy bỏ kế hoạch “Tô dày, lấp kín U Minh”, rút bỏ một số đồn bốt ở U Minh.
Sau thắng lợi của cuộc phản công này, trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí Lê Đức Anh ra lệnh tiếp tục tiến công bẻ gãy kế hoạch bình định của địch. Đến cuối năm 1971, địch không thể thực hiện được kế hoạch vì hầu hết lực lượng quân chủ lực địch bị quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đánh thiệt hại nặng, nhất là Sư đoàn 21 quân đội Sài Gòn. Với những thắng lợi này, tình hình của ta trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long được cải thiện rõ rệt, củng cố niềm tin của nhân dân vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.
Sang năm 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có nhiều chuyển biến mới. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền, Quân khu 9, đứng đầu là Tư lệnh Lê Đức Anh đã tích cực chuẩn bị lực lượng và mở nhiều đợt tiến công địch. Sau nhiều đợt cao điểm tiến công, đến tháng 9/1972, Quân khu 9 giành được thắng lợi lớn, làm thay đổi so sánh lực lượng, góp phần đánh thắng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của địch.
Sau những thất bại liên tiếp ở miền Nam là thất bại nặng nề trong cuộc tập kích đường không có quy mô lớn nhất, hiện đại nhất, tàn bạo nhất trong lịch sử không quân của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương trên miền Bắc, không còn con đường nào khác, đế quốc Mỹ buộc phải quay trở lại bàn đàm phán ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27/01/1973. Theo Hiệp định, Mỹ cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân đồng minh về nước, chấm dứt sự dính líu quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam. “Đây là thắng lợi to lớn của nhân dân ta, tạo cơ sở vững chắc để ta tiến lên đánh cho “ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc”.
Theo các điều khoản của Hiệp định, đúng 7 giờ ngày 28/01/1973, hai bên tham chiến sẽ ngừng bắn tại chỗ. Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, Mỹ vẫn viện trợ kinh tế, quân sự cho chính quyền và quân đội Sài Gòn hòng tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh tại miền Nam Việt Nam. Chúng huy động hầu như toàn bộ lực lượng mở những chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, bình định lấn chiếm vùng giải phóng. Do đó, trên thực tế, vùng đất đồng bằng sông Cửu Long vẫn chưa ngừng bắn, chiến tranh vẫn tiếp diễn, quân đội Sài Gòn tiếp tục tiến công lấn chiếm, nhiều nơi còn diễn ra chiến tranh ác liệt hơn. Thực tế này diễn ra đúng với những nhận định của đồng chí Lê Đức Anh. Bởi ngay khi Hiệp định Pari năm 1973 chuẩn bị ký kết, đồng chí Lê Đức Anh sớm nhận ra bản chất ngoan cố của đế quốc Mỹ, ý đồ phá hoại của chính quyền Sài Gòn. Nhờ chuẩn bị sẵn lực lượng, quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đã làm thất bại kế hoạch bình định của địch trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long với đỉnh cao là chiến thắng 75 lượt tiểu đoàn địch ở Chương Thiện.
Ngay trong ngày Hiệp định Pari được ký kết (27/01/1973), Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu trực tiếp xuống Cần Thơ triển khai kế hoạch bình định vùng Tây Nam Bộ, mục tiêu đầu tiên là tỉnh Chương Thiện. Như vậy, chính quyền Sài Gòn đã ngang nhiên vi phạm Hiệp định Pari, ráo riết thực hiện kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ”, đẩy mạnh bình định lấn chiếm. Kế hoạch bình định lấn chiếm trong năm 1973 của địch dự kiến chia thành ba bước:
Bước một, từ tháng 3/1973 đến tháng 5/1973, tập trung lấn chiếm, bình định Chương Thiện.
Bước hai, từ tháng 6/1973 đến tháng 9/1973, lấn chiếm, bình định U Minh.
Bước ba, từ tháng 10/1973 đến tháng 11/1973, bình định Cà Mau và củng cố các vùng đã lấn chiếm được.
Mục tiêu lấn chiếm, bình định Chương Thiện của địch nhằm vào ba huyện Long Mỹ, Gò Quao và Giồng Riềng.
Ngay sau khi Hiệp định Pari có hiệu lực, đồng chí Lê Đức Anh trực tiếp phụ trách Sở Chỉ huy tiền phương Quân khu 9 (đồng chí Nguyễn Đệ là Phó Tư lệnh) bám trụ tại xã Lương Tâm, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Đây là chiến trường ác liệt ở đồng bằng sông Cửu Long. Căn cứ thực tế tình hình, Sở Chỉ huy tiền phương Quân khu 9 nhận định: Địch ngoan cố tiếp tục chiến tranh, không thi hành Hiệp định Pari, ta phải trừng trị đích đáng. Đồng thời, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 9 thống nhất đề nghị lên Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền giữ thế tiến công, kiên quyết đánh trả địch lấn chiếm bình định; đồng thời đẩy mạnh đấu tranh chính trị và binh vận phù hợp với nội dung Hiệp định Pari. Đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo các tỉnh và chỉ huy các đơn vị tiếp tục giữ vững vị trí, bám trụ địa bàn, chiến đấu đánh bại ý đồ phản kích của địch. Như vậy, trên thực tế, do địch vi phạm, chiến tranh vẫn tiếp diễn khắp đồng bằng Sông Cửu Long chứ không có chuyện “ngừng bắn tại chỗ” theo quy định của Hiệp định Pari.
Ngày 06/02/1973, Hội nghị quân chính toàn Quân khu 9 phổ biến Nghị quyết của Thường vụ Khu ủy được tổ chức. Hội nghị xác định nhiệm vụ của lực lượng vũ trang là kiên quyết trừng trị địch vi phạm Hiệp định Pari, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, hỗ trợ nhân dân đấu tranh đòi hòa bình dân chủ, thi hành Hiệp định. Tại Hội nghị, đồng chí Lê Đức Anh, Tư lệnh Quân khu quy định: Các trung đoàn chủ lực vẫn giữ đội hình đã bố trí, đánh địch vi phạm lấn chiếm vùng kiểm soát của ta, làm nòng cốt cho các lực lượng khác bám giữ địa bàn, bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng giành được.
Trước tình hình diễn biến khẩn trương, Bộ Chỉ huy Miền ra lệnh cho Quân khu 9 rút hai trong tổng số bốn trung đoàn chủ lực về sau để thay phiên nhau huấn luyện và củng cố lực lượng. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng tình hình thực tế mọi mặt, Bộ Tư lệnh Quân khu 9, đứng đầu là đồng chí Lê Đức Anh, gửi kiến nghị lên Bộ Chỉ huy Miền đề nghị tiếp tục duy trì thế bố trí hiện tại, vì nếu rút lực lượng thì lập tức quân địch sẽ lấn chiếm. Đây là quyết định đúng đắn của Bộ Tư lệnh Quân khu 9, đồng thời cũng thể hiện tài thao lược của đồng chí Lê Đức Anh, vì chính ông là người đề xuất chủ trương này.
Tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã kịp thời khẳng định nhiều vấn đề quan trọng về đường lối cách mạng, chiến tranh cách mạng và chỉ đạo chiến lược, trong đó: Khẳng định con đường của cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực. Bất kể trong tình huống nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công, chỉ đạo linh hoạt đưa cách mạng miền Nam tiến lên... Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân... Kẻ thù chính của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới vẫn là đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị, tay sai của Mỹ... Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đấu tranh trên cả ba mặt chính trị, quân sự, ngoại giao... Có thể khẳng định, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21 là một trong những văn kiện lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và là văn kiện quan trọng trực tiếp chỉ đạo cách mạng và chiến tranh cách mạng giành thắng lợi trong giai đoạn kết thúc chiến tranh.
Sau khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21, tháng 9/1973, đồng chí Lê Đức Anh, Tư lệnh Quân khu 9 báo cáo Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền và Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tình hình Quân khu 9 trong thời gian 8 tháng kể từ khi có Hiệp định Pari, nêu rõ: “Ở Quân khu 9 hay đồng bằng sông Cửu Long nói chung và có thể ở cả miền Nam hoàn toàn không phải là xung đột vũ trang từng vụ, từng nơi, mà địch đã thực sự duy trì chiến tranh, thực hiện chương trình bình định trong điều kiện có Hiệp định hòa bình”. Từ đó, đồng chí Lê Đức Anh có những đề nghị và đề xuất với cấp trên nhiều vấn đề quan trọng, có ý nghĩa chiến lược như: Đánh giá tình hình; phương châm hành động hàng ngày; phương hướng tiến công; phương thức tiến công; đối tượng tiến công; công tác binh vận; về lực lượng chính trị; đấu tranh chính trị phối hợp với lực lượng vũ trang để giành và giữ quyền làm chủ; chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang và tiến hành khởi nghĩa vũ trang... Những đề xuất trên đây cũng là nội dung chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Quân khu 9 đối với lực lượng vũ trang Quân khu. Nhờ chủ trương đúng đắn của Khu ủy, sự chỉ huy nhạy bén và sáng tạo của Bộ Tư lệnh Quân khu 9 đứng đầu là Tư lệnh Lê Đức Anh, quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đã bẻ gãy nhiều cuộc hành quân bình định lấn chiếm của địch, đồng thời tích cực chuẩn bị để chuyển sang kế hoạch tiến công trong mùa khô năm 1973.
Về phía địch, sau nhiều lần bình định không thành, đầu tháng 11/1973, chúng điều lực lượng tăng cường tại tỉnh Chương Thiện, nâng tổng số quân ở đây lên đến 75 tiểu đoàn. Nhờ có sự chủ động, đồng chí Lê Đức Anh điều các trung đoàn chủ lực kết hợp với lực lượng địa phương, du kích bố trí trận địa, đánh địch theo nhiều hướng. Đến cuối năm 1973, lực lượng Quân khu 9 đã đẩy lùi 75 tiểu đoàn của địch ở tỉnh Chương Thiện cùng với kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” của chúng. Với chiến thắng Chương Thiện, ta đã giữ vững địa bàn trọng điểm, tạo được thế và lực mới, xây dựng và củng cố lực lượng về mọi mặt, rút ra những bài học kinh nghiệm tốt cho các chiến trường. Đánh giá về công lao của đồng chí Lê Đức Anh, Thiếu tướng Nguyễn Việt Quân trên cương vị Chính ủy Quân khu 9, khẳng định: “Trong giai đoạn chiến đấu đánh bại kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” - lấn chiếm, bình định của chính quyền và quân đội Sài Gòn sau Hiệp định Pari, thì ông (đồng chí Lê Đức Anh) đã trở thành niềm tự hào của quân và dân Quân khu 9 anh hùng”.
Từ chiến thắng Chương Thiện, đồng chí Lê Đức Anh cùng Bộ Tư lệnh Quân khu 9 rút ra bài học là phải nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng, quán triệt tư tưởng tiến công, không mơ hồ hữu khuynh, ảo tưởng hòa bình, kịp thời đánh giá đúng âm mưu thủ đoạn, chỗ mạnh, chỗ yếu của địch và của ta, xác định đúng phương châm, phương thức hoạt động chỉ đạo, chỉ huy cụ thể, có sự nhất trí cao giữa Khu ủy và Quân khu, giữa trên và dưới. Các lực lượng chính trị - vũ trang phối hợp hoạt động chặt chẽ, đánh bại kế hoạch lấn chiếm, “tràn ngập lãnh thổ” của địch, giữ vững vùng giải phóng.
Với những thành tích trong chỉ huy chống địch lấn chiếm, phá hoại Hiệp định Pari năm 1973 trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long và những thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1964 - 1974, ngày 16/4/1974, đồng chí Lê Đức Anh được Chủ tịch nước ký quyết định phong quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng. Và cũng trong năm này, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ làm Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Như vậy, sau hơn bốn năm trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long, với cương vị là Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Bộ Tư lệnh và tập thể Đảng ủy Quân khu đưa phong trào cách mạng vượt lên những ngày tháng đầy thử thách ngặt nghèo, từng bước đưa cuộc đấu tranh của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long vươn lên mạnh mẽ, đánh bại âm mưu, kế hoạch bình định, lấn chiếm của địch; khơi dậy tinh thần đoàn kết, tự lực tự cường, tư tưởng cách mạng tiến công, quyết đánh và quyết thắng địch của quân và dân nơi đây. Bằng kinh nghiệm lãnh đạo dạn dày, quyết đoán, bản lĩnh và với tư duy chiến lược sắc bén, đồng chí Lê Đức Anh đã vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh cách mạng của Đảng vào thực tiễn, là cơ sở quan trọng để Đảng đề ra những quyết sách chiến lược tiến tới kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Năm tháng trôi qua, nhưng những đóng góp của đồng chí Lê Đức Anh đối với chiến trường đồng bằng sông Cửu Long vẫn sẽ còn mãi. Dấu ấn của đồng chí mãi in đậm trong lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc Việt Nam nói chung, của đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Đồng chí Lê Đức Anh luôn là niềm tự hào của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long, là vị tướng mưu lược, quyết đoán của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đại tá, ThS. ĐỖ MẠNH CƯỜNG
Trong suốt cuộc đời binh nghiệp và sự nghiệp hoạt động cách mạng, nhiều gian khổ, hiểm nguy nhưng cũng đầy vinh quang và oanh liệt, dù ở cương vị nào, Đại tướng, Chủ tịch nước Lê Đức Anh cũng luôn nỗ lực hết mình, hết lòng, hết sức “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”; đặc biệt là luôn có tư tưởng cách mạng tiến công, sự nhạy bén, ý chí kiên cường, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Tư tưởng đó thể hiện rõ nét nhất trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thời điểm sau Hiệp định Pari (01/1973), góp phần đánh bại kế hoạch lấn chiếm “tràn ngập lãnh thổ” của chính quyền Sài Gòn trên địa bàn Quân khu 9.
Chương Thiện là một tỉnh do địch ra sắc lệnh thành lập ngày 24/12/1961. Đây là một địa bàn chiến lược quan trọng, là trung tâm của các tỉnh nam sông Hậu, bao bọc xung quanh bởi hệ thống kênh rạch chằng chịt, đất đai phì nhiêu, nhiều lúa, đông dân; là đầu mối giao thông thủy bộ trọng yếu đi các tỉnh: Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, U Minh, Rạch Giá và hành lang biên giới Tây Nam. Do vậy, Chương Thiện trở thành vị trí quân sự quan trọng, có tính chiến lược trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ta và địch tranh chấp ác liệt địa bàn này.
Trở lại lịch sử, sau Hiệp định Giơnevơ (7/1954), Mỹ từng bước thay chân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau thất bại của các chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”, từ năm 1969, Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Chính quyền của Tổng thống Richard Nixon lúng túng, bế tắc trước áp lực của nhân dân Mỹ và thế giới đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Tình hình đó buộc Mỹ phải thực hiện đàm phán tại Hội nghị Pari về chiến tranh Việt Nam. Do sự ngoan cố của Mỹ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, Hội nghị Pari kéo dài hơn 4 năm mà vẫn chưa có kết quả. Thất bại trên chiến trường miền Nam Việt Nam năm 1972 và cuộc tập kích chiến lược bằng không quân ra miền Bắc mang tên “Chiến dịch Linerbacker II” buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27/01/1973. Hiệp định có hiệu lực bắt đầu từ 07 giờ ngày 28/01/1973. Trong đó điều khoản quan trọng nhất là quân Mỹ rút hết khỏi miền Nam Việt Nam, trong khi Quân đội nhân dân Việt Nam ở lại các vị trí tại miền Nam, điều mà Mỹ trước đó từ chối ký kết.
Tại thời điểm ấy, lực lượng vũ trang của chính quyền Sài Gòn có 1,1 triệu người với 13 sư đoàn chủ lực, tiếp tục được Mỹ viện trợ về quân sự và kinh tế. Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu trắng trợn phản đối, đưa ra khẩu hiệu 4 không: không có hòa bình; không có ngừng bắn; không có giải pháp chính trị; không có tổng tuyển cử; đồng thời quyết tâm thực hiện chủ trương: Trên hòa bình, dưới chiến tranh, ngoài hòa hợp, trong bình định. Chúng triển khai ngay kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” với mục tiêu: cắm cờ, giành đất, giành dân, thi hành 48 giờ trước khi Hiệp định có hiệu lực, đồng thời đẩy mạnh bình định lấn chiếm.
Sau khi Hiệp định Pari được ký kết, ta chủ trương đẩy mạnh và kết hợp các hoạt động chính trị - quân sự - ngoại giao, đấu tranh buộc địch phải thi hành các điều khoản đã ký, sách lược trước mắt là cố gắng đưa cách mạng miền Nam tiến lên bằng con đường hòa bình. Chủ trương đó là hoàn toàn đúng đắn, với mong muốn không đối đầu về quân sự, nhằm tránh tổn thất xương máu của cả hai bên. Nhưng, lúc đầu một số lãnh đạo chưa nhận thức đầy đủ âm mưu, thủ đoạn và sự ngoan cố của địch; vì vậy có nơi còn coi giữ vững hòa bình là nhiệm vụ trọng tâm số một; có nơi thực hiện “5 cấm chỉ” của cấp trên.
Tình hình Nam Bộ khi ấy khá phức tạp, nhận thức chưa thống nhất về âm mưu của địch và chủ trương của Trung ương Đảng; một số hy vọng có hòa bình thông qua thực hiện Hiệp định Pari, một số có tư tưởng muốn lui vào hậu cứ nghỉ xả hơi sau những ngày đã quá căng thẳng, ác liệt dẫn đến tình trạng có nơi phân vân, không dám đánh địch, sợ vi phạm Hiệp định; có đơn vị thực hiện rút khỏi vị trí. Trong khi đó, địch lợi dụng tình hình hòa hoãn của ta, chúng tập trung binh lực, hỏa lực tăng cường tấn công, lấn chiếm, đã gây cho ta nhiều khó khăn, thiệt hại về người, của và mất một số căn cứ, một số vùng dân cư ta giành được trước khi Hiệp định được ký. Điều đó đã tác động đến tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên và quần chúng. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã nghiêm khắc kiểm điểm: “Vì sao từ đầu năm 1973, quân Mỹ đã rút ra, lực lượng địch trên chiến trường đã giảm một bộ phận quan trọng cả về bộ binh và binh chủng kỹ thuật, mà địch vẫn giành được chủ động tiến công, ta phải bị động đối phó, có nơi mất đất, mất dân như vậy? Đó là do ta có khuyết điểm chứ không phải do địch mạnh...; lúc đầu ta đánh giá không hết khả năng thực hiện âm mưu của địch...; lại thiếu chủ trương nhất quán từ đầu về vị trí, nội dung của tiến công quân sự. Địch tiến công mà ta cứ ngồi yên, có nơi còn rút lui, thì rõ ràng là địch mạnh lên, mà ta yếu đi...”.
Trong Hồi ký của mình, đồng chí Lê Đức Anh viết: “khi chúng tôi đang tổ chức đánh đối phương bình định, lấn chiếm “tràn ngập lãnh thổ” thì Trung ương Cục có Chỉ thị 02, với phương châm “kết hợp chặt giữa đấu tranh chính trị, võ trang và pháp lý, lấy đấu tranh chính trị là cơ sở, đấu tranh võ trang là hậu thuẫn...” và chỉ thị rút một phần (cụ thể là rút 2 trung đoàn) về căn cứ U Minh để chỉnh huấn. Trung ương Cục còn hai lần điện yêu cầu T3 (mật danh Quân khu 9 lúc đó) phải thấy tình hình mới, phải có biện pháp mới (Điện số 05 và 07), còn Bộ Chỉ huy Miền thì điện phê bình T3 không thi hành chủ trương của Trung ương Cục và thông báo cho toàn Miền. Lúc đó dư luận chung cho rằng Tây Nam Bộ chúng tôi “xé Hiệp định Pari”. Có đồng chí Khu ủy viên đi họp trên Miền (R) về còn nói: “Trên R có người đề nghị anh ra tòa vì anh không chấp hành Hiệp định, phá hoại Hiệp định”. Tôi bảo: “Được, anh yên tâm đi! Nhưng anh không được nói với ai chuyện này. Tôi phải đánh đã. Nếu thua thì tôi ra tòa luôn một thể”2.
Khu ủy Khu 9 chỉ thị: “Địch vi phạm Hiệp định, chúng ta phải trừng trị. Tư tưởng cách mạng tiến công vẫn là nguyên tắc chỉ đạo vận dụng cho thích hợp với tình hình có Hiệp định Pari. Phải tiếp tục tiến công để giành đất, giành dân, giành quyền làm chủ, để tiếp tục tiến công mạnh hơn, đạt yêu cầu cao hơn. Kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được, đưa phong trào nổi dậy của quần chúng phát triển mạnh mẽ, vững chắc hơn”3. Quân khu chỉ thị cho các trung đoàn chủ lực đứng nguyên tại chỗ, phối hợp cùng lực lượng vũ trang địa phương và dân quân du kích kiên quyết tiến công, đánh trả quyết liệt, không để chúng lấn đất giành dân.
Đúng vào thời điểm Hiệp định Pari có hiệu lực, tại Vùng 4 chiến thuật có sự chi viện tăng cường lực lượng, Quân đội Sài Gòn đồng loạt mở hàng trăm cuộc càn quét quy mô lớn, tiếp tục kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, với đủ quân binh chủng hải, lục, không quân đánh vào các vùng giải phóng của ta ở Phụng Hiệp, Phước Long..., lấn chiếm trên diện rộng khắp đồng bằng sông Cửu Long. Tại vùng trọng điểm Chương Thiện, chúng tổ chức phản kích quyết liệt ở tây Vị Thanh và đông bắc Long Mỹ. Địch tập trung 30 tiểu đoàn vào các trọng điểm gồm 12 xã (Gò Quao: 4 xã, Giồng Riềng: 4 xã, Long Mỹ: 4 xã). Nhưng ngay từ đầu, chúng đã vấp phải sự chiến đấu quyết liệt, kiên cường của quân và dân Khu 9. Ta bố trí lực lượng vũ trang làm nòng cốt, gồm Trung đoàn 1 chủ lực Quân khu, tiểu đoàn địa phương của Cần Thơ ở cánh Long Mỹ, Phụng Hiệp, Trung đoàn 2 ở cánh Ba Hồ và du kích của 12 xã nói trên, cùng lực lượng đấu tranh chính trị, binh vận của đông đảo quần chúng. Ta đánh địch quyết liệt trong 4 tháng trời. Thoạt đầu chúng đụng ngay lực lượng du kích và chiến tranh nhân dân với chông, bẫy, mìn, chất nổ làm cho từng mũi tấn công của địch bị chựng lại, tiếp đó là những đòn giáng trả của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương tạo thành thế trận liên hoàn, bẻ gãy từng mũi quân địch, buộc chúng phải co cụm. Trong thế giằng co, giành đi, giật lại, ta cũng gặp không ít khó khăn, nhưng địch bị tiêu diệt, tiêu hao nhiều lực lượng, không đóng thêm được đồn bốt, không kiềm thêm được dân mà còn mất thêm đồn bốt và như vậy, bước đầu ta đã đánh bại kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của chúng.
Từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1973, tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Vùng 4 chiến thuật quân đội Sài Gòn triển khai bước hai bình định, lấn chiếm Chương Thiện trong kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, nhằm tiếp tục thực hiện mục tiêu của bước một, bình định những nơi chưa làm được, lấn chiếm bằng được Chương Thiện để cô lập U Minh. Cách đánh của chúng là dùng bom pháo để dọn bãi cho trực thăng đổ quân, cày ủi địa hình, kiềm giữ dân, tiến hành đóng đồn bốt, kết hợp với các điểm dã ngoại, lấy đó làm điểm để loang dần ra. Những trận chiến đấu ác liệt diễn ra liên tục. Địch bình định kiềm dân, ta trừng trị địch, phá bình định, giải phóng dân. Địch đóng đồn, ta nhổ. Địch lấn chiếm, tái chiếm, ta mở mảng, mở vùng. Nơi nào ta đánh mạnh, địch dao động, co lại; nơi nào ta hữu khuynh, chần chờ, địch lấn tới. Đến hết tháng 10 năm 1973, địch vẫn không thể thực hiện được kế hoạch.
Đầu tháng 11 năm 1973, địch điều thêm lực lượng hải quân từ căn cứ Cát Lái (Sài Gòn) tăng cường cho hải quân Vùng 4 chiến thuật. Đối phương tập trung lực lượng, nâng tổng số quân ở khu vực Chương Thiện lên đến 75 tiểu đoàn (gồm 2 sư đoàn bộ binh, 1 liên đoàn biệt động quân, 2 thiết đoàn, 6 đến 8 giang đoàn và các lực lượng bảo an của các tỉnh thuộc Vùng 4 chiến thuật). Ngoài ra, địch còn tăng thêm dự trữ đạn pháo vào U Minh, Sóc Trăng và Bạc Liêu. Quân khu 9 phải đương đầu với thử thách mới hết sức nặng nề và quyết liệt.
Dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh Quân khu 9, trực tiếp là đồng chí Tư lệnh Lê Đức Anh, lực lượng vũ trang ba thứ quân trên địa bàn Quân khu đã anh dũng chiến đấu với những trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt, giành giật nhau từng khu vực, từng đoạn sông. Tư lệnh Quân khu ra lệnh cho tất cả các lực lượng trên chiến trường toàn khu đẩy mạnh hoạt động, nhất là các cánh quân ở Lái Hiếu, nam - bắc sông Măng Thít thuộc Vĩnh Long, Trà Vinh hỗ trợ cho trọng điểm Chương Thiện. Bị tiêu hao, tiêu diệt nặng mà không đạt được kết quả, địch buộc phải rút khỏi Chương Thiện. Cuộc hành quân bình định lấn chiếm Chương Thiện bị bẻ gãy hoàn toàn. Kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của quân đội và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu trên địa bàn Khu 9 đã bị phá sản.
Như vậy, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Khu ủy Khu 9, sự chỉ đạo quyết liệt, kiên quyết tiến công của Bộ Tư lệnh Quân khu 9, trực tiếp là đồng chí Tư lệnh Lê Đức Anh, quân và dân trên địa bàn đã lần lượt đánh bại 75 tiểu đoàn địch, giữ vững địa bàn trọng điểm Chương Thiện. Xây dựng và củng cố lực lượng của ta về mọi mặt, đóng góp kinh nghiệm thiết thực cho các chiến trường Nam Bộ, làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền và Trung ương đánh giá đúng địch - ta, có chủ trương chỉ đạo đúng đắn, liên tục tiến công giành thắng lợi. Tháng 7/1973, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21 họp, khẳng định: “Cách mạng miền Nam phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, nhưng phải căn cứ vào từng thời kỳ, hoàn cảnh cụ thể từng vùng, thậm chí từng cuộc đấu tranh mà vận dụng hình thức đấu tranh và chiến thuật tiến công hoặc phòng ngự một cách linh hoạt, sắc bén,...”. Nghị quyết xác định rõ: “Cách mạng miền Nam có thể phải trải qua nhiều bước quá độ và chỉ có thể giành được thắng lợi bằng con đường bạo lực cách mạng: tiến hành khởi nghĩa dựa trên lực lượng chính trị và lực lượng quân sự, hoặc là trong trường hợp chiến tranh lớn trở lại thì tiến hành chiến tranh cách mạng để giành thắng lợi hoàn toàn”. Trong bức điện ngày 10/10/1974, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã biểu dương tư tưởng chủ động tiến công: “... Ở Khu 9, tỷ lệ ta địch là 1/8; nhưng do nắm chắc chỗ mạnh của ta, chỗ yếu của địch, ta biết chủ động tiến công thì vẫn giành được thắng lợi. Ngược lại, ở Trị - Thiên, tỷ lệ ta, địch là 1/2, nhưng do đánh giá quá cao chỗ mạnh của địch, không thấy chỗ mạnh của ta nên các đồng chí địa phương thiên về phòng ngự, co thủ, làm ta bị động thất thế, để địch lấn tới...”.
Trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, ý chí kiên cường, quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong thời điểm nhạy cảm, phức tạp, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng với Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy quân và dân Khu 9 đánh bại kế hoạch lấn chiếm “tràn ngập lãnh thổ” của chính quyền Sài Gòn sau Hiệp định Pari năm 1973. Chiến thắng đó đã tạo ra thế và lực mới, góp phần cùng với quân và dân cả nước tiến tới thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Gần 50 năm đã trôi qua, những bài học quý từ thực tế lãnh đạo của đồng chí Lê Đức Anh, cùng quân và dân Quân khu 9 đánh bại kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” trên địa bàn có ý nghĩa lịch sử và giá trị hiện thực cần phát huy, vận dụng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn cách mạng hiện nay. Đó là:
Một là, nghiêm chỉnh chấp hành các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, sâu sát cơ sở, nắm chắc tình hình, vận dụng phù hợp với thực tiễn chiến trường. Trong hoàn cảnh cụ thể, điều kiện cụ thể, khi có những vấn đề chưa thông suốt với cấp trên, phải cân nhắc kỹ, thống nhất trong tập thể lãnh đạo cấp mình, đồng thời báo cáo xin ý kiến cấp trên. Đặc biệt, trong trường hợp chủ trương của trên không sát với thực tiễn, thì một mặt xin ý kiến, mặt khác phải dám chịu trách nhiệm thi hành chủ trương mà tập thể lãnh đạo cấp mình đã thống nhất, bảo đảm phù hợp với thực tiễn, bảo vệ được phong trào, bảo vệ được nhân dân và hạn chế hy sinh xương máu của bộ đội.
Hai là, trong thực hiện nhiệm vụ phải luôn nghiên cứu, đánh giá đúng tình hình; đặc biệt trong đấu tranh cách mạng đánh giá đúng địch, ta là yếu tố quyết định để đề ra đường lối, chủ trương phù hợp. Trường hợp cụ thể, khi thi hành Hiệp định Pari thì có cả hai phía, ta và Mỹ cùng chính quyền Sài Gòn. Ta muốn thi hành nhưng địch kiên quyết chống phá, dùng súng đạn để đàn áp phong trào cách mạng, tiến hành bình định lấn chiếm, giành đất, giành dân. Nếu ta vẫn dùng đấu tranh chính trị đơn thuần, tay không đòi chúng thi hành Hiệp định thì sẽ gây tổn thất lớn. Khu ủy Khu 9 đã vận dụng linh hoạt, một mặt phát huy thắng lợi của Hiệp định Pari, kết hợp đấu tranh chính trị, binh vận, pháp lý và ngoại giao, mặt khác chủ trương củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang, chủ động tiến công và kiên quyết trừng trị địch vi phạm Hiệp định.
Ba là, trong đấu tranh với địch, bất cứ tình huống nào, hoàn cảnh nào cũng phải đề cao tư tưởng cách mạng tiến công, nắm chắc bạo lực cách mạng, không mơ hồ, ảo tưởng trước mọi âm mưu, thủ đoạn của địch; kiên quyết đánh địch, đánh bại chúng từng bước, tiến tới đánh bại chúng hoàn toàn.
Bốn là, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, hành động quyết đoán, kiên quyết, kịp thời, táo bạo, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn; phân tích, đánh giá đúng tình hình, nắm vững lý luận nhưng phải biết tôn trọng thực tế lịch sử khách quan, vận dụng linh hoạt, sáng tạo, góp phần bổ sung, phát triển lý luận.
Đại tá, ThS. ĐÀM VĂN PHƯƠNG
Đại tướng Lê Đức Anh là vị tướng chỉ huy tài năng, quyết đoán, có nhiều đóng góp quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong cuộc đời cầm quân của Đại tướng Lê Đức Anh, một trong những dấu mốc quan trọng, đó là một trong những người chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Thắng lợi của ta trong hai năm 1973 - 1974, đã tạo ra những thời cơ mới, nhất là khi bước vào năm 1974, trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã giành những thắng lợi quan trọng, thế và lực của ta đã mạnh hơn hẳn địch cả về chính trị và quân sự. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị xác định quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976.
Thực hiện quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam, sau thắng lợi vang dội của chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Trị - Thiên, chiến dịch Đà Nẵng và trên hướng tiến công Quảng Nam, Quảng Ngãi của Quân khu 5 là cơ sở để Bộ Chính trị kịp thời hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam trước mùa mưa và cuối cùng là ngay trong tháng 4/1975, bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Ngày 8/4, tại căn cứ Dương Minh Châu, đồng chí Lê Đức Thọ thay mặt Bộ Chính trị phổ biến nội dung nghị quyết của Bộ Chính trị về quyết tâm giải phóng miền Nam trong tháng 4/1975 và công bố quyết định thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định (ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị đồng ý đặt tên là chiến dịch Hồ Chí Minh). Do vị trí và tính chất đặc biệt quan trọng của chiến dịch này, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương cử Đại tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam làm Tư lệnh chiến dịch; đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam làm Chính ủy chiến dịch. Các đồng chí Phó Tư lệnh, gồm: Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê Đức Anh, Trung tướng Đinh Đức Thiện, Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, quyền Tham mưu trưởng phụ trách tác chiến. Đến ngày 22/4/1975, Bộ Chính trị chỉ định bổ sung Trung tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng làm Phó Tư lệnh chiến dịch; Trung tướng Lê Quang Hòa làm Phó Chính ủy chiến dịch.
Lực lượng của ta tham gia chiến dịch, chủ lực gồm: các Quân đoàn (1, 2, 3, 4) và Đoàn 232 tương đương quân đoàn (với 15 sư đoàn và 5 trung, lữ đoàn bộ binh); 20 lữ, trung đoàn và
8 tiểu đoàn pháo binh; 3 lữ, trung đoàn và 6 tiểu đoàn xe tăng - thiết giáp; 8 lữ, trung đoàn và 2 tiểu đoàn đặc công; 4 trung đoàn và 10 tiểu đoàn thông tin; 1 trung đoàn tên lửa; lực lượng không quân và hải quân; 2 sư đoàn ô tô vận tải. Lực lượng của địa phương trong khu vực tác chiến, gồm: 2 trung đoàn, nhiều tiểu đoàn, đại đội của tỉnh, thành, huyện; 6 trung đoàn đặc công, 1 lữ đoàn biệt động với 60 tổ... Về quy mô, đây là chiến dịch lớn nhất trong lịch sử 30 năm chiến tranh giải phóng (1954-1975).
Cánh quân Tây Nam, trên cơ sở Đoàn 232 (Đoàn 232 được thành lập tháng 2/1975), gồm: 3 Sư đoàn bộ binh (3, 5 và 9), 4 trung đoàn bộ binh độc lập, 1 trung đoàn đặc công; được tăng cường 1 tiểu đoàn xe tăng T-54, 1 tiểu đoàn xe tăng PT-85, 1 tiểu đoàn pháo 130mm, 1 trung đoàn và 1 tiểu đoàn pháo phòng không cùng với Sư đoàn 8 Quân khu 8 và các lực lượng vũ trang địa phương, tương đương một quân đoàn tăng cường. Bộ Tư lệnh cánh quân Tây Nam do Trung tướng Lê Đức Anh (Sáu Nam) làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Văn Tưởng (Hai Chân) làm Chính ủy. Bộ Chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh đã nhất trí với đề xuất của Tư lệnh và Chính ủy cánh quân Tây Nam về điều động cán bộ: Đại tá Lê Quốc Sản (Tám Phương), Tư lệnh Khu 8 làm Phó Tư lệnh, Đại tá Trần Văn Nghiêm (Hai Nghiêm), Phó Tư lệnh Đoàn 232 làm Tham mưu trưởng.
Cánh quân Tây Nam có nhiệm vụ, một là: Cắt đứt triệt để giao thông đường 4 từ ngày 24/4/1975, đoạn từ Bến Lức đến ngã ba Trung Lương; đánh phản kích diệt một bộ phận sinh lực địch, chiếm Tân An, chặn không cho địch từ Sài Gòn rút chạy về đồng bằng hoặc từ đồng bằng tăng viện lên Sài Gòn. Hai là, tiêu diệt địch ở Hậu Nghĩa, mở cửa tuyến sông Vàm Cỏ, tổ chức lực lượng sư đoàn được tăng cường thọc sâu từ phía tây, đánh chiếm Biệt khu Thủ Đô, có bộ phận hợp điểm tại Dinh Độc Lập. Ba là, từ phía nam, tổ chức lực lượng một sư đoàn và hỏa lực mang vác, thọc sâu đánh chiếm cầu Nhị Thiên Đường, phát triển đánh chiếm mục tiêu chủ yếu là Tổng nha Cảnh sát và các mục tiêu khác, có bộ phận hợp điểm tại Dinh Độc Lập. Bốn là, đánh chiếm các mục tiêu, chiếm lĩnh các quận (5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, Bình Chánh), bảo vệ trật tự trị an trong phạm vi phụ trách. Trong năm mục tiêu chiến lược mà 5 cánh quân cần đánh chiếm là Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Tổng nha Cảnh sát, riêng cánh quân Tây Nam được giao đánh chiếm hai mục tiêu chiến lược là Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô và Tổng nha Cảnh sát.
Trong 5 cánh quân tiến vào Sài Gòn, cánh quân Tây Nam có những khó khăn nhất định. Đây là khu vực có địa hình chia cắt bởi những con sông lớn, chỉ có con đường duy nhất là quốc lộ 4, vấn đề bảo đảm vượt sông cho các đơn vị tiến quân vào nội đô được Tư lệnh Lê Đức Anh và Bộ Tư lệnh rất quan tâm. Bên cạnh đó, ở đồng bằng Sông Cửu Long, quân đội Sài Gòn còn Quân đoàn 4 và các sư đoàn không quân, hải quân, lực lượng địch ở đây rất mạnh.
Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, Tư lệnh Lê Đức Anh cùng Bộ Tư lệnh cánh quân Tây Nam nhanh chóng triển khai kế hoạch tiến công Sài Gòn. Trên hướng tây - tây nam, việc chia cắt quân địch tại đường 4 rất khó khăn, nhiệm vụ này được giao cho Sư đoàn 5. Tư lệnh Lê Đức Anh yêu cầu Sư đoàn 5 tổ chức thành hai mũi tiến công; mũi thứ nhất: sử dụng một trung đoàn đánh Thủ Thừa, mũi thứ hai: sử dụng hai trung đoàn đánh thị xã Tân An, giữ chắc địa bàn đã đánh chiếm rồi mới phát triển chiến đấu vào thành phố, chiếm khu rađa Phú Lâm.
Tư lệnh Lê Đức Anh ra lệnh cho Sư đoàn 8 cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích Khu 8 đánh chiếm Mỹ Tho và đoạn Cái Bè, giữ chắc từ Đồng Tâm trở xuống, kiên quyết không cho quân địch từ Sài Gòn chạy về co cụm ở Sở Chỉ huy Vùng 4 chiến thuật tại Cần Thơ.
Mũi tiến công hướng Cần Giuộc, Nhà Bè tiến công vào nội đô rất khó khăn do địa hình ngập nước, nhiều sình lầy. Vì vậy, Bộ Tư lệnh cánh quân Tây Nam giao cho đồng chí Huỳnh Công Thân (Huỳnh Văn Mến, Tư Thân) - Phó Tư lệnh Quân khu 8; đồng chí Võ Văn Thạnh (Ba Thắng) - Cục phó chính trị Miền và đồng chí Nguyễn Văn Chiểu (Tư Chiểu) - Chỉ huy trưởng Tỉnh đội Long An chỉ huy, có nhiệm vụ tiến công mục tiêu chủ yếu trong nội đô là Tổng nha cảnh sát và Cảnh sát Đô thành.
Trước ngày 20/4/1975, theo lệnh của Bộ Chỉ huy chiến dịch, cánh quân Tây Nam đã vào vị trí tập kết. Các đơn vị đã áp sát tuyến sông Vàm Cỏ Đông và Hậu Nghĩa, Sư đoàn 5 và Sư đoàn 8 đã áp sát đường 4 từ Tân An đến Cai Lậy, áp sát Mỹ Tho. Hai trung đoàn bộ binh (24, 88) đã tập kết ở Cần Đước và Cần Giuộc sát phía nam quận 8, Sài Gòn... Cánh quân Tây Nam đã cài thế chuẩn bị sẵn sàng tổng công kích. Ngày 25/4, mọi công tác chuẩn bị đã hoàn thành.
Đúng 17 giờ ngày 26/4/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn. Từ năm hướng, các binh đoàn chủ lực của ta đồng loạt nổ súng tiến công quân địch. Trên hướng tây - tây nam, các đơn vị đồng loạt tiến công đánh chiếm các mục tiêu. Đến 3 giờ sáng ngày 27/4, Sư đoàn 5 đã cắt hoàn toàn đường 4, đoạn từ Bến Lức tới Tân An. Sư đoàn 8 cùng quân và dân Tiền Giang thực hiện đánh cắt đường 4, đoạn từ Trung Lương - Tân Hiệp - Long Định và đoạn từ Cai Lậy - An Hữu, từ Mỹ Tho đến bờ sông Tiền. Sư đoàn 3 đánh chiếm khu vực An Ninh - Lộc Giang, tổ chức vượt sông Vàm Cỏ Đông, áp sát địch để bảo đảm cho Sư đoàn 9 cùng binh khí kỹ thuật qua sông. Đến cuối ngày 28/4, Sư đoàn 9 và một số đơn vị binh khí kỹ thuật vượt sông Vàm Cỏ Đông vào vị trí tập kết tại cầu Bông, Mỹ Thạnh, Đức Hòa. Các trung đoàn 24 và 88 mở rộng chỗ đứng chân ở phía bắc Cần Giuộc, chiếm đường 5, chuẩn bị thọc sâu vào nội đô (phía nam Sài Gòn).
Sau hai ngày đêm (27 và 28/4) tiến công như vũ bão, các cánh quân của ta đã đập tan tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch, mở đường phát triển đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu trong thành phố Sài Gòn.
Tối 28/4, Bộ Chỉ huy chiến dịch thông báo diễn biến tình hình và lệnh cho các cánh quân, các hướng tiếp tục phát triển tiến công để bảo đảm sáng ngày 29/4, toàn mặt trận nhất loạt thực hiện tổng tấn công vào thành phố Sài Gòn theo đúng kế hoạch đã định.
Ngày 29/4, lúc 10 giờ 10 phút, Sư đoàn 3 vượt sông Vàm Cỏ Đông tiến đánh và làm chủ thị xã Hậu Nghĩa, sau đó tổ chức đánh chiếm Chi khu Đức Hòa, đến 14 giờ 30 phút, bức rút Chi khu Đức Huệ, đến 18 giờ 20 phút, bức rút căn cứ Trà Cú. Tàn quân địch ở Hậu Nghĩa chạy về Củ Chi bị Trung đoàn 1 Gia Định từ Xuân Thới Thượng vận động ra chặn đánh, tiêu diệt và bắt hàng trên 1.000 tên. Lúc 2 giờ, Sư đoàn 9 đưa toàn bộ lực lượng vào Mỹ Hạnh và tây Vĩnh Lộc, sau đó tiến vào hướng Bà Quẹo; đến 14 giờ, toàn bộ xe tăng, thiết giáp, pháo 130mm và pháo cao xạ đã vào tập kết tại Mỹ Hạnh chuẩn bị thọc sâu vào nội đô.
Đêm ngày 29/4, Trung đoàn 3 Sư đoàn 9 đã triển khai ở khu vực Bà Lác - tuyến đê Đại Hàn, bắc Bà Hom 2km. Sư đoàn 5 và Sư đoàn 8 tiếp tục cắt đường 4, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch. Trung đoàn 24 và Trung đoàn 88 phát triển chiến đấu đến bắc Cần Giuộc, Hưng Long.
Phía bên trong, lực lượng vùng ven cũng tăng cưòng hoạt động, Trung đoàn đặc công 429 tiến đánh Tiểu đoàn 8 biệt động quân địch tại Tân Tạo, Bà Hom, ra khu rađa Phú Lâm; đánh chiếm ấp 2 (Bình Trị Đông), ấp Bình Hưng, Ký Thúc On và cầu Nhị Thiên Đường. Trung đoàn đặc công 117 tập kích hỏa lực vào sân bay Tân Sơn Nhất. Bộ đội địa phương Bình Chánh đánh chiếm các Phân chi khu Tân Túc, Tân Hào (quận Tân Bình).
Như vậy, trong ngày 29/4, cánh quân Tây Nam đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, tiếp tục cắt đường 4, chiếm toàn bộ tuyến Hậu Nghĩa - Vàm Cỏ Đông, lực lượng đột kích vào nội đô đã áp sát vùng ven; lực lượng vùng ven đánh chiếm được các mục tiêu theo kế hoạch.
Sau khi nắm chắc tình hình của các cánh quân, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định tiếp tục tiến công vào nội đô theo kế hoạch. Sáng ngày 30/4/1975, chấp hành nghiêm mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch, Tư lệnh Lê Đức Anh và Bộ Tư lệnh cánh quân Tây Nam chỉ huy các đơn vị đồng loạt tổng công kích vào nội thành Sài Gòn. Sư đoàn 3 hoàn thành đánh chiếm khu vực Hậu Nghĩa, hai bên sông Vàm Cỏ Đông, tiêu diệt lực lượng biệt động quân và bảo an, bảo đảm cho Sư đoàn 9 vượt sông thọc sâu vào nội đô theo hai trục. Trục thứ nhất, từ 9 giờ 30 phút, Trung đoàn 1 sau khi tiêu diệt một tiểu đoàn dù địch ở ngã ba Bà Quẹo, đánh chiếm Phân chi khu Vĩnh Lộc, tiến vào ngã tư Bảy Hiền, đập tan sự kháng cự của địch ở đây và phát triển theo đường Lê Văn Duyệt, đánh chiếm Biệt khu Thủ đô, bắt tướng địch Lâm Quang Phát đầu hàng. Trục thứ hai, Trung đoàn 3, từ 9 giờ đến 15 giờ, tiến công tiêu diệt Sở chỉ huy Liên đoàn 8 và Tiểu đoàn biệt động quân 88 của địch trên tuyến vành đai Đại Hàn; tiếp đó, đánh tan Tiểu đoàn bảo an 327 ở nam Vĩnh Lộc, tiến công chốt của Tiểu đoàn bảo an 317, tiêu diệt Chi khu Bà Hom, đánh chiếm khu rađa Phú Lâm, phát triển đánh chiếm trường đua Phú Thọ, sau đó tổ chức một bộ phận sang hợp điểm tại Dinh Độc Lập.
Lúc 5 giờ 30 phút, mũi tiến công của Trung đoàn 24 phối hợp cùng đơn vị đặc công diệt đồn ngã ba Đình Hưng Đông, sau đó chiếm cầu Nhị Thiên Đường và cầu Chữ Y; 10 giờ 30 phút, đánh chiếm Bộ Tư lệnh Cảnh sát quốc gia, có một bộ phận sang hợp điểm ở Dinh Độc Lập. Trung đoàn 88, từ 5 giờ 30 phút đến 8 giờ, tiến công diệt đồn và Phân chi khu Bà Phước, sau đó phát triển tiến công và làm chủ đồn Ông Thìn, ngã ba An Phú, khu Nhà Bè. Trung đoàn 16, lúc 6 giờ 30 phút, chiếm ga An Lộc; 10 giờ 30 phút, chiếm cầu Bình Điển, sau đó có một bộ phận phát triển vào nội thành. Sư đoàn 5, từ 5 giờ đến 12 giờ, tiến công và bức hàng toàn bộ Sư đoàn 22 và các liên đoàn biệt động quân, cùng lực lượng tại chỗ đánh chiếm thị xã Tân An, Chi khu Thủ Thừa,... Các đơn vị đặc công, lúc 8 giờ chiếm quận Tân Bình, 10 giờ chiếm quận Bình Chánh; 12 giờ chiếm Đặc khu Rừng Sác.
Đến 11 giờ ngày 30/4/1975, các đơn vị của cánh quân Tây Nam đã đánh chiếm các mục tiêu được giao theo kế hoạch. Tư lệnh Lê Đức Anh cùng với Bộ Tư lệnh cánh quân Tây Nam đã chỉ huy các đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chia cắt chiến lược giữa Sài Gòn với Cần Thơ trên đường 4 (nay là quốc lộ 1), đập tan ý định cuối cùng của chính quyền và quân đội Sài Gòn về tăng viện từ Quân đoàn 4 lên Sài Gòn và rút toàn bộ lực lượng từ Sài Gòn về cố thủ ở miền Tây Nam Bộ. Không chỉ làm nhiệm vụ chia cắt chiến lược, cánh quân Tây Nam còn thực hiện đòn tiến công hiểm, từ phía sau vào hệ thống phòng thủ của quân đội Sài Gòn, đánh chiếm nhiều mục tiêu trong nội đô Sài Gòn. Đảm nhiệm tiến công trên hướng quan trọng của chiến dịch Hồ Chí Minh, cánh quân Tây Nam tiến công trên phạm vi không gian rộng lớn từ Tây Ninh, Kiến Tường, Long An, các đơn vị của cánh quân Tây Nam phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương đã làm tan rã toàn bộ Sư đoàn 22 với các đơn liên đoàn biệt động quân mới thành lập, đánh chiếm khu vực Hậu Nghĩa và hai bên sông Vàm Cỏ Đông, tiêu diệt các chi khu (Đức Hòa, Đức Huệ, Thủ Thừa), phân chi khu (Vĩnh Lộc, Tân Túc, Tân Hào, Ba Phước); đánh chiếm căn cứ Trà Cú, khu rađa Phú Lâm, trường đua Phú Thọ, đánh chiếm cầu Nhị Thiên Đường, cầu Bình Điện, cầu Chữ Y; đánh chiếm thị xã Tân An, quận Tân Bình, quận Bình Chánh, Đặc khu Rừng Sác, tiêu diệt nhiều đồn bốt và một số đơn vị bảo an; đánh bại nhiều đợt phản kích của địch trên đường 4, giữ vững địa bàn và thế trận tiến công và cuối cùng tiến vào Sài Gòn, đánh chiếm hai trong năm mục tiêu chiến lược của chiến dịch là Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô và Tổng nha Cảnh sát quốc gia. Có hai mũi thọc sâu đã hợp điểm với lực lượng thọc sâu của Quân đoàn 2 và Quân đoàn 4 tại Dinh Độc Lập. Sau đó, các đơn vị của cánh quân Tây Nam phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương nhanh chóng ổn định tình hình, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn ở địa bàn được giao.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, cánh quân Tây Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh chiến dịch giao. Dấu ấn chỉ huy và tài thao lược của đồng chí Lê Đức Anh được thể hiện nổi bật. Ngay từ khi nhận nhiệm vụ làm Tư lệnh cánh quân Tây Nam, là người chỉ huy có nhiều kinh nghiệm ở địa bàn Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, đồng chí đã dự tính được những khó khăn do hướng tiến công từ vùng đồng bằng, nhiều khu vực trũng, ngập nước và nhiều sình lầy, nhiều kênh, rạch, đặc biệt phải vượt sông Vàm Cỏ Đông khi tiến về Sài Gòn. Với lực lượng rất lớn các đơn vị xe tăng, thiết giáp, pháo binh, pháo cao xạ, việc cơ động trên địa hình trống trải, nhiều sình lầy, kênh, rạch chằng chịt, lầy lội, sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, Tư lệnh Lê Đức Anh và Bộ Tư lệnh cánh quân Tây Nam đã có nhiều giải pháp khắc phục khó khăn, bảo đảm cơ động và vượt sông hiệu quả, kịp thời. Cán bộ của Đoàn 232 cùng cán bộ địa phương vùng lân cận đã vận động nhân dân chuẩn bị từ trước, chặt và bó hàng nghìn bó cây, phân tán cất giấu nhiều nơi để sử dụng lót đường cho xe, pháo vượt qua các khu vực khó khăn, phức tạp khi bước vào chiến dịch. Đồng thời, Tư lệnh Lê Đức Anh đã yêu cầu các đơn vị đặc công chiếm và giữ bằng được các cầu trọng yếu trên các hướng tiến quân, không để cho địch phá hoại làm ảnh hưởng đến tốc độ cơ động và chiến đấu của các đơn vị. Trong quá trình tiến công, Tư lệnh Lê Đức Anh luôn kịp thời đưa ra những quyết định rất đúng đắn và sáng tạo, từ huy động đông đảo nhân dân tham gia chiến dịch, phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương chiến đấu, tạo thế đến quá trình chỉ huy thực hành tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn trên hướng tiến công đặc thù sông nước. Những đóng góp quan trọng của đồng chí Lê Đức Anh trong chiến dịch Hồ Chí Minh có giá trị cả lý luận và thực tiễn, cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng sáng tạo trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Đại tá, ThS. PHẠM ANH TUẤN
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Đại tướng Lê Đức Anh có nhiều năm tháng chiến đấu, công tác tại Quân khu 9 và có hai giai đoạn đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân khu (1969 - 1973 và 1976 - 1978). Trong thời kỳ nước ta thực hiện nghĩa vụ quốc tế giúp cách mạng Campuchia, trên cương vị là Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (Mặt trận 719), đồng chí
Lê Đức Anh đã chỉ đạo rất sâu sát, kịp thời và có hiệu quả đối với Bộ Tư lệnh các mặt trận, trong đó có Mặt trận 979 - Quân khu 9.
Sau khi Việt Nam đưa quân tình nguyện giúp Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, giải phóng đất nước Campuchia (07/01/1979), theo nguyện vọng tha thiết chính đáng của nhân dân Campuchia, đề nghị của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước và Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục ở lại giúp đỡ cách mạng và nhân dân Campuchia. Ngày 18/02/1979, tại Thủ đô Phnôm Pênh, hai nước đã ký “Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Campuchia”. Thực hiện Hiệp ước và do nhu cầu tái thiết sau giải phóng của bạn, cùng với quân tình nguyện đang ở Campuchia, Việt Nam đã nhanh chóng đưa một lực lượng cán bộ thuộc nhiều lĩnh vực, hình thành hệ thống chuyên gia từ Trung ương đến cơ sở. Đến cuối năm 1980, đã có 22 đoàn chuyên gia Trung ương, 20 đoàn chuyên gia tỉnh, thành phố.
Với quan điểm “giúp bạn là mình tự giúp mình”, trên cơ sở Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác, trước tình hình tại Campuchia diễn biến phức tạp, Việt Nam và Campuchia ký “Hiệp định giúp đỡ và hợp tác quân sự”, Bộ Quốc phòng hai nước đã ký “Hiệp định tiếp tục duy trì các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia”. Thực hiện những chủ trương hợp tác đã được hai Đảng, hai Nhà nước thỏa thuận, để thống nhất lãnh đạo, chỉ huy, nâng cao hiệu suất chiến đấu và công tác của các lực lượng vũ trang Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, ngày 18/5/1981, Quân ủy Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 36/QUTW về tổ chức Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia và thành lập Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia mang phiên hiệu Bộ Tư lệnh 719. Theo Nghị quyết, Bộ Tư lệnh 719 trực thuộc Bộ Quốc phòng, đồng thời là cơ quan đại diện của Bộ Quốc phòng trên hướng Tây Nam, trực tiếp chỉ huy Quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia. Ngày 29/6/1981, đồng chí Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Sau khi nhận nhiệm vụ, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng với các đồng chí trong Bộ Tư lệnh đề nghị Bộ Quốc phòng chuyển cơ quan tiền phương Bộ Tư lệnh các quân khu thành các Bộ Tư lệnh 579, 779, 979. Các Bộ Tư lệnh này có quyền hạn tương đương Bộ Tư lệnh quân đoàn, chịu sự chỉ đạo, chỉ huy của Bộ Tư lệnh 719. Bộ Tư lệnh Mặt trận 979 - Quân khu 9 chịu sự chỉ đạo, chỉ huy của Mặt trận 719 về hoạt động tác chiến ở Campuchia, đồng thời cũng chịu sự chỉ đạo, chỉ huy của Bộ Tư lệnh Quân khu 9 về các mặt công tác khác.
Trong khi ta chấn chỉnh tổ chức, điều chỉnh lực lượng để hoàn thành thế bố trí chiến lược thích hợp với đặc điểm cụ thể của chiến trường Campuchia thì Pôn Pốt - Iêng Xary ra sức thu thập tàn quân, củng cố lực lượng chống phá cách mạng Campuchia. Mùa khô năm 1981 - 1982, địch đã phục hồi được 11 sư đoàn chiến đấu, chiếm giữ một phần biên giới 7 tỉnh phía Bắc và Tây Bắc Campuchia. Trong nội địa, chúng đẩy mạnh hoạt động trên địa bàn 12 tỉnh. Tuy cường độ và quy mô thấp hơn các năm trước nhưng số vụ lại có chiều hướng nghiêm trọng hơn. Tháng 12/1981, ba phái (Pôn Pốt, Sê Nê Ka và Mô Li Ka) đã thành lập Chính phủ Liên hiệp ba phái, gây tác động tâm lý tiêu cực trong nhân dân và tạo được một số ảnh hưởng về chính trị và ngoại giao. Lúc này, Tư lệnh Lê Đức Anh đã cùng tập thể Bộ Tư lệnh 719 phân tích tình hình chiến trường, nhiệm vụ tác chiến trong 2 năm 1981 - 1982 và đề ra chủ trương: Tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận lớn quân địch đã lọt vào nội địa, xóa bỏ tình trạng xen kẽ địch - ta ở biên giới, không cho địch mở rộng hoạt động du kích. Giúp bạn từng bước nâng cao khả năng chỉ đạo, chỉ huy, vận động quần chúng, xây dựng lực lượng đánh địch rộng khắp. Thực hiện chủ trương này, ngày 29/12/1981, Bộ Tư lệnh Mặt trận 979 đã chỉ đạo Sư đoàn bộ binh 4 sử dụng Trung đoàn bộ binh 2 và Trung đoàn bộ binh 20 do đồng chí Phạm Văn Trà, Phó Tư lệnh Mặt trận chỉ huy tập kích tiêu diệt căn cứ 336 của địch, gây thiệt hại cho Trung đoàn 11, Sư đoàn 164 Pôn Pốt, buộc lực lượng này phải rút chạy sang Thái Lan.
Năm 1983, tình hình chiến trường tại Campuchia có nhiều diễn biến phức tạp. Sau khi Quân đoàn 4 rút quân về nước, một số đơn vị và địa bàn đảm nhiệm trước kia được giao về Mặt trận 979 đảm nhiệm, trong đó có tỉnh Bat Đom Boong. Lợi dụng việc ta rút quân, địch đẩy mạnh tiến công quân sự trên 4 tỉnh biên giới (Pôxát, Bat Đom Boong, Xiêm Riệp và Preatvihia). Riêng tại Pôxát và Bat Đom Boong, địch đã hình thành được một sư đoàn làm nhiệm vụ tiến công với ý đồ chiếm lại Bat Đom Boong và Xiêm Riệp để làm thủ đô cho chính phủ lưu vong của địch quay lại đứng chân. Trước tình hình trên, đồng chí Lê Đức Anh đã giao nhiệm vụ cho Mặt trận 979 cùng bạn tập trung tiêu diệt một số đơn vị chủ lực của địch, khôi phục lại địa bàn nội địa, kiên quyết không để cho chúng xây dựng lại các đơn vị mới. Trong đó tập trung đánh bại các cuộc phản kích của địch từ biên giới vào. Sau khi nhận ý kiến chỉ đạo từ Tư lệnh Lê Đức Anh, để chủ động phá vỡ các khu căn cứ, cắt đứt tuyến hành lang, ngăn chặn các đợt tiến công phá hoại của địch, Bộ Tư lệnh Mặt trận 979 chỉ đạo Sư đoàn 339 phối hợp với Đoàn 9903 (tỉnh Tiền Giang) và lực lượng bạn tổ chức nhiều đợt truy quét khu vực địch đứng chân. Bằng các lực lượng tổng hợp của ta và bạn, kết hợp binh, địch vận, vừa truy quét địch ngoài địa hình, vừa phát động đánh địch lẩn trốn trong dân, kêu gọi chồng, con, em theo địch quay về với cách mạng, với những người yêu nước Campuchia. Trong hoạt động truy quét, bằng cách đánh ban đêm và phục kích đón lõng năm 1983, Mặt trận 979 đã cùng với lực lượng bạn loại khỏi vòng chiến đấu hơn 200 tên, thu 33 khẩu súng các loại cùng nhiều quân trang, quân dụng và tài liệu khác. Kết quả này đã góp phần làm cho tình hình khu vực biên giới dần ổn định, tạo điều kiện cho ta tập trung giúp bạn trên các mặt trận, các lĩnh vực khác.
Tháng 7/1983, tại Hội nghị tổng kết việc hợp tác giúp đỡ về kinh tế, văn hóa, kỹ thuật giữa Việt Nam và Campuchia từ năm 1979 đến năm 1983, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam trong đó có Mặt trận 979: “Chúng ta phải giúp bạn mạnh lên, tự mình đảm đương cuộc đấu tranh trong thế liên minh chiến lược, chiến đấu ba nước Đông Dương... Nguyện vọng của cán bộ bạn là tha thiết muốn làm chủ lấy đất nước của mình. Một chuyên gia khi về nước mà bạn chưa trưởng thành, chưa đảm đương được nhiệm vụ là chuyên gia đó không hoàn thành nhiệm vụ, dù đồng chí đó làm việc ngày đêm. Vì thế, cần giúp bạn “nâng ba phong trào cách mạng” (đánh địch và địch vận, xây dựng lực lượng, sản xuất) lên một bước mới, với chất lượng mới”.
Quán triệt sâu sắc huấn thị của Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, trong suốt quá trình liên minh chiến đấu, Mặt trận 979 đã giúp bạn toàn diện cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa; trong đó, tập trung vào xây dựng 3 phong trào cách mạng quần chúng như “toàn dân đánh giặc”, “toàn dân tham gia xây dựng đời sống văn hóa mới, khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội” và “toàn dân tham gia xây dựng thực lực cách mạng, củng cố chính quyền, xây dựng phum, sóc vững mạnh”. Đặc biệt, chuyên gia ở hai tỉnh Kongpong Speu và Campốt đã có nhiều kinh nghiệm trong đánh phá địch ngầm. Nhìn chung, công tác giúp bạn đánh phá địch ngầm, xây dựng cơ sở, thực lực cách mạng, đẩy mạnh 3 phong trào cách mạng phát triển tốt, nhất là phong trào quần chúng tham gia đánh địch rất sôi nổi và đạt hiệu quả cao. Việc giúp bạn xây dựng lực lượng vũ trang 3 thứ quân được Bộ Tư lệnh Mặt trận 979 quan tâm chỉ đạo, ta đã xây dựng huấn luyện và trang bị cho bạn được 2 binh đoàn trực tiếp đảm đương nhiệm vụ truy quét, bảo vệ giao thông; hoàn thành xây dựng, bàn giao Binh đoàn 2 và 5 tiểu đoàn bộ binh và 6 tiểu đoàn binh chủng khác cho Bộ Quốc phòng bạn. Đối với bộ đội địa phương, các lực lượng của Mặt trận 979 đã xây dựng và bàn giao cho bạn 10 tiểu đoàn tỉnh, 3 tiểu đoàn huấn luyện tân binh, xây dựng cơ quan quân sự từ tỉnh xuống xã cho 4 địa phương. Trong hoạt động chiến đấu, các lực lượng vũ trang Mặt trận 979 và bạn đã phối hợp chặt chẽ với nhau, hiệp đồng tác chiến, huy động lực lượng toàn diện để đánh địch. Song song với tác chiến là kèm cặp, xây dựng các đơn vị địa phương, từng bước chuyển dần từ “Ta làm giúp bạn” sang “Ta - bạn cùng làm”. Qua thực tiễn chiến đấu và công tác, bạn đã từng bước trưởng thành về nhiều mặt, có thể tự đảm nhiệm tác chiến trên một số địa bàn.
Thời gian này, Bộ Tư lệnh Mặt trận 979 tập trung chỉ đạo các lực lượng phối hợp với bạn đánh bại âm mưu mới của địch, làm thất bại thế “2 vùng, 2 lực lượng”. Tiêu diệt và làm tan rã phần lớn lực lượng địch, xây dựng thế trận tiến công và phòng thủ vững chắc cả biên giới và nội địa, triệt cắt tiếp tế, xâm nhập, giúp bạn xây dựng và phát triển thực lực cách mạng, nhất là lực lượng vũ trang, thực hiện thắng lợi 3 mục tiêu chiến lược, tiến lên đảm đương sự nghiệp cách mạng của mình. Năm 1984, cách mạng Campuchia đã có sự trưởng thành đáng kể và chuyển sang giai đoạn mới. Đất nước Campuchia dần được hồi sinh sau những năm nỗ lực hàn gắn vết thương do hậu quả của chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xary để lại. Chế độ mới ở Campuchia đã đạt được những thành tựu quan trọng về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Quân đội cách mạng và nhân dân Campuchia từng bước tự đảm đương được những nhiệm vụ trọng yếu của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Mặc dù bị ta đánh thiệt hại nặng trên các địa bàn chiến lược, nhưng được các thế lực bên ngoài giúp sức và dựa vào căn cứ ở vùng biên giới Campuchia - Thái Lan, quân Pôn Pốt và lực lượng các phe phái cố đẩy mạnh các hoạt động phá hoại hòng tạo ra thế hai vùng, hai chính phủ có lợi cho chúng. Trước tình hình đó, Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia Lê Đức Anh đã giao nhiệm vụ trực tiếp cho các mặt trận, trong đó có Mặt trận 979, phải tiếp tục phối hợp với các lực lượng cách mạng Campuchia chiến đấu. Tư lệnh Lê Đức Anh nhấn mạnh: Các đòn tiến công liên tục của Quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia vào các căn cứ của địch phải làm cho chúng suy yếu, lâm vào thế bị động đối phó, giúp cho tình hình Campuchia ngày càng ổn định có lợi cho cách mạng.
Thực hiện chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, trên đà thắng lợi, Bộ Tư lệnh Mặt trận 979 mở chiến dịch mùa khô 1984 - 1985 nhằm tập trung tiêu diệt tất cả các căn cứ còn lại của địch ở tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan với phương châm “đánh đến đâu, chiếm giữ đến đó”, đồng thời đánh các căn cứ lõm hành lang tiếp tế của địch, biến các căn cứ ẩn náu của địch thành các điểm chốt giữ của ta, đánh bại âm mưu “giành thắng lợi quân sự trong mùa khô 1984 - 1985” và kế hoạch chuyển hướng chiến lược “chiếm đất, giành dân trong nội địa, chờ thời cơ xoay chuyển tình thế” của địch. Chủ trương của ta là thông qua chiến dịch này, thực hiện được kế hoạch đưa các đơn vị của bạn lên thay thế cho các đơn vị của ta đang làm nhiệm vụ chốt giữ dọc tuyến biên giới và ta tiếp tục rút dần một số đơn vị về nước. Đây là chiến dịch có quy mô lớn mà điểm then chốt là đánh vào căn cứ Cacđamon - nơi đặt cơ quan đầu não của Pôn Pốt. Lực lượng tham gia chiến dịch này khá lớn với quyết tâm là tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận các sư đoàn 164, 11, 86, 175 và 221 thuộc Quân khu Tây Nam của địch, xóa sạch các căn cứ của địch, làm chủ tuyến biên giới sau đó đưa lực lượng bạn lên chốt giữ, khóa chặt hành lang vận chuyển của địch. Do đặc điểm, tính chất đặc biệt của chiến dịch, Bộ Tư lệnh Mặt trận 979 quyết định thành lập Mặt trận Đoàn 97 đóng ở Điểm cao A3.
Sau khi tiêu diệt các căn cứ vòng ngoài, từ ngày 08/02/1985, các sư đoàn 330, 339 của ta và Sư đoàn 4 của bạn tập trung tổng lực tiến công vào căn cứ Cacđamon do Sư đoàn 111 và Trung ương Pôn Pốt chiếm giữ. Đến trưa ngày 10/02/1985, các đơn vị của ta đã hoàn toàn làm chủ được căn cứ này. Kết quả, ta đã tiêu diệt 550 tên, thu 2.304 súng các loại, 476 tấn đạn, 66 tấn lương thực, thực phẩm, 16 kho vũ khí, lương thực, thực phẩm... Mặt trận biên giới giành thắng lợi, ta đã quét sạch địch khỏi biên giới từ Cô Công đến Bát Đom Boong, làm cho địch tan rã và suy yếu nghiêm trọng, làm chủ biên giới, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia giao cho Mặt trận 979.
Để tăng cường tuyến phòng thủ biên giới Campuchia - Thái Lan, không để địch xâm nhập, Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia và đồng chí Lê Đức Anh đã giao nhiệm vụ cho các mặt trận 479, 579, 779 và 979 làm nòng cốt giúp nhân dân bạn xây dựng công trình phòng thủ biên giới mang tên “K5” nhằm tạo thế trận đánh địch, bảo vệ biên giới, hạn chế địch tiến công từ biên giới vào nội địa. Tuyến phòng thủ biên giới K5 gồm hệ thống tổ chức phòng thủ, tập trung bộ đội chủ lực trên các trọng điểm và công sự, chiến hào, vật cản bằng hàng rào dây thép gai, mìn, đê, hào, lũy, rào, hầm chông, cạm bẫy... Khi triển khai công trình K5, đã có nhiều ý kiến hoài nghi về hiệu quả của công trình này, cho rằng tốn kém và không hiệu quả. Sau khi tiếp thu các ý kiến, đồng chí Lê Đức Anh đã phân tích: Làm K5 có ý nghĩa thiết thực. Một là, có tuyến tuần tra biên giới thì các đơn vị vũ trang của bạn vững tâm hơn, dám đảm nhận bảo vệ tuyến đường biên thì Quân tình nguyện Việt Nam mới rảnh tay thực hiện nhiệm vụ của đơn vị chủ lực cơ động chiến lược đúng như mục tiêu mà ta và bạn đã đề ra. Hai là, nếu lúc đó để bạn đứng ra tổ chức những trận đánh lớn hoặc “vận động cách mạng lớn” thì bạn chưa làm được nhưng nếu để bạn đứng ra tổ chức cho nhân dân đào hào, trồng tre phòng thủ biên giới thì bạn làm được và làm tốt. Như vậy, công trình K5 là nơi thực tế tập dượt cho bạn biết làm công tác vận động, tổ chức quần chúng.
Thực hiện quyết tâm chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, Mặt trận 979 chỉ đạo các đơn vị quyết tâm giữ vững thế làm chủ biên giới, tập trung xây dựng tuyến phòng thủ K5. Mặt trận 979 đã phối hợp với Bộ Tư lệnh Quân khu 3 của bạn vận động nhân dân cùng lực lượng vũ trang tham gia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới. Trước hết là giáo dục, quán triệt sâu sắc cho lực lượng vũ trang ta và bạn cũng như nhân dân Campuchia hiểu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của kế hoạch này. Việc hoàn thành kế hoạch K5 sẽ tạo thế trận bảo vệ vững chắc biên giới và ngăn chặn địch xâm nhập vào nội địa. Trên cơ sở đó, ta điều chỉnh, bố trí lại lực lượng theo hướng mạnh dạn đưa các đơn vị của bạn đảm nhiệm tuyến biên giới hoặc bố trí xen kẽ với lực lượng ta để kèm cặp, giúp đỡ bạn trưởng thành, đủ sức bảo vệ biên giới. Đồng thời, mạnh dạn chuyển hầu hết các địa bàn huyện ở trong nội địa cho bạn phụ trách, tạo điều kiện cho bạn đảm đương nhiệm vụ bảo vệ đất nước. Sau khi hoàn thành việc chuyển giao nhiệm vụ cho bạn từng bước, ta chuyển sang làm nhiệm vụ hỗ trợ chung là để cụ thể hóa thỏa thuận giữa hai Đảng hai Nhà nước Việt Nam - Campuchia, từng bước rút Quân tình nguyện Việt Nam về nước.
Bằng công tác phối hợp linh hoạt và hiệu quả, Mặt trận 979 và bạn đã huy động được gần 60.000 người đi xây dựng công trình K5, huy động sự đóng góp rất lớn từ nhân dân bao gồm tiền bạc, vật liệu, dụng cụ, lương thực, thực phẩm, thuốc men cho việc xây dựng tuyến phòng thủ bảo vệ biên giới. Với sự cố gắng nỗ lực chung, ta và bạn đã xây dựng được tuyến phòng thủ bảo vệ biên giới dài hơn 200km, bố trí hàng chục nghìn quả mìn, kết hợp bố trí chông các loại, làm đường tuần tra biên giới dài hơn 100km. Bên cạnh đó, các lực lượng cũng đã xây dựng hệ thống điểm tựa, cụm điểm tựa cho bộ đội và dân quân; bố trí lực lượng phòng thủ giúp bạn đánh địch, bảo vệ địa bàn, bảo vệ lực lượng; xây dựng một số sân bay trực thăng, trận địa pháo và kho tàng kịp thời phục vụ chiến đấu bảo vệ tuyến biên giới, làm thất bại âm mưu của địch trong việc phục hồi căn cứ, kho tàng, thực hiện thế “hai vùng, hai chính quyền” để mở rộng chiến tranh du kích ở Campuchia. Phong trào lao động sản xuất được đẩy mạnh nhằm bảo đảm đời sống, chăm lo sức khỏe cho nhân dân và những lực lượng tham gia tuyến phòng thủ biên giới.
Thực tiễn tình hình chiến trường ở Campuchia đã cho thấy việc xây dựng K5 là rất cần thiết và mang lại hiệu quả thiết thực. Qua đó, cũng cho thấy tầm nhìn xa của tập thể Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia và vai trò cá nhân của đồng chí Lê Đức Anh trong việc nhận định, đánh giá tình hình và đưa ra những quyết sách kịp thời, đúng đắn, phù hợp, sát thực tiễn. Tuyến tuần tra biên giới khi hoàn thành có tác dụng chia cắt chiến lược ngoại biên và nội địa, góp phần tích cực và có hiệu quả trong việc hạn chế, ngăn chặn sự xâm nhập của địch từ Thái Lan vào nội địa Campuchia. Ở trong nội địa, ta và bạn đã kết hợp ba mũi tiến công truy quét địch, địch vận và an ninh, làm tan rã một bộ phận quan trọng sinh lực địch. Nếu như trước đó, địch từ bên kia biên giới thường xuyên thâm nhập, thực hiện lối đánh du kích với thời gian ngắn sau đó rút lui về bên kia biên giới Thái Lan gây cho ta rất nhiều phiền toái và khó khăn, tổn thất thì sau khi tuyến phòng thủ biên giới K5 và đường tuần tra biên giới được hoàn thành đã giải quyết gần như hoàn toàn tình trạng này. Điều đó đã tạo ra thời gian để các lực lượng của ta và bạn tiến hành công tác huấn luyện, củng cố đơn vị, từng bước chuyển giao nhiệm vụ, rút ngắn thời gian để Quân tình nguyện Việt Nam rút quân về nước theo thỏa thuận.
Trong giai đoạn Việt Nam thực hiện nghĩa vụ quốc tế giúp cách mạng Campuchia, sau khi chính quyền trung ương Pôn Pốt sụp đổ, bên cạnh nhiệm vụ truy quét tàn quân, giúp bạn xây dựng chính quyền, “cứu đói, cứu đau” cho nhân dân Campuchia thì có thể nói nhiệm vụ xây dựng tuyến phòng thủ biên giới K5 và đường tuần tra biên giới Campuchia - Thái Lan là một trong những nhiệm vụ nặng nề, khó khăn, gian khổ, phức tạp nhất mà các lực lượng Quân tình nguyện Việt Nam phải trải qua. Nhưng, vượt trên tất cả với sự đồng lòng, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ vì mục tiêu chung, các lực lượng quân tình nguyện Việt Nam và Mặt trận 979 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, từng bước làm cho địch suy kiệt, mất khả năng chiến đấu, từng bước chuyển giao vai trò tác chiến, lãnh đạo, điều hành chính quyền và đảm nhiệm các nhiệm vụ cho bạn.
Ngày 05/11/1986, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký quyết định điều đồng chí Lê Đức Anh về nhận nhiệm vụ tại Bộ Quốc phòng, thôi giữ chức Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Gần ba năm sau đó, ngày 26/9/1989, những đơn vị cuối cùng của quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia Việt Nam rút hết về nước, mở ra một giai đoạn mới của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Campuchia. Trong đợt rút quân này, đội hình Mặt trận 979 được tổ chức thành 3 khối, hành quân về nước theo 3 hướng trở về Tổ quốc, hoàn thành xuất sắc sứ mệnh mà Tổ quốc và nhân dân giao phó.
Có được kết quả đó là nhờ sự đoàn kết một lòng, sự nhất trí cao và sự phấn đấu, nỗ lực, chấp nhận gian khổ hy sinh của nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong toàn Mặt trận. Trong sự thành công đó trước hết phải khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ Quốc phòng mà trực tiếp là Bộ Tư lệnh Mặt trận 719 và cá nhân đồng chí Lê Đức Anh. Với vai trò là Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, đồng chí đã có những chỉ đạo rất kịp thời và sát, đúng đối với Mặt trận 979 - Quân khu 9 trong truy quét tàn quân, mở mảng chiến dịch, huấn luyện giúp bạn, xây dựng tuyến phòng thủ K5, đường tuần tra biên giới... Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 9 luôn tự hào về một giai đoạn đấu tranh hào hùng bảo vệ biên giới và làm nghĩa vụ quốc tế cao cả giúp cách mạng Campuchia hồi sinh, xây dựng đất nước và càng thêm tự hào về một giai đoạn được sống, công tác và chiến đấu dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của một con người tài năng, đức độ, một trong những lãnh đạo, chỉ huy ưu tú của cách mạng Việt Nam - quê hương Thừa Thiên Huế - Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (1981 - 1986) Lê Đức Anh.
Đại tá NGUYỄN VĂN LỢI
Năm 1981, Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (Bộ Tư lệnh Mặt trận 719) được thành lập; cơ quan tiền phương Bộ Tư lệnh các Quân khu 5, 7, 9 và Quân đoàn 4 được tổ chức thành Bộ Tư lệnh Mặt trận 579, 779, 979 và 479. Thượng tướng Lê Đức Anh - Tư lệnh Quân khu 7 được điều động bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.
Trên cương vị Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (Tư lệnh Mặt trận 719), từ năm 1981 đến năm 1986, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo sâu sát, chặt chẽ các hoạt động của Bộ Tư lệnh Mặt trận 579:
1. Chỉ đạo Bộ Tư lệnh Mặt trận 579 tập trung ổn định đời sống nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị, lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia
Ngay sau khi nhân dân Campuchia được giải phóng khỏi chế độ diệt chủng, việc tìm và đưa dân về, xây dựng lại nhà cửa, cứu đói cứu đau, ổn định đời sống cho nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị, lực lượng vũ trang các cấp của bạn được quân tình nguyện Việt Nam tiến hành khẩn trương với tinh thần vô tư trong sáng và trách nhiệm cao nhất. Đến năm 1981, sau khi bạn tổ chức thành công cuộc bầu cử Quốc hội và ban hành Hiến pháp mới của nước Cộng hoà nhân dân Campuchia, đời sống nhân dân và thực lực cách mạng của bạn có những bước ổn định và phát triển. Trên cương vị Tư lệnh Mặt trận 719, đồng chí Lê Đức Anh hết sức quan tâm đến vấn đề dựa vào dân, tin dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân bạn. Đồng chí khẳng định: “Kết cục thắng lợi trong cuộc đấu tranh “ai thắng ai” ở Campuchia không phải là để tiêu diệt bằng hết các loại tàn quân và phản động bằng đòn quân sự, mà là làm cho chúng tan rã và tàn lụi đi bằng sức mạnh tổng hợp của cách mạng Campuchia. Nếu nhân dân Campuchia thật sự làm chủ, bọn phản động không thể bám và dựa được vào dân thì chúng sẽ suy tàn và chỉ còn là những toán thổ phỉ tàn lụi dần”.
Dưới sự chỉ đạo của đồng chí, Mặt trận 579 tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quan trọng trên, mục tiêu trước mắt: “Ta giúp bạn và cùng làm với bạn đến cuối năm 1981 có được: 100% huyện, xã 50% ấp có tổ nòng cốt. 100% huyện và 50% xã có chi bộ. Yêu cầu chung là phải tiến hành khẩn trương, vững chắc, lấy chất lượng làm chính, bảo đảm lai lịch rõ ràng và đúng tiêu chuẩn”.
Trên thực tế, trong 9 tháng đầu năm 1981, các đơn vị thuộc Mặt trận 579 tập trung bồi dưỡng, bố trí đủ ban chỉ huy tiểu đoàn, phái viên cạnh đội vũ trang, giúp bạn bầu được 109/136 khung chính quyền khum (xã) (còn 27 khum chưa bầu cử). Ta giúp bạn xây dựng được lực lượng vũ trang các tỉnh gồm 2.530 người (với 444 cán bộ từ trung đội trở lên; lực lượng du kích phum (thôn, làng), khum (xã) có 5.676 người), trang bị 2.310 súng các loại. Tháng 10/1981, ta giúp bạn tuyển thêm được 208 chiến sĩ mới, thu quân đào ngũ được 205 người; Trường Quân chính Đông Bắc Campuchia khai mạc khóa học mới cho 150 học viên, mở 4 lớp tập huấn cho cán bộ xã đội với 215 người, bồi dưỡng phái viên được 256 người. Từ tháng 12/1981 đến cuối tháng 10/1982, ta tập trung phát động quần chúng, tổ chức học tập cho 99.258 lượt người dân và cán bộ của bạn; các gia đình có thân nhân theo Pôn Pốt đã viết 149 lá thư kêu gọi được 129 đối tượng ra trình diện tại Sư đoàn 3073.
Nhấn mạnh vai trò làm chủ của nhân dân, đồng chí Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam chỉ đạo: “Bất cứ ở đâu, nếu có dân, thì dù là bộ đội chủ lực hay bộ đội làm công tác địa bàn, đơn vị hay cơ quan đều phải coi nhiệm vụ phối hợp với bạn giúp dân đẩy mạnh ba phong trào cách mạng là trách nhiệm chính trị thường xuyên của mình”. Theo đó, trong năm 1983, các cơ quan, đơn vị thuộc Mặt trận 579 thực hiện chức năng của đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, cùng bạn tiến hành các đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp trong 136 khum (xã); tổ chức cho hơn 200 nghìn lượt người học tập; củng cố 15/19 huyện, 96/136 khum (xã); tích cực bồi dưỡng, phát triển lực lượng nòng cốt, phát triển đảng viên; củng cố, xây dựng được 21 chi bộ với 207 đảng viên và 1.031 nòng cốt; xây dựng được 47 chi đoàn thanh niên với 415 đoàn viên; giúp dân nước bạn xây dựng lại nhà cửa, trồng tỉa, làm thủy lợi, khắc phục hậu quả lũ lụt, hạn hán, thu hoạch mùa màng, nhường cơm sẻ áo, cứu đói, phục vụ văn hóa văn nghệ cho nhân dân bạn... Tất cả mọi việc giúp đỡ nhân dân Campuchia ổn định lại cuộc sống được cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam thực hiện với tất cả tình thương và trách nhiệm, thật sự cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nhân dân bạn, được nhân dân bạn tin yêu gọi là “Đội quân nhà Phật”. Qua thực tiễn, ta đã giúp bạn xây dựng nền nếp làm việc, phát huy tinh thần chủ động và năng lực công tác của đội ngũ cán bộ trên các mặt hoạt động, nhất là trong công tác vận động quần chúng.
Đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo: “Cần bàn bạc thống nhất với bạn, xây dựng thành chế độ cán bộ các cấp chưa kinh qua công tác quần chúng đều phải xuống cơ sở để được rèn luyện trong phong trào quần chúng, để thông cảm với đời sống, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, để xây dựng tình cảm, thương nước, thương dân và chịu sự kiểm tra, bình phán của quần chúng”. Đồng chí Lê Đức Anh cho rằng: xây dựng lực lượng cách mạng Campuchia ngày càng lớn mạnh về mọi mặt, tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước, “là mục tiêu quan trọng nhất, nhằm xây dựng phát triển các nhân tố bên trong, nhân tố quyết định của cách mạng Campuchia”2 và lưu ý “phải hết sức coi trọng khâu bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và giúp bạn có kế hoạch bảo vệ cán bộ”3.
Trong năm 1983, Mặt trận 579 đã giúp bạn phát triển được trên 4,4 nghìn dân quân, tự vệ; động viên trên 1,5 nghìn thanh niên nhập ngũ; thành lập 1 trung đoàn, 4 tiểu đoàn, 19 đại đội và 25 đội vũ trang công tác. Ta tích cực giúp bạn huấn luyện và lần lượt đưa các đơn vị ra phía trước phối hợp tác chiến hoặc độc lập hoạt động để bạn ngày càng trưởng thành. Chính quyền, các đoàn thể và lực lượng vũ trang của bạn đến cuối năm 1983 đầu năm 1984 đã vượt qua thời kỳ khó khăn nhất. Lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia ngày càng trưởng thành, phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam truy quét địch có hiệu quả và có thể tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ hai thành phố lớn là Phnôm Pênh và Kôngpông Chàm.
Những việc làm trên đã góp phần xây dựng, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa ta và bạn theo đúng quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng ta, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa Việt Nam và Campuchia; qua đó, bạn càng hiểu ta hơn, mối quan hệ hợp tác giữa ta và bạn ngày càng chặt chẽ, thiết thực và có hiệu quả hơn. Ta đã duy trì nghiêm kỷ luật chiến trường, kỷ luật trong quan hệ với quân dân bạn, giữ vững được tác phong, hình ảnh của “Đội quân nhà Phật” trong lòng nhân dân.
2. Chỉ đạo Bộ Tư lệnh Mặt trận 579 truy quét địch ở nội địa, phá “chính quyền 2 mặt”, “cơ sở 2 mặt” của địch
Năm 1981, nhận định tương quan lực lượng giữa quân tình nguyện Việt Nam và Campuchia với chúng đến lúc “cân bằng” địch quyết định phát động chiến tranh du kích rộng khắp nội địa Campuchia. Trước tình hình đó, đồng chí Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam đã chỉ đạo Bộ Tư lệnh Mặt trận 579 đẩy mạnh truy quét địch trong nội địa, phá “chính quyền 2 mặt”, “cơ sở 2 mặt”, đánh tan âm mưu của chúng. Đồng chí lưu ý: “Đối với tàn quân địch, người chỉ huy bộ đội của ta không thể chỉ biết phát huy sức mạnh quân sự mà phải biết phát huy sức mạnh toàn diện để đánh địch. Chỉ đưa bộ đội ta vào rừng, bao vây, vu hồi, tìm diệt quân địch lẩn trốn là không giải quyết được hết địch. Đương nhiên vẫn phải tiếp tục truy quét, triệt nguồn lương thực của địch, nhưng phải nắm vững mục đích của những hành động đó là để gọi địch ra hàng, trở về với nhân dân”.
Theo đó, thực hiện chức năng đội quân chiến đấu, các đơn vị thuộc Mặt trận 579 đã tập trung giúp bạn truy quét địch ở những địa bàn trọng điểm: Tây đền Pret Vihia, Bắc Choam Khsan, ngã ba biên giới Campuchia - Thái Lan - Lào, Tây Bắc Chép, Tha La, Xiêm Bọt, Đông Bắc Lom Phát, Tây Cô Nhắc; tiến hành đánh cắt hành lang của địch ở Tây sông Mê Kông, Đông huyện Chép. Các đơn vị tăng cường lùng sục, chủ động đánh địch, phá gỡ một số lượng lớn mìn của địch, bảo đảm tương đối an toàn và thông suốt các tuyến hành lang.
Năm 1982, Mặt trận 579 cùng với bạn đẩy mạnh phát động quần chúng, bóc gỡ “địch ngầm”, phá “chính quyền 2 mặt”, “cơ sở 2 mặt” của địch. Trung đoàn Bộ binh 733 thuộc Sư đoàn Bộ binh 315 thành lập đội công tác gồm 20 đồng chí hoạt động ở Côngpông Sralâu. Đây là địa bàn khá phức tạp, chính quyền cơ sở phần lớn là các phần tử hoạt động hai mặt. Ta bóc gỡ hàng chục đối tượng, từng bước ổn định tình hình an ninh chính trị. Trung đoàn Bộ binh 143 tích cực vận động quần chúng, phát hiện và bắt nhiều đối tượng hoạt động ngầm.
Đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo: “Đối với phần tử hai mặt trong chính quyền, trong lực lượng vũ trang, biện pháp chủ yếu cũng là giúp bạn giáo dục, cải tạo để họ ăn năn, hối lỗi. Tuyệt đối không được làm bừa, làm ẩu mà phải vững vàng, khôn khéo, tất cả đều phải đưa ra lấy ý kiến của dân, dựa vào dân; ta giúp bạn để bạn làm, giúp bạn thực hiện tốt chính sách nhân đạo”.
Từ cuối năm 1983 đến tháng 5/1984, Mặt trận 579 đẩy mạnh công tác phát động quần chúng ở 13/19 huyện, củng cố 56/136 khum (xã); tổ chức học tập cho các gia đình có người thân bỏ trốn ra rừng theo địch được 1.232 người; huy động 11.868 lượt người tham gia phát quang, làm đường, vận chuyển lương thực lên các chốt; phá một số “chính quyền 2 mặt” ở huyện Lom Phát (Rattanakiri), huyện Chép (Pret Vihia), ở khum Pla Khằn, huyện Tha La (Stung Treng); bắt hàng chục tên địch ngầm cài trong dân và các phần tử hoạt động hai mặt; gọi 87 đối tượng ra đầu hàng chính quyền bạn; riêng tháng 5/1984, có 55 đối tượng ra hàng, chủ yếu ở Choam Khsan, Ku Len (Pret Vihia), giao nộp 23 khẩu súng các loại.
Thực tế cho thấy, ở nội địa Campuchia, quân địch sử dụng chiến tranh du kích, tổ chức các toán nhỏ bu bám đánh vào phum, khum, phục kích giao thông, đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, móc nối xây dựng “chính quyền 2 mặt”, “cơ sở 2 mặt”, tìm cách phá hoại từ bên trong, hòng làm cho cán bộ và nhân dân bạn hoang mang, làm cho ta chán nản, mệt mỏi. Quân tình nguyện Việt Nam đã giúp bạn truy quét địch, làm trong sạch địa bàn. Thực hiện nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia, lúc đầu, ta gặp không ít khó khăn khi đối phó với chiến tranh du kích của địch. Với tính chính nghĩa, bằng hành động nghĩa hiệp, vô tư trong sáng, ta đã được nhân dân Campuchia ủng hộ, tin yêu, hết lòng, hết sức giúp đỡ. Nhờ được lòng dân ủng hộ, ta và bạn đã phát động được phong trào quần chúng, xây dựng được “thế trận lòng dân” vững mạnh, rộng khắp; trên nền tảng đó, ta và bạn đã từng bước đánh bại chiến tranh du kích của địch, giữ vững được thành quả cách mạng, bạn ngày càng trưởng thành và tự đảm đương được nhiệm vụ. Kết quả đó đã khẳng định tầm chiến lược, tính đúng đắn trong sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh.
3. Chỉ đạo Bộ Tư lệnh Mặt trận 579 đẩy mạnh tiến công tiêu diệt địch, xây dựng tuyến phòng thủ biên giới Campuchia - Thái Lan
Tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan nằm trên dãy núi Đăng Rếch có địa hình hiểm trở. Sau khi bị quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng cách mạng Campuchia đánh đổ (01/1979), tàn quân Pôn Pốt chạy về khu vực này lập nhiều căn cứ, tiếp nhận sự hỗ trợ của nước ngoài, từng bước khôi phục và tìm cách đưa lực lượng vào nội địa Campuchia để bu bám, đánh phá. Địa bàn này do Mặt trận 579 phụ trách.
Đầu năm 1984, đồng chí Tư lệnh Mặt trận 719 Lê Đức Anh chỉ đạo: “Đẩy mạnh hoạt động đánh địch trên biên giới Campuchia - Thái Lan, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược làm cho địch suy tàn không gượng dậy được, làm cho những đơn vị lớn không bám được trong nội địa, đập tan âm mưu chiến thuật lập căn cứ ven biên giới, làm chuyển biến rõ rệt tình hình cách mạng Campuchia”.
Bộ Tư lệnh Quân khu 5 mở Chiến dịch mùa khô 1983 - 1984 (mật danh C84) tiến công địch ở căn cứ 547 nằm trên dãy núi Đăng Rếch (lần 4), do đồng chí Nguyễn Chơn, Quyền Tư lệnh Quân khu làm Tư lệnh Chiến dịch; đồng chí Phan Hoan, Tư lệnh Mặt trận 579, làm Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng chiến dịch. Lực lượng ta tham gia chiến dịch gồm: Sư đoàn bộ binh 307 (thiếu), Sư đoàn bộ binh 2 (thiếu) được tăng cường Trung đoàn bộ binh 143 của Sư đoàn bộ binh 315, Trung đoàn bộ binh 687, Tiểu đoàn đặc công 409, các đơn vị binh chủng tăng thiết giáp, pháo binh, công binh, trinh sát thuộc Mặt trận 579, Trung đoàn 19 Campuchia.
Ngày 20/3/1984, ta thực hiện vây cắt, lực lượng trinh sát đi trước nắm địch và chuẩn bị hành lang đưa các đơn vị vào tiếp cận mục tiêu. Ngày 25/3, bộ đội ta trên các hướng đồng loạt nổ súng tiến công địch. Đến hết ngày 26/3, ta đã đánh chiếm được nhiều mục tiêu. Ngày 27/3, các đơn vị tiếp tục phát triển tiến công địch ở các mục tiêu còn lại. Song, do diễn biến tình hình quốc tế và theo đường lối đối ngoại của Đảng ta, đồng chí Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ra lệnh dừng chiến dịch tiến công. Các đơn vị tổ chức phòng ngự, sẵn sàng đánh địch phản kích. Kết quả chiến dịch: ta đã tiêu diệt căn cứ 547, địch bị tổn thất nặng, không còn khả năng phản kích.
Sau Chiến dịch C84, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Tư lệnh Mặt trận 719, Mặt trận 579 triển khai giúp bạn xây dựng tuyến phòng ngự biên giới Campuchia - Thái Lan (mật danh K5). Từ cuối mùa mưa năm 1984, ta tiến hành khảo sát địa hình, phân công khu vực cho các đơn vị đảm nhận, chuẩn bị lực lượng lao động và bảo vệ. Các đơn vị bộ đội công binh vừa thi công các công trình, vừa hướng dẫn kỹ thuật giúp các đơn vị quân đội và dân công bạn thực hiện nhiệm vụ, đồng thời sẵn sàng đánh địch từ bên kia biên giới xâm nhập quấy phá. Đến mùa khô từ năm 1985 đến năm 1986, tuyến K5 cơ bản được xây dựng khép kín nên hạn chế được các tuyến hành lang vận chuyển của địch vào nội địa.
Nhằm tiêu diệt các căn cứ của quân Pôn Pốt trên tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan, được sự chỉ đạo của Tư lệnh Mặt trận 719 Lê Đức Anh, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 mở Chiến dịch mùa khô 1984 - 1985 (mật danh Chiến dịch A4), do đồng chí Nguyễn Chơn, Tư lệnh Quân khu 5 làm Tư lệnh chiến dịch. Lực lượng ta tham gia gồm: 3 sư đoàn bộ binh (2, 315, 307), các đơn vị trực thuộc Mặt trận 579 cùng các đơn vị của bạn có nhiệm vụ đồng loạt tiến công tiêu diệt 4 căn cứ lớn của quân Pôn Pốt và các lực lượng phản động khác ở biên giới: căn cứ Pét Úm (K1), Núi Cụt (K2), Sam Pi Ka, Pha Nom Kan Tung (K3). Chiến dịch diễn ra từ ngày 08/12/1984 đến ngày 07/3/1985.
Trong chiến dịch này, ta đã làm cho địch bị thiệt hại rất nặng, bị tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực, mất một khu kho hậu cần lớn, một địa bàn quan trọng có ý nghĩa chiến lược, một khu căn cứ hỗn hợp của các lực lượng phản động cấu kết với nhau để chống phá cách mạng ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia mà chúng đã công phu xây dựng trong nhiều năm. Ta đã đẩy chúng suy sụp thêm một bước mới, gây mâu thuẫn nội bộ giữa lực lượng Pôn Pốt với bọn FULRO. Đây là thắng lợi của sức mạnh tổng hợp của ta và bạn, của tiền tuyến và hậu phương, góp phần tạo thế phòng ngự liên hoàn vững chắc trên biên giới Campuchia - Thái Lan, tạo thuận lợi đẩy mạnh hoạt động trong nội địa giành thắng lợi vững chắc hơn. Trên toàn bộ chiến trường, thế và lực của địch ngày càng suy yếu, nhất là vấn đề bảo đảm hậu cần, vũ khí, đạn dược do không có lực lượng dự trữ trong nội địa; tinh thần binh lính địch ngày càng suy sụp, số hàng binh địch trong năm 1986 tăng gấp 4 lần so với năm 1985; trong số địch về hàng có những tên chỉ huy cấp trung đoàn, tiểu đoàn địch thuộc Mặt trận Đông Sông.
Như vậy, từ năm 1981 đến năm 1986, trên cương vị Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia - Tư lệnh Mặt trận 719, đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh đã có nhiều chỉ đạo mang tầm chiến lược đối với các hoạt động của Mặt trận 579. Đồng chí là người chỉ huy nghiêm khắc trong công việc, rất quan tâm, sâu sát đến đời sống, tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, chiến sĩ. Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Tư lệnh Mặt trận 579 đã nghiêm túc chấp hành, quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện các chỉ thị, mệnh lệnh của đồng chí Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam một cách kịp thời, hiệu quả. Cán bộ, chiến sĩ và đội ngũ chuyên gia Mặt trận 579 đã phát huy truyền thống tự lực, tự cường, khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, duy trì nghiêm kỷ luật chiến trường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được nhân dân bạn tin yêu gọi là “Đội quân nhà Phật”. Sự chỉ đạo của
Đại tướng Lê Đức Anh, cùng với công sức, trí tuệ, tâm huyết, sự hy sinh của cán bộ, chiến sĩ và đội ngũ chuyên gia thuộc Mặt trận 579 đã góp phần tích cực giữ gìn hòa bình, ổn định, xây dựng mối quan hệ đoàn kết hữu nghị giữa hai Đảng, hai Nhà nước, hai quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia.
Trung tướng THÁI ĐẠI NGỌC
Với trọng trách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trong giai đoạn 1987 - 1992, cùng với Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) và Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã có những chỉ đạo, điều chỉnh thế bố trí chiến lược chung trên cả nước, trong đó, đặc biệt quan tâm đến vùng đất Khu 4 - địa bàn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng của đất nước. Những ý kiến chỉ đạo, điều chỉnh của đồng chí Lê Đức Anh đã thể hiện vai trò của người chỉ huy quân sự tài năng, một nhà lãnh đạo xuất sắc của cách mạng Việt Nam. Dưới sự chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Quân khu 4 tiến hành điều chỉnh thế bố trí chiến lược ở những nội dung sau:
1. Điều chỉnh vị trí đứng chân của các đơn vị, hình thành thế bố trí chiến lược bảo đảm nâng cao khả năng phòng thủ, sức mạnh sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi của lực lượng vũ trang Quân khu 4 trong tình hình mới
Ngày 18/02/1987, đồng chí Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trên cương vị mới, đồng chí đã sớm nắm bắt thực trạng khó khăn chung của đất nước, của quân đội, để cùng với tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương và cơ quan Bộ Quốc phòng nhanh chóng chỉ đạo triển khai thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược trước mắt là: Điều chỉnh tổ chức biên chế, giảm quân số thường trực và tiến hành điều chỉnh lại thế bố trí chiến lược trong toàn quân phù hợp với kế hoạch phòng thủ cơ bản trong thời kỳ mới; phát huy được sức mạnh toàn dân, toàn diện, tạo nên sức mạnh phòng thủ đất nước, đủ sức chống lại mọi tình huống chiến tranh nếu xảy ra. Đây là một cuộc đổi mới về xây dựng Quân đội nhân dân, xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quán triệt và triển khai thực hiện nhiệm vụ quân sự quốc phòng theo đường lối đổi mới, đầu tháng 7/1987, Đảng ủy Quân khu họp mở rộng xác định các nhiệm vụ cấp bách: Chuyển hướng thực hiện nhiệm vụ quốc tế ở Lào cho phù hợp với tình hình phát triển mới và yêu cầu điều chỉnh lực lượng quân tình nguyện. Chỉ đạo chặt chẽ việc điều chỉnh lực lượng đi đôi xây dựng nâng cao chất lượng tổng hợp lực lượng vũ trang ba thứ quân. Chỉ đạo các tỉnh tập trung nâng cao chất lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, cơ sở xã, phường; chuyển hướng mạnh mẽ, thiết thực và hiệu quả hơn nữa về chỉ đạo thực hiện công tác quân sự địa phương trong tình hình mới. Yêu cầu các tỉnh ra nghị quyết hoặc chỉ thị về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trước sự phát triển mới của tình hình Quân khu 4, quân đội và đất nước.
Theo đường lối đổi mới của Đảng và ý kiến chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Quân khu 4 có bước đột phá về chấn chỉnh tổ chức biên chế, điều chỉnh bố trí lại đội hình; triển khai tích cực các mặt công tác với những cách làm mới, phù hợp tình hình thực tế của Quân khu 4. Quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ đã từng bước đổi mới tư duy và hành động, phong cách làm việc, tập trung khâu then chốt xây dựng Đảng, tăng cường đi sát cơ sở, đối thoại với cấp dưới, mở rộng tự phê bình, phê bình, phát huy dân chủ, tạo được sự nhất trí cao. Theo đó, Quân khu 4 đã thực hiện được một bước về chấn chỉnh lực lượng, giảm mạnh quân số, đẩy mạnh xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, nâng cao sức mạnh và khả năng phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, tham gia sản xuất, xây dựng phát triển kinh tế, thực hiện tốt nhiệm vụ quốc tế với Lào.
Sau khi có Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị, “Về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới” và Chỉ thị 20 của Ban Bí thư, “Về nhiệm vụ quốc phòng địa phương của các cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể”, Quân khu 4 đã hiệp đồng chặt chẽ với các địa phương đẩy mạnh công tác quân sự địa phương, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng thế trận phòng thủ trên các hướng chủ yếu, nhất là chất lượng xây dựng huyện gắn với xây dựng xã, phường, cơ sở an toàn làm chủ. Những tháng cuối năm 1987, toàn Quân khu 4 thực hiện điều chỉnh lực lượng quy mô lớn, đồng thời bố trí lại lực lượng chiến lược để kết hợp giữa nhiệm vụ tác chiến với xây dựng lực lượng và thế trận.
Trong bối cảnh chung của đất nước, quân đội và Quân khu 4, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 4 và các tỉnh đã thống nhất cao, kiên quyết thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu đã xác định, ổn định tình hình. Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh ra Nghị quyết 20 “Về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự xã hội trong tình hình mới”; Thường vụ Tỉnh ủy Bình Trị Thiên ra Nghị quyết 12 “Về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh”. Tỉnh Thanh Hoá triển khai thực hiện Thông báo 74 của Ban Bí thư giải quyết một số vấn đề về nội bộ. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 4, các cơ quan Quân khu 4 cùng các tỉnh định hướng và triển khai từng bước thực hiện
2 nội dung mới, kịp thời rút kinh nghiệm về xây dựng, diễn tập khu vực phòng thủ ở tỉnh Nghệ Tĩnh; xây dựng diễn tập một số làng, xã chiến đấu, trọng tâm ở tỉnh Bình Trị Thiên nhằm định hình mô hình về quốc phòng, an ninh ở cơ sở. Đây là bước đột phá mới để thực hiện được hai chuyển hướng: Chuyển hướng công tác quân sự địa phương và xây dựng cơ sở chủ lực, địa phương, cơ sở kho tàng, trạm xưởng. Cuối năm 1988, Quân khu tập trung chuẩn bị kế hoạch 1989 - 1990, trong đó xác định các việc lớn: Tiếp tục giảm mạnh quân số trong lúc nhiệm vụ có nhiều mặt phát triển mới; xây dựng, rút kinh nghiệm về làng, xã chiến đấu; diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh, huyện; triển khai Kế hoạch C89 và A2, bổ sung hoàn chỉnh Kế hoạch A.
Đến cuối năm 1989, toàn Quân khu 4 đã hoàn thành về cơ bản việc điều chỉnh bố trí chiến lược, xây dựng lại quyết tâm tác chiến trong tình hình mới. Sở Chỉ huy Quân khu 4 cũng được di chuyển từ Đại Huệ, huyện Nam Đàn về vị trí trước đây tại thành phố Vinh, nhằm bảo đảm cho việc lãnh đạo, chỉ huy trước yêu cầu mới. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đã phối hợp cùng với cấp ủy, chính quyền các địa phương trên địa bàn, triển khai bước đầu nhiệm vụ phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, hình thành Kế hoạch A2, gắn vào các nội dung diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh, huyện; đồng thời tổ chức luyện tập xử lý một số tình huống giả định, trọng điểm là các tỉnh phía nam Quân khu 4; hình thành Sở Chỉ huy Tiền phương của Quân khu 4 ở Thừa Thiên Huế và sẵn sàng cơ động khi có tình huống phức tạp. Trong hai năm 1991 - 1992, Quân khu 4 và các tỉnh tiếp tục tập trung thực hiện nhiệm vụ xây dựng nâng cao chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang và sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, tạo thế và lực mới, đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, chủ động phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, giữ vững ổn định chính trị các địa bàn trong mọi tình huống. Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ đạo nhanh chóng rà soát, bổ sung hoàn chỉnh Kế hoạch A2 từ Quân khu 4 xuống cơ sở sát với tình huống dự báo; xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu 4 vững mạnh toàn diện, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ và làm tốt công tác dân vận.
Để tăng cường khả năng phòng thủ hướng nam Quân khu 4, theo chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, phải tổ chức ngay một trung đoàn bộ binh khoảng 1.000 cán bộ, chiến sĩ thuộc Bộ Chỉ huy quân sự Thừa Thiên Huế để bảo đảm sẵn sàng chiến đấu. Chấp hành mệnh lệnh, Quân khu đã điều động Trung đoàn 176 được bổ sung thêm Tiểu đoàn 4, Sư đoàn 968 bố trí đứng chân ở Phú Bài, khi có lệnh nhanh chóng tổ chức chiến đấu được ngay. Đồng thời, chỉ đạo Trung đoàn 206, điều 1 tiểu đoàn tăng thiết giáp gồm 10 xe PT-76 và 4 xe ĐM2 vào nhận nhiệm vụ theo phương án A2 trên địa bàn Thừa Thiên Huế. Các đơn vị công binh của tỉnh và Quân khu 4 cũng được triển khai nhiệm vụ nhanh chóng tổ chức bảo quản và xây dựng thêm một số đường hầm, công sự ở các đảo, một số vị trí then chốt ở các tỉnh Nghệ Tĩnh, Quảng Trị; xây dựng các cụm điểm tựa theo phương án tác chiến. Các công trình được xây dựng theo tiêu chuẩn đúc nguyên khối thay cho việc lắp ghép trước đây để bảo đảm chất lượng theo yêu cầu chiến đấu.
2. Điều chỉnh tổ chức biên chế, giảm quân số thường trực, tăng cường lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên, xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu 4 theo hướng tinh, gọn, mạnh
Theo mệnh lệnh của Đại tướng Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Chỉ thị của Tư lệnh Quân khu, việc chấn chỉnh tổ chức, giảm quân số bắt đầu từng bước, tiến tới giảm quân số lớn; trong đó cơ quan các cấp, cơ sở bảo đảm phục vụ giảm từ 20 đến 25% biên chế theo quy định, sau đó tiếp tục giảm thêm 10 đến 15%. Mục đích là nhằm chấn chỉnh một bước lực lượng vũ trang Quân khu theo hướng tinh giản biên chế, kiện toàn bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương theo hướng gọn, mạnh, chính quy, kỷ luật nghiêm minh, giữ vững kỷ luật kỷ cương, nâng cao sức chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu; xây dựng dân quân tự vệ và các lực lượng dự bị động viên trong sạch, vững mạnh, chất lượng chiến đấu cao, đủ sức làm nòng cốt chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt và giữ vững an ninh chính trị ở từng địa phương, nhất là các khu vực xung yếu và địa bàn trọng điểm.
Quân khu bố trí ưu tiên lực lượng cho các đơn vị quân tình nguyện ở Lào và lực lượng cơ động; điều chỉnh hợp lý hệ thống nhà trường và khung huấn luyện chiến sĩ mới; soát xét kỹ lực lượng làm kinh tế, cơ quan các cấp, cơ sở bảo đảm phục vụ. Tiến hành giải thể Trung tâm huấn luyện chiến thuật - chiến dịch, các đội cắm mốc biên giới, các trạm đón quân trả phép, bàn giao bộ đội biên phòng về thuộc quyền Bộ Tư lệnh Biên phòng. Ưu tiên xây dựng khu vực phòng thủ gồm: 6 huyện biên giới: Bá Thước, Thường Xuân, Tương Dương, Hương Sơn, Tuyên Hoá và A Lưới; 8 huyện ven biển là Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Tĩnh Gia, Quỳnh Lưu, Nghi Xuân, Kỳ Anh, Bến Hải và Phú Lộc; 2 thành phố là Vinh và Huế; 3 thị xã là Bỉm Sơn, Thanh Hoá và Đông Hà. Tập trung xây dựng “làng, xã chiến đấu”, “cụm chiến đấu” liên hoàn tuyến biển, bản, xã tuyến biên giới và những xã, phường khu vực phòng thủ trọng điểm nội địa.
Tháng 9/1987, Quân khu tiếp tục giải thể Trung tâm huấn luyện chiến sĩ mới 441; sáp nhập Trường Đảng, Trường Văn hoá vào Trường Quân chính Quân khu; giải thể Trường Hậu cần - Kỹ thuật, chuyển một bộ phận sang Cục Hậu cần, Cục Kỹ thuật; chuyển Trường Quân y về Viện Quân y 268; giải thể Cục Kinh tế và kiện toàn Phòng Kinh tế. Ở Lào, Sư đoàn 324 và Sư đoàn 968 nhận thức đúng tình hình nhiệm vụ, phối hợp chặt chẽ với bạn bàn giao cụ thể địa bàn, bảo đảm bí mật, an toàn, chấp hành đúng quy định quan hệ quốc tế Việt - Lào và đến tháng 11/1987, các đơn vị tổ chức hành quân về nước an toàn.
Thực hiện chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, năm 1988, Quân khu 4 chỉ đạo các tỉnh đẩy mạnh xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Ở Bình Trị Thiên, 14 huyện, thị, thành đều làm điểm xây dựng xã an toàn làm chủ, có mô hình mới liên kết giữa xã và đồn biên phòng như xã Tân Phước với đồn biên phòng Lao Bảo. Quân khu 4 cùng với tỉnh Bình Trị Thiên chỉ đạo xã Gio Việt tổ chức lực lượng dân quân chiến đấu trên biển; tổ chức rà xét dân quân tự vệ 410/410 xã và 545/612 cơ sở tự vệ, đưa 27.330 người không đủ tư cách ra và phát triển mới 8.760 người. Một số địa phương trong tỉnh giữ được phong trào “cân thóc quốc phòng, ngày công quốc phòng”, có quỹ quốc phòng
3 cấp: huyện, xã, gia đình. 100% cán bộ xã, phường ở 3 tỉnh sau bầu cử Hội đồng nhân dân được sắp xếp lại; các xã, phường đội trưởng đều là đảng viên, trong đó có 59,7% tham gia cấp ủy địa phương. Theo tinh thần đổi mới, bám sát yêu cầu thực tiễn đặt ra, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đã chỉ đạo các cơ quan nghiên cứu đổi mới nội dung giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự theo yêu cầu “đánh như thế nào thì huấn luyện như thế” cho dân quân tự vệ, dự bị động viên, từng bước tìm cách khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức huấn luyện.
Năm 1989, tiếp tục thực hiện tinh giản tổ chức, biên chế, quân số theo yêu cầu của Bộ, Quân khu 4 tiến hành giải thể Sư đoàn 348 và Sư đoàn 342, Trung tâm huấn luyện 442, Đội điều trị 42, Tiểu đoàn 684; điều chỉnh Lữ đoàn 176 thành Trung đoàn 176 dự bị động viên có 1 tiểu đoàn đủ quân, Tiểu đoàn 31 đặc công thành Đại đội 31. Theo phương hướng đó, tổng quân số Quân khu 4 giảm mạnh (42,29%) tổ chức biên chế cả chủ lực và địa phương, nhưng vẫn bảo đảm được chất lượng luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu.
Đến năm 1991, Quân khu 4 chỉ đạo giải thể các trung đoàn bộ binh khung động viên của các tỉnh Trung đoàn 762, Trung đoàn 840 (Thanh Hóa), Trung đoàn 764, Trung đoàn 841 (Nghệ Tĩnh), Trung đoàn 996 (Quảng Bình), Trung đoàn 6 (Quảng Trị), Trung đoàn 842 (Thừa Thiên Huế); thành lập các tiểu đoàn bộ binh sẵn sàng chiến đấu gồm: Tiểu đoàn 40 Thanh Hóa, Tiểu đoàn 41 Nghệ Tĩnh, Tiểu đoàn 42 Quảng Bình, Tiểu đoàn 43 Quảng Trị; thành lập 2 trung đội bộ binh ở hai huyện biên giới Quan Hóa, Kỳ Sơn. Các trung đoàn binh chủng: 414 Công binh, 283 Phòng không, 16 Pháo binh nâng cấp thành 3 lữ đoàn; chuyển Trường Quân chính Quân khu thành Trường Quân sự Quân khu; thành lập Cụm kho kỹ thuật tổng hợp (CK2) thuộc Cục Kỹ thuật Quân khu.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Đại tướng Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trong 5 năm (1987 - 1992), lực lượng vũ trang Quân khu 4 đã từng bước điều chỉnh thế bố trí chiến lược phù hợp với tình hình mới, tăng cường sức mạnh phòng thủ, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của lực lượng vũ trang Quân khu; bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn được giao.
3. Kết hợp chặt chẽ với lãnh đạo, chính quyền các địa phương thực hiện quy hoạch phân bố dân cư trên địa bàn quân khu, đặc biệt ở vùng biên giới đất liền, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh
Thực hiện chỉ đạo của đồng chí Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh về điều chỉnh thế bố trí chiến lược, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 nhận thức sâu sắc rằng: Quy hoạch phân bố dân cư là công tác hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh của cả nước nói chung, trên địa bàn Quân khu nói riêng, đặc biệt là hướng biên giới, biển, đảo. Thực tế cho thấy, dân cư, lao động trên địa bàn Quân khu phân bố không đều, thường tập trung đông ở các đô thị, đồng bằng và ven biển, nhất là thành phố, thị xã, thị trấn; trong đó các khu vực miền núi của Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình... vùng biên giới đất liền giáp với nước bạn Lào nhìn chung dân cư còn khá thưa thớt. Do đó, để tăng cường công tác xây dựng khu vực phòng thủ trên địa bàn Quân khu, ngoài nhiệm vụ điều chỉnh vị trí đứng chân các cơ quan, đơn vị; tổ chức xây dựng lại lực lượng bảo đảm đủ sức chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trước mọi tình huống, cần phải làm tốt công tác quy hoạch, phân bố lại dân cư trên địa bàn Quân khu. Quá trình phân bố lại, quy hoạch dân cư cần chú ý hợp lý giữa các vùng, các điểm dân cư, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng sâu, vùng xa, biên giới; vừa tạo nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, vừa tạo lực lượng bảo vệ biên giới tại chỗ, thực hiện tốt nhiệm vụ kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trên địa bàn.
Cùng với hoàn thiện tư duy mới về tăng cường kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trên địa bàn, Quân khu 4 từng bước nghiên cứu, hoàn thiện, ban hành các văn bản pháp quy, hướng dẫn bảo đảm cho sự kết hợp và tăng cường kết hợp đó ngày càng có hiệu lực và hiệu quả hơn. Thường xuyên rà soát, nghiên cứu đồng bộ, thống nhất và phát triển hệ thống văn bản có tính quy phạm pháp luật, giúp cho công tác quản lý, tổ chức thực hiện việc tăng cường kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trên địa bàn Quân khu bảo đảm nghiêm túc, hiệu quả. Trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và quân đội, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đã lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị vận dụng một cách sáng tạo, xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trên địa bàn Quân khu, chú trọng hướng địa bàn biên giới và ven biển. Cơ chế, chính sách luôn hướng vào việc huy động các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội và cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế cùng tham gia vì sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên địa bàn Quân khu 4.
Quân và dân Quân khu 4 vinh dự và tự hào có người con quê hương đã cống hiến suốt cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng, góp phần tô thắm thêm trang sử truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu 4 và Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong tình hình mới, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 4 tiếp tục phấn đấu, rèn luyện, học tập, công tác theo tấm gương tiêu biểu của đồng chí Chủ tịch nước, Đại tướng - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh:
Một là, phải luôn luôn quán triệt và thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và mệnh lệnh trực tiếp của cấp trên. Xây dựng ý chí quyết tâm, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Hai là, chủ động xây dựng kế hoạch, vận dụng linh hoạt, sáng tạo mọi chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước, quân đội vào tình hình nhiệm vụ cụ thể của cơ quan, đơn vị và sát với địa bàn được giao.
Ba là, thường xuyên rèn luyện bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, trước cán bộ, chiến sĩ và trước cấp trên. Trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, lập trường cách mạng, cần có sự mềm dẻo, linh hoạt trong từng trường hợp cụ thể; năng động, sáng tạo để đạt hiệu quả cao nhất trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ.
Bốn là, luôn rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của người chiến sĩ cộng sản, có tinh thần “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, luôn đặt lợi ích cách mạng lên trên hết. Mọi suy nghĩ và hành động phải xuất phát từ lợi ích chung của Đảng, của nhân dân, của dân tộc.
Năm là, luôn giữ vững mối đoàn kết, coi đoàn kết là nền tảng sức mạnh của mọi thắng lợi, giữ vững đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đoàn kết nội bộ là nhân tố quyết định, là hạt nhân của sự đoàn kết toàn đơn vị tạo nên sức mạnh hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Trung tướng NGUYỄN DOÃN ANH
Việt Nam - Campuchia là hai nước láng giềng nằm trên bán đảo Đông Dương. Trong lịch sử phát triển, hai dân tộc đã sớm có mối quan hệ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, cùng chống kẻ thù chung. Quan hệ truyền thống đó được thể hiện rõ nét qua những lần Việt Nam đưa Quân tình nguyện sang giúp Campuchia chống thực dân Pháp (1945 - 1954), trong kháng chiến chống Mỹ (1970 - 1975) và đặc biệt là lần thứ ba (1978 -1989) sang giúp lực lượng cách mạng Campuchia đánh đổ chế độ Pôn Pốt, giải phóng đất nước, giúp bạn xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng.
Trong hàng vạn người con ưu tú của Việt Nam sang giúp Campuchia, có người con quê hương Khu 4 - đồng chí Lê Đức Anh, với vai trò là Tư lệnh lực lượng Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia từ năm 1981 đến năm 1986, đồng chí đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của nước bạn và góp phần vun đắp tình hữu nghị giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia. Một trong những dấu ấn thể hiện rõ vai trò của đồng chí Lê Đức Anh đó là trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân và dân nước bạn tổ chức xây dựng công trình phòng thủ biên giới giữa Campuchia và Thái Lan (công trình phòng thủ K5).
Công trình phòng thủ K5 được triển khai thực hiện từ cuối năm 1984 đến đầu năm 1987, đây là giai đoạn cách mạng Campuchia bước sang thời kỳ mới. Đất nước được hồi sinh sau những năm nỗ lực hàn gắn vết thương do hậu quả của chế độ diệt chủng Pôn Pốt để lại, đã từng bước đạt được một số thành tựu quan trọng về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa. Quân đội cách mạng và nhân dân Campuchia đã tự đảm đương được những nhiệm vụ trọng yếu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thực hiện chủ trương của Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia: “Giúp bạn trong công tác phát động quần chúng, xây dựng 3 phong trào cách mạng phải phối hợp chặt chẽ với chuyên gia các ngành giúp bạn tiếp tục vận động quần chúng, đưa 3 phong trào cách mạng đi vào chiều sâu, trở thành phong trào thường xuyên, liên tục và mạnh mẽ; trên cơ sở đó mà chống luận điệu chiến tranh tâm lý của địch một cách hiệu quả, chống các hiện tượng cầu an, tiêu cực trong bộ phận nhân dân và lực lượng vũ trang bạn và cũng trên cơ sở đó mà đẩy mạnh xây dựng Đảng, Đoàn, củng cố chính quyền các cấp...”, các phái viên, đội công tác, chuyên gia quân sự của
Mặt trận 979 đi sâu xuống cơ sở cùng bạn tổ chức các lớp học cho quần chúng ở phum, xã, tổ đoàn kết sản xuất. Đồng thời để tạo nguồn bổ sung đội ngũ cán bộ bạn, Mặt trận 979 giúp bạn tổ chức, lựa chọn cán bộ ưu tú đưa lên cấp trên hoặc đưa ra nước ngoài học tập, tổ chức lớp bồi dưỡng, đào tạo cho cán bộ bạn về kỹ thuật, chiến thuật, về năng lực quản lý, chỉ huy điều hành công việc ở cấp cơ sở, từ tiểu đội đến tiểu đoàn, huyện đội; tổ chức chấn chỉnh, sắp xếp lại biên chế, rút các cán bộ có năng lực ở đơn vị lên, chọn hàng trăm cán bộ từ các đơn vị, cơ quan gửi đi học ở Trường 481 và bồi dưỡng tại Trường Văn hoá của Mặt trận 979 để sau đó trở về cùng cán bộ các ngành thực hiện tốt nhiệm vụ. Những việc làm của Quân tình nguyện Việt Nam nhằm giúp bạn tiến tới đảm nhiệm toàn bộ địa bàn, thay thế cho lực lượng bộ đội Việt Nam khi ta chủ trương rút quân về nước.
Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn này, mặc dù đã bị đánh thiệt hại nặng trên các địa bàn chiến lược, nhưng được các thế lực bên ngoài giúp sức và dựa vào các căn cứ ở vùng biên giới Campuchia - Thái Lan, quân Pôn Pốt và quân các phe phái khác ráo riết đẩy mạnh các hoạt động chống phá, hòng tạo ra thế hai vùng, hai chính phủ có lợi cho chúng.
Để đáp ứng tình hình mới, ngày 12/7/1984, Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia ra Nghị quyết số 228/NQ-TW về: “Tăng cường tuyến phòng thủ biên giới Campuchia - Thái Lan” nhằm phấn đấu sớm thực hiện 3 mục tiêu chiến lược đề ra, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của địch, tạo thế và điều kiện thuận lợi cho việc đưa lực lượng vũ trang ra thay thế Quân tình nguyện Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Nghị quyết nêu rõ: “Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải tập trung khả năng xây dựng phòng tuyến biên giới và từng bước khép kín biên giới Campuchia - Thái Lan”. Các nội dung chính bao gồm:
1. Bố trí lực lượng vũ trang, tổ chức phòng thủ tuyến biên giới, tập trung bộ đội chủ lực trên các trọng điểm và phân công cho các tỉnh cả nước mỗi tỉnh phụ trách xây dựng và quản lý một đoạn biên giới. Xây dựng hệ thống trận địa của bộ đội trên biên giới, gồm: Hệ thống công sự, chiến hào, vật cản; hệ thống trận địa hỏa lực, pháo binh, cao xạ và hệ thống vật cản.
2. Xây dựng tuyến ngăn chặn, hệ thống nối liền với các khu vực trận địa bộ đội, hình thành tuyến ngăn chặn khép kín toàn biên giới. Hệ thống vật cản làm bằng hàng rào dây thép gai, mìn, đê, hào, lũy, rào, hầm chông, cạm bẫy”.
Ngày 01/9/1984, Mặt trận 579 được giao nhiệm vụ xây dựng công trình phòng thủ biên giới giữa Campuchia và Thái Lan, mang mật danh “K5”. Mục đích của công trình là nhằm tạo thế trận đánh địch, bảo vệ biên giới, ngăn chặn các đơn vị quân Pôn Pốt từ biên giới Thái Lan tấn công sang. Đây là nhiệm vụ vô cùng nặng nề và khó khăn đối với ta và quân dân Campuchia, bởi đất nước Campuchia còn rất nghèo nàn, nền kinh tế kiệt quệ sau nhiều năm bị chiến tranh và chế độ diệt chủng Pôn Pốt tàn phá. Nguồn nguyên liệu trong nước hầu như không có, đường sá vận chuyển xa. Trong khi đó, địch luôn tìm mọi cách xâm nhập biên giới, tiến hành các hoạt động phá hoại, gây nhiều khó khăn cho ta. Nhận thức sâu sắc đây là nhiệm vụ chiến lược lâu dài, do đó nhân dân Campuchia đồng tình ủng hộ và tham gia xây dựng rất tích cực. Bên cạnh đó, nhân dân Việt Nam cũng như nhiều bạn bè quốc tế quan tâm giúp nhân dân Campuchia xây dựng công trình phòng thủ chiến lược.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Lê Đức Anh, lãnh đạo chỉ huy Mặt trận 579 xác định: Để thực hiện nhiệm vụ xây dựng công trình K5, phải lấy lực lượng vũ trang làm chủ yếu, kết hợp với lực lượng công binh các Mặt trận 479, 779 và 979 làm nòng cốt kỹ thuật; đồng thời phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân và liên minh chiến đấu của các lực lượng, tạo thành sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ.
Sau khi nhận nhiệm vụ, Mặt trận 579 chỉ đạo tổ chức trinh sát thực địa, xác định vị trí công trình, mô hình vật cản từng đoạn, từng khu vực phòng thủ và các điểm tựa trong khu vực đứng chân để thi công hậu cứ, kho tàng và các hạng mục khác. Sau đó tiến hành xây dựng kế hoạch và tổ chức lực lượng tham gia xây dựng; lực lượng tham gia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới (K5) dài 800km, được huy động gồm toàn bộ các đơn vị công binh của các mặt trận 479, 579, 779 và 979, 2 trung đoàn công binh của Bộ (269 và 521), 2 sư đoàn bộ binh và 2 lữ đoàn công binh của bạn cùng với sự giúp đỡ tích cực của Quân tình nguyện Việt Nam (10 trung đoàn của 4 sư đoàn) thuộc Mặt trận 479. Các lực lượng này vừa tham gia xây dựng các cụm điểm tựa, vừa chốt giữ bảo vệ biên giới. Ngoài các đơn vị trên, bạn còn huy động số lượng lớn nhân dân Campuchia tham gia. Trong quá trình xây dựng, bạn đã huy động tới 32 vạn lượt người, trong đó chủ yếu là dân quân tự vệ, dân công, lực lượng công nhân, viên chức các ngành và địa phương. Các đơn vị triển khai lực lượng trên từng địa bàn và tiến hành xây dựng tuyến phòng thủ biên giới theo từng khu vực được phân công. Riêng trong năm 1984, Mặt trận 579 đã huy động 228 lượt dân công, 502 lượt bộ đội địa phương với 118.500 ngày công để tổ chức xây dựng công trình phòng thủ.
Để tạo thuận lợi cho việc hoàn thành xây dựng công trình phòng thủ K5, từ đầu năm 1985, Bộ Tư lệnh 719 thống nhất với bạn tiếp tục đợt hoạt động mùa khô 1984 - 1985, mở chiến dịch truy quét địch trên toàn tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan, đánh vào các căn cứ sào huyệt của quân Pôn Pốt. Sau hơn một tháng chiến đấu (từ ngày 9/01 đến ngày 15/02/1985), ta và bạn làm tan rã một bộ phận lớn sinh lực địch, đánh chiếm các cơ quan chỉ huy, buộc chúng phải thay đổi thế bố trí lực lượng, bị động đối phó, tạo điều kiện cho Campuchia xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng. Cùng thời gian ta phối hợp với bạn mở Chiến dịch S4, sau hơn 3 tháng chiến đấu (18/11/1984 - 15/3/1985), bằng sức mạnh hiệp đồng quân binh chủng, ta và bạn đã đánh 260 trận, trong đó có 14 trận cấp sư đoàn, 20 trận cấp trung đoàn, 90 trận cấp tiểu đoàn, loại khỏi vòng chiến đấu 10.077 tên, thu 6.875 súng các loại, bắn cháy 12 ô tô, phá hủy nhiều kho tàng và đồ dùng quân sự khác.
Tháng 5/1985, Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia ra Nghị quyết số 39 về nhiệm vụ chung của cách mạng Campuchia. Nghị quyết nêu rõ: “Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ hàng đầu rất thiêng liêng của toàn dân, về quốc phòng cần tập trung cùng với Quân tình nguyện Việt Nam kiên quyết đánh bại âm mưu và hành động của địch ở biên giới với đủ thế tiến công cả về mặt chính trị và quân sự. Xây dựng tuyến phòng thủ ngày càng vững chắc và hiệu quả, tạo điều kiện tiến tới kiểm soát toàn tuyến biên giới”. Thực hiện Nghị quyết của Đảng bạn, ta phối hợp với bạn vừa tiếp tục chiến đấu truy quét lực lượng Pôn Pốt, đồng thời vừa triển khai kế hoạch xây dựng tuyến phòng thủ biên giới K5. Chỉ riêng trên địa bàn Mặt trận 579, trong năm 1985, ta và bạn đã huy động được 42,2 triệu ngày công, gồm 42.131 dân công, 22.299 dân, quân của 6 tỉnh, thành; 4 sư đoàn chủ lực của bạn phối hợp với 5 sư đoàn bộ binh, 2 trung đoàn công binh Quân tình nguyện Việt Nam tham gia.
Sau chiến dịch truy quét địch trên toàn tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan, phía quân Pôn Pốt chuyển hướng chiến lược. Một mặt, chúng đưa sở chỉ huy và cơ sở hậu cần vào sâu trong đất Thái Lan, mặt khác, chúng đánh các điểm tựa, ngăn chặn vận chuyển của ta ra biên giới, phá tuyến phòng thủ biên giới K5 của ta, soi mở hành lang thâm nhập nội địa. Bên cạnh đó, chúng đưa lực lượng vào sâu trong nội địa, tập trung ở vùng Biển Hồ và vùng phụ cận Phnôm Pênh, củng cố và xây dựng lực lượng, lấy việc giành dân, giành chính quyền ở cơ sở làm biện pháp chiến lược, chờ thời cơ Việt Nam rút quân về nước thì phản công giành chính quyền. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh 719 chủ trương cùng với bạn tiếp tục đánh cho địch suy yếu tan rã, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn và ta từng bước chủ động rút hết Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự về nước.
Ngày 06/01/1986, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 02/QĐ-QP giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh 719 lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự tiếp tục giúp bạn xây dựng công trình phòng thủ K5, hoàn thành trước ngày 31/5/1986, các năm sau củng cố thêm cho vững chắc. Quán triệt, triển khai nhiệm vụ, trên địa bàn hai tỉnh Xiêm Riệp và Báttambang với chiều dài 450 km đường biên do Mặt trận 479 phụ trách được phân chia thành 5 công trường của cả ta và bạn; trong đó, lực lượng thi công chủ yếu là Trung đoàn công binh 548 (Mặt trận 479), Trung đoàn công binh 25 (Quân khu 7) và Trung đoàn công binh 521 (Bộ Tư lệnh Công binh). Có một số khu vực do bạn phụ trách thi công, ta cử chuyên gia giúp bạn về các vấn đề kỹ thuật. Tại khu vực do Mặt trận 479 đảm nhiệm xây dựng có đường số 5 và số 6 là hai trục đường chiến lược chạy từ phía đông sang phía tây Campuchia; ngoài ra còn có các trục đường số 58, 67, 68, 69 và số 10 là những trục đường chiến dịch cùng một số đường quân sự làm gấp, hình thành mạng đường vận chuyển nguyên vật liệu, hậu cần cho cả ta và bạn; đồng thời cũng là mạng đường cho các đơn vị của ta cơ động khi chiến đấu.
Lực lượng ta và bạn đã nỗ lực phấn đấu, từng bước hoàn thành các hạng mục trong từng khu vực trọng điểm, bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật và thời gian quy định. Trong quá trình xây dựng tuyến phòng thủ, do điều kiện mùa mưa nước ngập nên việc cơ động lực lượng, thi công và sinh hoạt của bộ đội gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Còn mùa khô, nhiều nơi bộ đội ta phải làm nhiệm vụ và sinh hoạt ngay trên các đồi núi, gò đất cao, nắng gay gắt, thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng, các đơn vị phải tổ chức vận chuyển từ tuyến sau lên hơn 4 triệu lít nước phục vụ sinh hoạt cho bộ đội. Với tinh thần khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm xây dựng đạt chất lượng, hiệu quả cao, các đơn vị đã đạt và vượt nhiều chỉ tiêu kế hoạch như bố trí vật cản vượt 170%, đào hào, đắp luỹ từ 1,5m3 một ngày công tăng lên 2,5m3 một ngày công (cá biệt có người đạt 5,5m3), khai thác gỗ tròn tăng từ 25 cây một ngày công lên 40 cây một ngày công. Có lúc, bộ đội phải tranh thủ làm cả ban đêm để bảo đảm tiến độ thi công. Sau một thời gian tham gia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 phát quang 3.892.600m2 đường tuần tra, mở được 23.400 m đường; đào hào, đắp lũy dài 25 km, xây dựng 583 hầm chữ A trên hai khu vực điểm tựa cấp trung đoàn; dò gỡ mìn trên diện tích 1.239.415m2 với hàng trăm nghìn ngày công, góp phần tăng cường thế phòng thủ trên tuyến biên giới phía tây Campuchia.
Trên hướng của Mặt trận 779, Trung đoàn công binh 549 cùng một số đơn vị ta và bạn tiếp tục đẩy mạnh xây dựng tuyến phòng thủ với các hoạt động bảo đảm giao thông trên toàn tuyến. Với những nỗ lực to lớn, đến tháng 4/1986, trên cả hai hướng Mặt trận 479 và Mặt trận 779, ta và bạn đã xây dựng hoàn chỉnh tuyến vật cản ngăn chặn, mở thêm đường tuần tra, xây dựng thêm các con trạch (đê bao hào chiến đấu, hào giao thông), bố trí bổ sung mìn và các loại chông ở địa bàn xung yếu; đồng thời tổ chức nâng cấp tuyến đường số 32, mở thêm đường quân sự, xây dựng hàng loạt cầu và ngầm mới. Ngoài ra, các đơn vị của ta và bạn còn xây dựng được 73 cụm điểm tựa, trong đó có một số cụm điểm tựa được xây dựng kiên cố (gồm công sự bằng bê tông cốt thép), có hệ thống đường hầm chiến đấu cho bộ binh. Quá trình xây dựng, ta và bạn đã tổ chức đào đắp được 11.958 công sự các loại, 160 km hào giao thông, hoàn chỉnh 144 km hào giao thông khác, xây dựng gần 50 điểm cấp nước, 18 sân bay trực thăng, bố trí hàng chục vạn quả mìn các loại..., góp phần cải thiện một bước đáng kể điều kiện chiến đấu bảo vệ tuyến biên giới.
Trên hai hướng Mặt trận 579 và Mặt trận 979, các đơn vị ta và bạn cũng khẩn trương đẩy mạnh các hoạt động xây dựng tuyến phòng thủ biên giới trên địa bàn được phân công. Các đơn vị quân tình nguyện vừa đánh địch, vừa tổ chức xây dựng tuyến phòng thủ biên giới phía tây Campuchia. Việc xây dựng trên hướng này gặp khó khăn do nhiều loại vật tư và khối lượng lớn vật chất hậu cần vận chuyển từ Việt Nam sang không kịp thời. Mặt khác, nguồn nước ở các vùng biên giới phía tây Campuchia vào mùa khô bị cạn, nên nước dùng cho sinh hoạt của bộ đội và nước sử dụng thi công công trình rất khan hiếm, phải vận chuyển từ xa. Vượt qua những khó khăn đó, các đơn vị ta và bạn đã nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Sư đoàn 315 (thuộc Mặt trận 579) nhận nhiệm vụ chốt giữ trên khu vực ngã ba biên giới Campuchia - Thái Lan - Lào. Lãnh đạo, chỉ huy Sư đoàn 315 cử lực lượng công binh của Sư đoàn xây dựng công sự, trận địa trên các điểm cao ta chốt giữ. Đến ngày 12/02/1986, công binh Sư đoàn 315 đã cơ bản xây dựng xong sở chỉ huy sư đoàn, trạm phẫu thuật, trạm xá và hệ thống công sự, trận địa; đồng thời bố trí bãi mìn xung quanh các điểm cao 426, 555, 743, 718. 563, 612, 417, với chính diện rộng 14 km và chiều sâu 4,5 km. Trong khi đó, một bộ phận cán bộ công binh Sư đoàn và các đơn vị bộ binh trực thuộc Sư đoàn trinh sát địa hình và phân chia khu vực bố trí mìn ngăn chặn địch từ xa. Ban Công binh Sư đoàn 315 đã lập hồ sơ các bãi mìn và giao cho từng phân đội rải đội hình hàng ngang, bố trí mìn lùi dần về phía sau, làm đến đâu ngụy trang và cắm mốc đến đó. Cuối tháng 02/1986, Sư đoàn 315 đã hoàn thành nhiệm vụ bố trí bãi mìn ngăn chặn địch từ xa.
Ở khu vực Sư đoàn 307, từ ngày 8 đến ngày 15/3/1986, công binh Sư đoàn lập hệ thống vật cản ngăn chặn địch, gồm lưới dây thép gai bùng nhùng, trồng cây gai, cây tre, đào các giao thông hào, bên dưới đáy hào rải chông chân chim; đồng thời phối hợp cùng các đơn vị bố trí được 32.788 quả mìn chống bộ binh, 288 quả mìn chống tăng và ngả cây rừng, tạo thành bãi vật cản trên đường ô tô dài 8 km. Một số khu vực khác trên tuyến phòng thủ biên giới do Mặt trận 579 đảm nhiệm tiếp tục được xây dựng hoàn chỉnh. Bên cạnh các sư đoàn 315, 307, trên hướng Mặt trận 579 còn có Trung đoàn công binh 280, 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn công binh 270 tham gia xây dựng tuyến phòng thủ. Nhằm nâng cao năng suất xây dựng, Quân khu 5 tăng cường một số cán bộ kỹ thuật và phương tiện thi công cơ giới từ trong nước sang, góp phần hoàn thành các công trình quân sự xây dựng được giao.
Trên hướng Mặt trận 979, các đơn vị ta và bạn triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng tuyến phòng thủ biên giới dài hơn 60 km trong điều kiện thuận lợi hơn. Ở hướng này, bạn huy động được một lực lượng đông đảo nhân dân ba tỉnh biên giới (Côcông, Puốcxát, Báttambang) và nhân dân một số tỉnh phía sau tham gia. Trong năm 1986, các đơn vị thuộc Mặt trận 979, với lực lượng công binh làm nòng cốt, tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh hệ thống công trình chiến đấu, hệ thống vật cản, mạng đường cơ động, vận chuyển, các công sự phía trước và phía sau. Mặc dù xây dựng trong điều kiện địch thường xuyên xâm nhập, pháo kích vào một số khu vực, nhưng ta đã tổ chức đánh chặn hạn chế địch phá hoại. Sau một thời gian khẩn trương xây dựng, các đơn vị trên hướng Mặt trận 979 đã hoàn thành hàng chục cụm điểm tựa cấp tiểu đoàn, hàng chục khu vực phòng thủ sư đoàn với đầy đủ hệ thống vật cản nổ, không nổ cùng hàng trăm kilômét hào chiến đấu và các công trình bảo đảm hậu cần, vũ khí trang bị.
Như vậy, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh - Tư lệnh Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam, đến giữa năm 1986, lực lượng quân tình nguyện thuộc các Mặt trận 479, 579, 779, 979 và một số đơn vị khác của ta đã cùng các lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia hoàn thành cơ bản nhiệm vụ xây dựng các hạng mục công trình đúng thời gian quy định, hình thành tuyến phòng thủ dọc vùng biên giới phía tây Campuchia. Công trình K5 được xây dựng hoàn thành theo kế hoạch, có ý nghĩa thiết thực, giúp cho các đơn vị vũ trang của bạn vững tâm hơn khi đảm nhận nhiệm vụ tuần tra bảo vệ tuyến đường biên giới; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quân tình nguyện Việt Nam rảnh tay thực hiện nhiệm vụ của đơn vị chủ lực cơ động chiến lược đúng như mục tiêu mà ta và bạn đã đề ra. Công trình K5 còn là nơi thực tế tập dượt cho bạn về công tác vận động, tổ chức quần chúng; thực sự là một công trình quốc phòng của toàn dân và toàn quân Campuchia.
Sau khi đã cơ bản hoàn thành công trình K5, Bộ Chính trị Đảng bạn và đại diện Bộ Chính trị Đảng ta thống nhất nhận định: bạn cơ bản đã tự đảm đương được công việc vừa chiến đấu chống Pôn Pốt, vừa tái thiết xây dựng đất nước, do đó lực lượng quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam từng bước rút dần theo thỏa thuận giữa ta và bạn. Nhiệm vụ giúp bạn cơ bản hoàn thành, cuối năm 1986, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký Quyết định số 1318/NQ-NS/TW, theo đó đồng chí Lê Đức Anh thôi giữ chức Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam và Trưởng ban Lãnh đạo đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia, trở về Bộ Quốc phòng nhận công tác. Đồng chí Đoàn Khuê, Ủy viên Trung ương Đảng - Phó Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam, được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam và Trưởng ban Lãnh đạo đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia.
Trải qua 6 năm, với trọng trách Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam và Trưởng ban Lãnh đạo đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia, đồng chí Lê Đức Anh đã dồn hết tâm sức để lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng giúp bạn từng bước hồi sinh và xây dựng một đất nước có chủ quyền với hệ thống chính trị mới được xây dựng từ trung ương đến cơ sở xã, ấp, cùng với những thiết chế văn hóa - xã hội bảo đảm độc lập, tự do của dân tộc và quyền tự chủ của người dân, là nền tảng vững chắc để tiến lên xây dựng xã hội mới, cuộc sống mới; góp phần xây dựng, vun đắp thêm tình đoàn kết, hữu nghị Việt Nam - Campuchia ngày càng bền vững.
Đại tá NGUYỄN ĐÌNH VŨ
Đại tướng Lê Đức Anh là nhà lãnh đạo tài năng, đã có nhiều cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của đất nước và sự phát triển, trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong thời gian đảm nhiệm Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1987 - 1991), Đại tướng đã dành nhiều tình cảm và sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát đối với Quân khu 3, giúp cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu vượt qua khó khăn, thử thách, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Khi Đại tướng Lê Đức Anh giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cũng là giai đoạn đất nước bước vào thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng. Trên cương vị là người lãnh đạo, chỉ huy cao nhất của quân đội, đồng chí đã đề xuất và chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp nhằm điều chỉnh thế bố trí chiến lược; tăng cường khả năng phòng thủ của đất nước; xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh; nâng cao đời sống cho cán bộ, chiến sĩ.
Trong những năm đầu đổi mới đất nước, lực lượng vũ trang Quân khu 3 luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh. Một trong những dấu ấn nổi bật của Đại tướng là chỉ đạo việc hợp nhất Đặc khu Quảng Ninh và Quân khu 3. Từ tháng 12/1986, trên cương vị Tổng Tham mưu trưởng, Đại tướng đã đi khảo sát các tỉnh biên giới phía Bắc, trong đó có Quảng Ninh (lúc này là Đặc khu Quảng Ninh), làm việc với lãnh đạo địa phương, thăm hỏi các đơn vị lực lượng vũ trang, tiếp xúc với nhân dân; nắm vững thế bố trí phòng thủ trên địa bàn và đời sống của cán bộ, chiến sĩ, đồng bào để đánh giá sát thực, tổng quát về tình hình biên giới và các đơn vị quân đội. Sau đó, đồng chí đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương chủ trương hợp nhất Đặc khu Quảng Ninh và Quân khu 3. Theo đó, tháng 8/1987, Đảng ủy Quân sự Trung ương đã ra Nghị quyết số 154/NQ-ĐU về việc hợp nhất Đặc khu Quảng Ninh và Quân khu 3 thành Quân khu 3. Sau khi sáp nhập, Quân khu 3 trở thành một địa bàn rộng lớn, hội tụ đủ cả hai chức năng, tính chất “vừa là tiền tuyến vừa là hậu phương” và “vừa là hậu phương vừa là tiền tuyến”, với 6 tỉnh, thành phố gồm: Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Hưng, Thái Bình, Hà Nam Ninh, Hà Sơn Bình; dân số trên 10 triệu người; là địa bàn có tiềm lực to lớn về kinh tế và quốc phòng, có bờ biển dài hơn 520km, đường biên giới trên bộ dài 118,825km, có gần 3.000 đảo lớn, nhỏ nằm trọn trong Vịnh Bắc Bộ. Quân khu 3 là tuyến phòng thủ chiến lược trọng yếu trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của đất nước, là địa bàn có điều kiện tiến hành chiến tranh nhân dân ở mức độ cao, tác chiến hiệp đồng quân binh chủng lớn.
Việc hợp nhất Đặc khu Quảng Ninh và Quân khu 3 là chủ trương đúng đắn nhằm tạo thế và lực mới cho cả nước nói chung và Quân khu 3 nói riêng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh và các đồng chí lãnh đạo, các cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng, việc hợp nhất và điều chỉnh lực lượng được tiến hành khẩn trương theo hai bước: Trước hết là điều chỉnh cơ quan Quân khu và các đơn vị chiến đấu; tiếp đó là điều chỉnh, hợp nhất các nhà trường và các cơ sở, đơn vị bảo đảm. Đến tháng 12/1987, Bộ Tư lệnh Quân khu 3 đã lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trên địa bàn mới. Cùng với chỉ đạo việc thực hiện hợp nhất, Đại tướng Lê Đức Anh thường xuyên theo dõi và chỉ đạo các cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng hướng dẫn Quân khu tiến hành điều chỉnh, bố trí lực lượng theo quy định: thành lập Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Ninh; kiện toàn Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Hải Phòng; tổ chức lại Sư đoàn 395; rút gọn Sư đoàn 328; kiện toàn Sư đoàn 329; hợp nhất Sư đoàn 432 với Sư đoàn 350, Sư đoàn 323 với Sư đoàn 360; tổ chức lại Sư đoàn 433; kiện toàn các cơ quan Quân khu. Đồng thời, đồng chí chỉ đạo Quân khu chấn chỉnh, tổ chức lại lực lượng làm kinh tế phù hợp với tình hình mới. Trong quá trình tổ chức hợp nhất, Quân khu 3 luôn chú trọng thực hiện tốt công tác tư tưởng, chính sách và cán bộ theo đúng tinh thần chỉ đạo của Đại tướng, giúp cán bộ, chiến sĩ nhận thức đầy đủ về chủ trương hợp nhất và điều chỉnh lực lượng, về tình hình, nhiệm vụ mới. Công tác cán bộ đã chủ động nắm nguồn, điều động, thuyên chuyển, sắp xếp, bổ nhiệm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hợp nhất và điều chỉnh lực lượng. Chỉ trong quý IV/1987, Quân khu 3 đã điều động 1.647 cán bộ trung cấp, sơ cấp; giải quyết xuất ngũ cho 2.687 cán bộ, bảo đảm đúng chính sách, quy định của trên.
Thực hiện sự chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh, lực lượng vũ trang Quân khu 3 triển khai điều chỉnh thế bố trí chiến lược, đồng thời xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc (trọng điểm là địa bàn tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng) phù hợp với thế trận chiến tranh trong thời kỳ mới, tăng cường khả năng và sức mạnh chiến đấu ở các khu vực trọng điểm quốc gia và từng tỉnh, thành phố. Quân khu tiến hành điều chỉnh thế bố trí chiến đấu ở biên giới phía Bắc, điều động một số đơn vị chủ lực về tuyến hai; đưa nhân dân lên sinh sống, sản xuất và đưa dân quân, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng lên tuyến một. Năm 1988, Quân khu 3 tiến hành điều chỉnh vị trí đứng chân một số đơn vị (các Sư đoàn 328, 329, 350, 433; Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Ninh, Trường Quân chính, Trường Hạ sĩ quan, Lữ đoàn 454 và một số tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 408...) theo phương án tác chiến.
Để không bị động, bất ngờ trong mọi tình huống, theo sự chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh, Quân khu 3 đã làm tốt công tác sẵn sàng chiến đấu; đồng thời xây dựng kế hoạch phòng thủ cơ bản, báo cáo Bộ Quốc phòng phê duyệt; hoàn thành kế hoạch chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu và tổ chức tập huấn công tác tham mưu khu vực phòng thủ.
Nhằm nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, xây dựng tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc, tháng 5/1988, Đại tướng Lê Đức Anh cùng thủ trưởng Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo Quân khu 3 tổ chức diễn tập thực nghiệm khu vực phòng thủ thành phố Hải Phòng nhằm rút kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, nhất là vận hành cơ chế cấp ủy lãnh đạo, chính quyền điều hành và cơ quan quân sự làm tham mưu, chỉ huy trưởng quân sự chỉ huy các lực lượng vũ trang thuộc quyền. Tham gia cuộc diễn tập thực nghiệm khu vực phòng thủ thành phố Hải Phòng có đầy đủ các ban, ngành, đoàn thể địa phương với hơn 3.000 quân thường trực, 4.000 quân dự bị, 2.000 dân quân tự vệ và hàng trăm phương tiện. Cuộc diễn tập được tiến hành qua 2 giai đoạn: Giai đoạn 1, diễn tập vận hành cơ chế thông qua các nội dung chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, hiệp đồng quân, binh chủng; giai đoạn 2, thực hành đánh địch đổ bộ đường không, đường biển và xử trí các tình huống. Đây là cuộc diễn tập lớn và là cuộc diễn tập khu vực phòng thủ cấp tỉnh, thành phố thứ hai của cả nước (sau tỉnh Lạng Sơn). Thành công của cuộc diễn tập gắn liền với sự chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo và các cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng cũng như sự quan tâm của Đại tướng Lê Đức Anh. Cuộc diễn tập không chỉ có ý nghĩa thiết thực với các cấp, các ngành, lực lượng vũ trang Quân khu 3, mà còn mang lại những kinh nghiệm quý cho Bộ Quốc phòng và các đơn vị bạn trong toàn quân. Từ kinh nghiệm diễn tập của Hải Phòng, các địa phương trên địa bàn Quân khu 3 tổ chức xây dựng kế hoạch khu vực phòng thủ. Từ tháng 10/1988, Bộ Tư lệnh Quân khu 3 đã chỉ đạo mỗi tỉnh, thành phố tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ từ 1 đến 2 huyện, đồng thời chỉ đạo Sư đoàn 395 và các lữ đoàn 405, 454, 214, 539 tổ chức diễn tập chỉ huy - cơ quan và hiệp đồng quân binh chủng. Chỉ riêng trong hai năm (5/1988 - 5/1990), cả 6 tỉnh, thành phố và 74/82 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn Quân khu đã hoàn thành diễn tập khu vực phòng thủ. Các cuộc diễn tập đã thực sự nâng cao tinh thần cảnh giác, ý thức bảo vệ Tổ quốc, bước đầu hình thành được các kế hoạch khu vực phòng thủ, khẳng định cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự làm tham mưu, chỉ huy trưởng chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang thuộc quyền là phù hợp.
Từ kế hoạch phòng thủ của Quân khu và các địa phương, đã tổ chức xây dựng được các khu vực phòng thủ then chốt, trọng tâm là các công trình chiến đấu, hệ thống kho tàng trên các hướng, các đảo, các điểm tựa biên giới và địa bàn trọng điểm.
Trước tình hình biển, đảo có những diễn biến phức tạp, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo lực lượng vũ trang Quân khu 3 tăng cường phòng thủ ở các vùng biển, đảo của Tổ quốc. Tích cực kiểm tra các tỉnh, thành phố có biển như Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Hà Nam Ninh, các Sư đoàn 395, 329, 242; chỉ đạo triển khai xây dựng các công trình quân sự ven biển; chỉ đạo Sư đoàn hải đảo 242 xây dựng thêm các công sự chiến đấu; bổ sung cán bộ cho tuyến biên giới, hải đảo (từ năm 1989 đến năm 1991, Quân khu đã bổ sung 983 đồng chí; ngoài ra còn bổ sung cho quần đảo Trường Sa 361 đồng chí). Cùng với chỉ đạo Quân khu 3 phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền các địa phương xây dựng, củng cố thế trận trên toàn địa bàn, tập trung vào các khu vực thành phố, thị xã, tuyến ven biển và các trục đường giao thông thủy, bộ, vùng kinh tế trọng yếu, Đại tướng Lê Đức Anh còn quan tâm chỉ đạo lực lượng vũ trang Quân khu thường xuyên phát động quần chúng nhân dân nâng cao cảnh giác; tổ chức các đợt ra quân làm trong sạch địa bàn, duy trì và kiện toàn các phân đội an ninh, quốc phòng.
Trước thực trạng khó khăn của đất nước, để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách quốc phòng, đồng thời tăng cường sức mạnh của lực lượng vũ trang đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Đại tướng Lê Đức Anh quan tâm và chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang tinh, gọn, mạnh. Theo tinh thần đó, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 3 đã triển khai xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, thường trực và dự bị mạnh. Quân khu 3 tiến hành chấn chỉnh tổ chức biên chế, từng bước giảm quân thường trực, coi trọng huấn luyện và quản lý lực lượng dự bị động viên gắn chặt với củng cố, nâng cao chất lượng dân quân tự vệ, tập trung huấn luyện và rèn luyện bộ đội, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Tính chung, từ năm 1986 đến năm 1991, với sự nỗ lực cao của các đơn vị trong lực lượng vũ trang Quân khu và cấp ủy, chính quyền, đoàn thể trên địa bàn, Quân khu 3 đã giảm được 35 đầu mối lớn trong bộ đội thường trực (trong đó có 7 sư đoàn, 1 lữ đoàn, 13 trung đoàn, 4 đoàn thương bệnh binh, 2 bệnh viện...; thu gọn một số đơn vị của Sư đoàn 242, chuyển một số trung đoàn chủ lực Quân khu về trực thuộc các tỉnh, thành phố...), giảm được 36.238 quân thường trực (trong đó có trên 9.000 sĩ quan, 2.700 quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng). Lực lượng dân quân tự vệ đã giảm từ 13,4% dân số năm 1986 xuống còn 2,5% dân số năm 1990. Cùng với đó, Quân khu chỉ đạo các đơn vị tích cực lao động sản xuất, tham gia xây dựng kinh tế, ổn định đời sống bộ đội, xây dựng hậu phương vững mạnh về mọi mặt, không ngừng củng cố đoàn kết quân dân.
Thực hiện sự chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh về cải thiện đời sống bộ đội bằng những chính sách cụ thể, trong đó có việc cấp đất cho cán bộ, chiến sĩ ở thành phố, thị xã và cấp định mức vật liệu xây dựng (sắt, xi măng, than, gạch), doanh cụ, tiền... ở vùng nông thôn, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 3 đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban, ngành liên quan, chỉ đạo các đơn vị rà soát lực lượng bộ đội xuất ngũ, đề nghị ưu tiên cho những đồng chí đã tham gia quân đội được xuất khẩu lao động; xây mới nhiều căn hộ, nhượng bán vật liệu xây dựng như xi măng, sắt, thép, gạch, ngói, luồng, tủ, bàn, ghế; trợ cấp gạo cho các đồng chí có hoàn cảnh khó khăn... Chỉ riêng năm 1988, Quân khu 3 có 1.285 đồng chí xuất ngũ đi lao động ở nước ngoài. Những việc làm trên đã góp phần giải quyết những khó khăn cho đất nước đang trong giai đoạn khủng hoảng và cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang Quân khu 3 cũng như những đồng chí đã xuất ngũ. Kết quả này là sự cố gắng, nỗ lực của cấp ủy, chỉ huy các đơn vị trong lực lượng vũ trang Quân khu; của các cấp, các ngành, đặc biệt là sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của thủ trưởng Bộ Quốc phòng và Đại tướng Lê Đức Anh.
Tháng 6/1991, Đại tướng Lê Đức Anh tiếp tục được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị - Bí thư Trung ương Đảng, sau đó là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đây, tuy không trực tiếp chỉ đạo lực lượng vũ trang Quân khu 3 nhưng Đại tướng vẫn dành nhiều tình cảm cho cán bộ, chiến sĩ Quân khu. Đồng chí đã nhiều lần về thăm, làm việc, động viên cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu và nhân dân trên địa bàn. Quân và dân Quân khu 3 luôn nhớ về Đại tướng với những tình cảm thành kính, thân thương nhất.
Trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc có những yêu cầu mới; có nhiều thuận lợi nhưng cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Quán triệt tư tưởng, quan điểm và học tập tấm gương Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 3 nguyện tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, ra sức học tập nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực mọi mặt. Thực hiện tốt cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đẩy mạnh việc phòng, chống “diễn biến hòa bình”; phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đồng thời, tích cực xây dựng lực lượng vũ trang theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, có cơ cấu hợp lý giữa các thành phần, lực lượng; không ngừng nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; tăng cường xây dựng phòng thủ Quân khu; phát huy vai trò nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Tăng cường các hoạt động đối ngoại quốc phòng cũng như đối ngoại nhân dân. Quan tâm chăm lo đời sống cán bộ, chiến sĩ và chính sách hậu phương quân đội. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với bộ chỉ huy bộ đội biên phòng các tỉnh, thành phố trên địa bàn nắm chắc tình hình biên giới, biển, đảo, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.
Cuộc đời của Đại tướng Lê Đức Anh là một tấm gương sáng, phấn đấu không ngừng nghỉ cho sự nghiệp cách mạng của nước nhà. Những tình cảm, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đại tướng đối với lực lượng vũ trang Quân khu 3 nói chung và trong giai đoạn 1987 - 1991 nói riêng là những tài sản tinh thần quý giá, động viên cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 3 không ngừng phấn đấu vươn lên thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thiếu tướng NGUYỄN QUANG NGỌC
Đồng chí Đỗ Mười, cố Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã nói về Đại tướng Lê Đức Anh như sau: “Đồng chí Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng ta, Nhà nước ta, của nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam”. Hơn 80 năm hoạt động cách mạng, đồng chí đã đảm nhiệm nhiều cương vị công tác quan trọng, như: Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, sau này là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng đã tham mưu cho Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đưa ra nhiều quyết sách lớn, trong đó có quyết sách về điều chỉnh thế bố trí chiến lược trên địa bàn cả nước, đặc biệt là hướng Quân khu 1.
Năm 1986, trên cương vị Tổng Tham mưu trưởng - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đi thị sát biên giới sáu tỉnh phía Bắc, gặp gỡ nhân dân, cán bộ địa phương hỏi chuyện cán bộ, chiến sĩ và nhận thấy nhiều vấn đề nổi cộm. Trong Hồi ký giai đoạn 1986 - 1992, đồng chí đã viết: “Bấy lâu nay, các đơn vị cấp dưới báo cáo lên cấp trên thường chỉ nói mặt tốt, ưu điểm, còn mặt yếu kém, khuyết điểm thì không báo cáo. Lúc đó, tôi thấy rõ bộ đội về tinh thần rất căng thẳng, về vật chất thì điều kiện ăn, ở, sinh hoạt rất thiếu thốn, kham khổ. Bởi vậy, bộ đội sinh ra bất mãn, tiêu cực và vi phạm kỷ luật dân vận, có nơi bộ đội quan hệ với nhân dân chưa tốt. Quan hệ cán bộ, chiến sĩ cũng nhiều nơi chưa tốt. Ngày hôm sau, tại một số điểm chốt, tôi bảo anh em hãy cho đơn vị lui về phía sau. Anh em cán bộ và cả chiến sĩ nữa nói rằng, nếu mình lui mà bên kia họ lên thì lo lắm. Tôi bảo cứ rút đi. Tiếp đó, tôi cho rút từng phần các đơn vị chủ lực về tuyến hai để đưa dân quân, bộ đội địa phương và bộ đội biên phòng lên tuyến một...”.
Chuyến thị sát này là cơ sở để đồng chí Lê Đức Anh báo cáo với Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương đề ra các chủ trương, giải pháp chỉ đạo, điều chỉnh thế bố trí chiến lược quốc phòng trên cả nước và hướng Quân khu 1. Sau đó Đại tướng Lê Đức Anh cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng đã tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V) ra Nghị quyết số 33/NQ-TƯ ngày 21/7/1986 “Về nhiệm vụ quân sự quốc phòng 5 năm (1986 - 1990)”, trong đó xác định: “Nâng cao chất lượng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội chính quy ngày càng hiện đại, đạt cho được một bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng tổng hợp, làm tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ quốc tế và nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế”. Nghị quyết cũng đã đề cập một số vấn đề về điều chỉnh lực lượng, thế bố trí chiến lược phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Từ tháng 02/1987, đồng chí Lê Đức Anh là Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trong những năm giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, với bề dày kinh nghiệm thực tiễn và nhãn quan chiến lược, đồng chí Lê Đức Anh cùng tập thể Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới; lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân tiến hành điều chỉnh thế bố trí chiến lược của cả nước và địa bàn Quân khu 1.
Đại tướng Lê Đức Anh đã đề xuất kế hoạch xây dựng Quân đội tinh, gọn, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao và cắt giảm lực lượng vũ trang để tập trung cho phát triển đất nước; điều chỉnh chiến lược phòng thủ đất nước trong tình hình mới, phù hợp với điều kiện kinh tế lúc bấy giờ mà vẫn bảo đảm sức mạnh để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Khi kế hoạch được Bộ Chính trị thông qua, trên cương vị Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Lê Đức Anh đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức xây dựng, bố trí thế trận phòng thủ đất nước theo hướng phù hợp, hiệu quả. Chỉ đạo ban hành các văn bản và triển khai trên toàn quốc về “Thế trận chiến tranh nhân dân” và nhiệm vụ “Quốc phòng toàn dân”, làm cơ sở để Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 02/NQ-BCT xác định nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo. Nghị quyết được triển khai thực hiện đã nhanh chóng đi vào cuộc sống; phát động được toàn dân xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng các khu vực phòng thủ từ tỉnh, thành phố đến cơ sở xã, tạo nên sức mạnh tại chỗ của nền quốc phòng.
Quân khu 1 đảm nhiệm phòng thủ trên hướng chiến lược của quốc gia. Trong và sau chiến tranh biên giới phía Bắc (02/1979) lực lượng phát triển đông, tổ chức biên chế lớn. Đến giữa năm 1987, các đơn vị chủ lực của Quân khu có trên 130.000 quân, trong đó số cán bộ là sĩ quan trên 2 vạn. Biên chế của Quân khu gồm 2 quân đoàn, một sở chỉ huy bổ trợ và các đơn vị trực thuộc. Chấp hành Nghị quyết của Bộ Chính trị, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ IV về nhiệm vụ đổi mới quân sự, quốc phòng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng, ngay từ nửa cuối năm 1986 đến đầu năm 1987, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu bước đầu điều chỉnh thế trận và đội hình phòng ngự trên hai tỉnh biên giới. Quân khu đã quyết định điều các trung đoàn bộ binh 540, 460, 199 về Bộ Chỉ huy quân sự Lạng Sơn; các trung đoàn 851, 852, 529 về Bộ Chỉ huy quân sự Cao Bằng làm nhiệm vụ phòng ngự tuyến 1; chuyển Sư đoàn 327, 347 thuộc Quân đoàn 14 về trực thuộc Quân khu. Các đơn vị chủ lực lui về tuyến sau phòng ngự ở trận địa cơ bản và cơ động phản kích trên các hướng, phối hợp với các lực lượng bảo vệ đường biên, đấu tranh ngăn chặn hàng tâm lý chiến thẩm lậu qua biên giới.
Chấp hành chủ trương của Trung ương Đảng về nhiệm vụ quốc phòng trong 5 năm 1986 - 1990, năm 1987, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức bố trí điều chỉnh theo chủ trương của Bộ. Tháng 02/1987, Đảng ủy Quân khu họp ra nghị quyết xác định: Tập trung lãnh đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân, nâng cao chất lượng các cơ quan quân sự địa phương tỉnh, huyện, xã, củng cố kiện toàn khung động viên. Tổ chức xây dựng bộ đội chủ lực gọn, mạnh, đáp ứng yêu cầu tác chiến, xây dựng kinh tế và phát triển lực lượng khi cần thiết, tinh giản cơ quan, thu gọn đầu mối, kiên quyết cắt bỏ những đơn vị có thể rút gọn để thực hiện giảm quân số mà các đơn vị vẫn hoàn thành nhiệm vụ. Thực hiện Kế hoạch 87/A về điều chỉnh lực lượng, từ tháng 6 đến tháng 11/1987, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã tập trung lãnh đạo, tổ chức điều chỉnh thế chiến lược thực hiện chuyển dịch các đơn vị chủ lực của Quân khu, bao gồm 2 Quân đoàn (Quân đoàn 14, 26) và một số đơn vị trực thuộc bố trí ở tuyến 1 về bố trí ở tuyến 2. Rút gọn Ban Chỉ huy quân sự 2 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, giải thể một số đầu mối đơn vị thuộc Quân đoàn 26 và một số đơn vị trực thuộc Quân khu, tăng cường cho bộ đội địa phương và bộ đội biên phòng theo ý định của Bộ Quốc phòng, phù hợp với phương án phòng thủ mới. Việc điều chỉnh thế bố trí chiến lược trên các tuyến phòng thủ được tiến hành theo trình tự: Giảm đầu mối đơn vị chủ lực, tăng cường cho 2 tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, đồng thời giải thể một số đơn vị địa phương thuộc quyền chỉ huy cấp huyện, thị; tập trung củng cố, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên.
Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ đạo các cơ quan Quân khu cùng các đơn vị, địa phương xây dựng phương án tác chiến phòng thủ cơ bản trên hai hướng Lạng Sơn và Cao Bằng theo tổ chức và bố trí lực lượng mới. Cùng đảng bộ, chính quyền tập trung xây dựng huyện biên giới, xây dựng các chốt, cụm điểm tựa và thiết bị chiến trường. Xây dựng căn cứ hậu cần, kỹ thuật, phát huy lực lượng tại chỗ, hậu cần tại chỗ. Bảo đảm đầy đủ lực lượng, vũ khí phương tiện, lương thực, thực phẩm cho các đơn vị tuyến 1, bảo vệ vững chắc đường biên, mốc giới, chống lấn đất, xâm nhập trái phép. Các đơn vị tuyến sau tập trung nâng cao chất lượng huấn luyện quân sự, tổ chức diễn tập, hành quân rèn luyện, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành mệnh lệnh, sẵn sàng cơ động khi có tình huống đột xuất ở biên giới và gây rối, bạo loạn trong nội địa.
Việc rút gọn, giải thể nhiều đầu mối đơn vị, giảm mạnh lực lượng bộ đội thường trực đã tác động mạnh mẽ đến tâm lý, tư tưởng bộ đội, nhất là đối với đội ngũ cán bộ. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Quân khu đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho mọi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ thấu suốt quan điểm, đường lối quân sự của Đảng, nhất trí cao với những chủ trương, giải pháp điều chỉnh tổ chức, lực lượng của Quân khu. Vì vậy, việc rút gọn biên chế, điều chỉnh thế bố trí chiến lược của lực lượng vũ trang Quân khu bước đầu đạt được kết quả tốt.
Cùng với việc điều chỉnh lực lượng và thế bố trí chiến lược, Quân khu còn chỉ đạo ngành Hậu cần thường xuyên bảo đảm tốt đời sống cho bộ đội trong điều kiện có những biến động lớn về biên chế tổ chức và lực lượng. Cục Hậu cần Quân khu thường xuyên quan hệ chặt chẽ với cơ quan Tổng cục Hậu cần, chủ động liên hệ với các cơ quan chức năng ngoài quân đội và các địa phương bảo đảm đủ chỉ tiêu kế hoạch hậu cần (tiếp nhận lương thực đạt 80%, thực phẩm đạt 73% kế hoạch); bảo đảm đúng, đủ tiêu chuẩn định lượng cơ bản cho bộ đội. Bên cạnh đó, cấp uỷ, chỉ huy các cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị, cơ quan đẩy mạnh công tác tăng gia, chăn nuôi, góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng bữa ăn cho bộ đội; chủ động tổ chức khai thác, sản xuất vật liệu tại chỗ phục vụ tu sửa, xây dựng nhà ở, nhà kho, nhà xe pháo ở các vị trí đóng quân mới, từng bước ổn định đời sống bộ đội. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu lãnh đạo, chỉ đạo Cục Hậu cần Quân khu tiếp nhận 2 đoàn điều dưỡng thương binh, bệnh binh (Đoàn 157 và Đoàn 159); giải thể Đội điều trị 44; thành lập Bệnh viện dã chiến 83 (khu vực đường 1B); sáp nhập Trường Y vào Viện 91; sáp nhập Phòng Kinh tế, Phòng Thuỷ năng, Đội Vận tải của Sở chỉ huy bổ trợ, đội Vận tải thuỷ Đông Bắc về Trung đoàn 651; thành lập Công trường 88 làm nhiệm vụ xây dựng doanh trại Quân khu bộ. Hai đoàn điều dưỡng thương binh, bệnh binh (Đoàn 157, Đoàn 159) và 2 bệnh viện (Viện 91, Viện 110) được Quân khu đầu tư xây dựng mới khu nhà ăn tập thể, khu vui chơi giải trí cho thương, bệnh binh; nâng cấp trang thiết bị, dụng cụ y tế; tăng cường y, bác sĩ, nhân viên phục vụ, bảo đảm cho việc nuôi dưỡng thương, bệnh binh ngày càng tốt hơn.
Về công tác kỹ thuật, Quân khu tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc tiếp nhận, thu gom, dồn dịch vũ khí, trang bị kỹ thuật của các đơn vị giải thể chuyển về tuyến sau. Cục Kỹ thuật đã tiếp nhận và chuyên chở hàng nghìn tấn đạn, vũ khí, trang bị; hàng nghìn xe pháo, phương tiện kỹ thuật về các kho tuyến sau bảo đảm an toàn; tiến hành xây dựng và mở rộng hàng trăm nhà xe, pháo; hàng chục kho để tiếp nhận, bảo quản. Các loại vũ khí, trang bị chuyển về sau đều được tổ chức phân loại, bảo quản, quản lý chặt chẽ. Công tác theo dõi quản lý nắm hồ sơ lý lịch từng loại vũ khí, trang bị, kỹ thuật được tiến hành chặt chẽ, bảo đảm đồng chủng loại,... Đây là một nỗ lực rất đáng ghi nhận của lực lượng vũ trang Quân khu trong công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật trong điều chỉnh lực lượng và thế bố trí chiến lược.
Bên cạnh đó, thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 30/7/1987 về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và cơ chế lãnh đạo mới của Đảng đối với lực lượng vũ trang địa phương, Quân khu thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan quân sự địa phương tiếp tục xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp. Để tập trung xây dựng lực lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ điều chỉnh thế bố trí chiến lược mới, giai đoạn này, Đảng ủy Quân khu đã họp ban hành các nghị quyết chuyên đề: Nghị quyết về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, Nghị quyết về công tác an ninh quốc phòng, Nghị quyết về động viên quân đội. Lực lượng dân quân, tự vệ toàn Quân khu đã giảm từ 11,3% (năm 1988) xuống còn 10% (năm 1989) so với tổng dân số, giữ vững tỷ lệ tự vệ 20 - 25% so với tổng số cán bộ công nhân, viên chức; chất lượng mọi mặt được nâng lên góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Quân khu tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tiếp tục xây dựng hoàn thiện kế hoạch động viên quân đội, tiến hành thâm nhập, phúc tra nắm chắc số lượng, chất lượng nguồn dự bị động viên của cơ quan, đơn vị mình quản lý.
Căn cứ quy định của Bộ Quốc phòng về tổ chức lực lượng thường trực của Quân khu, tháng 10/1988, Đảng ủy Quân khu ra Nghị quyết chuyên đề về “Tổ chức xây dựng lực lượng”. Nghị quyết chỉ rõ: “Quán triệt sâu sắc toàn diện và chấp hành nghiêm túc mệnh lệnh của cấp trên về chấn chỉnh tổ chức giảm biên chế. Kiên quyết giảm số lượng quân thường trực đạt chỉ tiêu giao, nhưng phải tăng cường chất lượng... Trong tổ chức thực hiện phải kiên quyết tích cực, khẩn trương nhưng thận trọng, bảo đảm nguyên tắc, thủ tục, chính sách, nhất là đối với quân số ra. Tuyệt đối giữ bí mật kế hoạch tổ chức biên chế”. “Ra sức kiện toàn tổ chức biên chế, giảm quân thường trực, xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu vững mạnh về mọi mặt, lấy xây dựng chính trị tư tưởng, xây dựng Đảng làm cơ sở, xây dựng đội ngũ cán bộ làm then chốt...”.
Thực hiện Nghị quyết trên, toàn Quân khu chỉ để 1 sư đoàn đủ quân, còn 5 sư đoàn mỗi sư đoàn có một trung đoàn đủ quân. Riêng Sư đoàn 346 chỉ có 1 tiểu đoàn đủ quân thuộc Trung đoàn 246. Hai trung đoàn thuộc 2 tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng và các tiểu đoàn của các huyện giáp biên vẫn giữ đủ quân làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu ở tuyến 1. Nhờ thực hiện tốt chủ trương giảm quân số của trên, Quân khu đã giảm được 12.717 người (từ 102.156 xuống còn 89.439 người; sĩ quan từ 18.000 xuống còn 15.414 người).
Để thực hiện có hiệu quả kế hoạch A và chuẩn bị triển khai thực hiện kế hoạch B (kế hoạch giải thể, rút gọn biên chế tổ chức lực lượng), tháng 3/1989, Bộ Tư lệnh Quân khu thành lập Ban Chỉ đạo rút gọn do đồng chí Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng làm Trưởng ban. Các quân đoàn, sư đoàn đều thành lập ban chỉ đạo, giúp đảng uỷ, chỉ huy các cấp thực hiện kế hoạch rút gọn bảo đảm đúng kế hoạch.
Trong 2 năm (1987 - 1988) thực hiện kế hoạch A, các đơn vị chủ lực của Quân khu đã nhanh chóng di chuyển lui về tuyến sau, bố trí lại đội hình, giảm quân số, rút gọn biên chế tổ chức; khẩn trương xây dựng, hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến theo phương án phòng thủ mới. Quân khu giải thể 1 quân đoàn (Quân đoàn bổ trợ), 2 sư đoàn bộ binh, 2 trung đoàn bộ đội địa phương và một số trung đoàn trực thuộc các quân đoàn, sư đoàn; di chuyển toàn bộ lực lượng và một khối lượng lớn vũ khí, trang bị kỹ thuật của 8 sư đoàn phía trước lui về phía sau. Lực lượng toàn Quân khu đã giảm 36%, riêng đội ngũ cán bộ giảm 30% (so với năm 1986), số cán bộ dư biên chế chỉ còn 8,1%.
Triển khai thực hiện kế hoạch B với phương châm: “Khẩn trương, triệt để, chu đáo, tỉ mỉ, cụ thể, an toàn”, Quân khu lần lượt giải thể Quân đoàn bộ Quân đoàn 26, Sư đoàn 322, Sư đoàn 431, Trung đoàn 460 (Lạng Sơn), Trung đoàn 750 (Cao Bằng), Trung đoàn Thông tin 605 (Quân đoàn 14); hợp nhất Trường Đảng vào Trường Quân chính Quân khu, thành lập Trường Văn hoá - Thiếu Sinh Quân Việt Bắc; chuyển Sư đoàn 346 (Quân đoàn 26) về trực thuộc Quân khu. Trong thực hiện kế hoạch B, các cấp đã có kế hoạch triển khai từng bước cụ thể, phân công tổ chức thực hiện rõ ràng, hợp đồng chặt chẽ giữa các cơ quan - đơn vị, giữa cấp trên và cấp dưới nên việc giải thể, rút gọn, sáp nhập các đơn vị diễn ra nhanh gọn, đúng kế hoạch, bảo đảm an toàn. Kết quả thực hiện kế hoạch B, đến ngày 30/10/1989: Tổng quân số của Quân khu giảm xuống còn 58.050 người, trong đó có 12.550 sĩ quan. Về vũ khí trang bị điều chuyển 407 khẩu pháo cối các loại, 509 xe ô tô, trả trên 36 giàn BM13; thu về kho Quân khu 17.993 khẩu súng bộ binh, 427 pháo cối, 3.552 tấn đạn và hàng nghìn tấn vật chất hậu cần của các đơn vị, bảo đảm an toàn tuyệt đối. Hệ thống nhà kho, nhà xe pháo từng bước được đầu tư xây dựng theo đúng quy hoạch, vừa bảo đảm bí mật, an toàn, vừa thuận lợi cho việc cơ động khi xảy ra chiến tranh.
Sau khi thực hiện kế hoạch B, số lượng cán bộ dôi dư lớn, đồng chí Lê Đức Anh cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng tham mưu cho Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW và trực tiếp ban hành Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về tăng cường cán bộ quân đội cho cơ sở. Quán triệt và thực hiện các chỉ thị trên, Quân khu đã lựa chọn 551 sĩ quan xuống tăng cường cho 491 trong tổng số 1.030 xã, phường trên địa bàn đạt được kết quả bước đầu quan trọng, khẳng định chủ trương của Bộ Quốc phòng và Quân khu là hoàn toàn đúng đắn. Hoạt động của đội ngũ cán bộ tăng cường cơ sở làm chuyển biến tình hình ở những xã, phường khó khăn, phức tạp, giúp cấp ủy, chính quyền địa phương củng cố, nâng cao chất lượng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ, giữ vững an ninh chính trị, tham gia cùng địa phương phát triển kinh tế - xã hội,... được cấp uỷ, chính quyền địa phương đánh giá cao. Sau sơ kết 1 năm triển khai thực hiện, Quân khu tiếp tục lựa chọn, đưa 150 cán bộ đi xây dựng cơ sở xã, phường, nâng tổng số cán bộ tăng cường cơ sở lên hơn 700 đồng chí.
Từ những năm 1987 - 1989, thực hiện chủ trương của Bộ Quốc phòng, Quân khu đã giảm được một lực lượng khá lớn cả về quân số và đầu mối đơn vị, nhưng lực lượng thường trực vẫn cao so với biên chế mới. Trước thực trạng đó, Bộ Quốc phòng đã chỉ thị: “Lực lượng vũ trang Quân khu 1 tiếp tục giảm một bước nữa...”. Thực hiện chủ trương của Bộ Quốc phòng, Quân khu chỉ đạo các cơ quan, đơn vị nhanh chóng xây dựng kế hoạch rút gọn (gọi tắt là Kế hoạch Z). Đến hết quý III năm 1990, các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đoàn 14, các trung đoàn bộ binh thuộc hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn đã được giải thể nhanh, gọn, đúng kế hoạch. Một khối lượng lớn vũ khí, trang bị kỹ thuật, vật tư tài sản được các đơn vị còn lại tiếp nhận hoặc chuyển về Quân khu an toàn.
Đánh giá kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ điều chỉnh thế bố trí chiến lược, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân khu lần thứ IX (tiến hành từ ngày 01 đến ngày 04/10/1991) khẳng định: “Nét nổi bật 5 năm qua là thực hiện nhiệm vụ điều chỉnh chiến lược nhanh, vững chắc, có phương án và có kế hoạch phòng thủ mới, kịp thời; điều chuyển lớn lực lượng khẩn trương, an toàn, củng cố thế trận có chiều sâu. Tập trung xây dựng 2 lực lượng, 3 thứ quân, giảm lực lượng thường trực, tích cực xây dựng lực lượng dự bị động viên rộng khắp, dân quân tự vệ được củng cố, có thể đáp ứng được yêu cầu tác chiến phòng thủ...”. Đến đầu năm 1992, nhiệm vụ điều chỉnh chiến lược của lực lượng vũ trang Quân khu cơ bản hoàn thành.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và trực tiếp là của Đại tướng Lê Đức Anh khi đó là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, sau 5 năm (1987 - 1992), Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 1 đã lãnh đạo, chỉ đạo Lực lượng vũ trang Quân khu điều chỉnh lực lượng và thế bố trí chiến lược quốc phòng theo thế trận mới. Thông qua quá trình sắp xếp, bố trí, điều chỉnh, lực lượng vũ trang Quân khu đã giảm một số lượng lớn quân thường trực cả về đầu mối đơn vị và quân số. Các đơn vị được bố trí đội hình và địa bàn phù hợp, số lượng hợp lý bảo đảm luôn sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống; vừa tham gia phát triển kinh tế - xã hội, củng cố giữ vững thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ trên địa bàn vững chắc, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới đất nước.
Trung tướng NGUYỄN HỒNG THÁI
Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước xuất sắc, một chiến sĩ cách mạng kiên cường, một vị tướng tài ba, luôn đổi mới, quyết đoán, nhanh nhạy, bám sát thực tiễn, dám chịu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành. Đồng chí đã được tôi luyện, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế, giải phóng nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng.
Trong cuộc sống, đồng chí sống trung thực, giản dị, tiết kiệm, gần gũi, sâu sắc, nhân văn, được đồng chí, đồng đội và nhân dân yêu mến, bạn bè quốc tế đánh giá cao. Đồng chí là tấm gương sáng về đạo đức, lối sống. Về quân sự, Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng trận mạc, một nhà chỉ huy xuất sắc, có tầm nhìn chiến lược. Cuộc đời binh nghiệp của Đại tướng gắn với nhiều chiến trường từ Nam ra Bắc và trên chiến trường nước bạn. Một trong những đóng góp to lớn đó của Đại tướng là chiến lược bảo vệ vững chắc vùng trời Tổ quốc trong các giai đoạn của cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng chí đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng vào điều kiện cụ thể, trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch, trận đánh thắng lợi, tiêu diệt một lực lượng lớn binh lực của quân đội viễn chinh Pháp trên chiến trường ba nước Đông Dương, đồng thời, chỉ đạo xây dựng lực lượng phòng không Nam Bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ theo phương châm “dựa vào dân mà chiến đấu” góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Sau Hiệp định Giơnevơ, trên các cương vị lãnh đạo, chỉ huy ở Cục Tác chiến, Cục Quân lực và tiếp đó là Thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu, với kinh nghiệm trận mạc, đồng chí đã cùng với các cơ quan Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo xây dựng các lực lượng phòng không, không quân không ngừng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vùng trời của Tổ quốc, đánh thắng chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quân chủng Phòng không - Không quân từ một Trung đoàn phòng không 367 đã phát triển lên 12 trung đoàn pháo phòng không, 2 trung đoàn không quân, 3 trung đoàn ra đa, 1 Trung đoàn tên lửa. Cùng với đó là lực lượng phòng không của các quân khu, binh đoàn, binh chủng hợp thành cũng có bước phát triển mới về trang bị, lực lượng tương đối hiện đại được huấn luyện cơ bản; các lực lượng phòng không địa phương cũng hình thành tại một số khu vực triển khai chiến đấu tạo lên thế trận phòng không rộng khắp đủ khả năng bảo vệ vững chắc vùng trời miền Bắc.
Năm 1975, đồng chí đã cùng với Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo lực lượng phòng không - không quân tham gia nhiều chiến dịch. Trong các chiến dịch đó, lực lượng phòng không của ta đã vận dụng linh hoạt cách đánh tập trung, phân tán giữa lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động của phòng không, giữa lực lượng phòng không của Quân chủng Phòng không - Không quân với lực lượng phòng không ba thứ quân tổ chức đánh trả khi địch sử dụng lực lượng không quân phản công đánh vào đội hình tiến công của ta.
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, với vai trò là Tư lệnh chiến trường, đồng chí đã tổ chức sử dụng lực lượng phòng không - không quân một cách hợp lý và chỉ đạo hoạt động tác chiến một cách toàn diện đồng bộ vừa làm nhiệm vụ tác chiến phòng không bảo vệ vùng trời Tổ quốc khu vực miền Nam, vừa sử dụng lực lượng không quân tiến hành các hoạt động tác chiến tiến công đường không, tiến hành chi viện hỏa lực không quân cho binh chủng hợp thành trong phòng ngự phản công, tiến công, trên các hướng chiến lược; đồng thời, vừa thực hiện tổ chức lực lượng không quân đánh trả những hành động gây chiến của địch, cũng như phối hợp chặt chẽ với lực lượng binh chủng hợp thành của bạn đánh đổ hoàn toàn chế độ độc tài
Pôn Pốt, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và giải cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.
Trong giai đoạn đất nước đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trên cương vị là người đứng đầu của Bộ Quốc phòng, đồng chí đã cùng với Đảng ủy Quân sự Trung ương và tập thể lãnh đạo Bộ Quốc phòng đề xuất với Đảng và Nhà nước nhiều quyết sách quan trọng đối với nền quốc phòng toàn dân và xây dựng quân đội. Việc giảm quân số thường trực và điều chỉnh thế bố trí chiến lược là một trong những sự kiện lớn của quân đội ta trong những năm 1987 - 1990, trong đó có sự đóng góp to lớn của đồng chí Lê Đức Anh. Nhờ sự điều chỉnh hợp lý, chúng ta đã tạo ra một thế trận phòng thủ quốc gia mới, phù hợp với tư duy nghệ thuật quân sự hiện đại và xu thế phát triển về kinh tế, xã hội, đối ngoại của đất nước, đặt tiền đề cho tiến trình phá bỏ thế cấm vận của Mỹ. Thực hiện điều chuyển từng cơ quan của Bộ Quốc phòng, của các quân khu, quân chủng, đồng thời, bố trí lại thế trận tác chiến, trong đó có xây dựng thế trận phòng không - không quân vững chắc, linh hoạt, lực lượng phòng không quốc gia và lực lượng hải quân, phòng thủ bờ biển để bảo vệ vùng trời, vùng biển, hải đảo Tổ quốc, nhất là khu vực quần đảo Trường Sa.
Trên cơ sở chiến lược quân sự của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và sự chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh, năm 1987, lực lượng phòng không - không quân đã có sự thay đổi lớn về tổ chức lực lượng và bố trí đội hình chiến đấu. Theo đó, các trung đoàn ra đa về trực thuộc các sư đoàn phòng không, giải thể, rút gọn các trường hạ sĩ quan, sáp nhập các trường sĩ quan theo hướng tinh gọn các đầu mối; các đơn vị pháo phòng không, tên lửa trên biên giới phía Bắc thuộc các Quân khu 1, 2, 3 được rút về tuyến sau. Đại bộ phận lực lượng phòng không của các Quân khu 5, 7, 9, Quân đoàn 4 ở Campuchia và lực lượng phòng không Quân khu 4, Mặt trận 379 ở Bắc Lào rút về nước. Quân chủng Không quân đã tổ chức cơ động Sư đoàn không quân 372 về Đà Nẵng, Sư đoàn không quân 370 từ Đà Nẵng vào Phan Rang. Với sự điều chỉnh đó, chúng ta đã tạo được một thế trận phòng không liên hoàn đánh địch rộng khắp để bảo vệ vững chắc vùng trời Tổ quốc trước mọi nguy cơ tiến công hay đột nhập đường không của kẻ thù từ mọi hướng.
Có thể nói, trong thời kỳ này, Đại tướng Lê Đức Anh đã dành nhiều tình cảm sâu sắc và sự quan tâm đặc biệt đối với lực lượng phòng không - không quân. Ngay sau khi giữ trọng trách là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng đã đến thăm và làm việc với Bộ Tư lệnh và các cơ quan của Quân chủng Phòng không (tháng 3/1987). Tại đây, đồng chí đã biểu dương nỗ lực phấn đấu khắc phục khó khăn vươn lên trong huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của Quân chủng và yêu cầu Quân chủng tập trung nghiên cứu tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng ra quyết định về biên chế tổ chức xây dựng lực lượng phòng không ba thứ quân tinh, gọn cũng như chức năng, nhiệm vụ của hệ thống cơ quan phòng không lục quân các cấp phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới; thường xuyên duy trì trạng thái, chế độ sẵn sàng chiến đấu, đẩy mạnh công tác huấn luyện, diễn tập; duy trì chặt chẽ chế độ công tác bảo quản, bảo dưỡng, nâng cấp vũ khí, trang bị và bảo đảm tốt đời sống và chính sách hậu phương gia đình cho bộ đội.
Với phong cách lãnh đạo, chỉ huy sâu sát thực tế, gần gũi với cán bộ, chiến sĩ, Đại tướng Lê Đức Anh luôn quan tâm đến đơn vị làm nhiệm vụ nơi tuyến đầu. Trong chuyến thăm và kiểm tra Lữ đoàn phòng không 378 (8/1990), đồng chí đã nhắc nhở lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị quan tâm hơn nữa đến các hoạt động huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, công tác bảo đảm kỹ thuật khai thác sử dụng vũ khí hiệu quả và bảo đảm nơi ăn, ở của bộ đội.
Bên cạnh đó, Đại tướng luôn quan tâm sâu sắc đến công tác chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội. Bởi theo ông, chính sách là một mặt công tác quan trọng, kết hợp chặt chẽ với công tác tổ chức và công tác tư tưởng, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội ta. Ngày 10/9/1994, trên cương vị là Chủ tịch nước, đồng chí đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh Quy định danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, tôn vinh những bà mẹ có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Đầu năm 1995, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 7 liệt sĩ phi công đã hy sinh anh dũng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước gồm: Vũ Xuân Thiều, Nguyễn Văn Bảy, Nguyễn Phi Hùng, Ngô Đức Mai, Lê Quang Trung, Lê Minh Huân và Hà Văn Chúc. Đây là sự động viên rất lớn cho bộ đội không quân trong sự nghiệp bảo vệ vùng trời Tổ quốc.
Trên cương vị Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng quốc phòng - an ninh, thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, đồng chí luôn quan tâm các đơn vị phòng không - không quân chiến đấu, quản lý vùng trời Tổ quốc. Nhân dịp đến dự kỷ niệm 40 năm Ngày truyền thống Không quân nhân dân Việt Nam (03/3/1955 - 03/3/1995) đồng chí nhắc nhở bộ đội không quân trong sự nghiệp đổi mới vừa sẵn sàng chiến đấu cao vừa phải thực hiện tốt nhiệm vụ chiến lược quốc phòng và kinh tế. Ngày 01/5/1996, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đến thăm và kiểm tra công tác sẵn sàng chiến đấu của Trung đoàn không quân 937. Tại đây, đồng chí đã kiểm tra sở chỉ huy, khu trực ban chiến đấu và thăm khu huấn luyện bay của trung đoàn; ân cần thăm hỏi các đồng chí đang làm nhiệm vụ trên sân bay và xúc động khi thấy mọi người đều hết lòng vì nhiệm vụ trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, sinh hoạt chưa đầy đủ. Đồng chí căn dặn phải hết sức cảnh giác trước tình hình phức tạp trong khu vực, nhất là trên Biển Đông; cần cố gắng hơn nữa học tập và rèn luyện phát huy tinh thần chủ động sáng tạo, huấn luyện bay an toàn; khai thác triệt để, hiệu quả tính năng của vũ khí trang bị kỹ thuật mới, nhanh chóng nâng cao sức mạnh chiến đấu bảo vệ vững chắc vùng trời, vùng biển của Tổ quốc.
Trong tác chiến biển, đảo, để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ vùng trời Tổ quốc, vùng biển, hải đảo và thềm lục địa phía Nam, Đại tướng Lê Đức Anh ký quyết định thành lập Bộ chỉ huy phòng thủ căn cứ quân sự miền Trung, gồm: các đơn vị hải quân, phòng không, không quân đóng quân ở miền Trung và các đơn vị xây dựng căn cứ, đơn vị thông tin. Trong đó hải quân và không quân là lực lượng nòng cốt làm nhiệm vụ bảo vệ và chi viện cho quần đảo Trường Sa. Kiên quyết không để nước ngoài thực hiện được âm mưu lấn chiếm. Đồng thời, đồng chí cũng ký quyết định thành lập Bộ chỉ huy căn cứ Cam Ranh, và yêu cầu Quân chủng Phòng không nghiên cứu bố trí hoàn chỉnh hệ thống phòng không trên các đảo, bổ sung cán bộ, chiến sĩ phòng không - không quân trên đảo Trường Sa để tăng cường khả năng chiến đấu bảo vệ vùng trời, vùng biển, hải đảo Trường Sa. Đầu năm 1988, dưới sự chỉ đạo của Đại tướng, Bộ Tổng Tham mưu đã tổ chức cho các quân, binh chủng Hải quân, Không quân, Phòng không, Đặc công, Thông tin tiến hành diễn tập thực binh chi viện đảo và tiếp tục hoàn chỉnh các phương án phòng thủ và hiệp đồng của ba quân chủng với các lực lượng khi tác chiến biển, đảo.
Có thể nói, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố quốc phòng - an ninh dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng, sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Đại tướng Lê Đức Anh, lực lượng phòng không - không quân thời gian này đã từng bước được phát triển cả về số lượng và chất lượng đủ khả năng bảo vệ vững chắc vùng trời thiêng liêng của Tổ quốc. Các đơn vị phòng không được xây dựng thành 7 sư đoàn, tổ chức biên chế, trang bị của cơ quan, đơn vị, nhà trường và hệ thống đơn vị trực thuộc ngày càng đồng bộ và hoàn chỉnh trên các địa bàn chiến lược trong cả nước. Mạng ra đa được củng cố tăng cường vừa tinh gọn vừa bảo đảm thường xuyên quản lý tốt vùng trời của Tổ quốc. Bộ đội tên lửa, pháo phòng không - không quân được biên chế tinh, gọn, mạnh, bố trí có trọng điểm tại các khu vực bảo vệ mục tiêu trọng yếu; có lực lượng cơ động nhanh và có trang bị đánh đêm sẵn sàng chiến đấu bảo vệ các mục tiêu yếu địa chiến lược và tham gia chiến đấu trong chiến dịch binh chủng hợp thành, tăng cường sử dụng vũ khí công nghệ cao, trang bị hiện đại và nâng cao khả năng tác chiến điện tử để có thể hoàn thành tốt các nhiệm vụ trong điều kiện địch tập kích đường không với các quy mô khác nhau. Đồng thời, phát triển thế trận tác chiến đối không của các lực lượng phòng không - không quân hợp lý, chuyển hóa linh hoạt; lực lượng phòng không nhân dân với số lượng phù hợp, có chất lượng ngày càng cao. Đồng thời, xây dựng được lực lượng phòng không lục quân, dân quân tự vệ phòng không trên cả nước ngày càng phát triển. Từ chỗ chỉ có các tiểu đoàn, trung đoàn phòng không, đến nay ở hầu hết các quân khu, quân đoàn đều có Lữ đoàn Phòng không, 63 tỉnh, thành đều có lực lượng dân quân tự vệ phòng không, tạo thành thế trận phòng không nhân dân rộng khắp trên cả nước. Các đơn vị không quân phía Nam trở thành lực lượng xung kích trong tác chiến biển, đảo. Đến đầu năm 1997, các hoạt động bay nhiệm vụ như tuần tiễu, “Biển xa”, “Biển xa Tây Nam” thường xuyên được tổ chức, nhất là các đảo ven biển và trên quần đảo Trường Sa, đánh dấu bước phát triển mới về khả năng làm chủ bầu trời của Không quân nhân dân Việt Nam.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch nước, Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh mãi mãi là tấm gương để các thế hệ cán bộ, chiến sĩ phòng không - không quân noi gương. Chúng ta nguyện nỗ lực phấn đấu, ra sức bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, vùng biển và vùng trời thiêng liêng của Tổ quốc, tạo môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển, xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong lời kết của cuốn Hồi ký Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh - đồng chí viết: Từ thực tiễn hơn 70 năm hoạt động cách mạng của mình, tôi rút ra được đôi điều tâm huyết là phải luôn luôn rèn luyện, phấn đấu thường xuyên, liên tục, quá trình rèn luyện cần hội tụ đủ ba yếu tố. Thứ nhất: là luôn học tập không ngừng, nâng cao tri thức mọi mặt, đặc biệt là học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và lối sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thứ hai, là thường xuyên rèn luyện bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, trước cán bộ, chiến sĩ và trước cấp trên. Trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, lập trường cách mạng, cần có sự mềm dẻo, linh hoạt trong từng trường hợp cụ thể, năng động, sáng tạo để đạt hiệu quả cao nhất trong chỉ đạo thực hiện nghị quyết của Đảng và mệnh lệnh của cấp trên. Thứ ba, là luôn rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của người chiến sĩ cộng sản, có tinh thần cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, luôn đặt lợi ích cách mạng lên trên hết. Mọi suy nghĩ và hành động phải xuất phát từ lợi ích chung của Đảng, của nhân dân, của dân tộc; luôn phấn đấu vì lợi ích của nhân dân và của cả dân tộc, hết lòng thương yêu gắn bó với nhân dân, gắn bó với Tổ quốc thì dù khó khăn, gian khổ ác liệt và nguy hiểm đến mấy chúng ta cũng vượt qua được.
Ngày nay, trước những diễn biến mới của tình hình quốc tế và khu vực tiềm ẩn nhiều yếu tố mất ổn định, nguy cơ xảy ra chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên và khủng bố luôn rình rập, đặc biệt là diễn biến ở Biển Đông đang ngày càng phức tạp... đặt ra nhiệm vụ hết sức nặng nề với Quân chủng Phòng không - Không quân. Để học tập và noi gương Đại tướng Lê Đức Anh, bộ đội phòng không - không quân không ngừng nâng cao tri thức, đặc biệt là học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh; thường xuyên rèn luyện bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân. Để bảo vệ vững chắc vùng trời Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cán bộ, chiến sĩ Quân chủng Phòng không - Không quân nguyện cùng nhau đồng sức, đồng lòng, nêu cao truyền thống anh hùng cách mạng, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, phẩm chất người chiến sĩ phòng không - không quân ưu tú, đoàn kết, thống nhất, chủ động, sáng tạo, quyết tâm hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trên mặt trận đối không để bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc. Trước mắt, Quân chủng Phòng không - Không quân cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề:
Một là, cán bộ, chiến sĩ phòng không - không quân thường xuyên trau dồi bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, có tinh thần cách mạng tiến công “dám đánh, biết đánh và quyết đánh thắng”, có tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, có tư duy đổi mới sáng tạo; không ngừng học tập nâng cao bản lĩnh chiến đấu, năng lực chỉ huy, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đủ khả năng tiếp thu và làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại.
Hai là, toàn Quân chủng quán triệt sâu sắc các nghị quyết của Đảng, Quân ủy Trung ương về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tích cực điều chỉnh tổ chức biên chế theo hướng tinh, gọn, mạnh, nhất là với lực lượng không quân. Đồng thời, dịch chuyển các đơn vị hỏa lực, các nhà máy, kho tàng, xây dựng các trận địa, sân bay dã chiến bí mật, khu vực cơ động... phù hợp với thế trận tác chiến của lực lượng phòng không ba thứ quân và không quân toàn quân, phù hợp với điều kiện thực tiễn, thế bố trí chiến lược quốc phòng - an ninh có khả năng chuyển hóa linh hoạt kịp thời trong các tình huống. Đồng thời, cải tiến, mua sắm vũ khí, trang bị kỹ thuật mới hiện đại để có thể phát hiện địch từ xa; tổ chức đánh địch từ xa và vươn xa đánh vào hậu phương địch trong điều kiện địch tác chiến điện tử mạnh.
Ba là, duy trì nghiêm nền nếp, chế độ sẵn sàng chiến đấu, quản lý vùng trời, quản lý điều hành bay ở tất cả các cấp. Tổ chức nghiên cứu, nắm địch thường xuyên, nhất là các thủ đoạn và các biện pháp tác chiến khi chúng tổ chức tiến công hỏa lực hay đột nhập đường không. Tích cực triển khai nghiên cứu phát triển lý luận nghệ thuật tác chiến của lực lượng phòng không - không quân; đặc biệt trong hiệp đồng tác chiến bảo vệ biển, đảo, khi tham gia các chiến dịch với binh chủng hợp thành, để có phương hướng chuẩn bị các mặt. Đồng thời, tăng cường công tác huấn luyện diễn tập sát với yêu cầu nhiệm vụ và thực tiễn chiến đấu trong điều kiện mới để bổ sung và hoàn thiện các phương án tác chiến, tránh để bị bất ngờ bởi các tình huống trên không.
Bốn là, thường xuyên chăm lo đến công tác hậu phương gia đình, nhất là đối với các đồng chí cán bộ công tác xa nhà, làm việc trong môi trường khắc nghiệt, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Kịp thời động viên, khen thưởng các đồng chí có thành tích trong thực hiện nhiệm vụ.
Năm là, ra sức xây dựng Quân chủng Phòng không - Không quân vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; đẩy mạnh chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, phi chính trị hóa quân đội và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng Quân chủng Phòng không - Không quân vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vững chắc vùng trời, vùng biển, hải đảo Tổ quốc.
Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Đại tướng Lê Đức Anh (1920-2020), chúng ta tôn vinh những cống hiến to lớn của đồng chí đối với cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng quân đội, sự nghiệp bảo vệ bầu trời Tổ quốc. Noi gương Đại tướng Lê Đức Anh, mỗi cán bộ, chiến sĩ phòng không - không quân ra sức học tập, rèn luyện, đem hết sức lực và trí tuệ để xây dựng Quân chủng Phòng không - Không quân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”, tạo sức mạnh tổng hợp, nâng cao sức mạnh và khả năng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vững chắc vùng trời chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Thiếu tướng VŨ VĂN KHA
Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước xuất sắc, một chiến sĩ cách mạng kiên cường, một vị tướng tài ba, luôn đổi mới, quyết đoán, nhanh nhạy, bám sát thực tiễn, dám chịu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành. Đồng chí đã được tôi luyện, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế, giải phóng nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng.
Trong cuộc sống, đồng chí sống trung thực, giản dị, tiết kiệm, gần gũi, sâu sắc, nhân văn, được đồng chí, đồng đội và nhân dân yêu mến, bạn bè quốc tế đánh giá cao. Đồng chí là tấm gương sáng về đạo đức, lối sống. Về quân sự, Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng trận mạc, một nhà chỉ huy xuất sắc, có tầm nhìn chiến lược. Cuộc đời binh nghiệp của Đại tướng gắn với nhiều chiến trường từ Nam ra Bắc và trên chiến trường nước bạn. Một trong những đóng góp to lớn đó của Đại tướng là chiến lược bảo vệ vững chắc vùng trời Tổ quốc trong các giai đoạn của cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng chí đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng vào điều kiện cụ thể, trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch, trận đánh thắng lợi, tiêu diệt một lực lượng lớn binh lực của quân đội viễn chinh Pháp trên chiến trường ba nước Đông Dương, đồng thời, chỉ đạo xây dựng lực lượng phòng không Nam Bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ theo phương châm “dựa vào dân mà chiến đấu” góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Sau Hiệp định Giơnevơ, trên các cương vị lãnh đạo, chỉ huy ở Cục Tác chiến, Cục Quân lực và tiếp đó là Thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu, với kinh nghiệm trận mạc, đồng chí đã cùng với các cơ quan Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo xây dựng các lực lượng phòng không, không quân không ngừng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vùng trời của Tổ quốc, đánh thắng chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quân chủng Phòng không - Không quân từ một Trung đoàn phòng không 367 đã phát triển lên 12 trung đoàn pháo phòng không, 2 trung đoàn không quân, 3 trung đoàn ra đa, 1 Trung đoàn tên lửa. Cùng với đó là lực lượng phòng không của các quân khu, binh đoàn, binh chủng hợp thành cũng có bước phát triển mới về trang bị, lực lượng tương đối hiện đại được huấn luyện cơ bản; các lực lượng phòng không địa phương cũng hình thành tại một số khu vực triển khai chiến đấu tạo lên thế trận phòng không rộng khắp đủ khả năng bảo vệ vững chắc vùng trời miền Bắc.
Năm 1975, đồng chí đã cùng với Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo lực lượng phòng không - không quân tham gia nhiều chiến dịch. Trong các chiến dịch đó, lực lượng phòng không của ta đã vận dụng linh hoạt cách đánh tập trung, phân tán giữa lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động của phòng không, giữa lực lượng phòng không của Quân chủng Phòng không - Không quân với lực lượng phòng không ba thứ quân tổ chức đánh trả khi địch sử dụng lực lượng không quân phản công đánh vào đội hình tiến công của ta.
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, với vai trò là Tư lệnh chiến trường, đồng chí đã tổ chức sử dụng lực lượng phòng không - không quân một cách hợp lý và chỉ đạo hoạt động tác chiến một cách toàn diện đồng bộ vừa làm nhiệm vụ tác chiến phòng không bảo vệ vùng trời Tổ quốc khu vực miền Nam, vừa sử dụng lực lượng không quân tiến hành các hoạt động tác chiến tiến công đường không, tiến hành chi viện hỏa lực không quân cho binh chủng hợp thành trong phòng ngự phản công, tiến công, trên các hướng chiến lược; đồng thời, vừa thực hiện tổ chức lực lượng không quân đánh trả những hành động gây chiến của địch, cũng như phối hợp chặt chẽ với lực lượng binh chủng hợp thành của bạn đánh đổ hoàn toàn chế độ độc tài
Pôn Pốt, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và giải cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.
Trong giai đoạn đất nước đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trên cương vị là người đứng đầu của Bộ Quốc phòng, đồng chí đã cùng với Đảng ủy Quân sự Trung ương và tập thể lãnh đạo Bộ Quốc phòng đề xuất với Đảng và Nhà nước nhiều quyết sách quan trọng đối với nền quốc phòng toàn dân và xây dựng quân đội. Việc giảm quân số thường trực và điều chỉnh thế bố trí chiến lược là một trong những sự kiện lớn của quân đội ta trong những năm 1987 - 1990, trong đó có sự đóng góp to lớn của đồng chí Lê Đức Anh. Nhờ sự điều chỉnh hợp lý, chúng ta đã tạo ra một thế trận phòng thủ quốc gia mới, phù hợp với tư duy nghệ thuật quân sự hiện đại và xu thế phát triển về kinh tế, xã hội, đối ngoại của đất nước, đặt tiền đề cho tiến trình phá bỏ thế cấm vận của Mỹ. Thực hiện điều chuyển từng cơ quan của Bộ Quốc phòng, của các quân khu, quân chủng, đồng thời, bố trí lại thế trận tác chiến, trong đó có xây dựng thế trận phòng không - không quân vững chắc, linh hoạt, lực lượng phòng không quốc gia và lực lượng hải quân, phòng thủ bờ biển để bảo vệ vùng trời, vùng biển, hải đảo Tổ quốc, nhất là khu vực quần đảo Trường Sa.
Trên cơ sở chiến lược quân sự của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và sự chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh, năm 1987, lực lượng phòng không - không quân đã có sự thay đổi lớn về tổ chức lực lượng và bố trí đội hình chiến đấu. Theo đó, các trung đoàn ra đa về trực thuộc các sư đoàn phòng không, giải thể, rút gọn các trường hạ sĩ quan, sáp nhập các trường sĩ quan theo hướng tinh gọn các đầu mối; các đơn vị pháo phòng không, tên lửa trên biên giới phía Bắc thuộc các Quân khu 1, 2, 3 được rút về tuyến sau. Đại bộ phận lực lượng phòng không của các Quân khu 5, 7, 9, Quân đoàn 4 ở Campuchia và lực lượng phòng không Quân khu 4, Mặt trận 379 ở Bắc Lào rút về nước. Quân chủng Không quân đã tổ chức cơ động Sư đoàn không quân 372 về Đà Nẵng, Sư đoàn không quân 370 từ Đà Nẵng vào Phan Rang. Với sự điều chỉnh đó, chúng ta đã tạo được một thế trận phòng không liên hoàn đánh địch rộng khắp để bảo vệ vững chắc vùng trời Tổ quốc trước mọi nguy cơ tiến công hay đột nhập đường không của kẻ thù từ mọi hướng.
Có thể nói, trong thời kỳ này, Đại tướng Lê Đức Anh đã dành nhiều tình cảm sâu sắc và sự quan tâm đặc biệt đối với lực lượng phòng không - không quân. Ngay sau khi giữ trọng trách là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng đã đến thăm và làm việc với Bộ Tư lệnh và các cơ quan của Quân chủng Phòng không (tháng 3/1987). Tại đây, đồng chí đã biểu dương nỗ lực phấn đấu khắc phục khó khăn vươn lên trong huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của Quân chủng và yêu cầu Quân chủng tập trung nghiên cứu tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng ra quyết định về biên chế tổ chức xây dựng lực lượng phòng không ba thứ quân tinh, gọn cũng như chức năng, nhiệm vụ của hệ thống cơ quan phòng không lục quân các cấp phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới; thường xuyên duy trì trạng thái, chế độ sẵn sàng chiến đấu, đẩy mạnh công tác huấn luyện, diễn tập; duy trì chặt chẽ chế độ công tác bảo quản, bảo dưỡng, nâng cấp vũ khí, trang bị và bảo đảm tốt đời sống và chính sách hậu phương gia đình cho bộ đội.
Với phong cách lãnh đạo, chỉ huy sâu sát thực tế, gần gũi với cán bộ, chiến sĩ, Đại tướng Lê Đức Anh luôn quan tâm đến đơn vị làm nhiệm vụ nơi tuyến đầu. Trong chuyến thăm và kiểm tra Lữ đoàn phòng không 378 (8/1990), đồng chí đã nhắc nhở lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị quan tâm hơn nữa đến các hoạt động huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, công tác bảo đảm kỹ thuật khai thác sử dụng vũ khí hiệu quả và bảo đảm nơi ăn, ở của bộ đội.
Bên cạnh đó, Đại tướng luôn quan tâm sâu sắc đến công tác chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội. Bởi theo ông, chính sách là một mặt công tác quan trọng, kết hợp chặt chẽ với công tác tổ chức và công tác tư tưởng, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội ta. Ngày 10/9/1994, trên cương vị là Chủ tịch nước, đồng chí đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh Quy định danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, tôn vinh những bà mẹ có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Đầu năm 1995, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 7 liệt sĩ phi công đã hy sinh anh dũng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước gồm: Vũ Xuân Thiều, Nguyễn Văn Bảy, Nguyễn Phi Hùng, Ngô Đức Mai, Lê Quang Trung, Lê Minh Huân và Hà Văn Chúc. Đây là sự động viên rất lớn cho bộ đội không quân trong sự nghiệp bảo vệ vùng trời Tổ quốc.
Trên cương vị Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng quốc phòng - an ninh, thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, đồng chí luôn quan tâm các đơn vị phòng không - không quân chiến đấu, quản lý vùng trời Tổ quốc. Nhân dịp đến dự kỷ niệm 40 năm Ngày truyền thống Không quân nhân dân Việt Nam (03/3/1955 - 03/3/1995) đồng chí nhắc nhở bộ đội không quân trong sự nghiệp đổi mới vừa sẵn sàng chiến đấu cao vừa phải thực hiện tốt nhiệm vụ chiến lược quốc phòng và kinh tế. Ngày 01/5/1996, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đến thăm và kiểm tra công tác sẵn sàng chiến đấu của Trung đoàn không quân 937. Tại đây, đồng chí đã kiểm tra sở chỉ huy, khu trực ban chiến đấu và thăm khu huấn luyện bay của trung đoàn; ân cần thăm hỏi các đồng chí đang làm nhiệm vụ trên sân bay và xúc động khi thấy mọi người đều hết lòng vì nhiệm vụ trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, sinh hoạt chưa đầy đủ. Đồng chí căn dặn phải hết sức cảnh giác trước tình hình phức tạp trong khu vực, nhất là trên Biển Đông; cần cố gắng hơn nữa học tập và rèn luyện phát huy tinh thần chủ động sáng tạo, huấn luyện bay an toàn; khai thác triệt để, hiệu quả tính năng của vũ khí trang bị kỹ thuật mới, nhanh chóng nâng cao sức mạnh chiến đấu bảo vệ vững chắc vùng trời, vùng biển của Tổ quốc.
Trong tác chiến biển, đảo, để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ vùng trời Tổ quốc, vùng biển, hải đảo và thềm lục địa phía Nam, Đại tướng Lê Đức Anh ký quyết định thành lập Bộ chỉ huy phòng thủ căn cứ quân sự miền Trung, gồm: các đơn vị hải quân, phòng không, không quân đóng quân ở miền Trung và các đơn vị xây dựng căn cứ, đơn vị thông tin. Trong đó hải quân và không quân là lực lượng nòng cốt làm nhiệm vụ bảo vệ và chi viện cho quần đảo Trường Sa. Kiên quyết không để nước ngoài thực hiện được âm mưu lấn chiếm. Đồng thời, đồng chí cũng ký quyết định thành lập Bộ chỉ huy căn cứ Cam Ranh, và yêu cầu Quân chủng Phòng không nghiên cứu bố trí hoàn chỉnh hệ thống phòng không trên các đảo, bổ sung cán bộ, chiến sĩ phòng không - không quân trên đảo Trường Sa để tăng cường khả năng chiến đấu bảo vệ vùng trời, vùng biển, hải đảo Trường Sa. Đầu năm 1988, dưới sự chỉ đạo của Đại tướng, Bộ Tổng Tham mưu đã tổ chức cho các quân, binh chủng Hải quân, Không quân, Phòng không, Đặc công, Thông tin tiến hành diễn tập thực binh chi viện đảo và tiếp tục hoàn chỉnh các phương án phòng thủ và hiệp đồng của ba quân chủng với các lực lượng khi tác chiến biển, đảo.
Có thể nói, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố quốc phòng - an ninh dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng, sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Đại tướng Lê Đức Anh, lực lượng phòng không - không quân thời gian này đã từng bước được phát triển cả về số lượng và chất lượng đủ khả năng bảo vệ vững chắc vùng trời thiêng liêng của Tổ quốc. Các đơn vị phòng không được xây dựng thành 7 sư đoàn, tổ chức biên chế, trang bị của cơ quan, đơn vị, nhà trường và hệ thống đơn vị trực thuộc ngày càng đồng bộ và hoàn chỉnh trên các địa bàn chiến lược trong cả nước. Mạng ra đa được củng cố tăng cường vừa tinh gọn vừa bảo đảm thường xuyên quản lý tốt vùng trời của Tổ quốc. Bộ đội tên lửa, pháo phòng không - không quân được biên chế tinh, gọn, mạnh, bố trí có trọng điểm tại các khu vực bảo vệ mục tiêu trọng yếu; có lực lượng cơ động nhanh và có trang bị đánh đêm sẵn sàng chiến đấu bảo vệ các mục tiêu yếu địa chiến lược và tham gia chiến đấu trong chiến dịch binh chủng hợp thành, tăng cường sử dụng vũ khí công nghệ cao, trang bị hiện đại và nâng cao khả năng tác chiến điện tử để có thể hoàn thành tốt các nhiệm vụ trong điều kiện địch tập kích đường không với các quy mô khác nhau. Đồng thời, phát triển thế trận tác chiến đối không của các lực lượng phòng không - không quân hợp lý, chuyển hóa linh hoạt; lực lượng phòng không nhân dân với số lượng phù hợp, có chất lượng ngày càng cao. Đồng thời, xây dựng được lực lượng phòng không lục quân, dân quân tự vệ phòng không trên cả nước ngày càng phát triển. Từ chỗ chỉ có các tiểu đoàn, trung đoàn phòng không, đến nay ở hầu hết các quân khu, quân đoàn đều có Lữ đoàn Phòng không, 63 tỉnh, thành đều có lực lượng dân quân tự vệ phòng không, tạo thành thế trận phòng không nhân dân rộng khắp trên cả nước. Các đơn vị không quân phía Nam trở thành lực lượng xung kích trong tác chiến biển, đảo. Đến đầu năm 1997, các hoạt động bay nhiệm vụ như tuần tiễu, “Biển xa”, “Biển xa Tây Nam” thường xuyên được tổ chức, nhất là các đảo ven biển và trên quần đảo Trường Sa, đánh dấu bước phát triển mới về khả năng làm chủ bầu trời của Không quân nhân dân Việt Nam.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch nước, Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh mãi mãi là tấm gương để các thế hệ cán bộ, chiến sĩ phòng không - không quân noi gương. Chúng ta nguyện nỗ lực phấn đấu, ra sức bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, vùng biển và vùng trời thiêng liêng của Tổ quốc, tạo môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển, xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong lời kết của cuốn Hồi ký Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh - đồng chí viết: Từ thực tiễn hơn 70 năm hoạt động cách mạng của mình, tôi rút ra được đôi điều tâm huyết là phải luôn luôn rèn luyện, phấn đấu thường xuyên, liên tục, quá trình rèn luyện cần hội tụ đủ ba yếu tố. Thứ nhất: là luôn học tập không ngừng, nâng cao tri thức mọi mặt, đặc biệt là học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và lối sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thứ hai, là thường xuyên rèn luyện bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, trước cán bộ, chiến sĩ và trước cấp trên. Trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, lập trường cách mạng, cần có sự mềm dẻo, linh hoạt trong từng trường hợp cụ thể, năng động, sáng tạo để đạt hiệu quả cao nhất trong chỉ đạo thực hiện nghị quyết của Đảng và mệnh lệnh của cấp trên. Thứ ba, là luôn rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của người chiến sĩ cộng sản, có tinh thần cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, luôn đặt lợi ích cách mạng lên trên hết. Mọi suy nghĩ và hành động phải xuất phát từ lợi ích chung của Đảng, của nhân dân, của dân tộc; luôn phấn đấu vì lợi ích của nhân dân và của cả dân tộc, hết lòng thương yêu gắn bó với nhân dân, gắn bó với Tổ quốc thì dù khó khăn, gian khổ ác liệt và nguy hiểm đến mấy chúng ta cũng vượt qua được.
Ngày nay, trước những diễn biến mới của tình hình quốc tế và khu vực tiềm ẩn nhiều yếu tố mất ổn định, nguy cơ xảy ra chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên và khủng bố luôn rình rập, đặc biệt là diễn biến ở Biển Đông đang ngày càng phức tạp... đặt ra nhiệm vụ hết sức nặng nề với Quân chủng Phòng không - Không quân. Để học tập và noi gương Đại tướng Lê Đức Anh, bộ đội phòng không - không quân không ngừng nâng cao tri thức, đặc biệt là học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh; thường xuyên rèn luyện bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân. Để bảo vệ vững chắc vùng trời Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cán bộ, chiến sĩ Quân chủng Phòng không - Không quân nguyện cùng nhau đồng sức, đồng lòng, nêu cao truyền thống anh hùng cách mạng, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, phẩm chất người chiến sĩ phòng không - không quân ưu tú, đoàn kết, thống nhất, chủ động, sáng tạo, quyết tâm hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trên mặt trận đối không để bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc. Trước mắt, Quân chủng Phòng không - Không quân cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề:
Một là, cán bộ, chiến sĩ phòng không - không quân thường xuyên trau dồi bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, có tinh thần cách mạng tiến công “dám đánh, biết đánh và quyết đánh thắng”, có tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, có tư duy đổi mới sáng tạo; không ngừng học tập nâng cao bản lĩnh chiến đấu, năng lực chỉ huy, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đủ khả năng tiếp thu và làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại.
Hai là, toàn Quân chủng quán triệt sâu sắc các nghị quyết của Đảng, Quân ủy Trung ương về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tích cực điều chỉnh tổ chức biên chế theo hướng tinh, gọn, mạnh, nhất là với lực lượng không quân. Đồng thời, dịch chuyển các đơn vị hỏa lực, các nhà máy, kho tàng, xây dựng các trận địa, sân bay dã chiến bí mật, khu vực cơ động... phù hợp với thế trận tác chiến của lực lượng phòng không ba thứ quân và không quân toàn quân, phù hợp với điều kiện thực tiễn, thế bố trí chiến lược quốc phòng - an ninh có khả năng chuyển hóa linh hoạt kịp thời trong các tình huống. Đồng thời, cải tiến, mua sắm vũ khí, trang bị kỹ thuật mới hiện đại để có thể phát hiện địch từ xa; tổ chức đánh địch từ xa và vươn xa đánh vào hậu phương địch trong điều kiện địch tác chiến điện tử mạnh.
Ba là, duy trì nghiêm nền nếp, chế độ sẵn sàng chiến đấu, quản lý vùng trời, quản lý điều hành bay ở tất cả các cấp. Tổ chức nghiên cứu, nắm địch thường xuyên, nhất là các thủ đoạn và các biện pháp tác chiến khi chúng tổ chức tiến công hỏa lực hay đột nhập đường không. Tích cực triển khai nghiên cứu phát triển lý luận nghệ thuật tác chiến của lực lượng phòng không - không quân; đặc biệt trong hiệp đồng tác chiến bảo vệ biển, đảo, khi tham gia các chiến dịch với binh chủng hợp thành, để có phương hướng chuẩn bị các mặt. Đồng thời, tăng cường công tác huấn luyện diễn tập sát với yêu cầu nhiệm vụ và thực tiễn chiến đấu trong điều kiện mới để bổ sung và hoàn thiện các phương án tác chiến, tránh để bị bất ngờ bởi các tình huống trên không.
Bốn là, thường xuyên chăm lo đến công tác hậu phương gia đình, nhất là đối với các đồng chí cán bộ công tác xa nhà, làm việc trong môi trường khắc nghiệt, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Kịp thời động viên, khen thưởng các đồng chí có thành tích trong thực hiện nhiệm vụ.
Năm là, ra sức xây dựng Quân chủng Phòng không - Không quân vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; đẩy mạnh chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, phi chính trị hóa quân đội và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng Quân chủng Phòng không - Không quân vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vững chắc vùng trời, vùng biển, hải đảo Tổ quốc.
Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Đại tướng Lê Đức Anh (1920-2020), chúng ta tôn vinh những cống hiến to lớn của đồng chí đối với cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng quân đội, sự nghiệp bảo vệ bầu trời Tổ quốc. Noi gương Đại tướng Lê Đức Anh, mỗi cán bộ, chiến sĩ phòng không - không quân ra sức học tập, rèn luyện, đem hết sức lực và trí tuệ để xây dựng Quân chủng Phòng không - Không quân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”, tạo sức mạnh tổng hợp, nâng cao sức mạnh và khả năng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vững chắc vùng trời chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Thiếu tướng VŨ VĂN KHA
Trải qua 30 năm chiến tranh cách mạng (1945 - 1975) và hai cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Tây Nam, phía Bắc của Tổ quốc đã khẳng định Đại tướng Lê Đức Anh là nhà lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược, nhà chỉ huy quân sự tài ba, vị tướng xông pha nơi chiến trường với những quyết định đúng đắn, táo bạo, sát thực tiễn.
Năm 1987, năm đầu tiên quân và dân ta thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, cũng là năm đầu tiên Bộ đội Biên phòng thực hiện Quyết định số 419/QĐ-QP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chuyển đổi cơ chế chỉ huy theo 3 cấp (Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng; ban chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố, đặc khu; đồn biên phòng, các đơn vị cơ động, các hải đoàn) trong bối cảnh các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh phá hoại nhiều mặt với nhiều phương thức,
thủ đoạn mới tinh vi và thâm độc hơn. Trên tuyến biên giới phía Bắc, đối phương vẫn đóng và chốt giữ nhiều điểm cao, sâu trong lãnh thổ nước ta, thường xuyên pháo kích và gây xung đột trên biên giới (riêng hướng Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên, địch vẫn thường xuyên duy trì bố trí 3 sư đoàn chủ lực thuộc Tập đoàn quân số 27; củng cố và triển khai 5 sư đoàn biên phòng trên toàn tuyến), đưa lực lượng vũ trang xâm nhập tuần tra, phục kích, tập kích sang đất ta, tăng cường hoạt động gián điệp, tình báo và tiến hành chiến tranh phá hoại nhiều mặt. Bên cạnh các hoạt động vũ trang, Trung Quốc còn tăng cường các thủ đoạn chiến tranh tâm lý, tuyên truyền, xuyên tạc, kích động nhằm làm giảm lòng tin của nhân dân ta đối với Đảng và Nhà nước. Tình hình an ninh, trật tự ở khu vực biên giới phía Bắc diễn biến phức tạp.
Trước tình hình đó, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh trực tiếp chỉ đạo các đơn vị tập trung mọi nguồn lực chăm lo đời sống bộ đội, ổn định tư tưởng, xác định quyết tâm bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc; cùng Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước định hướng, chỉ đạo vận dụng đúng đắn đường lối chính trị, quân sự của Đảng, từng bước xây dựng kế sách giữ nước một cách toàn diện, tập trung củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; đã cùng xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, lực lượng vũ trang ba thứ quân; chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế.
Sau khi được bổ nhiệm Tổng Tham mưu trưởng, rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã đi thị sát dọc vùng biên giới các tỉnh phía Bắc, trực tiếp kiểm tra, nắm tình hình tại các khu vực trọng yếu, trong đó có mặt trận Vị Xuyên (Hà Giang) và báo cáo đề xuất với Bộ Chính trị, lùi quân chủ lực về tuyến sau, tập trung phòng ngự chiến lược để giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc, góp phần giảm căng thẳng, đối đầu, kết thúc cuộc chiến tranh, từ đó định ra chiến lược và sách lược của công tác đối ngoại biên giới. Đề xuất của Đại tướng Lê Đức Anh được Bộ Chính trị nhất trí thông qua với chủ trương điều chỉnh chiến lược, đưa quân đội về tuyến sau, tăng cường lực lượng bộ đội biên phòng lên phía trước, bố trí bổ sung quân số, thành lập ở mỗi xã biên giới một đồn biên phòng; tổ chức xây dựng các khu vực phòng thủ vững chắc dọc tuyến biên giới, sẵn sàng đối phó với chiến tranh xâm lược và chống các hoạt động tình báo, gián điệp, biệt kích, thám báo, chiến tranh tâm lý, chiến tranh phá hoại. Giai đoạn này, nhiệm vụ chủ yếu của bộ đội biên phòng là xây dựng thế phòng thủ vững chắc kết hợp quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia, đấu tranh ngăn chặn các hoạt động phá hoại và chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng đã chỉ đạo bộ chỉ huy bộ đội biên phòng các tỉnh phía Bắc tiếp tục duy trì quản lý biên giới theo hiện trạng (Hiệp ước Pháp - Thanh năm 1885), chủ động xây dựng kế hoạch đấu tranh với các hoạt động vi phạm chủ quyền lãnh thổ nước ta của địch; thay đổi phương thức hoạt động linh hoạt, phù hợp với tình hình trên biên giới, tập trung lực lượng, phương tiện chuyển hoạt động lên phía trước, tổ chức thêm 74 đồn biên phòng (mỗi xã một đồn), nâng tổng số lên 146 đồn, 25 huyện biên phòng để thay thế các đơn vị quân chủ lực; tăng cường tuần tra, mật phục thay cho bố trí chốt điểm cao; tăng cường tuần tra, kiểm soát (lưu động, bất ngờ, có trọng điểm); xây dựng đài quan sát, nắm chắc tình hình nội, ngoại biên, hoạt động quân sự và các hoạt động vi phạm chủ quyền lãnh thổ của phía Trung Quốc; lập hồ sơ các điểm chốt trên biên giới, các điểm lấn chiếm (xâm canh, xâm cư); kiên quyết ngăn chặn, đấu tranh chống âm mưu đẩy dân di cư trở về hoặc lập làng, bản lấn chiếm biên giới. Các đơn vị bộ đội biên phòng khẩn trương xây dựng và bổ sung phương án chiến đấu bảo vệ đồn, trạm, bảo vệ địa bàn; tham gia tổ chức diễn tập phương án cụm làng xã chiến đấu gắn với diễn tập chiến đấu phòng thủ biên giới; triển khai xây dựng và sử dụng hiệu quả các công trình phòng thủ biên giới không để bị tập kích, phục kích bất ngờ; có phương án chiến đấu đánh biệt kích, thám báo xâm nhập, tập kích; xây dựng kế hoạch truy lùng gián điệp, biệt kích xâm nhập qua biên giới, đấu tranh ngăn chặn hoạt động chiến tranh tâm lý và chủ động đối phó các tình huống xảy ra trên biên giới.
Thực hiện chủ trương từng bước bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc của Đảng và Nhà nước ta, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng đã quán triệt, chỉ đạo thực hiện 10 đối sách biên phòng, chuyển phương thức hoạt động ra phía trước bảo vệ vành đai biên giới, tập trung quản lý, bảo vệ biên giới chặt chẽ, có chiều sâu, hạn chế xung đột, giảm các hoạt động vũ trang; từng bước làm cho tình hình quan hệ hai bên biên giới giảm căng thẳng, đối đầu; chuyển hướng sang đấu tranh chính trị, đấu tranh nghiệp vụ chống các hoạt động gián điệp, tình báo, chiến tranh tâm lý, chủ động đối phó với âm mưu phá hoại biên giới của địch, không để chúng xâm nhập gây thiệt hại cho nhân dân. Công tác kiểm tra, kiểm soát biên giới được đẩy mạnh bằng các biện pháp công khai và bí mật nên đã từng bước ngăn chặn có hiệu quả hoạt động xâm nhập của lực lượng vũ trang đối phương. Bộ đội Biên phòng đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang địa phương chiến đấu hàng chục trận chống thám báo địch xâm nhập tập kích, phục kích và phá hoại, tiêu diệt 112 tên, làm bị thương nhiều tên, phá hủy 2 trận địa cối 12 ly của địch, thu nhiều vũ khí, đạn dược. Mặc dù tình hình biên giới diễn biến phức tạp, hoạt động chống phá trên các lĩnh vực của địch liên tục diễn ra (vi phạm chủ quyền, xâm nhập, tập kích, đẩy dân di cư trở về, chiến tranh tâm lý...) nhưng với sự chỉ đạo sâu sát của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng đã hoàn thành nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia.
Cuối tháng 02/1987, tại “Nhà Con Rồng” - Sở Chỉ huy Bộ Quốc phòng diễn ra cuộc họp “Bộ Chính trị hẹp”. Đại tướng Lê Đức Anh báo cáo toàn bộ tình hình biên giới phía Bắc và đề xuất thực hiện “phá thế bao vây cấm vận của Mỹ và bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, tìm cách gia nhập ASEAN”. Bằng những dẫn chứng thực tế, những phân tích đánh giá sát đúng, những đề xuất táo bạo và sắc sảo của Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ Chính trị đã nhất trí thông qua. Nội dung báo cáo tập trung giải quyết tình hình ở biên giới phía Bắc, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Đồng thời, từ thực tiễn quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia định ra chiến lược và sách lược của công tác đối ngoại, mở rộng quan hệ với các nước ASEAN và từng bước gia nhập tổ chức này, đưa nước ta từng bước hội nhập thế giới, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Cuối năm 1987, tình hình trên các tuyến biên giới có những diễn biến mới. Trên tuyến biên giới phía Bắc, tình trạng đối đầu về quân sự giảm, nhưng đối phương tiếp tục tăng cường các hoạt động lấn chiếm biên giới, xâm nhập vũ trang, phục kích bắt cóc cán bộ và nhân dân, chiến tranh tâm lý... Trước yêu cầu giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới trong tình hình mới, ngày 30/11/1987, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW, quyết định chuyển giao bộ đội biên phòng sang trực thuộc Bộ Nội vụ.
Đại tướng Lê Đức Anh, lúc này với vai trò Ủy viên Bộ Chính trị đã tham mưu cho Đảng, Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo bộ đội biên phòng tổ chức quản lý, bảo vệ biên giới theo quan điểm: “Cách tốt nhất giữ vững an ninh biên giới là đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, nâng cao dân trí, xây dựng một nếp sống văn hóa lành mạnh, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, sống hòa hợp hữu nghị với đồng bào dân tộc ở phía bên kia biên giới. Muốn làm được như thế thì lực lượng biên phòng phải làm nòng cốt, cùng dân tham gia sản xuất, hướng dẫn giúp đỡ dân ra làm ăn, sinh sống sát đường biên. Phải tích cực và gương mẫu trước dân trong mọi hoạt động..., phải làm sao cho vùng biên giới trở nên sầm uất, đông vui, đường sá giao thông thuận lợi, giao lưu kinh tế, văn hóa dễ dàng”. Để giữ vững an ninh biên giới, ngoài chú ý phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội còn phải “giáo dục, phổ biến cho dân thấy cần phải tôn trọng đường biên giới, không được sang xâm canh, xâm cư trên đất bạn, giữ vững mối quan hệ tình nghĩa láng giềng thân thiện. Hoàn cảnh kinh tế của đồng bào bên nước bạn cũng có thể có những khó khăn, trong điều kiện có thể, ta nên sẵn lòng hỗ trợ giúp bạn, nhất là những nhu yếu phẩm, gạo, muối, thuốc chữa bệnh... Tạo mối quan hệ tôn trọng và giúp đỡ nhau thì sẽ ngăn chặn được âm mưu phá hoại của kẻ địch, giữ vững an ninh biên giới, bảo đảm ổn định chính trị xã hội, phát triển kinh tế, nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân”2. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chủ động phối hợp với các lực lượng vũ trang phát huy sức mạnh tổng hợp và hiệu lực của cơ chế chỉ huy mới, đổi mới tư duy trong công tác biên phòng và xây dựng lực lượng vững mạnh về mọi mặt, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; góp phần đánh bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt, chiến tranh lấn chiếm biên giới và các hoạt động phá hoại của đối phương.
Cuối năm 1988 đầu năm 1989, tình hình tuyến biên giới phía Bắc giảm dần đối đầu về quân sự. Những tranh chấp, bất đồng trên biên giới được lực lượng bảo vệ biên giới hai bên hiệp thương giải quyết, báo cáo lên Chính phủ hai nước, tránh xung đột căng thẳng; tiếp tục phối hợp xây dựng hiệp đồng để bảo vệ an ninh biên giới và có kế hoạch hướng dẫn thực hiện. Thực hiện Thông báo số 118/TB-TW ngày 19/11/1988 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc cho phép cư dân hai bên biên giới Việt Nam - Trung Quốc được qua lại thăm thân và mua bán, trao đổi hàng hóa thiết yếu phục vụ cho đời sống và sản xuất; từ đó tạo cơ sở bước đầu thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta để từng bước bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Các đơn vị bộ đội biên phòng khẩn trương xây dựng kế hoạch khảo sát đơn phương tuyến biên giới phía Bắc, hoàn chỉnh tài liệu về đường biên, mốc quốc giới trên bộ phục vụ đàm phán và hoạch định biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Bộ đội biên phòng đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo những giải pháp của Đại tướng Lê Đức Anh về bảo vệ biên giới trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Theo chức trách, nhiệm vụ được giao, các đơn vị bộ đội biên phòng đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương chiến đấu bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc nếu đối phương xâm chiếm đất đai; đồng thời chú trọng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an toàn đường biên, mốc giới, vùng biển; bảo vệ an ninh trật tự ở khu vực biên giới, bảo đảm cho nhân dân làm ăn, sinh hoạt bình thường, ngăn chặn vượt biên trái phép, xâm canh, xâm cư và các hành vi lấn chiếm khác.
Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 14/10/1991, Bộ Nội vụ ra Chỉ thị số 08/CT-BNV về “Công tác an ninh, trật tự thực hiện chủ trương bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc”. Đối với nhiệm vụ biên phòng, Bộ Nội vụ giao Bộ Tư lệnh bộ đội biên phòng chủ trì phối hợp với các lực lượng liên quan xây dựng và thực hiện quy chế hiệp đồng bảo vệ an ninh biên giới, xây dựng phong trào quần chúng, củng cố cơ sở các xã biên giới; tăng cường các biện pháp quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia (bố trí lại lực lượng, phương tiện ở các cửa khẩu, tổ chức quản lý xuất nhập cảnh, xuất nhập biên theo đúng quy định hiện hành và thỏa thuận giữa hai nước).
Sau hai năm thực hiện Thông báo số 118/TB-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng và qua nhiều lần đàm phán các cấp, để có cơ sở cho công tác quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia phù hợp với xu thế chung của hòa bình, hợp tác và phát triển vì lợi ích của nhân dân Việt Nam - Trung Quốc và sự ổn định khu vực và quốc tế, ngày 07/11/1991, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ký kết Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc trên vùng biên giới hai nước, gồm 7 chương, 14 điều. Hiệp định tạm thời quy định việc thực hiện và phối hợp giải quyết những vấn đề nảy sinh trên biên giới trên cơ sở tôn trọng độc lập của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi và cùng tồn tại hòa bình. Việc hai bên ký Hiệp định tạm thời đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền và góp phần tăng cường quan hệ giao lưu buôn bán ở vùng biên giới, củng cố quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước.
Lịch sử Việt Nam đã bước sang trang mới, những công lao to lớn của Đại tướng Lê Đức Anh được Tổ quốc, nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận. Đại tướng Lê Đức Anh đã để lại trong lòng nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ hình ảnh một vị tướng tài năng về quân sự, giỏi về ngoại giao, luôn thẳng thắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sống trung thực, giản dị, sâu sắc, nhân văn trong cuộc sống, giàu lòng vị tha, được nhiều người vô cùng yêu mến. Những quan điểm về bảo vệ biên giới của Đại tướng cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn, được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ bộ đội biên phòng ghi nhớ, trân trọng và làm theo trong thực hiện quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia.
Thiếu tướng LÊ ĐỨC THÁI
Hơn 80 năm hoạt động cách mạng, trong đó có gần 50 năm phục vụ trong quân đội, Đại tướng Lê Đức Anh trải qua nhiều chức vụ, chỉ huy từ đại đội, chi đội, trung đoàn đến Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trực tiếp tham gia chiến đấu chống Pháp, chống Mỹ, làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Cuộc đời ông gắn liền với những chiến thắng, những bước ngoặt thăng trầm của lịch sử, của vận mệnh dân tộc. Đại tướng đã có nhiều cống hiến to lớn đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, trong đó có sự phát triển và trưởng thành của Quân chủng Hải quân.
1. Tham mưu, đề xuất với Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh xây dựng lực lượng Hải quân trong những năm đầu thành lập
Sau ngày miền Bắc được giải phóng, công tác quản lý vùng biển và bờ biển trở thành nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược cả về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh. Ngày 07/5/1955, Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh ban hành Nghị định số 284/NĐ-A thành lập Cục Phòng thủ bờ bể trực thuộc Bộ có nhiệm vụ: “Giúp Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo bộ đội phòng thủ bờ biển; đào tạo cán bộ, nhân viên, thủy thủ; sản xuất các dụng cụ, phương tiện về thủy quân; xây dựng các thủy đội phòng thủ bờ biển rồi chuyển giao cho các liên khu (sau này gọi là quân khu)”. Triển khai thực hiện Nghị định số 284/NĐ-A của Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh, trên cương vị Cục phó Cục Tác chiến, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng với Thủ trưởng Cục chỉ đạo cơ quan hướng dẫn Cục Phòng thủ bờ bể xây dựng kế hoạch tác chiến trên vùng biển Đông Bắc, Hải Phòng và các phương án tuần tra, tác chiến trên sông biển, góp phần giữ vững trật tự, trị an vùng duyên hải, chống hải phỉ, biệt kích, gián điệp, đặc vụ..., bảo đảm cho các ngành kinh tế của Nhà nước, địa phương và nhân dân hoạt động, làm ăn, sinh sống trên biển an toàn.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (khóa II) phê chuẩn Kế hoạch xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng 5 năm (1955 - 1959) do Bộ Tổng Tham mưu chủ trì soạn thảo dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng Quân uỷ. Quán triệt, triển khai kế hoạch xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, đồng chí Lê Đức Anh với vai trò là Cục phó thứ nhất Cục Quân lực đã tham mưu đề xuất Bộ Tổng Tham mưu đề nghị Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh ra Nghị định số 320/NĐ (ngày 24/01/1959) thành lập Cục Hải quân trên cơ sở Cục Phòng thủ bờ bể trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu. Nhiệm vụ của Cục Hải quân là: “Giúp Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh nghiên cứu, thực hiện kế hoạch xây dựng, chỉ huy lực lượng hải quân, quản lý các quân cảng, bảo vệ hải phận miền Bắc trong thời bình, phối hợp với các binh chủng và lực lượng vũ trang địa phương chiến đấu trong thời chiến”. Đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo cơ quan nghiên cứu, tham mưu đề xuất Bộ Tổng Tham mưu quyết định ban hành tổ chức, biên chế Cục Hải quân gồm 5 cơ quan (Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, Công trình, Đo đạc biển) và 5 đơn vị (Trường Huấn luyện Hải quân, Tiểu đoàn 130, Tiểu đoàn 135, Tiểu đoàn công trình 145, Xưởng 46), đồng thời điều một số thủy đội của các tỉnh về Cục Hải quân; chỉ đạo Cục Hải quân lựa chọn một số đồng chí có chất lượng chính trị, sức khỏe và ý chí chiến đấu tốt gửi đi đào tạo cán bộ, thủy thủ tại nước ngoài.
Trong những năm 1961 - 1963, Mỹ - Diệm đẩy mạnh các hoạt động phá hoại miền Bắc bằng cả đường không, đường bộ và đường biển. Xác định rõ tầm quan trọng của biển, đảo và vai trò của lực lượng Hải quân, trên cương vị Cục trưởng Cục Quân lực, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng chí Lê Đức Anh đã tham mưu đề xuất Bộ Tổng Tham mưu đề nghị Đảng, Nhà nước phát triển lực lượng Hải quân; phát huy nội lực và tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa để xây dựng lực lượng, cơ sở vật chất, hiện đại hóa vũ khí trang bị, tàu thuyền, đào tạo cán bộ, nhân viên kỹ thuật. Trong ba năm (1961 - 1963), lực lượng Hải quân đã có bước phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Các đơn vị tàu chiến đấu mặt nước đã ra đời; lực lượng pháo binh cơ động bờ biển được triển khai cùng nhiều căn cứ, xưởng trạm bảo đảm; hệ thống đài quan sát với trang bị, khí tài khá hiện đại, đánh dấu sự hình thành các lực lượng chiến đấu mới của Hải quân. Đến ngày 03/01/1964, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 01/QP đổi tên Cục Hải quân thành Bộ Tư lệnh Hải quân, từ đây Hải quân chính thức trở thành một Quân chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam, sẵn sàng tổ chức hiệp đồng tác chiến với các lực lượng vũ trang, nâng cao khả năng bảo vệ bờ biển, vùng biển, đảo của Tổ quốc, góp phần bảo vệ vững chắc miền Bắc và chi viện cho chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ giành thắng lợi.
2. Tham mưu cho Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh đề xuất với Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương tổ chức tuyến vận tải chiến lược trên biển chi viện chiến trường miền Nam
Trước yêu cầu cấp bách của chiến trường Nam Bộ và để vận chuyển lực lượng, vũ khí trang bị vào chi viện những nơi mà đường trên bộ chưa vươn tới được, ngày 23/10/1961, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 97/QĐ thành lập Đoàn vận tải quân sự đường biển 759 có nhiệm vụ mở đường trên biển vận chuyển chi viện cho quân, dân miền Nam. Triển khai quyết định của Bộ Quốc phòng, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo Cục Quân lực tham mưu đề xuất Bộ Tổng Tham mưu ban hành quyết định tổ chức, biên chế, phối hợp cùng các cơ quan trong và ngoài quân đội khẩn trương ổn định tổ chức, biên chế, chuẩn bị tàu, thuyền, phương tiện, bến bãi cho Đoàn 759 vận chuyển vũ khí trang bị và lực lượng chi viện cho chiến trường miền Nam.
Bằng những phương tiện thô sơ (thuyền gỗ gắn máy) là chủ yếu, cán bộ, chiến sĩ của Đoàn 759 đã dũng cảm, mưu trí, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, vượt qua sự bao vây của địch, lập nên những chiến công xuất sắc. Đoàn đã tổ chức 28 chuyến tàu, vận chuyển được 1.318 tấn vũ khí chi viện chiến trường, góp phần cùng quân, dân miền Nam tạo nên chiến thắng Ấp Bắc, đánh bại cuộc càn quét “Sóng tình thương”, chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Tháng 8/1963, theo đề xuất của Bộ Tổng Tham mưu, Thường trực Quân ủy Trung ương quyết định chuyển Đoàn 759 từ Bộ Tổng Tham mưu về trực thuộc Cục Hải quân. Thực hiện quyết định trên, ngày 10/10/1963, Bộ Tổng Tham mưu triệu tập cuộc họp để tổ chức triển khai kế hoạch chuyển giao Đoàn 759 do Phó Tổng Tham mưu trưởng Lê Đức Anh chủ trì. Đồng chí Lê Đức Anh kết luận: “Đảng ủy và Thủ trưởng Cục Hải quân có trách nhiệm lãnh đạo và chỉ huy Đoàn 759 toàn diện về mọi mặt, riêng việc chỉ huy hành quân và liên hệ với chiến trường vẫn do Bộ Tổng Tham mưu chịu trách nhiệm; Tổng cục Chính trị chỉ đạo về công tác đảng, công tác chính trị; Tổng cục Hậu cần chỉ đạo bảo đảm về công tác hậu cần. Các mặt công tác đảng, công tác chính trị, huấn luyện, bảo đảm kỹ thuật, các Tổng cục và Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Đoàn 759 thông qua Thường vụ Đảng ủy và Thủ trưởng Cục Hải quân”.
Ngày 29/01/1964, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 30/QĐ đổi phiên hiệu Đoàn 759 thành Đoàn 125 trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân. Nhiệm vụ của Đoàn 125 chủ yếu là chở vũ khí vào các tỉnh Nam Bộ; nghiên cứu mở tiếp các bến ở cực Nam Trung Bộ và Khu 5 khi thời cơ thuận lợi. Phương châm vận chuyển là nhanh, nhiều, táo bạo, thận trọng, bí mật và an toàn. Năm 1969, khi được điều về làm Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí Lê Đức Anh thường xuyên chỉ đạo Đoàn 962 và lực lượng bảo vệ các bến, bãi phải luôn chủ động nắm chắc tình hình hoạt động của địch trên biển, có nhiều phương án dẫn tàu vào bến bảo đảm bí mật, an toàn, bốc dỡ hàng nhanh cho tàu xuất bến; sẵn sàng đánh địch bảo vệ tàu, vũ khí và bí mật của con đường vận chuyển vũ khí cho chiến trường. Với tinh thần mưu trí, dũng cảm, táo bạo, tất cả vì miền Nam ruột thịt, trong 14 năm làm nhiệm vụ trên tuyến đường vận tải quân sự chiến lược trên biển (1961 - 1975), Đoàn 125 Hải quân đã huy động 1.879 lượt tàu thuyền, vận chuyển hơn 150 nghìn tấn vũ khí trang bị kỹ thuật, thuốc chữa bệnh và hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ từ miền Bắc vào miền Nam. Lực lượng và vũ khí chi viện từ miền Bắc theo những con tàu “Không số” đã cùng quân, dân miền Nam chiến đấu hàng trăm trận với máy bay, tàu chiến và các lực lượng của địch góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
3. Chỉ đạo xây dựng và phát triển lực lượng Hải quân đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc trong tình hình mới
Năm 1987, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trong chỉ đạo, điều chỉnh thế bố trí chiến lược những năm 1987 - 1989, Đại tướng Lê Đức Anh đặc biệt quan tâm chỉ đạo lực lượng Hải quân tăng cường khả năng phòng thủ bờ biển, hải đảo và thềm lục địa Tổ quốc. Nắm chắc tình hình trong nước và quốc tế, với tầm nhìn của một vị tướng dạn dày kinh nghiệm, cuối tháng 02/1987, Đại tướng Lê Đức Anh chỉ đạo Quân chủng Hải quân củng cố và tăng cường lực lượng phòng thủ Trường Sa. Cuối tháng 3/1987, Bộ trưởng xuống Hải Phòng làm việc với Bộ Tư lệnh Hải quân và chỉ thị rõ: “Phải thấy hết vị trí chiến lược của Biển Đông. Trước tiên phải lo phòng thủ Trường Sa, nơi có thể xảy ra xung đột. Ta phải hành động kiên quyết để bảo vệ các đảo nổi và đảo chìm. Các đồng chí suy nghĩ mọi cách để xây dựng Hải quân hùng mạnh”. Ngày 10/6/1987, Đại tướng Lê Đức Anh vào Cam Ranh tiếp tục làm việc với Bộ Tư lệnh Hải quân và Vùng 4, Đại tướng chỉ đạo: “Ta phải nỗ lực cao nhất để bảo vệ quần đảo Trường Sa, tăng cường khả năng phòng thủ tại chỗ, giữ vững các đảo, coi trọng việc chi viện từ bờ ra, phải làm cho hết sức, làm cho ngày nay và cho thế hệ mai sau”2.
Ngày 06/11/1987, Bộ Quốc phòng thông qua Kế hoạch đóng giữ các bãi cạn do Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Hải quân kiến nghị. Cùng ngày, Đại tướng Lê Đức Anh ký ban hành Mệnh lệnh số 1679/ML-QP giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân: “Đưa lực lượng ra đóng giữ các bãi đá cạn chưa có người, không chờ xin chỉ thị của cấp trên; trước mắt đưa ngay lực lượng ra đóng giữ Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ...”.
Chấp hành mệnh lệnh của Đại tướng, ngày 15/11/1987, Bộ Tư lệnh Quân chủng chỉ đạo Vùng 4 Hải quân: Khẩn trương đưa lực lượng ra chốt giữ ngay bãi đá Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ; sử dụng tàu chiến đấu khi cần thiết để tăng cường; yêu cầu các tàu đi làm nhiệm vụ phải được trang bị vũ khí để tự vệ. Tư lệnh Vùng 4 Hải quân đã lệnh cho các tàu chở quân đi khảo sát, đóng giữ các bãi đá Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ... nhưng do ảnh hưởng cơn bão số 6, gió to sóng lớn, kế hoạch đóng giữ chưa thực hiện được.
Trước tình hình nước ngoài cho quân chiếm đóng trái phép bãi đá Chữ Thập và âm mưu chiếm đóng trái phép một số đảo, bãi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa, chiều 13/02/1988, Đại tướng Lê Đức Anh khi làm việc với Tư lệnh Hải quân đã giao cho Tư lệnh Hải quân kiêm nhiệm Tư lệnh Vùng 4 Hải quân. Ngày 17/02/1988, Bộ Tư lệnh Hải quân di chuyển vào Sở chỉ huy Vùng 4 ở Cam Ranh để trực tiếp chỉ huy các đơn vị. Ngay sau đó Đại tướng báo cáo lên Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng và Bộ Ngoại giao đề nghị giải quyết một số vấn đề cấp bách như tàu vận chuyển hàng ra Trường Sa, cấp kinh phí, vật tư, trang bị cho Hải quân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ biển, đảo của Tổ quốc.
Ngày 14/3/1988, khi các tàu vận tải và lực lượng công binh Hải quân Việt Nam đang tổ chức đóng các bãi đá Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao thì Trung Quốc điều các tàu chiến đến khu vực này uy hiếp lực lượng của ta, bất ngờ cho quân đổ bộ lên Gạc Ma gây hấn nhổ cờ của Việt Nam, đồng thời, họ đã cho chiến hạm nã pháo vào các tàu vận tải HQ604, HQ605, HQ505 và lực lượng của Hải quân ta đang làm nhiệm vụ xây dựng trên đảo, làm cho cả 3 tàu bị chìm, nhiều cán bộ, chiến sĩ bị thương và hy sinh. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt trong thế tương quan so sánh lực lượng không ngang sức, nhưng cán bộ, chiến sĩ Hải quân ta đã kiên quyết trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền, giữ được Cô Lin và Len Đao.
Trước tình hình phức tạp trên khu vực quần đảo Trường Sa, để “thị sát” tình hình và kịp thời động viên cán bộ, chiến sĩ Trường Sa tiếp tục giữ vững ý chí chiến đấu, sẵn sàng hy sinh quên mình bảo vệ chủ quyền, từ ngày 04 đến ngày 09/5/1988, Đại tướng Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã có chuyến thăm cán bộ, chiến sĩ Trường Sa. Tại “quần đảo bão tố” này, Đại tướng đã dự Lễ kỷ niệm 33 năm Ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam (07/5/1955 - 07/5/1988). Phát biểu tại buổi lễ, Đại tướng khẳng định: “Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thật sự trên thực tế, phù hợp với pháp lý quốc tế, với đạo lý quốc tế. Từ xưa đến nay, dân tộc Việt Nam dù chế độ xã hội khác nhau qua các thời đại, xu hướng chính trị khác nhau, tôn giáo khác nhau, đàn ông cũng như đàn bà, già cũng như trẻ đều một lòng, một dạ kiên trì và kiên quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Chúng ta nhớ mãi không bao giờ quên tình sâu nghĩa nặng giữa nhân dân hai nước Việt - Trung, kiên trì phấn đấu để khôi phục tình hữu nghị giữa hai nước, nhưng chúng ta nhất quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc chúng ta”.
Như thêm một lần nữa khẳng định và nhấn mạnh quần đảo Trường Sa là của Việt Nam bất khả xâm phạm, Đại tướng Lê Đức Anh rưng rưng xúc động nói: “Hôm nay kỷ niệm ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam trên đảo chính của quần đảo Trường Sa, có mặt đông đủ đại diện các tổng cục, các quân chủng, đại diện tỉnh Phú Khánh, chúng ta xin thề trước hương hồn của tổ tiên ta, trước hương hồn của cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau, quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta; bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta”.
Sau Lễ kỷ niệm, Đại tướng Lê Đức Anh đã đi thăm từng nơi ăn, ngủ, huấn luyện của cán bộ, chiến sĩ. Đến đâu, Đại tướng cũng “thị sát” kỹ để xem bộ đội Trường Sa còn khó khăn gì, đời sống ra sao, phòng thủ vững chắc thế nào... Đi tận nơi, nhìn tận mắt và trải nghiệm những khó khăn, gian khổ của các chiến sĩ ở quần đảo Trường Sa, Đại tướng chỉ đạo Quân chủng Hải quân khẩn trương xây dựng lại và xây mới nhà, bố trí lực lượng trên các đảo nổi, đảo chìm thuộc quần đảo Trường Sa; đồng thời chỉ đạo các quân chủng, binh chủng xây dựng kế hoạch, tổ chức diễn tập thực binh chi viện đảo và hoàn chỉnh các phương án phòng thủ biển, đảo.
Sau khi chiếm đóng trái phép một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, Trung Quốc nhiều lần cho tàu xuống thăm dò và có những hành động thể hiện mưu đồ lấn chiếm thềm lục địa phía Nam của nước ta (DK1). Trước tình hình đó Đại tướng đã tham mưu, đề xuất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc tổ chức lực lượng bảo vệ khu vực DK1. Chấp hành Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng và của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về bảo vệ công trình dầu khí, ngày 20/7/1988, Đại tướng ký ban hành Mệnh lệnh số 225/ML-QP giao nhiệm vụ cho Tư lệnh Quân khu 7, Tư lệnh các quân chủng Hải quân, Không quân, Phòng không theo chức năng của mình đều có nhiệm vụ bảo vệ công trình dầu khí (cả trên biển và trên đất liền) ở thềm lục địa phía Nam; giao nhiệm vụ cho Lữ đoàn 171 Hải quân nhanh chóng tổ chức lực lượng tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ khu vực các công trình dầu khí ở thềm lục địa phía Nam.
Đại tướng Lê Đức Anh là vị tướng tài ba, có tầm nhìn chiến lược và chỉ đạo sắc bén. Đại tướng đã tham mưu, đề xuất Đảng ủy Quân sự Trung ương ban hành Nghị quyết số 253/NQ-ĐUQSTW ngày 19/11/1988, về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa, khu vực biển và thềm lục địa phía Nam, trong đó xác định: Nhiệm vụ của toàn quân cũng như của cả nước là kiên quyết và kiên trì bảo vệ quần đảo Trường Sa, giữ thế đứng của ta ở quần đảo Trường Sa và Biển Đông. Lực lượng vũ trang phải coi đây là nhiệm vụ có tầm quan trọng chiến lược trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,... Lực lượng Hải quân cần tập trung cao độ các lực lượng và phương tiện của mình, chủ trì hiệp đồng với các quân chủng, binh chủng, quân khu, quân đoàn và các ngành, các địa phương, nỗ lực thực hiện nhiệm vụ trọng tâm số 1 là bảo vệ quần đảo Trường Sa, tăng cường sự có mặt và bảo vệ khu vực biển và thềm lục địa phía Nam. Thực hiện chỉ đạo của Đại tướng, đồng chí Phó Đô đốc Giáp Văn Cương - Tư lệnh Hải quân đã trực tiếp giao nhiệm vụ cho Lữ đoàn 171 và Vùng 4 Hải quân tập trung toàn bộ trí tuệ và sức lực của cán bộ, chiến sĩ, huy động các lực lượng, phương tiện tàu, thuyền quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đóng giữ, thăm dò, khảo sát, bảo vệ trên khu vực thềm lục địa phía Nam để phục vụ kịp thời cho việc xây dựng cụm Kinh tế - Khoa học - Dịch vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển và xây dựng đất nước.
Nhờ tầm nhìn chiến lược và sự chỉ đạo đúng đắn, quyết liệt của Đại tướng Lê Đức Anh, chúng ta đã từng bước mở rộng, củng cố được thế đứng vững chắc ở quần đảo Trường Sa và thềm lục địa phía Nam như ngày nay, tạo lá chắn phòng thủ từ xa phía Đông của Tổ quốc; góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích quốc gia, môi trường hòa bình trên biển để đất nước phát triển. Sau này, trên cương vị Chủ tịch nước, thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và khi đã về nghỉ hưu, Đại tướng Lê Đức Anh vẫn luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, theo dõi sự phát triển, trưởng thành của Quân chủng Hải quân.
Nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay đã bước sang một giai đoạn mới ngày càng khó khăn và phức tạp hơn. Tình hình quốc tế, khu vực diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó lường, xuất hiện những nhân tố mới dẫn đến nguy cơ gây mất ổn định trên Biển Đông. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo giữa các nước trong khu vực diễn ra gay gắt, tiềm ẩn nguy cơ xung đột, mất ổn định. Các thế lực thù địch ra sức lợi dụng vấn đề biển, đảo chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ... Do vậy, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Hải quân luôn kế thừa, phát huy, vận dụng những kinh nghiệm của các thế hệ lãnh đạo, chỉ huy quân đội đi trước nói chung, của Đại tướng Lê Đức Anh nói riêng trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo, xây dựng Hải quân nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ làm nòng cốt trong bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân dành cho Quân chủng Hải quân.
Chuẩn đô đốc TRẦN THANH NGHIÊM
Năm 1987, tình hình khu vực quần đảo Trường Sa xuất hiện những diễn biến phức tạp. Nước ngoài thường xuyên cho các tàu khảo sát đo đạc biển, tàu thăm dò dầu khí, tàu quân sự, tàu đánh cá, tàu vận tải đến hoạt động, tranh chấp ngư trường. Trước âm mưu và hành động xâm phạm chủ quyền lãnh hải của Việt Nam, Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng chủ trương phát huy cao nhất mọi lực lượng của cả nước để xây dựng củng cố trận địa, hệ thống phòng thủ trên các đảo, bổ sung vật chất, vũ khí, trang bị cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ chủ quyền vùng biển, đảo.
Với tầm nhìn của một vị tướng dày dạn kinh nghiệm, từ cuối tháng 02/1987, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh một mặt chỉ đạo Quân chủng Hải quân đưa lực lượng ra đóng giữ các bãi đá ngầm, mặt khác trình lên Trung ương chủ trương và kế hoạch giữ đảo. Kế hoạch được Ban Bí thư Trung ương phê chuẩn ngày 20/3/1987. Ngay lập tức, ông xuống Hải Phòng và chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân: “Phải thấy hết vị trí chiến lược của Biển Đông. Trước tiên, phải lo phòng thủ quần đảo Trường Sa, nơi có thể xảy ra xung đột. Ta phải hành động kiên quyết để bảo vệ các đảo nổi và đảo chìm. Các đồng chí suy nghĩ mọi cách để xây dựng hải quân hùng mạnh”.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng còn chỉ thị cho Quân chủng Hải quân tăng cường lực lượng ra củng cố, xây dựng thế trận phòng thủ, quyết tâm giữ vững các đảo; đưa lực lượng đóng giữ một số bãi đá ngầm trong khu vực quần đảo Trường Sa. Ngay sau đó, Quân chủng Hải quân khẩn trương xây dựng, triển khai kế hoạch bảo vệ quần đảo Trường Sa trong 3 năm (1988 - 1990). Để ngăn chặn âm mưu xâm lấn của thế lực bên ngoài đối với các đảo phía Tây và chiếm đóng xen kẽ vào các cụm đảo do ta đang đóng giữ, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân đã đề ra kế hoạch triển khai lực lượng đóng giữ trên các bãi cạn, đá ngầm.
Từ ngày 16/5 đến tháng 10/1987, Hải quân Trung Quốc liên tục diễn tập quân sự tại vùng nam Biển Đông. Trên cơ sở kế hoạch đóng giữ các bãi đá ngầm tại Trường Sa do Bộ Tổng Tham mưu chuẩn bị đã được đồng chí Đỗ Mười, Thường trực Ban Bí thư phê duyệt, ngày 06/11/1987, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh phê chuẩn kế hoạch tác chiến và ban hành Mệnh lệnh số 1679/ML-QP, ra lệnh cho các quân chủng: Hải quân, Không quân, Phòng không và Binh chủng Thông tin liên lạc tăng cường phối hợp bảo vệ quần đảo Trường Sa, trong đó xác định: giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân đưa ngay lực lượng ra giữ các bãi cạn, không chờ xin chỉ thị của cấp trên, trước mắt đưa ngay lực lượng ra đóng giữ các đảo: Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ;... Tư lệnh Vùng 4 Hải quân chịu trách nhiệm trực tiếp bảo vệ quần đảo Trường Sa.
Thực hiện Mệnh lệnh số 1679/ML-QP, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân ra mệnh lệnh sẵn sàng chiến đấu đối với lực lượng bảo vệ các đảo thuộc quần đảo Trường Sa; chỉ thị cho các đơn vị chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng cơ động chiến đấu, cơ động ra xây dựng các công trình phòng thủ trên các bãi đá. Tư lệnh vùng 4 Hải quân triển khai kế hoạch đưa lực lượng ra đóng giữ Đá Tây, Chữ Thập. Tuy nhiên, do thời tiết trên biển lúc này gió to, sóng lớn làm cho các con tàu vận tải nhỏ của Hải quân bị đứt neo phải trở về căn cứ.
Ngày 30/11/1987, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết số 06/NQ-TW về đấu tranh bảo vệ chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nghị quyết xác định nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền hai quần đảo, trước mắt bảo vệ quần đảo Trường Sa là nhiệm vụ khẩn trương, quyết liệt, lâu dài; là nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra chỉ thị, giao nhiệm vụ cho Quân chủng Hải quân phải tăng cường khả năng bảo vệ quần đảo Trường Sa, nhanh chóng đưa lực lượng ra đóng giữ các bãi đá chưa có người trong khu vực quần đảo Trường Sa. Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nêu rõ: Nếu kẻ địch xâm phạm đảo hoặc dùng vũ lực uy hiếp thì được đánh trả và luôn cảnh giác, tỉnh táo không bị địch khiêu khích.
Tháng 01/1988, Trung Quốc đưa một lực lượng lớn tàu chiến, trong đó có tàu khu trục và tàu tên lửa từ đảo Hải Nam xuống quần đảo Trường Sa chiếm đóng đảo Chữ Thập; khiêu khích, khống chế, không cho các tàu thuyền Việt Nam đang tiến hành hoạt động tiếp tế giữa các đảo hoạt động. Ngày 13/02, khi làm việc với Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Đại tướng đã phê phán nghiêm khắc việc để mất đảo Chữ Thập và giao cho Tư lệnh Quân chủng kiêm nhiệm Tư lệnh Vùng 4 Hải quân bằng mọi giá phải giữ vững chủ quyền của Việt Nam. Ta nhận định, sau khi chiếm đảo Chữ Thập, Trung Quốc sẽ mở rộng phạm vi chiếm đóng sang các đảo Châu Viên, Đá Đông, Đá Nam, Tốc Tan và đóng xen kẽ những bãi đá ta đang đóng giữ. Trước tình hình đó, ngày 19/02/1988, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh ký Công văn số 207/QP gửi Ban Bí thư Trung ương Đảng, Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, báo cáo việc Trung Quốc gia tăng các hoạt động quân sự trên quần đảo Trường Sa, cản trở hoạt động của hải quân; tranh chấp chủ quyền với ta. Trên cơ sở báo cáo đó, Bộ trưởng đề nghị: Tăng cường 4 tàu vận tải biển loại trên 1.000 tấn phối thuộc cho Bộ Quốc phòng (trực tiếp là Bộ Tư lệnh Hải quân); tiến hành đấu tranh ngoại giao và tranh thủ dư luận trong nước và thế giới. Cùng với đó, Quân chủng Hải quân có Công văn số 594 đề nghị Bộ Quốc phòng cho tổ chức thêm 7 khung để đóng giữ trên 7 đảo; đề nghị tăng cường cả quân số và vũ khí, khí tài bảo đảm bảo vệ các đảo tại quần đảo Trường Sa. Đồng thời, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân chủ trương nhanh chóng đưa lực lượng đóng giữ đảo Đá Lát, Đá Lớn. Đến đầu tháng 3/1988, lực lượng Hải quân ta đã triển khai xây dựng xong thế trận phòng thủ trên các đảo Đá Lát, Đá Đông, Tốc Tan, Tiên Nữ và Đá Lớn, đưa tổng số đảo đóng giữ của ta lên 16, trong đó gồm 9 đảo nổi,7 đảo chìm.
Sau khi chiếm đóng trái phép các đảo Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ, Ga Ven, Xu Bi của Việt Nam, Trung Quốc tiếp tục chuẩn bị thực hiện mưu đồ chiếm đóng 3 đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao thuộc cụm đảo Sinh Tồn. Đầu tháng 3/1988, Trung Quốc huy động hai hạm đội tàu chiến, trong đó có tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ... xuống khu vực Trường Sa. Trước tình hình đó, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân điều các Tàu HQ605 đến đóng giữ đảo Len Đao, Tàu HQ604 và HQ505 cùng hai phân đội công binh (70 người), 4 tổ chiến đấu (22 người) tiến về Gạc Ma, Cô Lin, khẩn trương chuyển vật liệu, làm nhà, cắm cờ Tổ quốc và triển khai 4 tổ bảo vệ đảo ngay trong đêm 13/3/1988.
Sáng ngày 14/3/1988, Hải quân Trung Quốc đổ bộ lên đảo Gạc Ma, uy hiếp, giật cờ của ta. Trước ý chí đấu tranh kiên cường của cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, quân Trung Quốc buộc phải rút khỏi đảo. Sau đó, chúng dùng pháo 100mm bắn vào 3 tàu vận tải của ta đang làm nhiệm vụ ở đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao. Các chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đã chấp hành nghiêm chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, chiến đấu dũng cảm, xiết chặt hàng ngũ, giữ vững lá cờ Tổ quốc biểu tượng chủ quyền của Việt Nam trên đảo Gạc Ma đến giây phút cuối cùng. Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ đã mưu trí, dũng cảm chỉ huy tàu HQ505 lao lên ủi bãi, bảo vệ được đảo
Cô Lin. Trong cuộc chiến đấu không cân sức đó, 64 cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh; 3 tàu vận tải bị địch bắn chìm, bắn cháy.
Ngay sau khi sự việc xảy ra, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông báo sự kiện trên cho Liên hợp quốc và nhiều lần gửi công hàm phản đối Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm các đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam; đề nghị hai bên chấm dứt các hoạt động quân sự, tiến hành thương lượng, giải quyết. Tuy nhiên, Trung Quốc khước từ thương lượng, tiếp tục chiếm giữ trái phép các bãi đá đã chiếm. Ngày 14/4/1988, Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phản đối việc Quốc hội Trung Quốc sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào tỉnh Hải Nam. Cùng thời gian này, Bộ Ngoại giao nước ta công bố Sách trắng khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo luật pháp quốc tế.
Ngay sau đó, Đại tướng Lê Đức Anh đã có chuyến thị sát động viên cán bộ, chiến sĩ trên các đảo của quần đảo Trường Sa. Tại đây, ông chỉ đạo Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân tổ chức Lễ kỷ niệm ngày truyền thống của Quân chủng (07/5/1988) ngay tại đảo. Bên cột mốc có dòng chữ khẳng định chủ quyền lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đại tướng Lê Đức Anh nhấn mạnh: “Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là sự thật trên thực tế, phù hợp với pháp lý quốc tế, với đạo lý quốc tế... Hôm nay, giữa trời cao, biển rộng bao la, trước anh linh tổ tiên và các cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau: “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc chúng ta!”.
Đi tận nơi, chứng kiến tận mắt và trải nghiệm những khó khăn, gian khổ của các chiến sĩ, trở về từ Trường Sa, Đại tướng đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị của Bộ Quốc phòng triển khai và ký ban hành những văn bản thể hiện quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Ngày 20/7/1988, Bộ trưởng Lê Đức Anh ra Mệnh lệnh số 225/ML-QP về bảo vệ khu vực các công trình dầu khí ở thềm lục địa phía Nam. Theo đó, ra lệnh cho các đơn vị: Quân khu 7, các quân chủng: Hải quân, Không quân, Phòng không có nhiệm vụ bảo vệ khu vực các công trình dầu khí ở thềm lục địa phía Nam, yêu cầu các đơn vị nói trên phải xây dựng các phương án, hiệp đồng chặt chẽ, tổ chức lực lượng bảo vệ chu đáo, bảo đảm kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hoạt động trinh sát, phá hoại của địch từ ngoài vào mục tiêu bảo vệ.
Ngày 22/7/1988, Tổng Tham mưu trưởng - Thượng tướng Đoàn Khuê ra Mệnh lệnh số 20/ML-TM giao nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa cho Binh chủng Đặc công và Quân chủng Hải quân, yêu cầu nghiên cứu kỹ chiến trường, xác định cách đánh có hiệu quả, tổ chức huấn luyện, sử dụng lực lượng đặc công, hải quân kiên quyết bảo vệ vùng biển và quần đảo Trường Sa.
Ngày 19/11/1988, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Nghị quyết số 253/NQ-ĐUQSTW về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa, khu vực biển và thềm lục địa phía Nam. Theo đó, ngày 29/3/1989, Đại tướng đã ký và ban hành Mệnh lệnh số 167/ML-QP về đóng giữ bảo vệ khu vực thềm lục địa, bãi đá ngầm ở Trường Sa. Ông chỉ đạo Quân chủng Hải quân khẩn trương xây dựng lại và xây mới nhà giàn nổi tại các đảo chìm, đồng thời chỉ đạo các quân chủng, binh chủng xây dựng kế hoạch tổ chức diễn tập thực binh chi viện đảo, nhà giàn và hoàn chỉnh các phương án phòng thủ biển, đảo.
Sau khi chiếm Gạc Ma, Trung Quốc cho tàu thăm dò và có mưu đồ chiếm vùng thềm lục địa phía tây nam của nước ta. Cùng với đấu tranh pháp lý, phản đối hành động xâm lược của Trung Quốc, ta tăng cường lực lượng, trang bị vũ khí, phương tiện để tổ chức củng cố hệ thống phòng thủ bảo vệ quần đảo Trường Sa, đồng thời xây dựng nhà ở cho bộ đội. Sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ký Văn bản số 19/NQ-TƯ về việc bảo vệ khu vực Cụm kinh tế - khoa học - dịch vụ (DK1), thực hiện chủ trương và sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Đại tướng Lê Đức Anh giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân khẩn trương khảo sát, triển khai xây dựng Cụm kinh tế - khoa học - dịch vụ (DK1) phục vụ phát triển kinh tế đất nước. Thực hiện chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh, các lực lượng đã khảo sát đo đạc trên vùng biển rộng, tìm ra 6 bãi đá ngầm, san hô. Từ những dữ liệu đó, hệ thống nhà dàn DK1 được xây dựng. Từ năm 1989 đến 1998, Quân chủng Hải quân đã phối hợp với các lực lượng xây dựng được 19 nhà giàn. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và sự chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh, Quân chủng Hải quân đã nhanh chóng huy động lực lượng, phương tiện, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến đấu kiên cường, đóng giữ thêm 11 bãi đá ngầm (đóng quân 19 điểm) nâng tổng số đảo, bãi đá ngầm do hải quân đóng giữ lên 21 (32 điểm đóng quân), ngăn chặn hành động mở rộng lấn chiếm của đối phương, tạo thế đứng vững chắc của ta trên các đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
Trong những năm này, chấp hành chỉ thị, mệnh lệnh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Đại tướng Lê Đức Anh, Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật tiến hành bảo đảm một số lượng lớn các loại vật chất hậu cần, vũ khí, trang bị, kỹ thuật cho quần đảo Trường Sa. Quân chủng Hải quân củng cố xây dựng và phát triển căn cứ hậu cần - kỹ thuật Cam Ranh.
Tổng cục Hậu cần đề nghị và được Bộ Quốc phòng chuẩn y bằng Thông tư số 1424/QP ngày 24/9/1987 về điều chỉnh lại chế độ định lượng ăn của Bộ đội Hải quân. Chỉ đạo các đơn vị trên đảo tích cực đẩy mạnh chăn nuôi, đánh bắt hải sản nên bữa ăn được cải thiện rõ rệt. Việc bảo đảm quân trang cũng được quan tâm: “Phải ưu tiên đối với lực lượng chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu... ở đảo xa”.
Trước những diễn biến mới của tình hình và yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Kỹ thuật liên tục điều chuyển, bổ sung khối lượng lớn vũ khí trang bị kỹ thuật cho các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, tổ chức lại hệ thống chỉ huy tác chiến cho phù hợp với điều kiện trang bị vũ khí, đạn dược mới.
Đầu năm 1988, trước những diễn biến hết sức phức tạp tại Trường Sa, Quân chủng Hải quân thực hiện chủ trương của Bộ Quốc phòng tổ chức thực hiện Chiến dịch CQ-88 (Kế hoạch CQ-88), đồng thời xác định: Đây là nhiệm vụ trung tâm, đột xuất, cần lực lượng nào, điều lực lượng ấy vào phục vụ chiến dịch.
Bước vào chiến dịch, ngành Hậu cần - Kỹ thuật của Quân chủng đã sử dụng lực lượng vật chất dự trữ để tiến hành công tác bảo đảm; đồng thời triển khai tiếp nhận vật chất, phương tiện của cấp trên, khai thác nguồn vật chất của các cơ quan nhà nước, địa phương, các đơn vị quân đội được huy động cho chiến dịch. Kết quả, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm cho Chiến dịch CQ-88: vận chuyển hơn 1.000 khẩu súng, hơn 200 khẩu pháo cùng hàng triệu viên đạn và các loại vật tư, trang bị kỹ thuật[285]; tổ chức thi công và củng cố 12 bể xăng, dầu dã chiến; cấp phát 721,7 tấn gạo bảo quản bởi 3 lớp túi, 480,7 tấn gạo thường, 22,3 tấn lương khô, 16,6 tấn mì tôm và 14,6 tấn gạo sấy; bảo đảm đủ và vượt chỉ tiêu cả thuốc men và trang bị.
Trước tình hình nhiệm vụ xây dựng phòng thủ đảo ngày càng cấp bách, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định huy động một lực lượng lớn vật chất, phương tiện chi viện xây dựng,
củng cố quần đảo Trường Sa. Trong Chiến dịch CQ-88, có 82 tàu vận tải các loại của Quân chủng Hải quân, Nhà nước và các địa phương, thực hiện 157 chuyến, chở 41.550 tấn hàng hoá, vũ khí trang bị và hơn 3.000 lượt người cho quần đảo Trường Sa. Khối lượng vận chuyển tăng gấp 6 lần năm 1987 và gấp 10 lần các năm trước.
Cùng với đó, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần ra Chỉ thị số 802/HC-12 xác định: “Tập trung xây dựng trước tiên các hướng chủ yếu, trục chủ yếu, khu vực trọng yếu ở tuyến phòng ngự cơ bản; tập trung nỗ lực cao nhất cho quần đảo Trường Sa”. Đặc biệt là đầu tư xây dựng căn cứ Cam Ranh thành căn cứ liên hợp quân sự mạnh phục vụ nhiệm vụ chiến lược bảo vệ biển, đảo. Tại căn cứ có các cơ sở trang bị dây chuyền công nghệ hiện đại, hệ thống kho dự trữ khối lượng lớn các loại vật chất hậu cần, vật tư kỹ thuật, vũ khí, khí tài, đạn dược sẵn sàng cấp phát, vận chuyển cho lực lượng chiến đấu tại quần đảo Trường Sa trong mọi tình huống.
Hiện nay, quân và dân ta chủ trương kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Để thực hiện thắng lợi chủ trương này, cần vận dụng sáng tạo tư tưởng lãnh đạo, chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh trong tình hình mới, tập trung thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, kiên trì đấu tranh giải quyết tranh chấp biển, đảo bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Là thành viên của Liên hợp quốc, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế, kiên trì con đường giải quyết các vấn đề phát sinh bằng biện pháp hoà bình, trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng luật pháp quốc tế; trong đó, biện pháp chủ yếu là thông qua đàm phán, thương lượng, nhằm tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan. Trong khi kiên trì phấn đấu tìm kiếm một giải pháp cơ bản, lâu dài, chúng ta yêu cầu các bên liên quan kiềm chế, không có hoạt động làm phức tạp thêm tình hình, duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, tuân thủ cam kết giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Đồng thời, cùng nhau nghiêm chỉnh thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), hướng tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử (COC) để Biển Đông thực sự là vùng biển hòa bình, ổn định, hữu nghị và phát triển. Trong khi nỗ lực xử lý các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp hòa bình, cần kiên trì đấu tranh bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, song tránh gây phương hại cho việc giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển; không để các thế lực phản động lợi dụng chống phá, xuyên tạc, chia rẽ quan hệ giữa nước ta và các nước liên quan.
Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về chủ quyền biển, đảo đến mỗi người dân.
Công tác tuyên truyền về biển, đảo cần có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương. Nội dung tuyên truyền, giáo dục cần tập trung làm rõ các quan điểm, chủ trương của Đảng về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và Chiến lược biển Việt Nam. Trên cơ sở chứng cứ lịch sử, chúng ta tiếp tục khẳng định mạnh mẽ ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Mặt khác, cần tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết đấu tranh với các hành động vi phạm chủ quyền, lãnh thổ. Các cấp, các ngành cần tập trung nâng cao nhận thức cho cán bộ và nhân dân về pháp luật, chủ quyền vùng biển Việt Nam. Cùng với đó, cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho lực lượng vũ trang, nhất là những lực lượng thực thi pháp luật, quản lý, bảo vệ biển, đảo. Trong đó, chú trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ ý thức trách nhiệm, tình yêu quê hương, biển, đảo.
Để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, cần kết hợp công tác tuyên truyền về biển, đảo với công tác giáo dục pháp luật, làm cho ngư dân hiểu rõ các quy định trong pháp luật nước ta và pháp luật quốc tế về biển. Cần sớm đưa các nội dung về chủ quyền biên giới và lãnh thổ, biển, đảo vào giảng dạy ở các cấp phổ thông và đại học. Các cơ sở nghiên cứu cần đẩy mạnh nghiên cứu khoa học về Biển Đông, chú trọng các đề tài khẳng định vững chắc chủ quyền biển, đảo, cả về mặt pháp lý, cơ sở lịch sử và truyền thống giữ biển của dân tộc.
Ba là, tập trung nỗ lực xây dựng các lực lượng làm nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biển, đảo vững mạnh.
Trong bối cảnh hiện nay, việc tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo và các hoạt động kinh tế biển là một yêu cầu hết sức cấp thiết. Hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng chuyên trách hoạt động trên biển - giữ vai trò nòng cốt và gánh vác trách nhiệm nặng nề trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các vùng biển, đảo của Tổ quốc, cần tiếp tục được ưu tiên đầu tư xây dựng theo hướng hiện đại. Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng chuyên trách quản lý, duy trì thực thi pháp luật trên các vùng biển của Tổ quốc cần được tiếp tục củng cố, hoàn thiện về tổ chức biên chế, tăng cường trang bị hiện đại, bảo đảm đủ sức hoàn thành nhiệm vụ. Lực lượng Bộ đội Biên phòng cần được đầu tư bảo đảm đủ trang bị, kỹ thuật, phương tiện khí tài, phương tiện cơ động..., đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, cứu hộ, cứu nạn, chống buôn lậu và các tệ nạn xã hội trên vùng biển được phân công. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ biển theo phương châm “vững mạnh, rộng khắp”, ở đâu có tàu, thuyền hoạt động trên biển, có dân định cư ở ven biển và trên đảo, ở đó có dân quân tự vệ. Nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng kiểm ngư với các đội tàu được trang bị hiện đại từ cấp Trung ương đến các vùng, các chi cục thuộc các tỉnh (thành phố) ven biển. Đây là lực lượng kiểm soát dân sự của Việt Nam, có đầy đủ thẩm quyền để phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm của tàu cá nước ngoài; hỗ trợ ngư dân, bảo đảm an ninh trật tự, bảo vệ chủ quyền quốc gia ở các vùng biển, đảo.
Từ bao đời nay, tiếp nối liên tục qua rất nhiều thế hệ, ông cha ta đã đổ biết bao công sức, máu xương để giữ gìn, bảo vệ vùng biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Ngày nay, biển, đảo Việt Nam - bộ phận của quốc gia - dân tộc được ổn định và giữ vững trở thành nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước. Thành tựu ấy xuất phát từ truyền thống yêu nước của tổ tiên, từ đường lối đúng đắn của Đảng, từ sức lực của toàn dân, từ sự can trường hy sinh to lớn của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Hải quân. Trong thành tựu ấy còn có một phần đóng góp từ tầm nhìn và sự chỉ đạo đúng đắn, đầy trách nhiệm của Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong những năm 1987 - 1988.
Đại tá, PGS.TS. DƯƠNG HỒNG ANH
Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, đáp ứng lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia và nhân dân Campuchia, thực hiện quan điểm của Đảng và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giúp nhân dân nước bạn là mình tự giúp mình”, với tinh thần quốc tế thủy chung, trong sáng, cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 4 cùng với các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam đã tham gia chiến đấu giúp nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ Khmer đỏ phản động để hồi sinh đất nước, thoát khỏi họa diệt chủng. Ngay sau khi thành phố Phnôm Pênh được giải phóng, cùng với nhiệm vụ quân quản thành phố, cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn vừa chiến đấu, vừa giúp bạn trong xây dựng, củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng địa phương; củng cố tổ chức và tăng cường huấn luyện, trang bị, nâng cao năng lực chỉ huy, tác chiến cho Quân đội cách mạng Campuchia; giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn đói, từng bước ổn định sản xuất và đời sống.
Trên cơ sở các chủ trương hợp tác được hai Đảng, hai Nhà nước thỏa thuận, để thống nhất lãnh đạo chỉ huy, nâng cao hiệu suất chiến đấu và công tác của các lực lượng vũ trang Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, ngày 18/5/1981, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 36/QUTW về tổ chức Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia và thành lập Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia mang phiên hiệu Bộ Tư lệnh 719, trực thuộc Bộ Quốc phòng, đồng thời là cơ quan đại diện của Bộ Quốc phòng trên hướng tây nam, trực tiếp chỉ huy Quân tình nguyện và đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Campuchia. Ngày 29/6/1981, Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm đồng chí Lê Đức Anh, Tư lệnh Quân khu 7, giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.
Theo đề nghị của Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, ngày 18/7/1981, Tổng Tham mưu trưởng ra các quyết định chuyển cơ quan tiền phương của Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Quân khu 7, Quân khu 9 thành các Bộ Tư lệnh 579, 779, 979 có quyền hạn tương đương Bộ Tư lệnh quân đoàn, chịu sự chỉ đạo, chỉ huy của Bộ Tư lệnh 719 về tác chiến và hoạt động ở Campuchia; đồng thời, chịu sự chỉ đạo, chỉ huy của các Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Quân khu 7, Quân khu 9 về các mặt khác.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh 719, vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, nhiều cán bộ, chiến sĩ của Quân đoàn đã ngã xuống trong những cuộc hành quân truy quét địch, giúp nhân dân Campuchia xây dựng thực lực cách mạng, cứu đói, phục hồi cuộc sống sau họa diệt chủng. Quân đoàn 4 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, được Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia trao tặng Huân chương Ăngko, Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Campuchia; nhiều tập thể, cá nhân được trao tặng huân, huy chương các loại... Để hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ trên là nhờ có sự chỉ đạo thường xuyên và sâu sát của Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh 719, sự hướng dẫn, giúp đỡ của cơ quan cấp trên, sự ủng hộ của chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân bạn, sự phối hợp của các đơn vị và chuyên gia ta trên địa bàn mà trực tiếp là đồng chí Lê Đức Anh - Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.
Trong mùa khô 1980 - 1981 và mùa mưa 1981, nhờ sự giúp sức của các thế lực bên ngoài, địch đã gượng dậy và tăng cường hoạt động trên một số mặt. Chúng khôi phục, củng cố hệ thống tổ chức, chỉ huy, hậu cần, đưa một bộ phận chủ lực trở lại nội địa hoạt động nhỏ, lẻ, kết hợp với lực lượng ngầm và các căn cứ “lõm”, phát động chiến tranh du kích rộng rãi trên toàn lãnh thổ Campuchia, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh tâm lý để chuyển sang giai đoạn chiến lược “tranh chấp”. Cho rằng ta có nhiều khó khăn và tương quan lực lượng ta - địch đang ở thế giằng co, mục tiêu của địch là tập trung đánh chiếm một số vùng biên giới, mở rộng căn cứ, hành lang, giành dân, quyết tạo thế “hai vùng - hai chính quyền - hai lực lượng”. Mặt khác, chúng ra sức tập hợp các lực lượng phản động để lập Chính phủ liên hiệp làm con bài đấu tranh ngoại giao trên trường quốc tế, hợp pháp hóa “vấn đề Campuchia”, đòi Quân tình nguyện Việt Nam phải rút về nước.
Chấp hành mệnh lệnh tác chiến của Tư lệnh Lê Đức Anh, Quân đoàn đã cụ thể hóa nhiệm vụ tác chiến đợt 1 gồm hai cao điểm: Cao điểm 1 (từ ngày 10/12/1980 đến ngày 16/3/1981) và cao điểm 2 (từ ngày 16/3 đến ngày 15/4/1981). Bước vào chiến dịch, Quân đoàn được Bộ Tư lệnh 719 tăng cường Trung đoàn 2 (thuộc Sư đoàn 330, Mặt trận 979) và một tiểu đoàn bộ binh thuộc Thành đội Phnôm Pênh.
Trong đợt tác chiến cao điểm 1, Quân đoàn sử dụng Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9 tìm đánh địch ở khu vực nam - bắc Ô Ran, tây Am Leng, bắc Quận 16 (Kông Pông Chư Năng), nhằm vào các đối tượng cụ thể: Lực lượng luồn sâu của Lơ Vây, lực lượng vùng 31 cũ ở đông Ô Ran, lực lượng do tên Pung chỉ huy ở nam Puốc Sát, bắc Ô Ran và căn cứ Cồn Xiêm, Chen Mút bắc Quận 16. Cùng lúc, Sư đoàn 339, có sự phối thuộc của tiểu đoàn thuộc Thành đội Phnôm Pênh và hai tiểu đoàn của Quân đoàn nhận nhiệm vụ củng cố địa bàn ở nam, bắc đường 56, trọng điểm là căn cứ Sà Rươn ở bắc đường 56, lực lượng của Trung đoàn 11 địch ở nam đường 56 và đánh phá hành lang số 3-4 ngoài biên giới, bảo vệ an toàn đường 56, để hoàn thành kế hoạch chuyển hàng cho các chốt tiền tiêu cũng như mở đường cho Trung đoàn 686 tiến quân xuống cao điểm 492.
Đợt hai chiến dịch bắt đầu từ ngày 16/4/1981 là thời điểm cuối mùa khô ở Campuchia nên cần có sự điều chỉnh và cơ động đội hình phù hợp. Thực hiện mệnh lệnh của Tư lệnh Lê Đức Anh, Quân đoàn đã đưa Sư đoàn 9 (thiếu Trung đoàn 2 và Trung đoàn pháo 42) từ đường 5 sang đường số 6 đánh địch và phối hợp hoạt động với Mặt trận 479, giúp bạn củng cố vùng giải phóng trên hai huyện giáp ranh giữa Kông Pông Thơm và Xiêm Riệp. Trung đoàn 141 (Sư đoàn 7) từ địa bàn Ăm Leng được điều về đảm nhiệm đoạn đường sắt. Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9) từ nam Ban Nâk chuyển tới Ô Ran, Rô Mía. Các đơn vị đóng ở khu vực biên giới đều được quán triệt nhiệm vụ chống phá thủ đoạn mới của địch như dùng hỏa lực mạnh, sử dụng quy mô đại đội, tiểu đoàn tiến công chiếm chốt tiền tiêu, tăng cường gài mìn, phục kích...
Từ ngày 25 đến ngày 31/12/1981, Đại hội Đảng bộ Quân đoàn lần thứ II được tổ chức tại Phnôm Pênh (Campuchia) với 211 đại biểu đại diện cho toàn thể đảng viên của Quân đoàn về dự Đại hội. Thượng tướng Lê Đức Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia đã đến dự và chỉ đạo Đại hội. Đại hội đã thảo luận tham gia ý kiến vào dự thảo báo cáo chính trị, báo cáo xây dựng Đảng và bổ sung sửa đổi Điều lệ Đảng trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, kiểm điểm đánh giá kết quả thực hiện trong nhiệm kỳ trước và đề ra phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 1981-1986. Đại hội đã bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ Quân đội gồm 8 đồng chí. Việc tiến hành Đại hội Đảng bộ Quân đoàn và đại hội đảng bộ các cấp trong Quân đoàn thực sự là đợt sinh hoạt chính trị lớn. Qua đó, Đảng bộ Quân đoàn tiếp tục rút kinh nghiệm trong xây dựng đội ngũ đảng viên, củng cố các tổ chức Đảng, nâng cao một bước chất lượng lãnh đạo chỉ huy của cán bộ, đẩy mạnh phong trào thi đua trong toàn Quân đoàn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao.
Quán triệt chỉ thị của Bộ Tư lệnh 719 đứng đầu là Tư lệnh Lê Đức Anh, căn cứ vào tình hình, nhiệm vụ chung của các lực lượng vũ trang và yêu cầu của bạn, bước vào mùa khô 1981 - 1982, Quân đoàn chủ trương điều chỉnh lực lượng, tổ chức lại địa bàn hoạt động cho các đơn vị, hình thành hai mặt trận với mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể khác nhau, có liên quan mật thiết với nhau, tạo điều kiện cho nhau giành thắng lợi.
Mùa khô 1982 - 1983, phát hiện công tác chuẩn bị và nghi binh của ta, một mặt địch tích cực chuẩn bị đề phòng việc bạn và ta tiến công ra khu vực biên giới, mặt khác chúng tiếp tục đẩy mạnh hoạt động ở nội địa, tập trung đánh phá giao thông, phá kế hoạch vận chuyển mùa khô của ta và bạn trên đường 56, bám sát các sân bãi, kho tàng của ta để phản kích hoặc tập kích. Đồng thời, chúng ra sức xây dựng lực lượng ngầm ở những vùng ven rừng núi, nơi lực lượng ta và Quân đội cách mạng Campuchia đứng chân chưa vững chắc.
Sau khi cơ bản hoàn thành nhiệm vụ giúp bạn, theo tinh thần Hiệp ước hòa bình hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam và Campuchia, ta sẽ lần lượt rút từng bộ phận quân tình nguyện về nước tùy theo diễn biến chiến trường và sự trưởng thành của chính quyền, Quân đội cách mạng Campuchia. Trên cơ sở đó, đầu năm 1983, Quân đoàn 4 nhận mệnh lệnh chuẩn bị rút phần lớn lực lượng về nước tiếp tục xây dựng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chỉ để lại Sư đoàn 9 và một số đơn vị binh chủng cần thiết. Chấp hành chỉ thị của Bộ Tư lệnh Mặt trận 719 về bảo đảm bí mật, tránh sự biến động trong đời sống chính trị của nhân dân bạn sau khi ta rút quân; tạo điều kiện cho các đơn vị bạn tiếp nhận địa bàn, Quân đoàn chủ trương đẩy mạnh hoạt động mùa khô ở biên giới và trong nội địa, vừa nghi binh, vừa củng cố vùng giải phóng. Một công tác quan trọng khác đồng thời được triển khai thực hiện là khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho kế hoạch bàn giao, hành quân về nước được mau chóng, bí mật, an toàn.
Sau mùa khô năm 1983, được các thế lực bên ngoài chi viện, lực lượng vũ trang của Pôn Pốt vẫn còn tới 64.000 quân trong đó có 32.000 quân chiến đấu, 14 sư đoàn. Chúng được trang bị mạnh lên, về hỏa lực có thêm pháo 85mm, pháo cao xạ 37mm. Âm mưu cơ bản về lâu dài của chúng vẫn là giành lại sự thống trị ở Campuchia. Trước mắt, chúng ra sức củng cố thế trận trên đường biên giới Campuchia - Thái Lan bằng cách chiếm lại các căn cứ đã mất, củng cố các căn cứ còn lại, xây dựng thêm các căn cứ mới, điều chỉnh một số cửa khẩu và hành lang để đưa lực lượng và vận chuyển vật chất vào nội địa. Ở nội địa, chúng tăng cường đánh phá giao thông và những vị trí sơ hở của lực lượng cách mạng Campuchia, thường xuyên đột nhập vào các xã, ấp hẻo lánh để gây cơ sở, cướp lương thực, đẩy mạnh tuyên truyền kết hợp hăm dọa, khủng bố quần chúng tích cực. Tình hình Campuchia tiếp tục diễn biến phức tạp. Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Campuchia là khẩn trương xây dựng thực lực, đáp ứng yêu cầu vừa chiến đấu loại trừ các lực lượng phản động, vừa xây dựng thế ổn định và vững mạnh về mọi mặt.
Tháng 5/1983, phần lớn Quân đoàn 4 đã rút về nước. Nhưng trước yêu cầu của nhân dân và Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia, một bộ phận của Quân đoàn được giao nhiệm vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả trên đất bạn với phương thức: “Tăng cường - phối thuộc, hoạt động độc lập”. Từng sư đoàn bộ binh, trung đoàn binh chủng hoạt động trong từng thời gian theo yêu cầu của bạn và nhiệm vụ trên giao. Riêng Sư đoàn Bộ binh 9 nhận nhiệm vụ ở lại, phối thuộc với Mặt trận 479. Địa bàn hoạt động của đơn vị là vùng biên giới tỉnh Bát Đoom Boong; nhiệm vụ chủ yếu là tác chiến bảo vệ tuyến biên giới. Ở đây, lực lượng địch có hai sư đoàn: 980 và 616 (đứng ở đông và tây Poi Pét) và một số trung đoàn khác. So với năm 1983, năm 1984 lực lượng địch không phát triển, quy mô và số lần hoạt động giảm. Hoạt động chủ yếu của chúng vẫn là sử dụng lực lượng nhỏ (từ 10 đến 20 tên) tập kích, quấy phá bằng hỏa lực, kết hợp phục kích, gài mìn...
Từ tháng 6/1983 đến trước mùa khô năm 1983 - 1984, bằng các hình thức tiến công, tập kích, phục kích..., Sư đoàn 9 đã cùng bạn tác chiến 483 lần, quy mô đại đội đến sư đoàn thiếu, có 102 lần đạt hiệu quả gây cho địch nhiều thiệt hại về sinh lực, thu 168 súng. Đồng thời, với hoạt động tác chiến, Sư đoàn 9 đã giúp lực lượng cách mạng Campuchia thu của địch 24.000 tấn lúa, huy động 900.000 ngày công của nhân dân tham gia xây dựng tuyến phòng thủ và các hoạt động xã hội khác. Các hoạt động trên đã góp phần củng cố thế trận biên giới, hạn chế địch thực hiện âm mưu của chúng; đặc biệt đã góp phần tạo thế, tạo lực ở vùng biên giới, chuẩn bị cho chiến dịch mùa khô năm 1984 - 1985, tạo một bước chuyển mới có lợi cho cách mạng Campuchia.
Tháng 01/1985, theo yêu cầu của bạn, Sư đoàn Bộ binh 7 và Trung đoàn công binh 550 cơ động trở lại chiến trường Campuchia tham gia Chiến dịch mùa khô 1984-1985, trên hướng chủ yếu. Như vậy, trên hướng chủ yếu của Chiến dịch (địa bàn biên giới tây-bắc Campuchia, bên đường số 5) lực lượng chiến đấu của Quân đoàn 4 có hai sư đoàn bộ binh (7 và 9) và Trung đoàn Công binh 550.
Phương châm chiến dịch là sử dụng Quân tình nguyện Việt Nam, hiệp đồng với chủ lực Campuchia trong từng trận, đánh chắc thắng từng mục tiêu, giảm thương vong của bạn và ta xuống mức thấp nhất, bảo đảm sự chỉ huy chặt chẽ của mặt trận và quân khu, đánh chiếm đến đâu làm tuyến phòng thủ đến đó, vừa đánh vừa tuyên truyền phân hóa kẻ địch, gây mâu thuẫn trong nội bộ của chúng.
Ngày 25/02/1985, Sư đoàn 9 tiếp tục tổ chức tiến công phân khu 204 Bắc Đăng Kum (Noong Chen). Trong cả hai trận đánh, Sư đoàn 9 đều được Tư lệnh Mặt trận 719 và 479 đánh giá là đã hoàn thành tốt nhiệm vụ hỗ trợ cho bạn, tiêu diệt địch, nhanh chóng làm chủ khu vực mục tiêu, khẩn trương củng cố thế đứng chân để đánh địch phản kích, mở màn thắng lợi cuộc tấn công tiêu diệt các căn cứ địch trên tuyến biên giới.
Tháng 6/1985, Sư đoàn 7 và Trung đoàn công binh 550 hành quân về nước sau khi hoàn thành nhiệm vụ giúp bạn. Đến tháng 10/1985, Trung đoàn công binh 550 tiếp tục cơ động sang Bát Đom Boong giúp bạn thực hiện công trình phòng thủ biên giới trong kế hoạch mùa khô 1985 - 1986.
Ở nội địa, bộ đội Quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng cách mạng Campuchia cũng cơ bản hoàn thành nhiệm vụ chiến dịch, đặc biệt là đã vận động, huy động sức người, sức của (hai đợt 85.000 người) lên xây dựng tuyến phòng thủ biên giới. Đây là một thắng lợi chính trị nổi bật trong công tác vận động quần chúng. Ta đã phối hợp với lực lượng của bạn rào tuyến biên giới được gần 200 km, tập trung trên các trọng điểm, tạo điều kiện cho bộ đội và dân quân ngăn chặn, hạn chế sự xâm nhập của địch từ ngoài vào và trực tiếp phục vụ việc triển khai lực lượng và vật chất kỹ thuật đánh thắng địch ở biên giới.
Sau hơn ba tháng chiến đấu liên tục, bằng sức mạnh binh chủng hợp thành, bộ đội tình nguyện Việt Nam và lực lượng cách mạng Campuchia đã phá vỡ toàn bộ thế trận mà địch đã dày công xây dựng trong nhiều năm trên tuyến biên giới, giành thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược, làm thất bại kế hoạch và âm mưu của địch, dồn chúng vào thế tiếp tục suy yếu, khoét sâu mâu thuẫn giữa các thế lực địch.
Theo yêu cầu của bạn và nhiệm vụ quân sự năm 1986 do Bộ Tư lệnh 719 trực tiếp giao cho Quân đoàn, trong hai năm 1986 - 1987 (không kể Sư đoàn 9 và Trung đoàn công binh 550 đang làm nhiệm vụ ở Mặt trận 479) Quân đoàn có nhiệm vụ cùng với lực lượng tình nguyện của Quân khu 7, Quân khu 5 và lực lượng cách mạng Campuchia đánh bại và làm tan rã sư đoàn 920 Pôn Pốt trên địa bàn đông sông Mê Kông (các tỉnh Krachiê, Kông Pông Chàm, các huyện Keo So Ma, Ô Ran thuộc tỉnh Môn Đôn Ki Ri); làm công tác cơ sở, xây dựng thực lực cách mạng Campuchia trên địa bàn được giao, vừa tác chiến, vừa huấn luyện một số đại đội và tiểu đoàn mạnh cho lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia; đồng thời đẩy mạnh tăng gia sản xuất tự cải thiện đời sống.
Thực hiện nhiệm vụ trên, các đơn vị của Quân đoàn đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang, chính quyền cách mạng và nhân dân địa phương triển khai thế trận bao vây chia cắt địch, lấy đánh địch ngoài địa hình làm chính, kết hợp giữa truy lùng địch ở các căn cứ “lõm” với phát động nhân dân, cùng dân phá vỡ địch hoạt động ngầm. Phối hợp với các đơn vị bạn và lực lượng cách mạng Campuchia, lấy đại đội bộ binh làm cơ sở, các đơn vị của Quân đoàn đều tổ chức thành hai bộ phận: Một bộ phận đánh địch bên ngoài, một bộ phận hỗ trợ lực lượng cách mạng Campuchia xây dựng thực lực trên địa bàn xã. Mỗi tiểu đoàn đảm nhiệm một cụm gồm từ hai đến ba xã. Mỗi trung đoàn bộ binh đảm nhiệm hỗ trợ bạn trên địa bàn một huyện. Trung đoàn Bộ binh 141 (một tiểu đoàn) đảm nhiệm huyện Sơ Loong gồm tám xã. Trung đoàn bộ binh 165 (hai tiểu đoàn và một số đơn vị trực thuộc trung đoàn) đảm nhiệm huyện Xnun, Trung đoàn 210 đảm nhiệm huyện Xoài Chịa. Riêng Tiểu đoàn 6 được bố trí ở khu vực tiếp giáp các huyện Xnun, Sơ Loong và đứng vững trên địa bàn đó, hỗ trợ nhân dân và lực lượng cách mạng Campuchia làm chủ khu vực. Bước một, tiểu đoàn sẽ cùng với Trung đoàn 210 hỗ trợ bạn đánh địch ở khu vực Xoài Chía; bước hai cơ động về cùng bạn đánh hậu cứ tiểu đoàn 22 Pôn Pốt. Riêng Trung đoàn 209 cơ động lên chiến trường ở giai đoạn tiếp sau (từ tháng 7 đến tháng 10/1986).
Trong bảy tháng mùa mưa năm 1986, được sự hỗ trợ của các đơn vị quân tình nguyện thuộc Quân đoàn, lực lượng cách mạng Campuchia ở khu vực này đã tiêu diệt một số sinh lực địch, thu nhiều vũ khí, bắt 135 tên hoạt động ngầm trong các tổ chức cách mạng và trong nhân dân. Hoạt động của ta và bạn làm cho địch hoang mang, lúng túng, bị động đối phó. Phần lớn lực lượng của Sư đoàn 920 Pôn Pốt buộc phải bỏ nhiều căn cứ ở phía đông lẩn tránh sang phía tây sông Mê Kông, 40 tên địch ở căn cứ lõm mang 11 khẩu súng ra hàng, 332 tên hoạt động ngầm mang 40 khẩu súng ra đầu thú chính quyền cách mạng.
Đi đôi với đánh địch, các đơn vị thực hiện vũ trang tuyên truyền phát động nhân dân, giúp đỡ các tổ chức cách mạng ở 17 xã, 113 ấp, củng cố, xây dựng thực lực. Đến cuối mùa mưa, phần lớn chính quyền, tổ chức dân quân, tự vệ và các tổ chức cách mạng ở các ấp, xã trước kia không hoạt động, đã đi vào hoạt động, có nơi đã chủ động đánh địch, bảo vệ được ấp (Cần Bây Xê Da, Cần Chê, Đầm Rây, Xoài Chịa). Một số đại đội hai chức năng của huyện đã phát huy được vai trò làm nòng cốt cho lực lượng vũ trang ở địa phương (như huyện Đầm Be) một số nơi trước kia chính quyền và tổ chức quần chúng bị địch khống chế, lũng đoạn thì nay đã được thanh lọc, xây dựng lại và bước đầu đi vào hoạt động có hiệu quả, đủ mạnh đánh bại được mọi hoạt động phá hoại của địch, bảo vệ thành quả cách mạng, làm chủ đất nước.
Vừa tác chiến, vừa xây dựng, vừa thực hiện nhiệm vụ quốc tế trong những điều kiện khó khăn, gian khổ, Quân đoàn 4 đã chấp hành nghiêm, thực hiện sáng tạo mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên mà trực tiếp là những nhiệm vụ do Tư lệnh Lê Đức Anh giao, đồng thời, làm tốt chức năng của đơn vị chủ lực cơ động và chức năng đội quân công tác. Trong một thời gian tương đối ngắn, Quân đoàn đã giúp lực lượng cách mạng Campuchia xây dựng, củng cố và phát triển chính quyền từ không đến có, từ yếu đến mạnh, từ cơ sở xã ấp đến huyện, tỉnh. Chính quyền của bạn từng bước phát huy hiệu lực quản lý nhà nước trong bảo vệ và xây dựng địa phương. Lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia có bước phát triển vượt bậc. Từ một binh đoàn lúc đầu (Binh đoàn 1) đã xây dựng thêm Sư đoàn chủ lực đầu tiên trong cả nước (Sư đoàn 196), mỗi tỉnh có từ một đến hai tiểu đoàn địa phương, mỗi huyện đều có một đại đội, mỗi xã có một trung đội dân quân du kích. Khả năng chiến đấu của ba thứ quân của bạn ngày một nâng cao, dần dần đủ sức đảm nhiệm được công tác quân sự địa phương ở địa bàn. Lực lượng nòng cốt trong nhân dân được tăng cường vững chắc về số lượng và bảo đảm về chất lượng. Nạn đói được khắc phục, cơ sở vật chất - văn hóa phục vụ đời sống nhân dân đi vào hoạt động và ngày càng có nền nếp. Cuộc sống nhân dân Campuchia từ tình trạng điêu tàn, đói khổ, ốm đau dần dần được cải thiện. Bằng những việc làm cụ thể của cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 4, hình ảnh người chiến sĩ Việt Nam ngày một trở nên gần gũi, thân thiết trong nhận thức và tình cảm của người dân Campuchia... Việc làm đó góp phần tô thắm hơn nữa những trang sử vẻ vang của Quân đoàn 4 trong thời kỳ thực hiện nghĩa vụ quốc tế trên đất bạn.
Ngày 05/11/1986, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký Quyết định số 1318/NQ-NS/TW, theo đó đồng chí Lê Đức Anh thôi giữ chức Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam và Trưởng ban Lãnh đạo đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia, trở về Bộ Quốc phòng nhận công tác. Thời gian sau này, dù không trực tiếp chỉ đạo trên chiến trường, nhưng đồng chí Lê Đức Anh vẫn luôn dành những tình cảm chân tình, gắn bó với bộ đội Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia nói chung và cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 4 nói riêng.
Có thể khẳng định, bằng những tình cảm chân thành và sự quan tâm chỉ đạo sâu sát, cụ thể, tỉ mỉ, chu đáo, đồng chí Lê Đức Anh - Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam đã thể hiện trách nhiệm, phẩm chất, phong cách của một trong những nhà lãnh đạo chỉ huy chiến lược quân sự, chính trị xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hình ảnh đồng chí Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam và sau này là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn luôn bình dị và gần gũi, gắn bó mãi với các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 4 anh hùng. Cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 4 quyết tâm phấn đấu, xây dựng Quân đoàn vững mạnh toàn diện, tiến lên hiện đại và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và quân đội giao phó, xứng đáng là Quân đoàn chủ lực, cơ động chiến lược của Bộ đứng chân trên địa bàn trọng điểm ở phía nam của Tổ quốc.
Thiếu tướng PHẠM XUÂN THUYẾT
Đại tướng Lê Đức Anh, người chiến sĩ cách mạng kiên cường, vị tướng tài ba được tôi luyện, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến. Đại tướng đã có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và làm nhiệm vụ quốc tế, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng. Ông còn là một vị chỉ huy quân đội, là một nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, Nhà nước, có tư duy sáng tạo, đổi mới, quyết đoán, linh hoạt; luôn bám sát thực tiễn, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành các hoạt động quân sự, quốc phòng; là người con trung hiếu của xứ Huế, giản dị, sâu sắc, nhân văn trong cuộc sống, được đồng chí, đồng đội và nhân dân yêu mến, bạn bè quốc tế đánh giá cao. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười nhận xét: “Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta”. Cuộc đời cách mạng của Đại tướng gắn liền với những chiến thắng trên chiến trường miền Nam, biên giới Tây Nam, khi làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, trong đấu tranh bảo vệ biên giới phía Bắc và sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đoàn 2, những chỉ đạo về chiến dịch, chiến lược của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh đã góp phần giúp Quân đoàn có bước phát triển lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong tình hình mới.
Sau thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, ở miền Nam toàn bộ bộ máy chiến tranh xâm lược của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã sụp đổ, các tổ chức chính trị và lực lượng phản động cơ bản đã bị đập tan, nhưng đế quốc Mỹ và bọn phản động, nhất là bọn đầu sỏ ác ôn, chưa chịu ngồi yên. Chúng tiếp tục chống đối phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Vì vậy lúc này, nhiệm vụ đang đặt ra đối với quân và dân ta là phải nhanh chóng củng cố các vùng mới giải phóng, khắc phục những hậu quả do chế độ cũ để lại, ổn định tình hình, tạo điều kiện đưa sự nghiệp cách mạng tiến nhanh trong giai đoạn mới. Trên tinh thần đó, cùng với một số đơn vị bạn, Quân đoàn 2 được Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ ở lại tham gia bảo vệ và củng cố, xây dựng vùng giải phóng Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Sau 30 năm đoàn kết chiến đấu “cọng rau bẻ nửa, hạt gạo cắn đôi”, nhân dân ba nước anh em Việt Nam, Lào, Campuchia đã cùng nhau giành được thắng lợi hoàn toàn. Lẽ ra từ đây nhân dân ba nước được hưởng hoà bình, độc lập, tự do, tập trung sức lực và trí tuệ xây dựng đất nước giàu mạnh, cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong tình đoàn kết hữu nghị, nhưng trên đất nước Campuchia, tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary đã dựng lên một chế độ được gọi là “chủ nghĩa xã hội trong sạch”. Thực chất đây là một chế độ độc tài tàn bạo có một không hai trong lịch sử, nhằm thực hiện mưu đồ ngông cuồng của chúng. Chính sách phản động của bè lũ Pôn Pốt - Iêng Xary đã làm cho nhân dân Campuchia phải chịu những thảm họa khủng khiếp của nạn diệt chủng. Thành quả cách mạng của nhân dân Campuchia đã bị thủ tiêu. Với nghĩa tình thuỷ chung, truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời của hai dân tộc, tháng 12/1978, Quân đoàn 2 (thiếu Sư đoàn 306 do mới thành lập tháng 11/1978) chính thức nhận mệnh lệnh hành quân chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, phối hợp với Quân khu 9 tiến công tiêu diệt lực lượng phản động Pôn Pốt - Iêng Xary. Quân đoàn được phối thuộc Sư đoàn bộ binh 8 - Quân khu 9, tổ chức tiến công trên hướng tây nam, tiêu diệt các lực lượng chủ lực tinh nhuệ của Quân khu Đông Nam (gồm 5 sư đoàn); sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nhanh chóng củng cố lực lượng, điều chỉnh đội hình đánh chiếm cảng Kôngpôngxom và Rêam. Quân đoàn đã tổ chức hiệp đồng chặt chẽ với Quân khu 9, thực hiện nhiệm vụ chiến dịch. Trong quá trình xây dựng quyết tâm tác chiến, do chưa có kinh nghiệm chiến đấu trên đất bạn, cán bộ, chiến sĩ còn nhiều băn khoăn, trăn trở về việc bố trí, sử dụng lực lượng. Thấy rõ những khó khăn ấy của Quân đoàn, sau khi đáp máy bay đi thị sát về, Trung tướng Lê Đức Anh, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, kiêm Chỉ huy trưởng Cơ quan tiền phương của Bộ Quốc phòng ở Mặt trận Tây Nam đã đồng ý với đề nghị của Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, chỉ để Trung đoàn 111/Sư đoàn 325 ở lại cùng lực lượng Quân khu 9 phối hợp với bạn tiêu diệt lực lượng địch co cụm trong phạm vi đảm nhiệm trên đất Campuchia; Sư đoàn 304 (đang làm lực lượng dự bị cho Bộ Chỉ huy liên quân tiến công giải phóng Phnôm Pênh) trở về đội hình của Quân đoàn để tập trung đánh chiếm khu vực cảng Kôngpôngxom. Rút kinh nghiệm từ cuộc chiến đấu của Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 126 trước đó, tiến công chính diện vào khu vực cảng, bộ đội bị thương vong lớn và chưa dứt điểm được mục tiêu; Trung đoàn 66 - Sư đoàn 304 nhanh chóng đánh chiếm các điểm cao có lợi khống chế khu vực cảng, sau đó phối hợp cùng bộ đội Vùng 5 Hải quân đổ bộ từ hướng biển lên, giải phóng toàn bộ khu vực cảng Kôngpôngxom - hải cảng quan trọng nhất của Campuchia. Trung tướng Lê Đức Anh trực tiếp chỉ đạo lực lượng Quân khu 9, Quân đoàn 2, Quân đoàn 3 tham gia chiến dịch. Trung tướng kịp thời biểu dương thành tích và cách đánh sáng tạo của Trung đoàn 66, chỉ thị cho Trung đoàn tiếp tục tiến công, giải phóng cảng Rêam. Tiếp đó, Sư đoàn 325 và các đơn vị khác của Quân đoàn đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng của Quân khu 9 liên tục tiến công địch, giải phóng các vùng quan trọng của Quân khu Đông Nam và Đặc khu Kôngpôngxom của Campuchia.
Hoàn thành nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn, ngày 27/02/1979, Quân đoàn được lệnh trở về Tổ quốc. Quá trình phối hợp chiến đấu với Quân khu 9 trên chiến trường Campuchia đã để lại cho cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn nhiều kinh nghiệm chiến đấu với đối tượng tác chiến mới. Thắng lợi to lớn trên chiến trường Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia là sự cổ vũ rất lớn đối với cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn, tăng thêm niềm tin và sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ mới. Thiếu tướng Mai Xuân Tần, nguyên Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân đoàn 2, Trưởng đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia, Phó Trưởng ban Tổng kết công trình “Chiến tranh biên giới Tây Nam và nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia” nhấn mạnh “Đồng chí Lê Đức Anh là một vị Tư lệnh tiền phương, đã thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương, có bản lĩnh, tích cực, kiên quyết và có hiệu quả cao; có phong cách chỉ huy rất hay là đồng chí đã lắng nghe ý kiến của cấp dưới, làm cho công việc có hiệu quả”.
Bước vào công cuộc đổi mới đất nước cũng là từng bước xây dựng chính quy trong quân đội, Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước. Đại tướng Lê Đức Anh được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị và được bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) (02/1987). Triển khai thực hiện chủ trương của Đảng về lĩnh vực quốc phòng, Đại tướng đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương và các cơ quan Bộ Quốc phòng tập trung nghiên cứu, điều chỉnh tổ chức biên chế, thế bố trí chiến lược của quân đội cho phù hợp với quyết tâm tác chiến phòng thủ trong thời kỳ mới; vừa bảo đảm mục tiêu lâu dài, vừa bảo đảm yêu cầu trước mắt, giảm chi phí quốc phòng, phát huy được sức mạnh toàn dân, toàn diện, phòng thủ đất nước. Đó là con đường đổi mới xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, đổi mới công cuộc xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân.
Để nắm vững thế bố trí chiến lược và xây dựng quân đội, Đại tướng tiếp tục đi kiểm tra 6 tỉnh biên giới phía Bắc; nhất là các khu vực đường biên, các trận địa chốt, thị sát trực tiếp công tác tổ chức chiến đấu và sinh hoạt của bộ đội, đối thoại với cán bộ, chiến sĩ ở cơ sở. Bộ trưởng Lê Đức Anh và Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh cùng gặp nhau ở một tư duy là cần phải “giảm quân số thường trực và bố trí lại lực lượng quân đội”. Cả hai vị lãnh đạo đều cảm nhận hình thái bố trí quân đội, nhất là các đơn vị chủ lực cơ động như hiện tại không còn phù hợp; nhưng làm sao giảm được quân số, giảm chi phí quốc phòng, mà vẫn hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là một bài toán vô cùng khó khăn. Không ai lường trước được ý định của nhà cầm quyền phía bên kia biên giới. Đại tướng Văn Tiến Dũng cũng đã góp ý với Đại tướng Lê Đức Anh “trước khi anh ra làm Tổng Tham mưu trưởng, Bộ Tổng Tham mưu còn đề nghị tăng thêm một quân đoàn đứng chân ở đồng bằng Bắc Bộ và Thanh Hóa. Tình hình này mà giảm quân thì khó, mà để vậy cũng thật khó!...”.
Tại Hội nghị “Bộ Chính trị hẹp”, Đại tướng đã báo cáo toàn bộ tình hình biên giới phía Bắc, bằng dẫn chứng sát thực, phân tích đánh giá tình hình, những đề xuất táo bạo và sắc sảo của Đại tướng đã được hội nghị bàn bạc và chấp thuận, trong đó vấn đề giải quyết tình hình biên giới và chiến lược, sách lược của công tác đối ngoại, đó là phá thế bao vây cấm vận và nối lại quan hệ bình thường với Trung Quốc được Bộ Chính trị đặc biệt quan tâm. Đồng thời, Đại tướng đề xuất Bộ Chính trị điều chỉnh chiến lược và giảm quân số quân đội, bước đầu để 5 vạn quân dự bị (từ 9 quân đoàn giảm xuống còn 4 quân đoàn), nhưng sức mạnh chiến đấu không giảm mà càng được tăng cường. Đề xuất này của Đại tướng được Bộ Chính trị nhất trí hoàn toàn.
Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng đã chỉ đạo các cơ quan chức năng điều chỉnh tạm thời thế bố trí chiến đấu ở biên giới phía Bắc; các đơn vị chủ lực cơ động bố trí tuyến thứ hai, đưa nhân dân lên vùng biên giới định cư và sản xuất, đưa dân quân, bộ đội địa phương và bộ đội biên phòng lên tuyến một. Sự điều chỉnh này vừa đáp ứng yêu cầu về nghệ thuật quân sự, vừa là “bước thăm dò” đầu tiên với phía bên kia. Khi lãnh đạo cấp cao Việt Nam và Trung Quốc gặp nhau, việc lập lại quan hệ bình thường giữa hai nước được tiến hành suôn sẻ. Theo đó, Quân đoàn 2 tiếp tục đứng chân ở Hà Bắc (nay là tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh), Quân đoàn 3 từ khu vực phía Bắc trở về đóng quân ở Tây Nguyên, không để địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng này “hở sườn”. Đến tháng 3/1988, Sư đoàn 304 di chuyển từ Hà Bắc và Lạng Sơn sang Vĩnh Phúc, thay thế vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 - Quân đoàn 3 di chuyển vào Tây Nguyên. Với thế bố trí đội hình như trên, Quân đoàn đã mở rộng địa bàn đóng quân, khẳng định hơn vai trò của một quân đoàn chủ lực cơ động, dự bị chiến lược, “án ngữ” ở một hướng chiến lược quan trọng.
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, mà trực tiếp là Đại tướng Lê Đức Anh, Quân đoàn từng bước điều chỉnh, sắp xếp lại lực lượng cho phù hợp với yêu cầu mới. Trường đào tạo hạ sĩ quan của Quân đoàn giải thể và nhiệm vụ đào tạo tiểu đội trưởng, khẩu đội trưởng, nhân viên chuyên môn kỹ thuật được giao cho Sư đoàn 304, 325 đảm nhiệm. Tháng 7/1987, Quân đoàn được giao nhiệm vụ quản lý và chỉ huy Trường bắn Cấm Sơn. Đây là một trường bắn lớn, bảo đảm phục vụ cho các đơn vị trong toàn quân ở phía Bắc tiến hành diễn tập hoặc bắn đạn thật. Theo chủ trương chung, Bộ xây dựng một số sư đoàn bộ binh có trang bị vũ khí, phương tiện hiện đại, khả năng cơ động cao, chiến đấu trên các địa hình thời tiết phức tạp, Sư đoàn 304 tiếp tục được xây dựng thành Sư đoàn bộ binh cơ giới (cùng với Sư đoàn 308 của Quân đoàn 1, Sư đoàn 320 của Quân đoàn 4).
Theo yêu cầu nhiệm vụ, tháng 4/1988, Bộ Quốc phòng điều Sư đoàn 325 lên Vị Xuyên - Hà Tuyên (nay là Hà Giang) thay phiên Sư đoàn 312 - Quân đoàn 1 tổ chức phòng ngự bảo vệ chủ quyền biên giới của Tổ quốc. Ở tuyến giáp với quân địch, Sư đoàn 325 cùng với các đơn vị phối thuộc khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, xây dựng trận địa phòng ngự vững chắc, luyện tập thuần thục các phương án tác chiến. Hoàn thành nhiệm vụ phòng ngự chiến đấu, tháng 11/1988, Sư đoàn 325 bàn giao trận địa cho đơn vị bạn trở về đội hình Quân đoàn. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm chiến đấu của các đơn vị ở Vị Xuyên, Bộ Tổng Tham mưu đã bổ sung những kinh nghiệm của Quân đoàn 2 khi làm nhiệm vụ thay phiên vào nội dung huấn luyện cho bộ đội để sát với thực tế chiến đấu trong bảo vệ Tổ quốc.
Để xây dựng bộ đội chủ lực mạnh, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, yêu cầu phải có các đơn vị vững mạnh toàn diện. Thực hiện chủ trương của Bộ, tháng 12/1988, Quân đoàn được giao nhiệm vụ xây dựng đơn vị điểm vững mạnh toàn diện theo 5 yêu cầu, 5 biện pháp. Quân đoàn xác định kế hoạch và thông qua Bộ Quốc phòng, xây dựng Trung đoàn 95 - Sư đoàn 325 là đơn vị điểm năm 1989. Từ ngày 16/10 đến ngày 05/11/1989, Bộ Quốc phòng mở lớp tập huấn cho Tư lệnh các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng tại Quân đoàn 2. Nội dung trọng tâm của lớp tập huấn là đổi mới công tác huấn luyện sát với tình hình nhiệm vụ mới, Trung đoàn 95 được giao nhiệm vụ diễn tập thực binh phục vụ lớp tập huấn, kết thúc diễn tập Trung đoàn được Bộ Quốc phòng đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ. Năm 1992, Bộ Quốc phòng tiếp tục chọn Sư đoàn 325 để xây dựng đơn vị điểm vững mạnh toàn diện trong 3 năm (1992 - 1994). Đây là lần thứ hai Quân đoàn vinh dự được Bộ chọn là một trong hai đơn vị điểm vững mạnh toàn diện rút kinh nghiệm cho toàn quân. Qua xây dựng, Sư đoàn 325 đã từng bước chuyển biến rõ rệt, Sư đoàn đã đón hàng trăm đoàn đại biểu của các đơn vị, nhà trường, các lớp tập huấn về học tập, rút kinh nghiệm và thường xuyên gửi cán bộ, học viên đi thực tế ở Sư đoàn. Cuối năm 1992, Sư đoàn 325 một lần nữa thực hiện cuộc diễn tập thực nghiệm cho các Tư lệnh quân khu, quân đoàn, quân binh chủng tham quan, được Bộ Quốc phòng và Ban Chỉ đạo lớp học đánh giá cao.
Trong giai đoạn này, thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng mà đứng đầu là Đại tướng Lê Đức Anh, Quân đoàn rút gọn biên chế phù hợp với yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới. Lữ đoàn Tăng - thiết giáp 203 được chuyển thành Trung đoàn Tăng - thiết giáp 203, các Trung đoàn Pháo binh 164 và Trung đoàn Phòng không 673 được chuyển thành Lữ đoàn Pháo binh 164 và Lữ đoàn Phòng không 673. Một số trung đoàn binh chủng nằm trong biên chế của các sư đoàn bộ binh giải thể. Các sư đoàn (304, 325, 306) và các lữ đoàn, trung đoàn trực thuộc khác của Quân đoàn đều được điều chỉnh hoặc rút gọn biên chế theo yêu cầu mới. Việc rút gọn tổ chức, biên chế nhưng không vì thế mà giảm sức mạnh và sức chiến đấu của các đơn vị. Toàn Quân đoàn luôn ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao, sẵn sàng làm nòng cốt để phát triển thành các tổ chức mới, đánh thắng địch trong mọi tình huống.
Nhằm làm giảm gánh nặng chi phí ngân sách cho quốc phòng, giải quyết khủng hoảng kinh tế, góp sức vào công cuộc đổi mới đất nước mà Đảng vừa khởi xướng, Bộ trưởng, Đại tướng Lê Đức Anh đề nghị có chính sách cụ thể để cải thiện đời sống cho bộ đội. Trước mắt là nâng mặt bằng tiền lương của sĩ quan và người hưởng lương trong quân đội lên 1,5 lần; sau đó là, giải quyết nhà ở cho cán bộ. Bộ trưởng đề nghị các giải pháp để giải quyết việc làm cho bộ đội xuất ngũ. Trước đây, quân đội đã có hai lần giảm quân với số lượng lớn, một lần sau khi thắng Pháp và một lần sau khi thắng Mỹ, nhưng cả 2 lần người lính thắng trận trở về lại rơi vào hoàn cảnh “học không hay, cày không biết”, cuộc sống rất khó khăn vất vả. Bởi vậy, lần này giảm quân, đồng chí Lê Đức Anh đề nghị các bộ, ban, ngành bên ngoài quân đội ưu tiên cho bộ đội xuất ngũ đi xuất khẩu lao động. Đề xuất này của đồng chí Lê Đức Anh được các cơ quan nhất trí cao. Lần đầu tiên trong lịch sử quân đội, nhiều đồng chí xuất ngũ được đi lao động ở châu Âu, chủ yếu là ở Đức, Nga, Irắc, Libi..., được tổ chức thành “đoàn, đội” rất nền nếp, chặt chẽ. Ở Quân đoàn 2, chỉ tính riêng Sư đoàn 304, năm 1988 thực hiện mẫu biên chế mới, quân số giảm mạnh từ hơn 14.000 người xuống còn 3.600 người, hơn 8.000 chiến sĩ được xuất ngũ và chuyển đơn vị; 200 cán bộ được nghỉ hưu, phục viên, chuyển ngành, đi học và xuất khẩu lao động tại Cộng hòa dân chủ Đức và Liên Xô.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Bộ trưởng Lê Đức Anh đã giao nhiệm vụ xây dựng quân dự bị động viên cho một số đơn vị. Lúc đầu, Quân đoàn có một trung đoàn được giao nhiệm vụ này, qua đó thành lập các khung trung đoàn xây dựng quân dự bị động viên. Xây dựng khung đơn vị dự bị động viên và thực hành động viên quân dự bị là một nhiệm vụ hết sức mới mẻ. Trong khi tập trung xây dựng các đơn vị có đủ biên chế thành đơn vị vững mạnh toàn diện, đơn vị điểm cho toàn quân, Bộ Tư lệnh Quân đoàn giao cho Trung đoàn 111 - Sư đoàn 306 xây dựng đơn vị dự bị động viên. Đến tháng 8/1986, theo chỉ thị của Bộ Quốc phòng, Sư đoàn 306 được giao nhiệm vụ thành lập “khung thường trực động viên”; đến năm 1987, Quân đoàn cũng giao nguồn động viên cho một số đơn vị của Sư đoàn 304 và các lữ đoàn, trung đoàn trực thuộc. Từ năm 1991 trở đi, Quân đoàn được Bộ chính thức giao nhiệm vụ nghiên cứu thực hiện xây dựng lực lượng dự bị động viên theo phương thức mới: Phương thức “một nhân hai”, nội dung chính “từ một đơn vị đủ quân trong thời bình, chuẩn bị đầy đủ các mặt bảo đảm cần thiết để tách thành hai đơn vị khi có chiến tranh”. Đây là một phương thức không hoàn toàn mới, đã được thực hiện trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, từ một sư đoàn tách ra nhiều sư đoàn (như Sư đoàn 304A, 304B...). Khó khăn lúc này là thực hiện trong hoàn cảnh, điều kiện mới, cán bộ và nhân viên không nhiều như những năm chiến tranh trước đây. Khó nhất là đòi hỏi vừa phải thực hiện mọi nhiệm vụ thường xuyên của đơn vị thường trực đủ quân vừa phải chuẩn bị mọi mặt bảo đảm cho đơn vị thứ hai ra đời khi có lệnh. Năm 1992, Quân đoàn thực hiện phương thức này tới cấp sư đoàn, trong đó có thực hiện diễn tập động viên cấp tiểu đoàn (Tiểu đoàn 5 thuộc Trung đoàn 95 - Sư đoàn 325), kết quả đạt yêu cầu cấp trên đề ra. Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VI, VII của Đảng, sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng mà trực tiếp là Bộ trưởng Lê Đức Anh, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân đoàn đã từng bước tự đổi mới, phát huy nội lực, năng động trong xây dựng Quân đoàn vững mạnh toàn diện. Ngoài các đơn vị đủ quân sẵn sàng chiến đấu, Quân đoàn còn xây dựng các đơn vị vừa huấn luyện chiến sĩ mới dự trữ cho Bộ, vừa tổ chức bổ túc xây dựng động viên quân dự bị. Đây là thời kỳ Quân đoàn đã vượt qua thử thách mới về xây dựng lực lượng đủ mạnh đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu trước mắt, đồng thời tạo cơ sở mở rộng lực lượng theo yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh gắn liền với những chiến công, những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc và sự trưởng thành của quân đội nói chung và Quân đoàn 2 nói riêng. Những cống hiến của Đại tướng đã từng bước góp phần xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn nước ta gặp muôn vàn khó khăn, như cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt nhận định: “... Là một cán bộ tham mưu tầm cỡ, một vị chỉ huy cương nghị, bản lĩnh và dám chịu trách nhiệm, một Bộ trưởng Quốc phòng trong thời bình xây dựng có nhiều đổi mới trong tổ chức và bố trí lực lượng quân đội, lực lượng vũ trang nhân dân, một trong những người lãnh đạo quốc gia tầm cỡ trong thời kỳ đổi mới đất nước”. Đối với Quân đoàn 2, từ phong cách lãnh đạo, chỉ huy chiến đấu ở biên giới Tây Nam và chiến trường Campuchia, sự tin tưởng và những chỉ đạo của Đại tướng đã giúp cho Quân đoàn không ngừng phát triển, trưởng thành, xứng đáng là Quân đoàn chủ lực cơ động chiến lược của Bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, phát huy truyền thống “Thần tốc - Táo bạo - Quyết thắng” của Quân đoàn 2 anh hùng, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn luôn đoàn kết, sáng tạo quyết tâm xây dựng Quân đoàn vững mạnh toàn diện, “mẫu mực tiêu biểu”, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Thiếu tướng PHẠM VĂN HÓA
Quân đoàn 3 là một trong những Quân đoàn chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập ngày 26/3/1975, trên cơ sở chuyển gọn khối bộ đội chủ lực mặt trận Tây Nguyên, sau khi hoàn thành xuất sắc Chiến dịch Tây Nguyên, trận tiến công giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, mở đầu cho cuộc Tổng tiến công nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thành lập chưa đầy 10 ngày, Quân đoàn đã vinh dự nhận nhiệm vụ đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Quán triệt sâu sắc quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị và chỉ thị, mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh trong đó có đồng chí Lê Đức Anh, Quân đoàn đã nhanh chóng củng cố, cơ động toàn bộ lực lượng từ các tỉnh Tây Nguyên và duyên hải miền Trung về hướng bắc Sài Gòn, tham gia chiến dịch với quyết tâm cao, khí thế sục sôi cách mạng, nắm vững phương châm “Mạnh bạo, chắc thắng, đánh mạnh, đánh liên tục, nắm chắc thời cơ, thọc sâu phát triển nhanh”.
Ngay sau ngày đất nước được giải phóng, tháng 6/1976 Quân đoàn đã bàn giao địa bàn cho Quân khu 7 để trở về Tây Nguyên, phối hợp với các lực lượng vũ trang, cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương các tỉnh Lâm Đồng, Thuận Hải, Phú Khánh, Đắk Lắk làm nhiệm vụ truy quét FULRO và các nhóm phản động, đập tan âm mưu nổi loạn cướp chính quyền; cơ động chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế cao cả. Theo yêu cầu và nhiệm vụ đặc biệt, trước tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp, ở một số khu vực biên giới phía Bắc, ngày 03/5/1979, Bộ Quốc phòng lệnh điều động toàn bộ Quân đoàn 3 từ vị trí đang đóng quân tại Campuchia hành quân cơ động ra khu vực phía Bắc thuộc tỉnh Bắc Thái (nay là Thái Nguyên) với đầy đủ vũ khí trang bị kỹ thuật, sẵn sàng tham gia chiến đấu.
Năm 1987, trên cương vị là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Lê Đức Anh đã đề xuất với Bộ Chính trị về chủ trương thực hiện điều chỉnh bố trí lực lượng các quân đoàn chủ lực phù hợp với thế bố trí chiến lược, kế hoạch phòng thủ cơ bản của ta vững chắc hơn, không mơ hồ, mất cảnh giác, sẵn sàng đối phó với các tình huống trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Ở đây tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về “chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính, lâu dài, tự lực, tự chủ và đoàn kết quốc tế” đã được vận dụng phù hợp với tình hình mới, hoàn cảnh mới của đất nước. Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu ra Mệnh lệnh số 46/ML-BTTM “Về chấn chỉnh tổ chức và điều chỉnh bố trí lực lượng”, Quân đoàn 3 được điều động trở lại địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Quán triệt sâu sắc nhiệm vụ của Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng giao, nắm chắc tình hình mọi mặt của đơn vị, với kinh nghiệm, sự nhạy bén trước mỗi bước ngoặt lịch sử và nhiệm vụ mới, Đảng ủy Quân đoàn ra Nghị quyết về thực hiện “nhiệm vụ 4.87”, Nghị quyết xác định rõ: “Tổ chức chặt chẽ các đợt hành quân, đi nhanh đi gọn, đến đủ, bảo đảm an toàn và có kỷ luật nghiêm, sẵn sàng chiến đấu tốt, đến nơi triển khai xây dựng doanh trại, đồng thời làm tốt công tác dân vận, công tác hậu phương cho cán bộ”. Quân đoàn hành quân di chuyển toàn bộ đội hình từ các tỉnh Bắc Thái[300], Hà Bắc[301], Vĩnh Phú[302] vào Gia Lai - Kon Tum, Nghĩa Bình và Phú Khánh. Đây là cuộc hành quân di chuyển lớn lần thứ hai của Quân đoàn, đường hành quân dài 1.500km qua 11 tỉnh, thành phố, bằng 3 loại phương tiện: tàu hỏa, ô tô, tàu biển, tổ chức thành 3 đợt hành quân. Kết quả hành quân di chuyển: Quân đoàn hoàn thành tốt “nhiệm vụ 4.87”, đội hình cơ bản của Quân đoàn vào vị trí mới, gồm 20.961 người, 1.147 xe ô tô các loại, hơn 11.000 tấn vật chất hàng hóa. Tại vị trí mới, các đơn vị đã nhanh chóng ổn định nơi ăn ở, sinh hoạt và triển khai các kế hoạch công tác.
Với tình cảm chân thành và sự quan tâm sâu sắc với cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 3, trong thời điểm khó khăn gian khổ, khi đợt hành quân thứ nhất đang diễn ra, ngày 18/4/1988, Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã vào Tây Nguyên thăm và làm việc với Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 tại Sở Chỉ huy tiền phương ở thị xã Pleiku, tỉnh Gia Lai - Kon Tum. Là người chỉ huy luôn sâu sát với các đơn vị cơ sở, trong thời gian làm việc với Quân đoàn, đồng chí Bộ trưởng đã trực tiếp xuống kiểm tra Sư đoàn Bộ binh 10, Sư đoàn Bộ binh cơ giới 320; phê duyệt vị trí đóng quân mới của Quân đoàn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên và duyên hải miền Trung. Sự quan tâm, chỉ đạo động viên kịp thời của đồng chí Bộ trưởng Lê Đức Anh là nguồn cổ vũ rất lớn với cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn Tây Nguyên, hăng hái thi đua quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hành quân di chuyển mà Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) và Bộ Quốc phòng giao.
Sau cuộc hành quân, Quân đoàn đã tổ chức Hội nghị tổng kết “Nhiệm vụ 4.87”, rút ra nhiều bài học quý và kinh nghiệm thiết thực như: Quán triệt ý định cấp trên, nắm chắc nhiệm vụ đơn vị, lập kế hoạch đầy đủ chính xác, tổ chức thực hiện chủ động linh hoạt. Tổ chức lực lượng hậu cần đủ sức bảo đảm cho nhiệm vụ hành quân và tổ chức đời sống ở địa bàn mới là một nhân tố có tính quyết định đến hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ. Tổ chức bảo đảm kỹ thuật chu đáo là yếu tố quyết định hành quân bằng xe cơ giới. Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức mới, nhưng Quân đoàn đã nêu cao ý chí tự lực, tự cường, khắc phục mọi khó khăn gian khổ, phát huy truyền thống “Quyết thắng, sáng tạo, đoàn kết, thống nhất, nghiêm túc, tự lực”, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng giao.
Dưới sự chỉ đạo và kiểm tra trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Hội nghị tổng kết “nhiệm vụ 4.87” được tổ chức, Hội nghị khẳng định: “Sau 6 tháng thực hiện nhiệm vụ hành quân di chuyển, Quân đoàn đã đưa được toàn bộ lực lượng, phương tiện, trang bị vũ khí kỹ thuật vào vị trí mới. Thực hiện đúng ý định và mệnh lệnh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện tốt phương châm, tư tưởng chỉ đạo: “Đi nhanh, đi gọn, đến đủ, an toàn, kỷ luật nghiêm, sẵn sàng chiến đấu cao, chủ động khắc phục mọi khó khăn, bảo đảm tốt đời sống bộ đội ở địa bàn đóng quân mới”. Kết thúc đợt hành quân di chuyển, Quân đoàn 3 được Bộ Quốc phòng tặng cờ thi đua, có 03 đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Chủ tịch nước tặng Huân chương Chiến công.
Chấp hành chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trong hai năm 1989 - 1990, Quân đoàn đã chủ động nắm vững vị trí, chức năng, nhiệm vụ là Quân đoàn chủ lực cơ động của Bộ trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Ngay từ khi đặt chân vào vị trí đóng quân mới, Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Quân đoàn đã chỉ đạo: “Tập trung xây dựng Quân đoàn vững mạnh, có sức chiến đấu cao, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, nâng cao đời sống cho cán bộ, chiến sỹ, đồng thời tham gia xây dựng địa bàn chiến lược Tây Nguyên vững mạnh về mọi mặt”. Phối hợp với Quân khu 5 xây dựng phương án tác chiến phòng thủ khu vực chặt chẽ cơ bản, ngay từ năm 1988, Quân đoàn đã chủ động tổ chức cho gần 300 lượt cán bộ chỉ huy và cơ quan từ cấp trung đoàn trở lên đi nghiên cứu thực địa trên các hướng nhiệm vụ, đồng thời nhanh chóng hoàn chỉnh kế hoạch chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu ở tất cả các cấp. Xác định rõ huấn luyện chiến đấu và giáo dục chính trị luôn là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên, vì vậy trong bộn bề công việc, Quân đoàn vẫn kiên quyết giành thời gian tập trung cán bộ, bảo đảm vật chất, thao trường hoàn thành nội dung, chương trình huấn luyện cho các đối tượng. Để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và tiếp tục đẩy mạnh xây dựng quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, hiện đại, tinh nhuệ; thực hiện chấn chỉnh tổ chức biên chế rút gọn theo quy định của Bộ phù hợp với nhiệm vụ của Quân đoàn, từ cuối năm 1988 đến năm 1990, Quân đoàn tiến hành giải thể các đơn vị: Sư đoàn 860, bệnh xá 4 cơ quan Quân đoàn, Đội sản xuất dược liệu 85, Đoàn xây dựng 386. Một trong những điểm nổi bật và thành công nhất của Quân đoàn trong những năm đầu trở lại Tây Nguyên là công tác xây dựng cơ bản. Chỉ trong một thời gian ngắn, với tinh thần tự lực vượt bậc, bằng phần lớn công sức lao động, sản xuất của cán bộ, chiến sĩ, Quân đoàn đã xây dựng được một khối lượng lớn các công trình quan trọng như Sở chỉ huy, nhà ở, các kho tàng với bước đi thích hợp, đúng hướng, tiến độ nhanh, có chất lượng và hiệu quả thiết thực.
Đóng quân và làm nhiệm vụ trên địa bàn mới có nhiều dân tộc thiểu số và nhiều tôn giáo khác nhau, kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, các thế lực thù địch ráo riết hoạt động chống phá, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, hòng chuẩn bị cho những âm mưu đen tối lâu dài; với tình cảm và trách nhiệm cao, mặc dù còn nhiều khó khăn, Quân đoàn luôn quán triệt sự chỉ đạo của Bộ trưởng Lê Đức Anh, xác định công tác dân vận là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên. Ngay từ những ngày đầu, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân đoàn và cấp ủy chỉ huy các cấp đã chủ động quan hệ với cấp ủy, chính quyền địa phương tổ chức các hội nghị quân dân, xây dựng quy chế làm việc, thống nhất quan điểm giải quyết công việc, đồng thời phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang địa phương xây dựng địa bàn, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Mối quan hệ giữa Quân đoàn với Đảng bộ, chính quyền, nhân dân ngày càng được củng cố, phát triển, đã gây được lòng tin yêu và tình cảm tốt đẹp với nhân dân các dân tộc Tây Nguyên.
Có thể nói, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức mới, nhưng với sự chỉ đạo sâu sát của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh, Quân đoàn đã luôn nêu cao ý chí tự lực, tự cường, khắc phục mọi khó khăn gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng giao. Trong những năm trên cương vị là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Lê Đức Anh đã lãnh đạo, chỉ đạo Quân đoàn giành nhiều thắng lợi, đánh dấu bước trưởng thành, lớn mạnh không ngừng của Quân đoàn 3 - “Binh đoàn Tây Nguyên”. Cùng với quân và dân cả nước, lớp lớp cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn đã vượt qua một chặng đường đầy hy sinh, thử thách để trưởng thành tiến bộ và giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 3 luôn nhận thức sâu sắc rằng, mỗi bước trưởng thành lớn mạnh của Quân đoàn đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, sự nuôi dưỡng đùm bọc của nhân dân, sự đoàn kết hiệp đồng với các đơn vị bạn và địa phương; đồng thời, cũng là kết quả nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của cán bộ, chiến sỹ trong toàn đơn vị.
Trong thời gian tới, trước diễn biến phức tạp ở Biển Đông, tác động của đại dịch Covid-19; đặc biệt là sự chống phá của thế lực phản động, thù địch trước Đại hội lần thứ XIII của Đảng và trước bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV; để tiếp tục củng cố và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên, Quân đoàn cần tập trung thực hiện tốt những nội dung chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên; vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào thực tiễn địa bàn hoạt động của Quân đoàn; đề ra các chủ trương, giải pháp đúng đắn lãnh đạo Quân đoàn hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Hai là, tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của Quân đoàn, gắn xây dựng tổ chức đảng vững mạnh với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Thực hiện nghiêm quy chế phối hợp giữa quân đội với các lực lượng, nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, đấu tranh triệt phá tổ chức phản động, FULRO, phòng chống có hiệu quả tình hình xâm nhập, vượt biên, truyền đạo trái phép, kích động lôi kéo đồng bào biểu tình..., góp phần ổn định an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên.
Ba là, phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương trong củng cố vững chắc hệ thống chính trị cơ sở để phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị vào thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng “thế trận quốc phòng toàn dân” vững chắc.
Bốn là, tích cực tham gia phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, làm giàu, phối hợp với các địa phương tích cực xây dựng nông thôn mới; tuyên truyền, vận động tăng cường thu hút đầu tư, chăm lo phát triển sản xuất bảo đảm an sinh xã hội; đồng thời xây dựng phát triển các khu vực trồng cây công nghiệp, các cơ sở tham gia sản xuất góp phần nâng cao đời sống của bộ đội, ổn định bền vững nền kinh tế quốc phòng.
Tự hào với truyền thống vẻ vang và thành tích đã giành được, trải qua 45 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) và 33 năm trở lại địa bàn chiến lược Tây Nguyên, đặc biệt là sự quan tâm của nguyên Bộ trưởng, Đại tướng Lê Đức Anh, cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 3 quyết tâm xây dựng đơn vị “tinh, gọn, mạnh”, không ngừng nâng cao sức mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu, làm tròn nhiệm vụ của quân đoàn chủ lực cơ động, dự bị chiến lược của Bộ, xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, của nhân dân, góp phần xây dựng địa bàn chiến lược Tây Nguyên ngày càng phát triển bền vững và giàu đẹp.
Thiếu tướng, TS. NGUYỄN ANH TUẤN
Quân đoàn 1 là Quân đoàn chủ lực, cơ động, dự bị chiến lược đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập ngày 24/10/1973. Ngay sau khi được thành lập dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương – Bộ Quốc phòng, Quân đoàn đã nhanh chóng ổn định tổ chức biên chế, vừa huấn luyện, vừa xây dựng và chuẩn bị mọi mặt cho xây dựng Quân đoàn thành một binh đoàn chủ lực, cơ động chiến lược, có sức chiến đấu cao, sức đột kích mạnh, có khả năng tác chiến tập trung hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Quân đoàn 1 vừa thực hiện thắng lợi nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vừa phải tổ chức hành quân thần tốc vào Nam tham gia chiến dịch, được giao nhiệm vụ tiến công trên hướng chủ yếu. Thực hiện nhiệm vụ được giao, Quân đoàn đã nắm vững thời cơ, kiên quyết tiến công, thần tốc táo bạo, bất ngờ đánh chiếm những mục tiêu có tính chiến lược trong hệ thống phòng thủ của địch; tiêu diệt và bức hàng hoàn toàn Sư đoàn 5 ngụy, giải phóng tỉnh Bình Dương; táo bạo thọc sâu đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu - cơ quan đầu não của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngay sau ngày đất nước được giải phóng, đáp ứng yêu cầu của cách mạng, Quân đoàn trở về miền Bắc làm nhiệm vụ huấn luyện, xây dựng đơn vị, sẵn sàng nhận nhiệm vụ trên giao. Trước những yêu cầu nhiệm vụ đặc biệt, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp, ở một số khu vực biên giới phía Bắc, ngày 16/5/1986, thực hiện sự chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đoàn cán bộ của Bộ Quốc phòng về làm việc với Bộ Tư lệnh Quân đoàn, về chủ trương sử dụng một số đơn vị trong Quân đoàn sẵn sàng thay phiên Sư đoàn 356 – Quân khu 2 làm nhiệm vụ chiến đấu ở khu vực biên giới thuộc tỉnh Hà Tuyên.
Chấp hành chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Quân đoàn đã tập trung chỉ đạo các đơn vị trong Quân đoàn làm tốt mọi công tác chuẩn bị cả về tổ chức, biên chế vũ khí, trang bị và huấn luyện sẵn sàng làm nhiệm vụ chiến đấu, trước mắt tập trung cho ba đơn vị: Sư đoàn 312, Trung đoàn 88 - Sư đoàn 308, Trung đoàn 48 - Sư đoàn 390. Ngày 30/12/1986, Đảng ủy Quân đoàn họp ra Nghị quyết lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ năm 1987. Nghị quyết nêu rõ: “Tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp của Quân đoàn trên tất cả các mặt công tác quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật. Thực hiện tốt hai nhiệm vụ chính là huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và lao động sản xuất, xây dựng kinh tế...”. Bên cạnh việc tập trung chỉ đạo bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật và tổ chức biên chế cho ba đơn vị, ngay từ giai đoạn huấn luyện 1, Quân đoàn đi sâu chỉ đạo Sư đoàn 390 lấy Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 48 làm điểm tập trung huấn luyện các hình thức tiến công và phòng ngự ở địa hình rừng núi, trên các địa hình tương tự như khu vực đồi Cây Si, Ba Lá để thực hành huấn luyện sát với nhiệm vụ chiến đấu.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ngày 31/3/1987, Tổng Tham mưu trưởng đã ra Mệnh lệnh số 04/ML-TM về việc chuẩn bị cho Sư đoàn 312 sẵn sàng lên làm nhiệm vụ chiến đấu trên hướng Vị Xuyên - Hà Tuyên (mật danh là nhiệm vụ T87). Thường vụ Đảng ủy Quân đoàn đã nghiên cứu, quán triệt kỹ mệnh lệnh của Bộ, ra nghị quyết lãnh đạo chuyên đề thực hiện nhiệm vụ, xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm của Quân đoàn trong năm 1987. Trên cơ sở đó, Tư lệnh Quân đoàn chỉ thị cho các cơ quan, đơn vị về công tác chuẩn bị cho nhiệm vụ T87, chính thức giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 312 và các lực lượng tăng cường. Mặc dù nhiệm vụ đã được dự báo và làm công tác chuẩn bị từ trước, song trong điều kiện nền kinh tế của đất nước còn khó khăn, Quân đoàn đã tập trung mọi nguồn lực làm tốt công tác chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ thay phiên phòng ngự cho Sư đoàn 356 -Quân khu 2.
Ngay sau khi có mặt ở Vị Xuyên, Sư đoàn 312 tiến hành thay phiên cho Sư đoàn 356 - Quân khu 2. Do có sự chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Quân đoàn 1 tổ chức triển khai huấn luyện chu đáo nên việc tổ chức thay phiên được tiến hành nhanh gọn bí mật, an toàn. Ngày 16/8/1987, các đơn vị đã hoàn thành việc chiếm lĩnh các khu vực phòng ngự. Bước vào thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, Sư đoàn 312 tổ chức đội hình thành 2 tuyến phòng ngự để vừa bảo đảm luôn có lực lượng thay phiên nội bộ, vừa đủ khả năng tiến hành phản kích khi có lệnh. Trong suốt quá trình chiến đấu, Sư đoàn thực hiện tốt tư tưởng chỉ đạo mà Nghị quyết Đảng ủy Sư đoàn đề ra: “Phòng ngự tích cực, kiên cường, cảnh giác cao, sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết giữ vững trận địa, bảo vệ vững chắc từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc”.
Dưới sự chỉ đạo sâu sát, tỉ mỉ, sát với thực tế của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trong 8 tháng làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, các đơn vị Quân đoàn 1 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, Sư đoàn 312 được Bộ Tư lệnh Quân khu 2 tặng cờ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phòng ngự. Trung đoàn 165 - Sư đoàn 312 được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất. Trung đoàn 48 - Sư đoàn 390 được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì; 3.975 cán bộ, chiến sĩ được tặng thưởng huân chương các loại và nhiều bằng khen, giấy khen.
Trong lúc tình hình ở biên giới phía Bắc đang diễn biến phức tạp, vào đầu năm 1988, chủ quyền lãnh hải, vùng biển và quần đảo Trường Sa của ta bị đe dọa nghiêm trọng, cả nước lại hướng về Trường Sa. Trước tình hình đó, cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 1 lại cùng với toàn dân, toàn quân sẵn sàng chi viện cho Trường Sa, góp phần chiến đấu bảo vệ chủ quyền thiêng liêng vùng biển đảo của Tổ quốc.
Ngay sau khi chiến sự nổ ra ở Trường Sa, Bộ Quốc phòng quyết định tăng cường cho các đơn vị làm nhiệm vụ ở quần đảo này một lực lượng cán bộ, chiến sĩ có kinh nghiệm chiến đấu. Là một Quân đoàn chủ lực cơ động, được Bộ giao chọn 70 cán bộ từ cấp trung đội đến tiểu đoàn (cả cơ quan và đơn vị) ra làm nhiệm vụ ở Trường Sa. Do làm tốt công tác chính trị tư tưởng, Quân đoàn bảo đảm đủ chỉ tiêu Bộ giao, tất cả số cán bộ được chọn đều xác định tốt nhiệm vụ, phấn khởi lên đường làm nhiệm vụ.
Theo yêu cầu của Nhà nước và Quân đội nước Cộng hoà nhân dân Campuchia, chấp hành mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, tháng 11/1989, Quân đoàn 1 tổ chức một khung cố vấn Sư đoàn bộ binh cơ giới đi làm nhiệm vụ giúp Quân đội nước bạn. Quân đoàn chỉ đạo Sư đoàn bộ binh cơ giới 308 chọn 48 cán bộ, chiến sĩ tổ chức khung cố vấn từ cấp sư đoàn tới trưởng xe (mang tên K88B). Sau 2 năm công tác, đoàn đã giúp bạn huấn luyện xây dựng Sư đoàn bộ binh số 7, đồng thời cùng với bạn trực tiếp tham gia chiến đấu truy quét lực lượng tàn quân Pôn Pốt ở các khu vực thuộc các tỉnh Kampong Speu, Kratie. Tháng 7/1991, Đoàn cố vấn quân sự K88B kết thúc nhiệm vụ lên đường về nước.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ được Bộ Quốc phòng giao, Quân đoàn đã quán triệt và chấp hành tốt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng. Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Quân đoàn luôn xác định nhiệm vụ huấn luyện xây dựng lực lượng dự bị động viên là nhiệm vụ mới, có nhiều khó khăn phức tạp; các cấp cần lãnh đạo, chỉ huy chặt chẽ và đầu tư mọi mặt cho nhiệm vụ huấn luyện. Về cơ bản Quân đoàn hoàn thành kế hoạch chương trình huấn luyện hằng năm cho các đối tượng, nâng dần chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu. Thực hiện huấn luyện “Cơ bản, thiết thực, vững chắc” lấy thực hành làm chính, sát với đối tượng tác chiến, đặc điểm chiến trường, phù hợp với cách đánh và trang bị hiện có. Qua huấn luyện trình độ sử dụng vũ khí trang bị của bộ đội, năng lực chỉ huy, quản lý của đội ngũ cán bộ được nâng lên, qua kiểm tra 100% đạt yêu cầu, 75% đạt khá và giỏi, tham gia hội thi hội thao toàn quân nhiều nội dung đạt giải cao; diễn tập đều được Bộ đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ; đồng thời gắn chặt việc huấn luyện với giáo dục chấp hành kỷ luật, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật.
Song song với hoạt động trên, Quân đoàn đã tăng cường và nâng cao công tác giáo dục chính trị tư tưởng làm cho đảng viên, quần chúng luôn tin tưởng vào chủ trương, đường lối, quan điểm tư tưởng của Đảng, củng cố phát huy bản chất giai cấp công nhân, truyền thống vẻ vang của quân đội, của Quân đoàn, giữ vững ý chí chiến đấu, lòng tin, kiên trì với mục tiêu xã hội chủ nghĩa, không có biểu hiện và quan điểm trái ngược, tình hình chính trị, tư tưởng luôn ổn định. Do thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 15/12/1982 của Bộ Chính trị một cách nghiêm túc, có hiệu quả nên cơ chế lãnh đạo của Đảng trong Quân đoàn được củng cố vững chắc; các cấp ủy, tổ chức Đảng và cơ quan chính trị thường xuyên được củng cố kiện toàn, phù hợp với chức năng nhiệm vụ bảo đảm giữ vững sự lãnh đạo và phát huy hiệu quả, nhất là khi có biến động về tổ chức, luôn giữ vững và chấp hành nghiêm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; phát huy được trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong xây dựng chủ trương, biện pháp lãnh đạo.
Từ những chỉ đạo sâu sát của đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, từ những kết quả đạt được trên các nhiệm vụ đã khẳng định sự phát triển và trưởng thành của Quân đoàn 1 (1987 - 1992), được thể hiện qua một số vấn đề chính sau:
Một là, quán triệt sâu sắc tình hình nhiệm vụ được giao, chấp hành nghiêm các chỉ thị, nghị quyết và mệnh lệnh của cấp trên vừa là bài học quý báu, vừa là truyền thống tốt đẹp của Quân đoàn. Trước tình hình thế giới và trong nước có biến động phức tạp, do có sự chỉ đạo sâu sát của Bộ Quốc phòng; Đảng bộ Quân đoàn và các cấp hết sức coi trọng lãnh đạo, giáo dục tình hình, nhiệm vụ cho các đối tượng, đặc biệt là cán bộ chủ trì, lãnh đạo chỉ huy để có hiểu biết sâu sắc về tình hình, thông suốt và nhất trí với nhiệm vụ. Trong giáo dục chú trọng tính trung thực, thẳng thắn nên được quần chúng dễ dàng tiếp nhận và ủng hộ; đồng thời với giáo dục tình hình nhiệm vụ đã lãnh đạo, nghiêm chỉnh chấp hành các chỉ thị, nghị quyết của trên nên khi có nhiệm vụ dù thuận lợi hoặc khó khăn, trong xây dựng cũng như chiến đấu, có thời gian chuẩn bị hoặc thời gian gấp... mọi cấp, mọi người đều sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Hai là, trong quá trình thay phiên làm nhiệm vụ chiến đấu, để bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, Quân đoàn đã quán triệt sâu sắc ý định, kế hoạch của Bộ Quốc phòng. Vì tác chiến phòng ngự bảo vệ Tổ quốc thường là trực tiếp tiếp xúc với địch dài ngày, nên thay phiên là một nội dung không thể thiếu, nhằm tăng cường sức chiến đấu. Khi nhận nhiệm vụ chiến đấu ở Vị Xuyên, Quân đoàn đã nhanh chóng làm tốt công tác chuẩn bị, cơ động lực lượng, thay phiên chiến đấu phòng ngự, toàn bộ các lực lượng, vũ khí, phương tiện tham gia làm nhiệm vụ chiến đấu của Quân đoàn đã có mặt đúng thời gian quy định, sẵn sàng vào thay phiên. Khi các lực lượng của Quân đoàn nhận thay phiên cho Sư đoàn 356, cấp trưởng của các đơn vị Sư đoàn 356 làm chỉ huy trưởng, cấp trưởng của các đơn vị Quân đoàn 1 làm chỉ huy phó. Khi hoàn thành nhiệm vụ, tổ chức bàn giao cho Sư đoàn 325 - Quân đoàn 2, cấp trưởng của các đơn vị Quân đoàn 1 làm chỉ huy trưởng, cấp trưởng của các đơn vị Sư đoàn 325, làm chỉ huy phó; thay phiên trên các hướng chủ yếu trước, hướng thứ yếu sau; các đơn vị phía trước bàn giao trước, các đơn vị phía sau bàn giao sau; bộ binh trước, hỏa lực sau. Sau khi thay phiên xong, các lực lượng của Quân đoàn đã kịp thời đề xuất với Bộ Tư lệnh Quân khu 2 điều chỉnh, bổ sung quyết tâm và kế hoạch chiến đấu cho phù hợp để hoàn tốt nhiệm vụ.
Ba là, coi trọng xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ có số lượng hợp lý, chất lượng cao làm nòng cốt xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của các tổ chức đảng và vai trò tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ là điều kiện quyết định và trước hết bảo đảm cho các đơn vị hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ. Nhận rõ tầm quan trọng đó, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Quân đoàn 1 đã coi trọng xây dựng các tổ chức đảng và rèn luyện đội ngũ đảng viên về chính trị, tư tưởng và tổ chức, về trình độ năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện và cả về phẩm chất đạo đức; nên đa số các tổ chức đảng, nhất là ở cấp trung đoàn, lữ đoàn trở lên đã có đủ khả năng lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ. Mặt khác, các cấp luôn coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ có số lượng hợp lý, có phẩm chất năng lực, trong đó coi trọng đến cán bộ chủ trì, đã biết gắn 2 mặt công tác này, nên trong điều kiện tổ chức lực lượng biến động, Quân đoàn vẫn có một đội ngũ cán bộ đáp ứng được mọi yêu cầu nhiệm vụ.
Bốn là, coi trọng xây dựng sự đoàn kết thống nhất cao trong Đảng bộ và Quân đoàn, đoàn kết quân dân, phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ luật. Thấm nhuần Di chúc của Bác Hồ “cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”, trong những năm qua, các cấp đã có nhiều chủ trương, biện pháp để xây dựng đoàn kết nội bộ, nhất là xây dựng mối đoàn kết thống nhất giữa cấp ủy và người chỉ huy, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa cán bộ và chiến sĩ và giữ mối quan hệ đoàn kết quân dân, phối hợp chặt chẽ với đơn vị bạn. Đồng thời với xây dựng mối đoàn kết trong lãnh đạo, chỉ huy và phát huy tinh thần dân chủ trong cán bộ, chiến sĩ trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật; phát huy nhiều tài năng trí tuệ của cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ; mặt khác đã hết sức coi trọng giáo dục và rèn luyện kỷ luật cho bộ đội nên từng bước đã có chuyển biến tốt.
Năm là, tập trung lãnh đạo toàn diện các mặt công tác, phải coi trọng làm điểm, xây dựng điển hình; phát huy tinh thần tự lực tự cường, khắc phục khó khăn và quan tâm chăm lo đến đời sống của từng cán bộ, chiến sĩ trong Quân đoàn. Trước yêu cầu về tính chất công việc, trong quá trình lãnh đạo phải biết tập trung vào nhiệm vụ quan trọng hoặc làm điểm, làm mẫu, xây dựng điển hình. Trong hoàn cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn ngân sách, vật tư bảo đảm còn hạn chế, Quân đoàn đã phát huy tinh thần tự lực tự cường, tận dụng thời gian, quân số tham gia lao động sản xuất tạo ra nguồn thu và sản phẩm, bảo đảm vật chất cho huấn luyện, bảo đảm kỹ thuật, đời sống văn hóa tinh thần và nuôi dưỡng bộ đội, đã góp phần giữ được sự ổn định. Mặt khác cũng đã góp phần giải quyết tốt chính sách hậu phương quân đội.
Có thể khẳng định, trong thời gian trên cương vị là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã lãnh đạo, chỉ đạo Quân đoàn thực hiện thắng lợi nhiều nhiệm vụ, trong đó có nhiệm vụ tham gia chiến đấu ở Vị Xuyên năm 1987, bổ sung quân cho hải quân - K88B..., đánh dấu bước trưởng thành, lớn mạnh không ngừng của Quân đoàn 1 “Binh đoàn Quyết Thắng”. Cùng với quân và dân cả nước, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn đã vượt qua một chặng đường đầy hy sinh, thử thách để trưởng thành tiến bộ và giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 1 luôn nhận thức sâu sắc rằng, mỗi bước trưởng thành lớn mạnh của Quân đoàn đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, sự nuôi dưỡng đùm bọc của nhân dân, sự đoàn kết hiệp đồng với các đơn vị bạn và địa phương; đồng thời, cũng là kết quả nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của cán bộ, chiến sĩ trong toàn đơn vị.
Trong thời kỳ mới, tự hào với truyền thống vẻ vang và thành tích đã giành được trong 47 năm xây dựng chiến đấu và trưởng thành, cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn, đang ra sức vận dụng, kế thừa và phát triển những bài học kinh nghiệm quý báu, quyết tâm đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Quân đoàn “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”; không ngừng nâng cao sức mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu, làm tròn nhiệm vụ của Quân đoàn chủ lực cơ động, dự bị chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; mãi mãi xứng đáng với truyền thống “Thần tốc - Quyết thắng” và danh hiệu cao quý Quân đoàn 1 anh hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Thiếu tướng, TS. ĐỖ MINH XƯƠNG
Trong chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Bộ đội Pháo binh đã tham gia hàng trăm chiến dịch, lập nên nhiều chiến công, góp phần cùng toàn Đảng toàn dân, toàn quân giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến. Trong thư khen ngợi Bộ đội Pháo binh ngày 13/4/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng Bộ đội Pháo binh 8 chữ vàng truyền thống “chân đồng vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng”.
Ghi nhận những thành tích của Binh chủng Pháo binh trong hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và phát triển, Binh chủng Pháo binh và 75 đơn vị, 15 cán bộ, chiến sĩ được Nhà nước tuyên dương danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”, trong đó có 6 đơn vị được tuyên dương danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” lần thứ hai. Đặc biệt, năm 2006, Binh chủng được tặng thưởng Huân chương Sao vàng và nhiều phần thưởng cao quý khác. Đây là niềm vinh dự to lớn, thể hiện sự ghi nhận và quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với Binh chủng Pháo binh.
Dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Pháo binh Việt Nam không ngừng trưởng thành và lớn mạnh. Trong đó có dấu ấn rất quan trọng của Đại tướng Lê Đức Anh, nhất là khi Đại tướng trên cương vị Thứ trưởng, rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong giai đoạn dân tộc ta phải đối phó với cuộc chiến tranh diễn ra ở hai đầu đất nước.
Sau khi kết thúc Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Trung tướng Lê Đức Anh được chỉ định làm Tư lệnh Quân khu 9, tiếp đó là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, kiêm Chỉ huy trưởng cơ quan tiền phương Bộ Quốc phòng ở Mặt trận Tây Nam.
Từ năm 1981 đồng chí là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Trên các cương vị công tác, Đại tướng đã chỉ đạo nâng cao trình độ tác chiến của Pháo binh Việt Nam đáp ứng với tình hình mới của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế.
Tháng 4/1977, khi quân Pôn Pốt tấn công tuyến biên giới thuộc địa bàn Quân khu 9, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng tập thể Đảng ủy và Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Quân khu lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền đất nước, khôi phục các đảo và đất đai bị lấn chiếm. Bộ đội thường trực của Quân khu được khôi phục lại biên chế, quân số, trong đó lực lượng pháo binh ở mỗi tỉnh có một đại đội pháo xe kéo thực hiện nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu.
Để chuẩn bị cho lực lượng pháo binh cùng với các lực lượng khác chiến đấu giữ vững chủ quyền biên giới Tây Nam và cùng các lực lượng vũ trang bạn tổng tiến công giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo Bộ Tư lệnh Pháo binh tổ chức bộ phận tiền phương bên cạnh Tiền phương Bộ Quốc phòng để nắm tình hình và kịp thời chỉ đạo tác chiến pháo binh ở phía Nam; củng cố pháo binh của bộ đội địa phương, pháo binh của các trung đoàn biên phòng, pháo binh của dân quân tự vệ thuộc các xã, xí nghiệp lâm trường gần biên giới ven biển; tăng cường lực lượng pháo dự bị cho Quân khu 9. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, Bộ Tư lệnh Pháo binh tổ chức hội nghị pháo binh trên chiến trường Tây Nam. Hội nghị nhằm sơ kết đánh giá hoạt động của pháo binh trong thời gian qua, chỉ đạo về xây dựng lực lượng, sử dụng pháo binh trong chiến đấu, chuẩn bị cho tác chiến với quy mô lớn. Hội nghị xác định: tổ chức các đơn vị pháo binh xe kéo của quân khu luân phiên lên tuyến trước tham gia chiến đấu và về tuyến sau huấn luyện bổ sung quân số trang bị chuẩn bị cho các hoạt động quy mô lớn. Pháo binh thuộc các trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh thường trực sẵn sàng chiến đấu và tổ chức huấn luyện tại chỗ.
Đáp lại lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia và thực hiện nhiệm vụ quốc tế của Đảng, Nhà nước giao cho quân đội ta cùng với lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia giúp đỡ bạn mở cuộc tổng tiến công tiêu diệt chế độ Pôn Pốt. Lực lượng pháo binh Việt Nam đã huy động trong cuộc tiến công gồm 24 trung đoàn, lữ đoàn; 1 tiểu đoàn và 6 đại đội pháo binh địa phương, tương đương 48 tiểu đoàn. Mỗi quân khu, quân đoàn sử dụng 2 tiểu đoàn chiến dịch để chi viện chung còn lại tăng cường cho mỗi sư đoàn bộ binh 1 đại đội. Mỗi sư đoàn tổ chức 1 cụm pháo khoảng 2 tiểu đoàn pháo. Mỗi trung đoàn bộ binh đi đầu thọc sâu, ngoài pháo mang vác có trong biên chế, được phối thuộc 1 đại đội pháo xe kéo đi trong đội hình để chi viện trực tiếp trong chiến đấu. Các Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 có 1 tiểu đoàn B72, phối thuộc cho sư bộ binh đi đầu 1 trung đội. Tổng số pháo toàn chiến dịch có 487 khẩu pháo xe kéo và 1.328 khẩu pháo mang vác, pháo xe kéo làm nhiệm vụ bắn ngắm trực tiếp sử dụng 320 khẩu. Với lực lượng mạnh, tổ chức chặt chẽ, công tác chuẩn bị chu đáo, pháo binh đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của chiến dịch giao.
Trên chiến trường Campuchia, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo Bộ Tư lệnh Pháo binh cử Cơ quan đại diện Bộ Tư lệnh Pháo binh (do đồng chí Phó Tư lệnh Binh chủng làm đại diện, nằm trong Bộ Chỉ huy quân tình nguyện 719) có nhiệm vụ làm tham mưu cho Bộ Tư lệnh 719 giúp đỡ, chỉ đạo chủ nhiệm và cơ quan tham mưu pháo binh các mặt trận của quân tình nguyện Việt Nam cùng với pháo binh Quân đội cách mạng Campuchia tác chiến, huấn luyện, xây dựng lực lượng. Đến cuối năm 1986, ta bàn giao dần nhiệm vụ tác chiến cho Campuchia và từng bước rút lực lượng pháo binh về nước. Ngày 26/9/1989, đơn vị pháo binh cuối cùng rút về nước.
Trong khi tình hình chiến sự ở biên giới Tây Nam và chiến trường Campuchia tiến triển theo chiều hướng thuận lợi cho ta và cách mạng Campuchia, thì tình hình ở biên giới phía Bắc ngày càng phức tạp. Ngày 17/02/1979, chiến sự đã bùng nổ ở biên giới phía Bắc. Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, pháo binh có bước điều chỉnh thế bố trí và tăng cường lực lượng.
Cuối năm 1986, Đại tướng Lê Đức Anh từ Bộ Tư lệnh 719 ở Campuchia về nhận nhiệm vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, đến giữa năm 1987 đồng chí được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong bối cảnh đất nước, quân đội đang đứng trước những khó khăn: Mỹ tiếp tục bao vây cấm vận; chiến tranh ở hai đầu đất nước tuy cường độ giảm dần nhưng vẫn còn diễn biến phức tạp; kinh tế - xã hội đang lâm vào khủng khoảng trầm trọng. Trên cương vị Tổng Tham mưu trưởng, việc đầu tiên Đại tướng đi thị sát dọc vùng biên giới 6 tỉnh phía Bắc, quần đảo Trường Sa để nắm tình hình thực tiễn. Từ kết quả thị sát, Đại tướng đã chỉ đạo các cơ quan đơn vị tăng cường việc dự báo, đánh giá các tình huống chiến tranh; ngoài các tình huống cũ, cần xem xét các tình huống mới có thể xảy ra.
Đồng chí chỉ đạo nghiên cứu điều chỉnh bố trí lại lực lượng cho hợp lý, cân đối, nhất là lực lượng dự bị chiến lược. Ở biên giới phía Bắc, ta cần rút từng phần các đơn vị chủ lực về tuyến 2, tăng cường xây dựng bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng, dân quân tự vệ đảm nhiệm phòng thủ phía trước. Làm như vậy, ta vừa tạo được thế phòng thủ có chiều sâu, vững chắc hơn, vừa giảm sự căng thẳng đối đầu của khối quân chủ lực giữa hai nước, tạo điều kiện tiến tới giải pháp thương lượng chính trị giữa ta và Trung Quốc.
Nghiên cứu giảm dần quân số thường trực đi đôi với chấn chỉnh tổ chức biên chế nhưng vẫn bảo đảm sẵn sàng chiến đấu. Quân số thường trực ít nhưng tinh nhuệ, hiện đại, cơ động linh hoạt. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành vững mạnh. Tăng cường phòng thủ bờ biển, hải đảo và thềm lục địa. Nghiên cứu, tìm ra cách đánh của quân chủ lực. Xuất phát từ đặc điểm của chiến tranh hiện đại, chiến tranh sẽ diễn ra với quy mô, cường độ, tính chất lớn hơn, hiện đại hơn, ta khó giành thắng lợi trên tuyến đầu, thời gian đầu. Vì vậy phải tích cực xây dựng lực lượng mạnh tại chỗ, đánh lâu dài, không thể sử dụng lực lượng dự bị chiến lược sớm, tiến hành phản công lớn ngay mà phải dùng cách đánh cho địch phải sa lầy.
Đồng chí đã chỉ đạo xây dựng nền công nghiệp quốc phòng tự chủ, có khoa học - kỹ thuật tiên tiến, có lực lượng cán bộ và nhân viên khoa học ngày càng phát triển. Đây là những nhận định, đánh giá, đề xuất thể hiện tầm nhìn chiến lược của vị tướng đã trải qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc trong thế kỷ XX.
Trung ương đã chỉ đạo Bộ Quốc phòng chỉ đạo từng bước triển khai thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc với tư duy mới. Thực chất là chuyển tổ chức quân đội sang thời bình, chuẩn bị cho thời chiến và đáp ứng với yêu cầu sẵn sàng chiến đấu trước mắt. Lực lượng pháo binh đã triển khai thực hiện chỉ đạo về xây dựng lực lượng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu.
Lực lượng pháo binh đã có những điều chỉnh mới. Trước hết, là việc hợp nhất pháo binh của Đặc khu Quảng Ninh với pháo binh Quân khu 3. Bố trí Lữ đoàn Pháo binh 40 trong đội hình Quân đoàn 3 đứng chân ở địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Điều chỉnh pháo binh Quân khu 1, Quân khu 3 hướng Quảng Ninh, Quân đoàn 26, Quân đoàn 29 ở tuyến trước về tuyến sau. Củng cố, hoàn thiện xây dựng pháo binh ba thứ quân. Pháo binh của chủ lực được bố trí lùi về phía sau, thường xuyên thay phiên, tổ chức thành các cụm pháo, phân độ pháo binh cấp đại đội, tiểu đoàn chi viện hỏa lực cho nhiệm vụ phòng ngự, chống lấn chiếm biên giới. Bố trí pháo binh phòng thủ hải đảo và bờ biển. Các đơn vị pháo binh toàn quân thực hiện mô hình biên chế các loại đơn vị đủ quân, rút gọn và khung thường trực. Xây dựng, huấn luyện lực lượng dự bị động viên pháo binh.
Với nhiệm vụ huấn luyện, thực hiện phương châm huấn luyện cơ bản, hệ thống, toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng đối tượng, từng chiến trường, đạt trình độ tinh nhuệ, bảo đảm cho các đơn vị có đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu trước mắt, làm tròn nhiệm vụ quốc tế đối với Lào và Campuchia. Nâng cao trình độ tác chiến hiệp đồng quân binh chủng quy mô cấp trung đoàn, sư đoàn. Lực lượng pháo binh đã tổ chức huấn luyện vững chắc kỹ thuật, chiến thuật từng người đến đại đội, hợp luyện đến tiểu đoàn, luyện chỉ huy tham mưu đến cấp trung, lữ đoàn; gắn lý luận với thực hành, lấy thực hành làm chính, theo cách đánh của ta; vận dụng những kinh nghiệm chiến đấu vào huấn luyện cho phù hợp từng đơn vị, từng chiến trường. Đến giữa năm 1989, lực lượng pháo binh toàn quân có bước điều chỉnh lớn về tổ chức, biên chế theo hướng tinh gọn nhưng vẫn bảo đảm khả năng chiến đấu cao.
Tiếp tục thực hiện chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, từ tháng 5 đến tháng 6/1991, pháo binh tiếp tục chấn chỉnh biên chế, lực lượng. Theo đó, pháo binh dự bị có các trung đoàn, lữ đoàn pháo, tên lửa, gom lực lượng tên lửa chống tăng B72 toàn quân về Bộ Tư lệnh Pháo binh quản lý và huấn luyện. Trung đoàn pháo binh ở các quân khu, quân đoàn được nâng cấp thành lữ đoàn pháo binh hỗn hợp trực thuộc quân khu, quân đoàn; giải thể các trung đoàn pháo binh của sư bộ binh và tổ chức 2 tiểu đoàn cối và ĐKZ trong các sư bộ binh. Các đơn vị có biên chế thiếu, khi có chiến tranh được động viên bổ sung, bảo đảm đủ sức hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu. Công tác điều chỉnh bố trí chiến lược, tổ chức xây dựng lực lượng pháo binh theo chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng diễn ra cơ bản từ năm 1988 đến năm 1992 và được tiến hành từng bước có hiệu quả. Đó là cơ sở để Binh chủng Pháo binh chỉ đạo chuyển hướng công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và xây dựng lực lượng pháo binh đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thực hiện chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh, Binh chủng Pháo binh tiếp tục nâng cao trình độ tác chiến của pháo binh trong điều kiện mới của cuộc chiến tranh nhằm phát huy cao nhất khả năng hỏa lực của các thành phần lực lượng pháo binh ba thứ quân; chú trọng bảo toàn lực lượng, phương tiện, duy trì khả năng chiến đấu lâu dài, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc. Trong đó tập trung vào các nội dung về tổ chức sử dụng lực lượng; lập và chuyển hóa thế trận; tổ chức, chỉ huy hỏa lực; tổ chức cơ động để thực hiện nhiệm vụ theo quyết tâm của người chỉ huy binh chủng hợp thành và kế hoạch sử dụng pháo binh trong các loại hình tác chiến chiến lược, chiến dịch và chiến đấu góp phần nâng cao trình độ tác chiến của pháo binh.
Hiện nay và những năm tiếp theo, Binh chủng Pháo binh tiếp tục chỉ đạo triển khai nhiều biện pháp đồng bộ, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của lực lượng pháo binh các cấp, không ngừng phát huy truyền thống “Chân đồng, vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng” trong điều kiện mới. Theo đó, Binh chủng đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 765-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương, nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Trong đó, tập trung đổi mới toàn diện công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành, tổ chức huấn luyện và đổi mới hình thức, tổ chức, phương pháp huấn luyện, diễn tập, quyết tâm thực hiện tốt “3 thực chất” trong huấn luyện (huấn luyện thực chất, ôn luyện thực chất, kiểm tra đánh giá kết quả thực chất). Đặc biệt, Binh chủng chỉ đạo các đơn vị bám sát tiêu chuẩn “Đơn vị pháo binh huấn luyện giỏi” để cụ thể hóa thành các tiêu chí, chỉ tiêu huấn luyện cho từng lực lượng, bảo đảm huấn luyện toàn diện nhưng chuyên sâu, có trọng tâm, trọng điểm, sát thực tế chiến đấu, đối tượng tác chiến, phù hợp với tổ chức biên chế, trang bị và yêu cầu tác chiến trong điều kiện chiến tranh địch sử dụng vũ khí công nghệ cao. Binh chủng Pháo binh chủ động và phối hợp với các đơn vị nghiên cứu nâng cao chất lượng vũ khí trang bị; đề xuất với Bộ mua sắm, trang bị vũ khí mới có chọn lọc; xây dựng lực lượng pháo binh ba thứ quân hoàn thành xuất sắc vai trò hỏa lực mặt đất chủ yếu của quân đội ta trong điều kiện mới của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, góp phần cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thiếu tướng NGUYỄN HỒNG PHONG
Đại tướng Lê Đức Anh là vị tướng trận mạc, một trong những nhà lãnh đạo tài năng của Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân ta. Quá trình hoạt động cách mạng của đồng chí đã in đậm dấu ấn trong lịch sử hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng chí đã có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và sự trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Một trong những đóng góp to lớn của Đại tướng, đó là vấn đề chỉ huy, chỉ đạo công tác nghiên cứu, xây dựng các công trình quốc phòng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua các giai đoạn lịch sử.
Đầu năm 1955, đồng chí Lê Đức Anh được điều động ra Bắc, từ năm 1955-1964, đồng chí lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Phó Cục trưởng Cục Tác chiến, Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Với tầm nhìn sâu rộng, tư duy sắc sảo, bản lĩnh quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đồng chí đã chỉ huy, chỉ đạo các đơn vị, trong đó có lực lượng công binh hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng các công trình quốc phòng được giao.
Đầu năm 1957, để chuẩn bị cho công binh thực hiện nhiệm vụ xây dựng các công trình quốc phòng bảo vệ miền Bắc, Bộ Tổng Tham mưu đã cử một đoàn cán bộ do đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Phạm Hoàng - Tham mưu trưởng Cục Công binh dẫn đầu sang Trung Quốc học tập và thăm quan trong ba tháng. Sau khi Cục Công binh mở lớp tập huấn phổ biến kỹ thuật thi công công trình, tháng 11/1957, lực lượng công binh đã triển khai xây dựng công trình tại công trường B1; đầu năm 1958, xây dựng các công trình phòng thủ Bắc vĩ tuyến 17; tháng 6/1958, xây dựng công trình 103 khu A1. Sau khi Phòng Công trình khảo sát thiết kế, công binh bắt đầu làm thí điểm ba đường hầm ở vùng ven biển, tháng 12/1958, cả ba đường hầm được hoàn thành. Trên cơ sở kết quả đạt được, Bộ Quốc phòng tiếp tục giao cho Cục Công binh triển khai các dự án xây dựng thí điểm công trình phòng thủ trong 3 năm (1958-1960) để tiến tới thực hiện thường xuyên ở các năm sau. Thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, Cục Công binh tiếp tục cử một số cán bộ đi tham quan học tập ở Trung Quốc và Triều Tiên. Ở Cục Phòng thủ bờ biển cũng tổ chức một bộ phận để thi công các công trình, do đồng chí Bùi Ủy phụ trách. Từ đây, công tác xây dựng các công trình quốc phòng được tiến hành thường xuyên, triển khai có nền nếp, đặc biệt là khi xây dựng Sở Chỉ huy Bộ và ở các quân khu miền Bắc.
Trong những năm từ 1961 đến 1964, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ khi đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, dưới sự chỉ huy, chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu, trong đó có vai trò của đồng chí Lê Đức Anh, lực lượng công binh với kinh nghiệm chuyên môn, thực tiễn của mình đã tích cực nghiên cứu áp dụng khoa học - kỹ thuật để chỉ đạo, hướng dẫn các lực lượng triển khai xây dựng, cải tạo các công trình phòng thủ, sở chỉ huy các cấp; các công trình sân bay, bến cảng vĩnh cửu và dã chiến; các hang cất giấu tàu chiến ở vùng ven biển, hải đảo, khu vực giới tuyến quân sự tạm thời. Năm 1962, Cục Công binh thiết kế chế tạo thành công hệ thống cửa phòng tránh ở đường hầm chứa máy bay tại sân bay K9, thi công đường hầm (kho chứa dầu) H1 tại Quảng Ninh. Năm 1963, lực lượng công binh kết hợp với các lực lượng khác triển khai xây dựng các triền tàu, cầu tàu ở Quảng Ninh, Hải Phòng. Năm 1964, thi công xây dựng đường hầm H2 và H6 tại Quảng Ninh. Sau một thời gian khẩn trương, các công trình phòng thủ nhân cốt từ Móng Cái đến Vĩnh Linh bước đầu đã được hình thành. Một số công trình ở các đảo như Hòn Mê, Cồn Cỏ đã được thử thách trong bom đạn, đủ sức đứng vững nơi đầu sóng, ngọn gió, xứng đáng là vị trí tiền tiêu của Tổ quốc.
Từ giữa năm 1965, trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa lực lượng chiến đấu của Mỹ vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam. Giai đoạn này, đồng chí Lê Đức Anh với cương vị là Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân giải phóng miền Nam đã cùng Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo các đơn vị công binh trên chiến trường hướng vào các nhiệm vụ: tham gia đánh địch lấn chiếm vùng giải phóng; chỉ đạo, hướng dẫn nhân dân đánh mìn, phá hoại giao thông, diệt xe cơ giới địch. Chiến đấu trong vùng địch chiếm, các đơn vị vũ trang do thiếu vũ khí, phương tiện, cán bộ chiến sĩ công binh đã tự tạo ra vũ khí mìn từ việc thu nhặt bom đạn của địch để trang bị cho mình và cho du kích, biệt động thành. Đầu mùa mưa năm 1966, Bộ Chỉ huy Miền tổ chức rút kinh nghiệm nhiệm vụ chống càn năm 1965, đồng chí Lê Đức Anh đã biểu dương lực lượng công binh và yêu cầu các lực lượng khác cần học tập cách chế tạo mìn của công binh để chuẩn bị cho nhiệm vụ chống càn mùa khô (1966 - 1967).
Năm 1967, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, ta đánh bại các cuộc hành quân tìm, diệt và bình định nông thôn trong Chiến dịch Gianxơn Xiti của quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn. Đại đội 24 của Công binh Miền Đông Nam Bộ đã thực hiện 14 trận đánh phá giao thông, diệt 18 xe cơ giới địch, bắn nổ 2 máy bay trực thăng và tiêu diệt 59 tên địch. Đầu tháng 7/1967, đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo Cục Tham mưu Miền giao cho Tiểu đoàn Công binh 739 mở tuyến đường 60 đoạn từ Đoàn 86 (Tây Bắc sông Đắc Huýt) đến Đoàn 81 (khu vực sông Mã Đà) và vòng sang sông Đồng Nai. Trên cơ sở đó, lợi dụng xuôi dòng đến Tà Lài - Bến Nôm để chở hàng xuống Đoàn 84 phía Bà Rịa. Kết quả chỉ trong ba tháng, tuyến đường 60 (cả đường chính lẫn đường dự bị) đã được chuẩn bị xong, phục vụ vận chuyển khoảng 1.300 tấn hàng hóa, vũ khí cho các lực lượng chiến đấu trên các địa bàn.
Thất bại trên chiến trường miền Nam, từ năm 1969, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Thời gian này, đồng chí Lê Đức Anh được Trung ương điều chuyển về làm Tư lệnh Quân khu 9. Trên cương vị công tác mới, đồng chí đã dành thời gian chỉ đạo xây dựng, củng cố lực lượng công binh ở các tỉnh: Rạch Giá, Cà Mau, Sóc Trăng, Cần Thơ, Trà Vinh, Vĩnh Long: xây dựng công sự, đánh phá giao thông; gài mìn để phát triển chiến tranh du kích, tạo thế vây ép địch vào nội đô theo ý định của Bộ Chỉ huy Miền. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, là Phó Tư lệnh chiến dịch, trực tiếp chỉ huy Quân khu 9 và cánh quân Tây Nam, đồng chí Lê Đức Anh đã lăn lộn bám sát thực tế chiến trường, chỉ huy cánh quân, trong đó có lực lượng công binh tìm ra các phương án cơ động, bảo đảm đường, bảo đảm vượt sông, xây dựng công trình chiến đấu có hiệu quả, giảm nhiều hy sinh xương máu của chiến sĩ, đồng bào và đã bảo đảm cho cánh quân kịp thời tham gia tác chiến hiệp đồng giành thắng lợi.
Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, bộ đội công binh chuyển sang giai đoạn cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tháng 4/1977, tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary phát động chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, ngày 23/12/1978, quân và dân ta trên toàn tuyến biên giới đã tiến hành mở cuộc phản công - tiến công chiến lược đánh bại chiến tranh xâm lấn của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xary, buộc địch phải rút về bên kia biên giới.
Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, từ năm 1978 đến năm 1981, với trọng trách là Tư lệnh, kiêm Chính ủy Quân khu 7, Chỉ huy trưởng cơ quan tiền phương của Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam, đồng chí Lê Đức Anh là một trong các tướng lĩnh trực tiếp chỉ huy chiến trường. Đồng chí đã trực tiếp thị sát và chỉ đạo các lực lượng thực hiện chủ trương xây dựng thế trận công trình phòng thủ vững chắc, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biên giới thiêng liêng của Tổ quốc.
Trước năm 1977, do điều kiện ta chưa có sự quy hoạch, xây dựng hệ thống công trình tuyến phòng thủ biên giới Tây Nam, việc đánh trả địch bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ nhân dân chủ yếu dựa vào các công trình tại chỗ, chưa có tính liên hoàn. Sau khi đi trinh sát thực địa, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng thủ trưởng Bộ Quốc phòng yêu cầu Bộ Tư lệnh Công binh đề xuất phương án xây dựng công trình ở các khu vực phòng thủ để bảo vệ các tỉnh biên giới. Bộ Tư lệnh Công binh đã đề nghị xây dựng một khu vực phòng thủ để rút kinh nghiệm, sau đó phổ biến nhân rộng ra trên toàn tuyến biên giới. Để kịp thời triển khai mở rộng trên toàn tuyến biên giới, lực lượng công binh đã cùng các đơn vị xây dựng, lắp ghép một số loại công sự gỗ đất, đá, vòm tôn, thanh bê tông lắp ghép. Viện Kỹ thuật Công binh, Viện Thiết kế, Cục Công trình đã thiết kế một số công sự ở địa hình ngập nước. Nơi có địa hình cao như đường đá, bờ kênh, bìa làng... đã tranh thủ trong mùa khô tiến hành đắp lũy và trồng cây, đưa dân ra sản xuất, tạo sẵn địa bàn tác chiến (khu tứ giác Long Xuyên, Châu Đốc, Tịnh Biên, An Giang...). Nơi địa hình thấp đã tiến hành làm công sự hai tầng, khi mực nước xuống thấp sẽ sử dụng công sự tầng dưới để đánh địch. Vào mùa nước cao sẽ sử dụng tầng trên. Những nơi địa hình rất thấp như: Mộc Hóa, Hồng Ngự, mùa nước đã dùng bè, mảng, thuyền dân, bên trên làm công sự bằng vòm tôn, bao cát để cơ động đánh địch. Cùng với việc xây dựng công sự, trên tuyến biên giới Tây Nam, đồng chí Lê Đức Anh và Thủ trưởng Bộ đã chỉ đạo lực lượng công binh cần trực tiếp hướng dẫn các lực lượng và nhân dân xây dựng nhiều loại vật cản khác nhau như: đào hào, đắp luỹ, trồng tre, bố trí hàng rào kết hợp với chông, mìn để ngăn chặn, tiêu diệt địch. Nhờ có hệ thống vật cản, những hoạt động của địch như luồn sâu, quấy rối, lấn đất, phá hoại kinh tế đối với ta đã giảm đi rõ rệt. Một số nơi trước đây nhân dân phải sơ tán, sau khi các công trình phòng thủ được xây dựng, nhân dân đã an tâm trở về chiến đấu, sản xuất. Hệ thống vật cản đã ngăn chặn địch và tạo điều kiện thuận lợi để bộ đội ta tiêu diệt địch.
Sau khi hoàn thành các nhiệm vụ chỉ huy ở chiến trường biên giới Tây Nam và chiến trường Campuchia (1979 - 1986), đồng chí Lê Đức Anh được Trung ương cử giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (tháng 12/1986) và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (tháng 02/1987). Trên các cương vị nhiệm vụ mới, đồng chí đã đề xuất với Trung ương và chỉ huy, chỉ đạo các quân khu, quân đoàn ở biên giới phía Bắc kịp thời điều chỉnh thế bố trí lực lượng để bảo đảm cho tuyến phòng ngự biên giới có chiều sâu. Để bảo đảm cho hệ thống công trình trên tuyến phòng thủ có chiều sâu vững chắc theo yêu cầu của Thủ trưởng Bộ, lực lượng công binh đã tăng cường nghiên cứu, hướng dẫn các lực lượng làm các công sự sẵn sàng đối phó với các âm mưu, thủ đoạn đánh phá của địch, lực lượng công binh đã làm công sự bằng khung thép hình (I, U), lát nóc bằng phên sắt những tấm ghi làm đường băng dã chiến của sân bay và xây tường bằng đá. Đồng thời đã triển khai xây dựng một số đường hầm dài trên dưới 100m, khung hầm bằng các thanh 3C-30; 3C-31... để bố trí cho một số cụm điểm tựa cấp tiểu đoàn và các sở chỉ huy trung, sư đoàn. Để xác định khối lượng lực lượng công binh đã thống nhất lấy cụm điểm tựa tiểu đoàn làm cơ sở để tính toán thi công. Toàn tuyến biên giới cần xây dựng 149 cụm điểm tựa cấp tiểu đoàn (và tương đương), mỗi cụm điểm tựa cần 161 công sự lắp ghép các loại, mỗi công sự trung bình sử dụng 3m3 bê tông, như vậy, mỗi cụm điểm tựa cần khoảng 500m3 bê tông.
Sau sự kiện Gạc Ma ngày 14/3/1988, Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cùng đoàn công tác đã có chuyến đi thăm và làm việc tại quần đảo Trường Sa. Tại đây, Bộ trưởng đã khẳng định: “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc chúng ta”. Ngày 29/3/1989, Đại tướng ký ban hành Mệnh lệnh số 167/ML-QP về đóng giữ, bảo vệ khu vực thềm lục địa, bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa. Đến ngày 26/02/1990, Đại tướng ký Quyết định số 60/QĐ-QP giao cho Bộ Tư lệnh Công binh làm chủ đầu tư xây dựng các trạm dịch vụ kinh tế, khoa học - kỹ thuật trên biển (công trình DK1) và thành lập Ban Quản lý xây dựng công trình DK1 để tham mưu, đề xuất, tổ chức nghiên cứu, thiết kế và quản lý xây dựng các công trình này.
Đây là một nhiệm vụ có ý nghĩa rất quan trọng cả về chính trị, quân sự, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, nhằm khẳng định và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển của Tổ quốc. Tuy nhiên, nghiên cứu, thiết kế thi công công trình DK1 hết sức phức tạp, vị trí xây dựng cách xa đất liền từ 450 km đến 600km; quá trình thi công gặp khó khăn về mọi mặt, nhiều vấn đề kỹ thuật về xây dựng công trình biển cần phải xử lý; thời tiết khí hậu diễn biến bất thường, thiếu các số liệu điều tra... đã làm khó khăn trong quá trình thiết kế, thi công công trình.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và sự chỉ đạo của Bộ trưởng Lê Đức Anh, Bộ Tư lệnh Công binh đã chỉ đạo các lực lượng thiết kế, thi công phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, dũng cảm, dám nghĩ, dám làm, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm và tổng kết đánh giá. Các lực lượng tham gia ngày càng có kinh nghiệm về kỹ thuật thi công công trình biển trên nền san hô và bùn đất yếu. Kết quả, các nhà giàn DK1 đã tổ chức thi công thành công, bảo đảm chất lượng, khẳng định chủ quyền về thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế biển phía Đông Nam của Tổ quốc.
Giai đoạn 1992 - 1997, trên cương vị Chủ tịch nước, với tình cảm gắn bó và trách nhiệm chính trị lớn lao, Đại tướng Lê Đức Anh luôn quan tâm đến sự nghiệp xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng, an ninh vững chắc. Ngày 03/6/1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh số 36/CTN công bố Pháp lệnh Bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự. Pháp lệnh quy định công trình quốc phòng và khu quân sự là tài sản của Nhà nước giao cho lực lượng vũ trang và chính quyền các cấp tổ chức xây dựng, quản lý, sử dụng, bảo vệ để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm 1994 - 1996, Viện Kỹ thuật Công binh nghiên cứu đề tài thiết kế, thi công hai đường hầm PR01, PR02 của Quân chủng Phòng không - Không quân cho máy bay SU27 ẩn nấp, sẵn sàng chiến đấu, Đại tướng Lê Đức Anh trực tiếp đến thăm, kiểm tra đường hầm và đã đánh giá cao kết quả thành công của đề tài.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Đại tướng gắn liền với các chiến trường trong Nam, ngoài Bắc cũng như trên chiến trường Campuchia, trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc; công cuộc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây dựng và đổi mới đất nước. Những chỉ đạo, định hướng của Đại tướng đối với công tác nghiên cứu, xây dựng công trình quốc phòng trong chiến tranh giải phóng cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Trên cơ sở đó, lực lượng công binh đã và đang tiếp tục nghiên cứu phát triển, vận dụng sáng tạo và thực hiện có hiệu quả để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
Thiếu tướng TRẦN TRUNG HÒA
Cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Lê Đức Anh gắn liền với quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trải qua hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, Đại tướng đã có mặt trên nhiều chiến trường khó khăn gian khổ, ác liệt. Trên mỗi cương vị được giao, đồng chí Lê Đức Anh đều để lại những dấu ấn đậm nét trong lòng nhân dân và chiến sĩ cả nước, trong đó có Bộ đội Đặc công.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trước sự ra đời của cách đánh đặc công ở miền Đông Nam Bộ được đánh dấu bởi trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên (19/3/1948) và sau đó là trận đánh đồng loạt 50 tháp canh dọc theo các trục lộ 15, 16 và quốc lộ 1 tại Biên Hòa. Giữa năm 1950, Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn mở Hội nghị tổng kết Chiến dịch Bến Cát - Chiến dịch do đồng chí Lê Đức Anh làm Tham mưu trưởng. Đồng chí Lê Đức Anh thay mặt Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn biểu dương thành tích của các địa phương, đơn vị và phát động phong trào thi đua diệt tháp canh, đồn bốt của địch bằng “cách đánh đặc công”. Sau hội nghị tổng kết và theo chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, cách đánh đặc công được tổ chức huấn luyện trong các đơn vị bộ đội và du kích, mở ra thời kỳ phát triển cách đánh đặc công ở các tỉnh Nam Bộ.
Giai đoạn 1955 - 1963, đồng chí đã tham mưu cho Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh nhiều vấn đề về duy trì và phát triển lực lượng đặc công để tăng cường cho miền Nam. Chỉ đạo tổ chức xây dựng các tiểu đoàn đặc công 5 và 323 tập kết ra miền Bắc thành những đơn vị huấn luyện có chất lượng cao, tăng cường cho miền Nam hàng trăm cán bộ làm nòng cốt trong việc xây dựng lực lượng đặc công ở miền Nam. Tham mưu cho Bộ và trực tiếp cùng Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu tổ chức hội nghị Tổng kết đặc công trong kháng chiến chống Pháp, đặt cơ sở lý luận đầu tiên về đặc công, làm cơ sở nghiên cứu, phát triển lực lượng và cách đánh đặc công, kịp thời phục vụ công tác huấn luyện của Bộ đội Đặc công trong giai đoạn mới; tham mưu cho Bộ tổ chức khung bổ túc cán bộ đặc công trinh sát trực thuộc Cục Nghiên cứu có nhiệm vụ bổ túc cán bộ cho toàn quân. Đây là số cán bộ đặc công đầu tiên được bồi dưỡng, đào tạo cơ bản về đặc công. Trong thời gian huấn luyện ở miền Bắc, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng với đoàn cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội đến thăm, động viên và chỉ đạo công tác huấn luyện chiến đấu. Đồng chí Lê Đức Anh luôn nhấn mạnh: Công tác huấn luyện chiến đấu phải sát thực tiễn chiến trường, lấy tăng cường bồi dưỡng nâng cao ý chí chiến đấu cho bộ đội làm căn cốt nhất.
Qua theo dõi và nắm kết quả huấn luyện của Bộ đội Đặc công, đồng chí Lê Đức Anh đề nghị Bộ Quốc phòng điều động nhiều đơn vị, cán bộ, chiến sĩ đặc công đã được huấn luyện cơ bản ở miền Bắc và đưa vào miền Nam chiến đấu. Chỉ trong hai năm 1961 - 1962 đã có 10 đại đội đặc công chuyên môn, 01 tiểu đoàn cơ động, tổng cộng 1.122 cán bộ, chiến sĩ tăng cường cho chiến trường Khu 5 và Nam Bộ.
Những năm 1963 - 1964, để phục vụ cho huấn luyện và chiến đấu trước tình hình mới, đồng chí Lê Đức Anh cùng các Thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Cục Nghiên cứu biên soạn các tài liệu: “Sáu tư tưởng chỉ đạo tác chiến đặc công”, “Tiếp cận bí mật và sử dụng bộc phá” và “Tổng kết chiến thuật đặc công”. Đây là những công trình nghiên cứu khoa học quân sự đầu tiên về Đặc công nhằm giới thiệu với các đơn vị những kinh nghiệm chiến đấu đặc công.
Giai đoạn 1965 - 1968, đồng chí đã chỉ đạo sử dụng đặc công tiếp tục đánh phá hậu phương địch, tiến công các căn cứ, hậu cứ, cơ quan đầu não của địch... Lực lượng đặc công đã phát triển hết sức nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, sự trưởng thành đó đã được đánh dấu bởi quyết định thành lập Binh chủng Đặc công ngày 19/3/1967. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, tạo ra bước ngoặt trong lịch sử xây dựng và chiến đấu của Bộ đội Đặc công. Đồng thời, là bước phát triển nhảy vọt về tổ chức, xác định vai trò, vị trí của Bộ đội Đặc công với tư cách là một binh chủng đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam, tạo điều kiện cơ bản cho Bộ đội Đặc công hoàn thành mọi nhiệm vụ chiến đấu và công tác đặc biệt.
Giai đoạn 1974 - 1975, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng với các đồng chí trong Quân ủy và Bộ Tư lệnh Quân giải phóng chỉ đạo xây dựng lực lượng đặc công với quy mô lớn hơn trước, chuẩn bị mọi mặt cho đón thời cơ mới. Đến trước ngày Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, lực lượng Đặc công ở miền Nam có 01 sư đoàn (Sư đoàn 2), 01 lữ đoàn, 05 trung đoàn, 36 tiểu đoàn, 121 đại đội và hàng trăm trung đội, tiểu đội, tổ đặc công, biệt động của huyện, thị xã và xã... Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương và sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Đặc công, lực lượng đặc công trên chiến trường được bố trí ở các vùng chiến lược và các mục tiêu chiến lược ở các địa bàn trọng điểm.
Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, đồng chí Lê Đức Anh vẫn hết sức quan tâm tới xây dựng, phát triển và sử dụng lực lượng đặc công.
Giai đoạn 1975 - 1979, đánh giá cao vị trí, vai trò, khả năng của Bộ đội Đặc công, đồng chí đề nghị với Bộ quyết định điều động các đơn vị đặc công có nhiều thành tích, kinh nghiệm chiến đấu vào tham gia các hoạt động Bộ giao. Đây là giai đoạn có nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của quốc tế, của đất nước, của quân đội, có ảnh hưởng tác động đến quá trình phát triển, trưởng thành của Bộ đội Đặc công. Đặc biệt, khôi phục và phát triển lực lượng đặc công tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và phía Bắc.
Giai đoạn 1981 - 1987, đồng chí Lê Đức Anh đã đề nghị với Bộ Quốc phòng để Bộ Tư lệnh Đặc công thành lập các đoàn đặc công mạnh tham gia chiến đấu bảo vệ đất nước Campuchia như các đoàn A381, A382, A383, A5, A9. Sử dụng đặc công của Bộ Quốc phòng, của các quân khu, mặt trận thực hiện nhiệm vụ truy quét tàn quân, đánh phá các mục tiêu hiểm yếu, quan trọng ở hậu phương địch... Đồng thời, đồng chí cũng tham gia chỉ đạo hội nghị tổng kết đặc công tác chiến ở chiến trường Campuchia trong các năm 1982, 1984, 1986; rút ra những vấn đề lớn về tổ chức, xây dựng lực lượng, hoạt động tác chiến của đặc công ở chiến trường; những kinh nghiệm và bài học bổ ích.
Giai đoạn 1987 - 1992, đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Đại tướng Lê Đức Anh đã trực tiếp chỉ đạo Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Binh chủng Đặc công tinh giản lực lượng đặc công cùng các lực lượng khác xây dựng theo hướng “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”.
Quán triệt sâu sắc sự chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ đội Đặc công đã nỗ lực phấn đấu, xây dựng và phát triển lực lượng, cùng quân và dân cả nước lập nên những chiến tích anh hùng, gây tiếng vang trên trường quốc tế. Trong chiến tranh giải phóng, Bộ đội Đặc công đã lập được nhiều chiến công hiển hách: đánh 19.329 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng vạn tên địch (có hàng nghìn tên Mỹ, chư hầu, giặc lái, nhân viên kỹ thuật); tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng hàng trăm sở chỉ huy các cấp (trong đó có hàng chục sở chỉ huy cấp sư đoàn, lữ đoàn, quân đoàn và tương đương); phá hủy, phá hỏng hàng nghìn máy bay các loại, 11.494 xe quân sự (có 3.140 xe tăng, xe thiết giáp), 2.161 khẩu pháo từ 105 đến 175mm, 1.701 khẩu cối từ 60 đến 106,7 mm, 42 giàn tên lửa, 53 giàn rađar; phá hủy 3 triệu 80 vạn tấn bom đạn, đốt cháy gần 1 tỷ 700 triệu lít xăng dầu; đánh chìm, đánh cháy, đánh hỏng hàng nghìn tàu, xuồng chiến đấu, phá sập 326 (lần/chiếc) cầu giao thông quan trọng. Thu nhiều vũ khí, trang bị và vật chất, phương tiện chiến tranh. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Bộ đội Đặc công đánh trên 600 trận lớn, nhỏ; loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục nghìn tên địch; phá hủy và thu nhiều vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh của địch, góp phần cùng quân và dân cả nước bảo vệ vững chắc đất nước và làm tròn nhiệm vụ giúp nước bạn Campuchia.
Dù ở cương vị nào, đồng chí Lê Đức Anh vẫn luôn quan tâm đến quá trình phát triển, trưởng thành của Bộ đội Đặc công. Đồng chí đã theo dõi, chỉ đạo huấn luyện Bộ đội Đặc công nâng cao năng lực, trình độ; phát huy được vai trò, vị trí của đặc công trong chiến tranh, tạo điều kiện cho Bộ đội Đặc công lập công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Những chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh có thể khái quát trên một số vấn đề, đó là: Nghiên cứu, phát triển cách đánh đặc công; đưa cách đánh đặc công vào thực hiện rộng rãi trên chiến trường miền Nam; tổ chức huấn luyện và sử dụng lực lượng đặc công trong các trận đánh, các chiến dịch đạt hiệu suất chiến đấu cao, góp phần vào thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, đồng chí còn luôn coi trọng chỉ đạo nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm, tìm ra những bài học quý báu qua mỗi trận đánh, mỗi chiến dịch mà đặc công tham gia, từ đó Bộ đội Đặc công luôn được đánh giá là lực lượng đánh hiểm có hiệu suất cao; cách đánh đặc công đã được các đơn vị quân đoàn, sư đoàn nghiên cứu, vận dụng trong chiến đấu. Trong công tác xây dựng và phát triển lực lượng đặc công, đồng chí chỉ đạo: Đây là lực lượng đặc biệt nên cần phải “tinh, gọn” để luồn sâu vào trong hậu phương, phía sau đội hình địch, tiến công vào các mục tiêu hiểm yếu, quan trọng, tạo ra tác động lớn làm thay đổi tương quan lực lượng, thế trận có lợi cho ta; do đó, Bộ đội Đặc công cần phải lựa chọn và tổ chức huấn luyện chặt chẽ, chu đáo, toàn diện.
Hiện nay, trước những diễn biến khó lường của tình hình thế giới, khu vực và trong nước; những cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, vấn đề an ninh phi truyền thống diễn ra thường xuyên; tình trạng xâm lấn biên giới, biển, đảo, sự chống phá của một số phần tử phản động cấu kết với các đối tượng bất mãn trong nước đang là những thách thức đối với lực lượng vũ trang ta nói chung và Bộ đội Đặc công nói riêng. Là binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ đội Đặc công được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng như: Bảo vệ các mục tiêu trọng yếu của Đảng, Nhà nước; phối hợp cùng các lực lượng khác bảo vệ và giữ vững vùng biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc; sẵn sàng tiến công địch xâm lược, lấn chiếm biên giới, biển đảo, chống khủng bố; đặc biệt Binh chủng Đặc công còn được giao trọng trách là lực lượng đầu ngành chống khủng bố trong quân đội. Để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cao cả đó, Bộ đội Đặc công phải có đủ khả năng và sức mạnh chiến đấu. Phát huy những thành tích đã đạt được trong hai cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, đồng thời thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh trước đây, trong công tác huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến đấu, Bộ đội Đặc công cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, xây dựng Bộ đội Đặc công luôn vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Sức mạnh chiến đấu của Bộ đội Đặc công là tổng hợp của nhiều yếu tố: con người, vũ khí, trang bị, nghệ thuật tác chiến đặc công... Huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến đấu của Bộ đội Đặc công chính là xây dựng lực lượng đặc công thực sự “tinh nhuệ” sẵn sàng nhận và thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng giao.
Đặc thù tác chiến của Bộ đội Đặc công là tác chiến sâu trong “lòng” địch. Do đó, mỗi cán bộ, chiến sĩ đặc công đòi hỏi phải có tinh thần và ý chí đặc biệt vững vàng, phải tuyệt đội trung thành với Đảng, với Tổ quốc, vượt mọi gian khổ, ác liệt, sẵn sàng hy sinh thân mình để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Do đó, để bảo đảm cho Bộ đội Đặc công luôn vững vàng về chính trị, tư tưởng, làm cơ sở để nâng cao sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cần phải tập trung xây dựng Binh chủng đặc biệt tinh nhuệ về chính trị, 100% cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, có ý chí quyết tâm cao, không sợ gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Xây dựng Đảng bộ Binh chủng trong sạch, vững mạnh tiêu biểu, mẫu mực về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Phấn đấu hằng năm có trên 99,5% cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ trở lên, có trên 80% hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ; tỷ lệ lãnh đạo của Binh chủng trên 50%. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Binh chủng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong các nhiệm vụ; trọng tâm là nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, thực hành diễn tập ở những địa bàn có khả năng xảy ra những tình huống như: Quần đảo Trường Sa, nhà giàn DK1, các vùng biên giới của Tổ quốc; đồng thời chú trọng làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh mọi mặt; đề cao dân chủ, kỷ luật, kỷ cương, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất là cơ sở vững chắc để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của các đơn vị đặc công.
Lãnh đạo đột phá nâng cao chất lượng chính trị, tư tưởng. Coi trọng đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất cách mạng, truyền thống, nhiệm vụ của quân đội và Binh chủng; nhận thức đúng về đối tác, đối tượng, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, lực lượng phản động trong và ngoài nước, không để bị động, bất ngờ. Thường xuyên nắm, quản lý và dự báo chính xác tình hình tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ; xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Hai là, kiện toàn tổ chức biên chế, xây dựng lực lượng đặc công “tinh nhuệ, thiện chiến”, là lực lượng chiến đấu “đặc biệt” của quân đội ta.
Đây là vấn đề hết sức quan trọng, là đòi hỏi khách quan của tình hình thực tiễn nhằm xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nói chung và lực lượng đặc công nói riêng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại...”; bảo đảm các cơ quan, đơn vị trong Binh chủng Đặc công và lực lượng đặc công toàn quân có cơ cấu tổ chức hợp lý, chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đủ khả năng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Để kiện toàn tổ chức, xây dựng lực lượng đặc công thực sự tinh nhuệ, thiện chiến, là lực lượng chiến đấu “đặc biệt” của quân đội ta trong điều kiện hiện nay, cần phải xây dựng và phát triển lực lượng đặc công theo hướng tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt và thực hiện tốt chức năng đầu ngành chống khủng bố toàn quân. Xây dựng Binh chủng cách mạng, chính quy, đặc biệt tinh nhuệ, tiến lên hiện đại; huấn luyện giỏi, sẵn sàng chiến đấu cao và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống, xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ, trung thành của Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân; giữ vững và phát huy phẩm chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”, truyền thống vẻ vang của Binh chủng Đặc công hai lần Anh hùng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Ba là, bám sát thực tiễn, tích cực đổi mới nội dung, hình thức tổ chức, phương pháp huấn luyện.
Bám sát thực tiễn, nâng cao chất lượng huấn luyện cho Bộ đội Đặc công, trước hết phải bám sát các chủ trương, nghị quyết của các cấp ủy đảng, nhiệm vụ chính trị được giao, tình hình thực tiễn đơn vị và năng lực của bộ đội để vận dụng các hình thức tổ chức, phương pháp huấn luyện cho phù hợp. Đặc biệt chú trọng đến hiệu quả của nội dung huấn luyện, bảo đảm bộ đội vận dụng được ngay khi có tình huống xảy ra. Do đó, cấp ủy đảng, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong Binh chủng phải thường xuyên coi trọng, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Các cơ quan, đơn vị, nhà trường trong Binh chủng quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng; các chỉ thị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo của Binh chủng về công tác huấn luyện. Trong huấn luyện, thực hiện đúng các quan điểm, nguyên tắc, phương châm chỉ đạo; hoàn thành tốt nội dung, chương trình huấn luyện hằng năm, kết quả huấn luyện phải đạt loại giỏi và bảo đảm an toàn. Công tác giáo dục - đào tạo phải có nhiều đổi mới cả về nội dung, chương trình, sát với yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu. Coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu; tăng cường huấn luyện thực hành, huấn luyện theo nhiệm vụ, theo tình huống, nâng cao khả năng tác chiến trong mọi điều kiện địa hình, thời tiết phức tạp, địch sử dụng vũ khí công nghệ cao, tác chiến không gian mạng rộng rãi. Nâng cao chất lượng luyện tập, diễn tập theo phương án. Chuẩn bị tốt lực lượng, phương tiện, tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn.
Tập trung đột phá đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng huấn luyện, giáo dục - đào tạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tập trung huấn luyện theo nhiệm vụ và huấn luyện nâng cao cho lực lượng làm nhiệm vụ A2, chống khủng bố, đặc công nước; nâng cao chất lượng huấn luyện nhảy dù, đổ bộ đường không chống khủng bố các mục tiêu trên đất liền, trên biển. Tăng cường huấn luyện đêm, huấn luyện dã ngoại dài ngày trong điều kiện khắc nghiệt và điều kiện chiến tranh vũ khí công nghệ cao. Đẩy mạnh đổi mới hình thức tổ chức, phương pháp hội thi, hội thao, kiểm tra huấn luyện; tăng cường kiểm tra đột xuất, đánh giá thực chất công tác huấn luyện. Đổi mới quy trình, nội dung, chương trình giáo dục - đào tạo phù hợp với thực tế huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu ở đơn vị cơ sở. Chấp hành nghiêm quy chế giáo dục - đào tạo, quy chế tuyển sinh quân sự. Vận dụng hiệu quả phương pháp dạy học tích cực, thực hiện tốt phương châm dạy thực chất, học thực chất, đánh giá thực chất kết quả giáo dục -đào tạo. Xây dựng Trường Sĩ quan Đặc công theo mô hình “Nhà trường thông minh, tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên có đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, phấn đấu xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ cao đẳng, đại học đủ tiêu chí; đội ngũ cán bộ, giáo viên nhà trường có trình độ sau đại học đạt chuẩn theo yêu cầu đề ra.
Tổ chức huấn luyện chuyên ngành đặc công, đặc công chuyên trách chống khủng bố toàn quân theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, kết hợp truyền thống và hiện đại, đáp ứng yêu cầu tác chiến trong điều kiện chiến tranh hiện đại, cường độ cao. Phấn đấu đến năm 2025, cơ bản hoàn thành xây dựng Binh chủng “tinh, gọn, mạnh”; đến năm 2030, xây dựng lực lượng đặc công chống khủng bố, đặc công nước đạt trình độ hiện đại; từ năm 2030 xây dựng Binh chủng hiện đại.
Bốn là, từng bước hiện đại hóa phương tiện, vũ khí trang bị kỹ thuật cho Bộ đội Đặc công.
Trong những năm qua, được sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, Bộ đội Đặc công đã được trang bị nhiều loại vũ khí, khí tài, trang bị kỹ thuật tiên tiến; vũ khí, trang bị được cải tiến và đưa vào khai thác sử dụng, giúp nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của các đơn vị đặc công. Là một binh chủng chiến đấu tinh nhuệ của quân đội, Bộ đội Đặc công cần phải được biên chế và trang bị nhiều loại phương tiện, vũ khí hiện đại mới đáp ứng được yêu cầu của chiến tranh hiện đại. Tuy nhiên, để nâng cao được sức mạnh chiến đấu hơn nữa, cần phải trang bị và tổ chức huấn luyện cho Bộ đội Đặc công sử dụng thành thạo những phương tiện và vũ khí hiện đại như: Tàu ngầm chiến thuật, phương tiện bay không người lái (UAV), xuồng siêu tốc, súng bắn ở hai môi trường, v.v..
Để đáp ứng nhu cầu về phương tiện, vũ khí trang bị cho Bộ đội Đặc công trước hết cần sự đầu tư của Nhà nước, quân đội trong việc mua sắm các loại vũ khí hiện đại phù hợp với tác chiến của đặc công nhằm theo kịp với sự phát triển của quân đội các nước. Đồng thời các công ty, xí nghiệp trong nước và xưởng kỹ thuật của đặc công cần phải chủ động, tích cực phối hợp nghiên cứu, cải tiến, sản xuất các loại phương tiện, vũ khí trang bị kỹ thuật, nhất là vũ khí trang bị kỹ thuật đặc chủng cho lực lượng làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu thực hiện nhiệm vụ A2, A3, chống khủng bố và tác chiến bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Bảo đảm nâng cao khả năng chiến đấu và tiết kiệm được ngân sách nhà nước cũng như chủ động đáp ứng được các loại trang bị cho bộ đội mà không phải phụ thuộc vào nước ngoài. Duy trì nghiêm chế độ bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa; chú trọng làm chủ, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật thế hệ mới, bảo đảm hệ số kỹ thuật của vũ khí, trang bị kỹ thuật theo quy định.
Năm là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học quân sự, phát triển nghệ thuật tác chiến đặc công.
Xây dựng và phát triển lực lượng cần phải dựa trên tổ chức biên chế, quân số, vũ khí trang bị và nghệ thuật tác chiến của lực lượng đó; Binh chủng Đặc công đã được hình thành, phát triển và lớn mạnh như ngày nay cũng nhờ có nghệ thuật tác chiến đặc biệt. Từ trận đánh tháp canh cầu Ba Kiên đã mở ra một cách đánh mới, hình thành một lực lượng mới, lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, đó chính là Bộ đội Đặc công. Trải qua hai cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nghệ thuật tác chiến đặc công càng được “mài giũa” trở nên “sắc bén” và hiệu quả hơn, phù hợp hơn với từng loại mục tiêu, đối tượng địch. Từ tiêu diệt những tháp canh, Bộ đội Đặc công đã đánh được các mục tiêu địch có công sự vững chắc được bảo vệ bởi nhiều lớp hàng rào, tường bao, các loại mìn, bẫy của địch; đánh vào các sân bay, bến cảng, địch phòng ngự trên đảo; phá hủy các tàu thủy neo đậu trên sông, trên biển;... thậm chí còn đánh được cả máy bay của địch khi đã hạ cánh xuống sân bay ở nước ngoài. Từ độc lập chiến đấu, đặc công đã phối hợp với các quân, binh chủng khác trong các trận đánh lớn, các chiến dịch, các đợt hoạt động; đặc biệt, Bộ đội Đặc công đã tham gia trong Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968 và Tổng tiến công, nổi dậy mùa Xuân năm 1975, góp phần to lớn vào chiến thắng chung của cả nước.
Trong những năm tháng ở chiến trường, trước những mục tiêu mới của địch, đồng chí Lê Đức Anh cũng đã thường xuyên cùng tập thể nghiên cứu tìm ra cách đánh phù hợp, trong đó có cách đánh của Bộ đội Đặc công. Trải qua gần 50 năm gắn bó với quân đội, đồng chí vẫn luôn tâm huyết với công việc “tổng kết kinh nghiệm chiến tranh cách mạng”.
Để góp phần vào công tác huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến đấu, Bộ đội Đặc công cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu các đề tài, chuyên đề, bài viết, biên soạn các tài liệu huấn luyện,... Thực hiện tốt tâm nguyện của Đại tướng, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong Binh chủng và những người làm công tác khoa học cần phải tăng cường công tác tổng kết các kinh nghiệm trong kháng chiến, tìm ra các bài học có giá trị thực tiễn để vận dụng có hiệu quả trong quá trình tác chiến sau này. Đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu khoa học quân sự, nhất là nghiên cứu, phát triển nghệ thuật tác chiến đặc công trong điều kiện địch sử dụng không gian mạng và tác chiến điện tử rộng rãi; sử dụng đặc công trong tác chiến trên biển, trên bộ, ở vùng ngoại biên... làm cơ sở để Thủ trưởng Bộ, Bộ Tư lệnh và các cơ quan chỉ đạo, sử dụng đặc công cho phù hợp, đồng thời cũng là cơ sở để biên soạn các tài liệu huấn luyện cho bộ đội.
Củng cố, hệ thống lại những đề tài, tài liệu đã được biên soạn; thực hiện số hóa và bảo mật để vừa tiện tra cứu, nghiên cứu và học tập, vừa bảo đảm bí mật của nghệ thuật tác chiến đặc công. Tích cực giao lưu, học tập với quân đội các nước, đặc biệt trong xây dựng, phát triển lực lượng và nghệ thuật quân sự, qua đó củng cố và làm phong phú nghệ thuật tác chiến của Binh chủng.
Cả cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, gần 50 năm gắn bó với quân đội, có mặt trên các chiến trường gian khổ, ác liệt, luôn bám sát bộ đội, Đại tướng Lê Đức Anh đã để lại nhiều kinh nghiệm quý về chỉ đạo xây dựng, phát triển lực lượng, kế hoạch tác chiến, huấn luyện bộ đội, nghệ thuật quân sự... Trong đó, có tầm ảnh hưởng lớn đến sự hình thành, phát triển lực lượng; cách thức tổ chức, phương pháp huấn luyện và nghệ thuật tác chiến đặc công. Đây thực sự là những bài học vô cùng quý giá để mỗi cán bộ, chiến sĩ đặc công nghiên cứu, học tập. Trong tình hình hiện nay, thực hiện tốt những chỉ thị của Đại tướng sẽ là cơ sở vững chắc để Binh chủng làm tốt công tác huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến đấu cho bộ đội đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Đại tướng, bài viết này là lời tri ân của những người đã và đang công tác trong Binh chủng Đặc công tưởng nhớ tới Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Quân đội nhân dân Việt Nam - vị Chủ tịch nước kính yêu của đất nước.
Thiếu tướng Phan Thế Ba
Đại tướng Lê Đức Anh, người chiến sĩ cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo đức độ, giản dị, người chỉ huy tài ba. Trong thời gian giữ trọng trách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (từ tháng 02/1987 đến tháng 8/1992), với tầm nhìn chiến lược sắc sảo, Đại tướng Lê Đức Anh đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh, trong đó chú trọng chỉ đạo nâng cao chất lượng thông tin liên lạc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khi đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới, ngày 02/01/1987, Đảng ủy Quân sự Trung ương đã ra Nghị quyết số 06/NQ-ĐUQSTW về nhiệm vụ quân sự năm 1987. Nghị quyết nêu rõ: “Trong năm 1987, chấn chỉnh một bước tổ chức quân đội theo Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị. Có kế hoạch phòng thủ đất nước dài hạn, xây dựng kế hoạch tổ chức lực lượng vũ trang dài hạn đến năm 1990. Trong quá trình thực hiện phải nắm vững yêu cầu chấn chỉnh một bước tổ chức quân đội, không chỉ giảm bớt quân số mà còn làm cho tổ chức quân đội hợp lý, gọn, mạnh, đủ sức chiến đấu cao. Đi đôi với điều chỉnh quân số, tạo bước chuyển biến lớn về chất lượng tổng hợp và kỷ luật quân đội”.
Đối với Binh chủng Thông tin liên lạc, thời điểm này điều kiện bảo đảm cho thông tin liên lạc còn hạn hẹp, gặp nhiều khó khăn. Quán triệt sâu sắc Nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương, sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Đại tướng Lê Đức Anh, Binh chủng Thông tin liên lạc đã khắc phục mọi khó khăn, tập trung hoàn thiện mạng lưới, củng cố các công trình thông tin cấp chiến lược, chiến dịch, nâng cao chất lượng liên lạc trên toàn mạng bằng nhiều loại phương tiện, bảo đảm thông tin kịp thời, chính xác giữa Bộ Quốc phòng với các quân khu, quân đoàn và bộ chỉ huy quân sự các tỉnh, các sư đoàn tác chiến phía trước, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Binh chủng đã thực hiện quy hoạch điều chỉnh hệ thống thông tin hữu tuyến điện, vô tuyến điện tiếp sức; củng cố và nâng cao chất lượng thông tin đối với mạng phía nam, phía bắc, tiếp tục xây dựng công trình ICS (đoạn Huế - Đà Nẵng và Huế - Vinh); tập trung đầu tư cho các đơn vị tuyến 1, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt giữa Bộ Quốc phòng và các đơn vị trong toàn quân. Nâng cao chất lượng liên lạc của Trung tâm Thông tin T5-79 ở Hà Nội; mở rộng dung lượng Tổng đài A40 thay thế hai tổng đài 200 của A10 và hai tổng đài tự động 400A, 400B bằng tổng đài tự động 3000 số. Đây là bước phát triển mới về liên lạc điện thoại tự động của Binh chủng Thông tin liên lạc. Để bảo đảm liên lạc với các đơn vị trên hướng Quân khu 2, Binh chủng xây dựng Trạm A29 thuộc Lữ đoàn 134 tại Sơn Tây.
Về điều hành khai thác thông tin, Binh chủng chỉ đạo Lữ đoàn 205 duy trì tốt các chế độ quản lý, xây dựng nền nếp bảo dưỡng khí tài, bảo đảm liên lạc thông suốt, ổn định trên toàn mạng. Lữ đoàn 596 và Trung đoàn 136 hiệp đồng chặt chẽ trong việc chỉ huy, điều hành, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt giữa Thủ đô Phnôm Pênh, Campuchia với Thành phố Hồ Chí Minh và Thủ đô Hà Nội bằng vô tuyến điện tiếp sức và hữu tuyến điện. Trung đoàn 130 củng cố tổng trạm 700, xây dựng Đại đội 1 ở Thành phố Hồ Chí Minh phục vụ cho công tác chỉ huy, điều hành thông tin. Trung đoàn 138 luôn sẵn sàng cơ động thay thế khi hữu tuyến điện gián đoạn, duy trì chế độ đài canh đi vào nền nếp, bảo đảm liên lạc bằng vô tuyến điện tiếp sức. Lữ đoàn 134 tập trung nâng cao chất lượng các tuyến dây trần, góp phần nâng cao chất lượng liên lạc giữa Bộ và các đơn vị tuyến 1, phục vụ kịp thời cho chỉ huy sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu. Trung đoàn 132 tập trung kiểm tra, bảo quản và nâng cao chất lượng các tuyến cáp.
Thực hiện nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương, sự chỉ đạo của đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về thực hiện kế hoạch điều chỉnh thế bố trí chiến lược và giảm quân số thường trực toàn quân, đầu năm 1988, Binh chủng Thông tin liên lạc kiện toàn mạng lưới thông tin bảo đảm khoa học, hợp lý, đáp ứng nhiệm vụ thường xuyên cũng như lâu dài. Tổ chức hợp lý hệ thống mạng thông báo, báo động từ Bộ Quốc phòng đến các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng kịp thời, chính xác. Về tổ chức biên chế, cũng trong năm 1988, Binh chủng tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh Quyết định của Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hợp nhất Trung đoàn 138 và Trung đoàn 612 thành Lữ đoàn 614 thông tin tiếp sức đối lưu; duy trì Lữ đoàn 134 làm hai nhiệm vụ bảo vệ, khai thác và xây dựng đường dây thông tin; giải thể Trung đoàn 132; Trung đoàn 136 sau khi hoàn thành nhiệm vụ quốc tế trở về nước được giải thể chuyển giao nhiệm vụ cho Lữ đoàn 596; thành lập Tiểu đoàn 87 tác chiến khí tài mới ở phía bắc Hà Nội, sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ do Bộ Quốc phòng giao. Cùng với việc chấn chỉnh tổ chức biên chế, Binh chủng thu gọn mạng thông tin hữu tuyến điện do Lữ đoàn 134 phụ trách, bàn giao hai trạm A38, A39 và tuyến dây A38 - A39 cho Quân khu 3, thu hồi tuyến A40 - A41. Lữ đoàn 614 chuyển giao trạm vô tuyến điện tiếp sức X33 cho Quân khu 2. Tiểu đoàn 6, thuộc Trung đoàn 134 được giao nhiệm vụ xây dựng mới hai công trình cáp trung kế từ trạm vô tuyến điện VT42 đến bưu điện Nam Định và từ trạm vô tuyến điện VT47 đến bưu điện Vinh để liên lạc qua viễn thông với phía nam. Sau khi tuyến viễn thông Hà Nội - Vinh đi vào hoạt động, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhất trí cho thu hồi tuyến dây trần từ A67 đến A90 dài 379km đường cột, 1.425km đôi dây từ Nghệ An đến Thừa Thiên Huế. Các thiết bị thông tin thu hồi được sử dụng củng cố mạng thông tin phía bắc.
Trước tình hình ở biên giới phía Bắc và quần đảo Trường Sa có những diễn biến phức tạp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương, mà trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh về bố trí lực lượng và hoàn chỉnh phương án phòng thủ trên quần đảo Trường Sa, đầu tháng 3/1988, Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc đã phối hợp, hiệp đồng cùng Quân chủng Hải quân nắm tình hình, lập kế hoạch bảo đảm thông tin phục vụ yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Ở Vùng 4 Hải quân, Trung tâm Thông tin Sở Chỉ huy được xây dựng, lắp đặt thiết bị đưa vào sử dụng khai thác; tăng cường hệ thống thông tin giữa đất liền với quần đảo Trường Sa; dự trữ hàng trăm máy thu phát, máy sóng cực ngắn, máy phát điện, điện thoại sẵn sàng tăng cường để bảo đảm chỉ huy chiến đấu. Tại các đơn vị tuyến trước như Hà Tuyên, Lạng Sơn, Bộ Tư lệnh Binh chủng Thông tin liên lạc đã cử các đoàn cán bộ kỹ thuật đến sửa chữa, đổi mới và cấp bổ sung các máy vô tuyến điện và hữu tuyến điện. Đồng thời, tổ chức diễn tập thử nghiệm ở khu vực biên giới phía Bắc theo cơ chế mới: Đảng lãnh đạo, chính quyền địa phương điều hành, cơ quan quân sự tỉnh làm tham mưu, nhằm kiểm tra hệ thống thông tin, thực hành điều chỉnh liên lạc theo một số tình huống.
Bước sang năm 1989, sau khi hoàn thành nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia, Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ đạo Binh chủng Thông tin liên lạc tiến hành bàn giao đường dây hữu tuyến điện cho đoàn tiếp nhận thông tin của Bạn ở Niếc Lương, từ cửa khẩu Mộc Bài qua Niếc Lương đến Phnôm Pênh dài 125km đường cột; đồng thời bàn giao cho bạn các trạm, các tổ bảo vệ đường dây, các thiết bị, tổng đài, máy điện thoại, máy nổ. Riêng tuyến Mộc Bài - Thành phố Hồ Chí Minh được giao cho Quân khu 7 và Quân đoàn 4 quản lý. Binh chủng tổ chức triển khai chặt chẽ vô tuyến điện sóng ngắn, máy sóng cực ngắn bảo đảm cho quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nghĩa vụ quốc tế trở về nước bằng cả đường bộ, đường thủy và đường không.
Năm 1990, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào khủng hoảng toàn diện, nghiêm trọng. Tình hình kinh tế - xã hội nước ta vẫn còn khó khăn. Nhiều khí tài, thiết bị của quân đội cũng như của Binh chủng Thông tin liên lạc xuống cấp do sử dụng đã lâu; viện trợ của các nước cho ta bị hạn chế. Toàn quân, trong đó Binh chủng Thông tin liên lạc tiếp tục thực hiện tinh giảm về tổ chức biên chế.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương, sự chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh và các cơ quan cấp trên, Binh chủng Thông tin liên lạc đã tập trung nâng cao chất lượng các phương tiện thông tin, quy hoạch mạng hữu tuyến điện, vô tuyến điện, tiếp sức, quân bưu và khai thác hợp lý. Lập kế hoạch triển khai bảo đảm luyện tập thông tin liên lạc; giúp các quân khu, quân đoàn thiết bị thông tin; điều chỉnh phân cấp mạng lưới thông tin. Tăng cường khả năng thông tin trên những hướng quan trọng, những địa bàn trọng điểm, củng cố kênh tiếp sức và khai thác thông tin M86; đại tu mạng cáp Hà Nội - Hải Phòng; triển khai nhiều biện pháp bảo vệ các tuyến dây. Thống nhất với Ngành bưu điện nâng cao chất lượng và quy chế khai thác các kênh quân sự, đồng thời hợp tác với các đơn vị quân đội, cơ quan nhà nước triển khai chương trình truyền số liệu máy vi tính trên các phương tiện thông tin. Kết quả: Bảo đảm vô tuyến điện sóng ngắn thường xuyên từ Bộ Quốc phòng tới toàn quân trong đó có các trường hợp vượt cấp là bộ chỉ huy quân sự các tỉnh vùng biên giới, vùng hải quân, mặt trận và khu vực trọng yếu; duy trì hệ thống thông báo, báo động thông tin sở chỉ huy của Bộ chuyển và nhận hàng chục nghìn công điện kịp thời, chính xác, an toàn. Hệ thống vô tuyến điện nội bộ các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng luôn giữ vững liên lạc, đáp ứng yêu cầu chỉ huy thường xuyên cho các đơn vị sẵn sàng chiến đấu. Hệ thống tiếp sức gồm sáu tuyến liên lạc với các đơn vị toàn quân trong đó một số tuyến đã đạt chất lượng liên lạc 99%. Các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng có mạng vô tuyến điện tiếp sức riêng để chỉ huy các đơn vị thuộc quyền và đến những nơi không có đường dây.
Hệ thống viễn thông có tuyến viba Hà Nội - Đà Nẵng với hàng chục kênh quân sự và tuyến ICS Đà Nẵng - Thành phố Hồ Chí Minh đã bảo đảm tốt việc liên lạc đường dài Bắc - Nam và giữa các khu vực ở phía nam. Hệ thống quân bưu được chấn chỉnh, rút gọn tổ chức, hợp lý hóa các tuyến vận hành, bảo đảm tuyến đường trục và các trạm chính. Ngoài hai trung tâm lớn ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, quân bưu rút gọn còn 16 trạm, bảo đảm vận chuyển công văn, tài liệu đến hơn sáu trăm đầu mối đơn vị trong toàn quân. Các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng tổ chức 35 trạm thu phát hiệp đồng với trục vận hành giao nhiều tài liệu kịp thời, an toàn tới hơn 300 đầu mối đơn vị quân đội. Đối với thông tin hữu tuyến điện, tiếp tục rút gọn mạng đường trục theo quy hoạch. Trong quá trình các đơn vị củng cố đường dây, trạm máy, việc liên lạc vẫn được duy trì thường xuyên, nhất là với hướng chủ yếu. Binh chủng tiến hành nâng cao chất lượng các tuyến cũ, đồng thời tổ chức xây dựng thêm nhiều tuyến mới.
Các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng đều triển khai mạng hữu tuyến điện xuống các đơn vị và tận dụng khai thác đường dây thông tin bưu điện. Bên cạnh hệ thống thông tin quân sự, Binh chủng Thông tin liên lạc còn kết hợp chặt chẽ thông tin với Ngành bưu điện tạo thành mạng thông tin rộng khắp, bảo đảm liên lạc thường xuyên từ Bộ Quốc phòng đến các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng từ 3 đến 4 phương tiện; trên mỗi hướng có thể liên lạc từ 2 đến 6 kênh thoại, 1 đến 2 kênh báo và thông tin vận động; ở cấp chiến dịch có thể liên lạc từ Bộ Quốc phòng đến các sư đoàn và bộ chỉ huy quân sự các tỉnh bằng 2 đến 3 loại phương tiện, từ 1 đến 2 kênh thoại, 1 kênh báo và thông tin vận động. Đồng thời với nhiệm vụ bảo đảm thông tin phục vụ các lực lượng vũ trang xây dựng và sẵn sàng chiến đấu, trong năm 1990, Binh chủng đã đầu tư xây dựng 49 công trình, trong đó có 40 công trình theo kế hoạch và 9 công trình đột xuất.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (từ ngày 24 đến ngày 27/6/1991) xác định: “Xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân với số quân thường trực thích hợp theo hướng cách mạng chính quy, từng bước hiện đại...”[308]. Để thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, Đại hội đại biểu Đảng bộ Binh chủng Thông tin liên lạc lần thứ XI, xác định: “Tổ chức lực lượng gọn, mạnh, có cơ cấu hợp lý; huấn luyện bộ đội, đào tạo đội ngũ cán bộ với chất lượng ngày càng cao, trang bị kỹ thuật đồng bộ, sử dụng tốt trang bị khí tài hiện có, đồng thời đổi mới từng bước trang bị kỹ thuật trọng điểm. Tổ chức mạng thông tin liên lạc hợp lý, chất lượng ổn định, kết hợp chặt chẽ giữa thông tin quân sự với thông tin bưu điện, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy trong mọi tình huống”. Đến cuối năm 1991, Binh chủng đã hoàn thành thêm một bước mạng lưới thông tin, tiếp tục chấn chỉnh tổ chức biên chế, huấn luyện bộ đội, đồng thời đầu tư và tăng cường lực lượng thông tin cơ động, thông tin phục vụ kế hoạch sẵn sàng chiến đấu, nâng cao khả năng sẵn sàng bảo đảm thông tin liên lạc, phục vụ Bộ Quốc phòng chỉ đạo, chỉ huy toàn quân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trên cơ sở quán triệt Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh, Binh chủng Thông tin liên lạc tổ chức quy hoạch mạng lưới thông tin quân sự giai đoạn 1991 - 1995, tập trung quy hoạch mạng lưới thông tin cấp chiến lược, xây dựng ba trung tâm điện thoại ở Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh, bảo đảm thông tin bằng các kênh thoại thường và thoại mật, duy trì thông tin liên lạc từ Sở Chỉ huy của Bộ đến các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng. Nghiên cứu lực lượng thông tin cơ động và tổ chức biên chế một số đơn vị phù hợp với yêu cầu bảo đảm thông tin liên lạc. Kết hợp với thông tin bưu điện nâng cao chất lượng mạng vô tuyến điện tiếp sức, viễn thông bằng cách tận dụng viba số, triển khai thông tin truyền số liệu đến cấp tỉnh và sư đoàn. Để bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt, Binh chủng đã khắc phục khó khăn, củng cố, nâng cao chất lượng trang thiết bị, mua sắm thêm một số khí tài mới, chấn chỉnh chế độ quản lý, khai thác hiệu quả mạng lưới thông tin. Về thông tin vô tuyến điện, lắp đặt xong tuyến trục thông tin truyền số liệu Hà Nội - Đà Nẵng - Thành phố Hồ Chí Minh (sử dụng máy vi tính và IC751). Tổ chức liên lạc giữa Sở Chỉ huy Bộ với các quân khu, quân đoàn và Sở Chỉ huy tiền phương Bộ đạt tỷ lệ liên lạc là 92,3%, trong đó mạng chỉ huy đạt 98,3%, mạng vượt cấp đạt 73,3%.
Về vô tuyến điện tiếp sức, đối lưu đã phát triển thêm một số tuyến mới bảo đảm liên lạc giữa Bộ Quốc phòng và các quân khu, quân đoàn. Phối hợp với Tổng công ty Bưu chính viễn thông, Binh chủng xây dựng chương trình “Phối hợp mạng viễn thông quốc gia với hệ thống thông tin quân sự”, khai thác có hiệu quả ở các khu vực Đà Nẵng, Cần Thơ và Vũng Tàu. Thông tin quân bưu thuộc Bộ và các đơn vị thường xuyên đảm bảo vận chuyển công văn, tài liệu an toàn, đúng thời gian quy định. Đối với thông tin hữu tuyến điện, hệ thống đường trục dây trần và cáp cơ bản ổn định, tỷ lệ liên lạc đạt 98,03%. Binh chủng quy hoạch lại mạng tổng đài tự động quân sự khu vực Hà Nội, tổ chức các tổng đài khu vực, giảm hệ thống đường cáp nội thành, hoàn thiện tổng đài Nha Trang, sửa chữa các tổng đài tuyến Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh.
Đối với vùng biển, hải đảo, Binh chủng Thông tin liên lạc hướng dẫn cho ngành thông tin Hải quân tham mưu cho Bộ Tư lệnh Hải quân xây dựng Trung tâm Thông tin Sở Chỉ huy Vùng 5 và tăng cường mạng liên lạc trên đảo Thổ Chu, góp phần quan trọng bảo đảm liên lạc thường xuyên, vững chắc phục vụ việc thăm dò, khai thác dầu khí Vũng Tàu. Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo Binh chủng Thông tin liên lạc phối hợp với thông tin bưu điện đặt máy liên lạc với Lữ đoàn 171 và Vùng 4 Hải quân, góp phần phục vụ xây dựng kinh tế và bảo vệ chủ quyền vùng biển, hải đảo ở phía nam của Tổ quốc.
Cùng với việc nâng cao chất lượng hệ thống thông tin liên lạc, Binh chủng thường xuyên quan tâm nâng cao chất lượng các trang bị, khí tài thông tin, tạo dự trữ cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, luôn nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo trong công tác bảo đảm kỹ thuật. Binh chủng đã tiến hành sửa chữa có trọng điểm và sản xuất các phụ tùng thay thế đồng bộ, nâng cao hệ số kỹ thuật các trang bị khí tài thông tin, thiết kế chế tạo những khí tài, vật tư cần thiết làm dự trữ cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu khi chiến tranh xảy ra. Xây dựng các mối liên ngành giữa thông tin quân đội với thông tin bưu điện và công ty nước ngoài để liên doanh lắp ráp, chế tạo trang thiết bị thông tin hiện đại.
Quán triệt đường lối kết hợp nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ kinh tế trong tình hình mới, Binh chủng Thông tin liên lạc thành lập Công ty Điện tử và Dịch vụ tổng hợp phía Nam thuộc Tổng Công ty Thiết bị điện tử thông tin. Nhiệm vụ của công ty là khai thác khả năng, năng lực quốc phòng của các đơn vị thông tin phía nam; liên doanh, liên kết với các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước làm dịch vụ kỹ thuật điện tử và xây dựng các công trình thông tin dân dụng, tổ chức xử lý các trang thiết bị thông tin, vật tư phế liệu theo quy định của Bộ. Các lữ đoàn thông tin và một số cơ quan Bộ Tư lệnh cũng được điều chỉnh, rút gọn cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới.
Thấu suốt đường lối, quan điểm của Đảng, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Đại tướng Lê Đức Anh, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, từ năm 1987 đến năm 1991, Binh chủng Thông tin liên lạc đã hoàn thành tốt nhiệm vụ điều chỉnh tổ chức biên chế; nâng cao chất lượng hệ thống thông tin liên lạc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Binh chủng Thông tin liên lạc đã thực hiện hoàn thành Chiến lược phát triển hệ thống thông tin liên lạc quân sự giai đoạn 2011 - 2020, tiếp tục xây dựng Chiến lược phát triển hệ thống thông tin liên lạc quân sự giai đoạn 2020 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Bày tỏ lòng tri ân và nhớ ơn Đại tướng Lê Đức Anh nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Đại tướng, bộ đội thông tin liên lạc quyết tâm bảo đảm thông tin liên lạc, sẵn sàng chiến đấu, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, tạo môi trường hòa bình ổn định cho xây dựng đất nước Việt Nam, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; đây cũng là tâm nguyện mà cả cuộc đời Đại tướng Lê Đức Anh đã phấn đấu, hy sinh, cống hiến.
Thiếu tướng KHÚC ĐĂNG TUẤN
Đại tướng Lê Đức Anh đã trải qua nhiều cương vị công tác khác nhau, hoạt động cách mạng ở khắp các chiến trường trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, làm nhiệm vụ quốc tế và từng bước trưởng thành đến cương vị cao nhất là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ở mỗi cương vị, chức trách được Đảng, Nhà nước, quân đội giao phó, Đại tướng làm việc hết sức mình, cống hiến nhiều nhất cho Đảng và nhân dân, đặt lợi ích chung của cách mạng, của quân đội lên trên lợi ích cá nhân. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Đại tướng đã để lại cho thế hệ trẻ quân đội nói chung, bộ đội tăng thiết giáp nói riêng những bài học kinh nghiệm vô giá với nét tiêu biểu là sự kiên trung trong sáng của người đảng viên kiên cường, suốt đời trung thành với lý tưởng cách mạng; là tấm gương sáng ngời về phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”.
Đại tướng luôn quan tâm đến nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội đáp ứng nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, trong đó có xây dựng Binh chủng Tăng thiết giáp, lực lượng đột kích quan trọng của lục quân Quân đội nhân dân Việt Nam. Điều đó được thể hiện nổi bật trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, với vai trò là Phó Tư lệnh chiến dịch kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam, đồng chí đã cùng Bộ Tư lệnh Chiến dịch xây dựng thế trận cho bộ đội tăng thiết giáp và các đơn vị binh chủng hợp thành, hình thành 5 mũi tiến công, bao vây, cô lập lực lượng địch vòng ngoài, nhằm tiêu diệt làm tan rã các sư đoàn chủ lực, không cho chúng kịp rút chạy về Sài Gòn. Riêng cánh quân hướng tây - tây nam do đồng chí trực tiếp chỉ huy, lực lượng tác chiến trên hướng này là Đoàn 232, trong đó có Đoàn thiết giáp 26 miền Đông Nam Bộ (tương đương trung đoàn), được Tư lệnh cánh quân Tây Nam sử dụng phối thuộc cho Trung đoàn bộ binh 205 tiến công tiêu diệt địch ở An Hiệp, Rừng Dầu, Tân Mỹ và tiến công địch giải phóng thị xã Hậu Nghĩa. Lực lượng tăng thiết giáp còn lại trên các hướng cùng binh chủng hợp thành thực hành thọc sâu vào Sài Gòn; vượt sông Vàm Cỏ Đông, cùng bộ binh theo đường 10 đánh địch ở Tây Nam Sài Gòn, tập trung đánh chiếm Trường đua Phú Thọ, Ngã tư Bảy Hiền, Biệt khu thủ đô, Dinh Tổng thống và Tổng nha cảnh sát ngụy, góp phần cùng quân và dân cả nước làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Trong những chiến công của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nói chung và của bộ đội tăng thiết giáp nói riêng luôn có công lao to lớn của Đại tướng.
Trước tình hình biên giới phía Tây Nam nước ta bị xâm phạm, địch gây ra nhiều vụ thảm sát nghiêm trọng, có ý đồ đánh chiếm thị xã Tây Ninh và dọc biên giới Tây Nam nước ta, đáp lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, từ ngày 23/12/1978 đến ngày 17/01/1979 quân ta tập trung lực lượng, cùng với quân đội cách mạng của bạn tiến hành tổng tiến công tiêu diệt lực lượng phản cách mạng, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, truy quét tàn quân địch, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng chính quyền cách mạng, ổn định đời sống nhân dân. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả, dưới sự chỉ huy của đồng chí Lê Đức Anh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Phó Trưởng ban, rồi Trưởng ban lãnh đạo chuyên gia Việt Nam tại Campuchia, đã chỉ đạo các lực lượng nói chung, lực lượng tăng thiết giáp nói riêng thực hiện vừa xây dựng lực lượng, vừa tổ chức tham gia các đợt hoạt động tác chiến truy quét, tiêu diệt địch, bảo vệ vững chắc các mục tiêu được phân công, giữ vững địa bàn trên các vùng chiến lược trọng yếu, tham gia hàng trăm trận, đánh tan các căn cứ phòng thủ của địch, tiêu diệt, tiêu hao hàng chục ngàn tên địch; thu và phá huỷ nhiều vũ khí, trang bị, vật tư kho tàng; góp phần bảo vệ chính quyền nhân dân và xây dựng lực lượng vũ trang nước bạn từng bước vững mạnh, nâng cao chất lượng huấn luyện và bảo đảm sẵn sàng chiến đấu, đối phó với mọi tình huống, đập tan âm mưu phòng thủ lâu dài của địch; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế được giao.
Có thể nói Đại tướng Lê Đức Anh là người chỉ huy tham mưu chiến lược, vị tướng xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Cách sử dụng các lực lượng nói chung, lực lượng tăng thiết giáp nói riêng trong các chiến dịch và hình thức tác chiến chiến lược của Đại tướng đã phát huy được tối đa sức mạnh tổng hợp của các lực lượng tham gia tác chiến, phát huy được hoả lực, vỏ thép và sức cơ động của lực lượng tăng thiết giáp để thực hiện nhiệm vụ thọc sâu chiến dịch, tiến công trong hành tiến, đánh địch phòng ngự. Đại tướng đã vận dụng một cách sáng tạo nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, chiến đấu hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn, giành nhiều thắng lợi to lớn trên khắp các chiến trường, rút ra được nhiều kinh nghiệm làm phương hướng xây dựng, tác chiến của quân đội và Binh chủng Tăng thiết giáp sau này.
Năm 1988, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trong chuyến thị sát tại quần đảo Trường Sa diễn ra ngay sau khi quân đội Trung Quốc nổ súng vào tàu vận tải của Việt Nam tại đảo Gạc Ma rạng sáng ngày 14/3 làm 64 chiến sĩ trên tàu HQ-604 hy sinh, Đại tướng đã có một lời thề, như lời thề chung của mọi người dân đất Việt: “... trước anh linh tổ tiên và các cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắc nhủ với các thế hệ mai sau: “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc chúng ta”. Và sau đó, Bộ Quốc phòng đã quyết định đưa lực lượng tăng thiết giáp ra thực hiện nhiệm vụ tại các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc cho đến hôm nay.
Trong điều kiện mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, với cương vị cao nhất trong quân đội: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng đã quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo, linh hoạt đường lối xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là quân đội cách mạng theo nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh vào xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam với định hướng chỉ đạo là: “... đổi mới xây dựng quân đội nhân dân, đổi mới công cuộc xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ quốc phòng và an ninh, kết hợp chặt chẽ công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. Một trong những vấn đề cơ bản để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân nói chung, lực lượng tăng thiết giáp nói riêng thành lực lượng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại được Đại tướng Lê Đức Anh xác định là: “điều chỉnh tổ chức biên chế, bố trí chiến lược của quân đội cho phù hợp với kế hoạch phòng thủ cơ bản trong thời kỳ mới... bảo đảm mục tiêu đánh lâu dài, giảm chi phí quốc phòng, phát huy sức mạnh toàn dân, toàn diện, tạo nên sức mạnh phòng thủ đất nước và đủ sức mạnh chống lại mọi tình huống chiến tranh2. Kế hoạch điều chỉnh chiến lược và giảm quân số quân đội của Đại tướng đã được Trung ương Đảng đồng ý, đã giảm từ 1,5 triệu quân thường trực xuống còn 45 vạn (từ 9 quân đoàn giảm xuống còn 4 quân đoàn), cũng từ đó gánh nặng ngân sách quốc phòng của đất nước được giải tỏa mà vẫn giữ được sức mạnh của quân đội.
Đại tướng đã đề xuất Bộ Chính trị và là người góp phần thực hiện phá thế bao vây cấm vận của Hoa Kỳ; bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc; gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); cùng Quân ủy Trung ương lãnh đạo quân đội xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần vững mạnh, là đội quân cách mạng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, nhất là trong điều kiện các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ.
Đại tướng đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) tham mưu cho Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 02/NQ-BCT về xác định nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo. Theo đó, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng các khu vực phòng thủ từ tỉnh, thành phố đến cơ sở xã, tạo nên sức mạnh tại chỗ của nền quốc phòng. Cũng chính từ đề xuất của Bộ Quốc phòng, ngày 17/10/1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VI đã ban hành Chỉ thị số 381-CT/TW quyết định lấy ngày 22 tháng 12 - Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam hằng năm cũng là Ngày hội Quốc phòng toàn dân. Ngày 22/12/1989, lần đầu Ngày hội Quốc phòng toàn dân được tổ chức tại tất cả các địa phương trong cả nước. Từ đó đến nay, ngày 22/12 đã trở thành ngày hội lớn của toàn dân tộc với các hoạt động hướng vào chủ đề quốc phòng và quân đội. Ðó thật sự là ngày hội của truyền thống dựng nước và giữ nước, ngày hội tôn vinh và nhân lên hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, một nét độc đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.
Đại tướng luôn quan tâm đến nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội, trong đó có xây dựng Binh chủng Tăng thiết giáp, lực lượng đột kích quan trọng của lục quân Quân đội nhân dân Việt Nam. Thời gian giữ trọng trách cao nhất của quân đội, Đại tướng Lê Đức Anh đánh giá rất cao vị trí, vai trò đột kích quan trọng của lực lượng tăng thiết giáp trong đội hình tác chiến binh chủng hợp thành trong điều kiện mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở đó, Đại tướng quan tâm, định hướng nhiều vấn đề trong công tác xây dựng lực lượng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, quản lý, khai thác, sử dụng trang bị vũ khí của bộ đội tăng thiết giáp. Đại tướng cũng yêu cầu Binh chủng phải làm tốt công tác chính trị tư tưởng; giáo dục, nâng cao giác ngộ về chủ nghĩa xã hội, bồi dưỡng lập trường quan điểm, xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ, nhằm củng cố lý tưởng, niềm tin, tạo sự nhất trí cao với đường lối đổi mới của Đảng. Nhận rõ tình hình đất nước, hiểu rõ nhiệm vụ của quân đội và Binh chủng, cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch; đồng thời, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện dao động, giảm sút ý chí và tinh thần trách nhiệm, tạo sự đoàn kết nhất trí cao trong toàn Binh chủng để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.
Thực hiện mệnh lệnh của Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Binh chủng đã tiến hành kiện toàn biên chế, tổ chức của Binh chủng cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới; trong đó, chuyển giao một số đơn vị thuộc Tổng cục Kỹ thuật về Binh chủng (Trường Kỹ thuật Tăng thiết giáp; Nhà máy sửa chữa Tăng thiết giáp 153; Kho vật tư, khí tài Tăng thiết giáp (KT.580); các Tiểu đoàn sửa chữa cơ động X.1 và X.201). Binh chủng cũng ra Quyết định sáp nhập Kho Y với Kho J.120 thành Kho KT.887; thành lập Cục Kỹ thuật Binh chủng trên cơ sở Phòng Kỹ thuật Binh chủng với Cục Tăng thiết giáp (thuộc Tổng cục Kỹ thuật) để thực hiện chức năng bảo đảm kỹ thuật cho lực lượng tăng thiết giáp toàn quân. Ngoài ra, căn cứ quyết định của Bộ Quốc phòng, các Lữ đoàn tăng thiết giáp thuộc các quân đoàn, Quân khu 1 và Quân khu 3 được chấn chỉnh tổ chức thành biên chế cấp trung đoàn.
Về công tác huấn luyện, đào tạo của bộ đội tăng thiết giáp, Đại tướng quan tâm đến việc đổi mới nội dung, chương trình, thời gian phù hợp với từng đối tượng huấn luyện. Quá trình huấn luyện kết hợp chặt chẽ việc trang bị kiến thức mới với truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ. Tích cực rút kinh nghiệm và áp dụng khoa học, công nghệ vào nghiên cứu, cải tiến mô hình học cụ, ứng dụng công nghệ thông tin vào nâng cao hiệu quả huấn luyện, đào tạo chuyên ngành tăng thiết giáp. Thực hiện chỉ đạo của Đại tướng, trong huấn luyện đào tạo, Binh chủng đã quan tâm và tập trung nghiên cứu, phát triển nghệ thuật sử dụng, nghệ thuật tác chiến của tăng thiết giáp trong điều kiện mới, trong đó tập trung vào nghiên cứu cách đánh địch đổ bộ đường không, đổ bộ đường biển, tiến công đường bộ, địch sử dụng vũ khí công nghệ cao và nghệ thuật sử dụng lực lượng tăng thiết giáp tham gia chống bạo loạn lật đổ vũ trang trong thế trận khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố.
Về bảo đảm trang bị kỹ thuật chuyên ngành tăng thiết giáp, Đại tướng quan tâm, nhắc nhở bộ đội tăng thiết giáp phải quán triệt ý thức giữ tốt, dùng bền, cố gắng giữ vững số đầu xe tăng thiết giáp sử dụng có hiệu quả vào công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu giai đoạn trước mắt cũng như bảo quản, cất giữ để có lượng dự trữ sử dụng vào tác chiến lâu dài, khi đất nước buộc phải chuyển vào tình trạng chiến tranh. Trong điều kiện đất nước ta còn nghèo, tiềm lực kinh tế, quân sự còn hạn chế, bộ đội tăng thiết giáp luôn quán triệt tinh thần cần, kiệm của Đại tướng, ngành kỹ thuật của Binh chủng đã triển khai nhiều biện pháp để vượt qua mọi khó khăn trong công tác bảo đảm kỹ thuật, giữ vững hệ số kỹ thuật nhóm xe sẵn sàng chiến đấu luôn bằng 1 (KT=1), nhóm xe huấn luyện chiến đấu từ 0,85 trở lên (KT>0,85). Bên cạnh việc bảo quản, giữ tốt dùng bền trang bị kỹ thuật hiện có, Binh chủng đã từng bước triển khai công tác nghiên cứu, cải tiến nâng cấp, hiện đại hoá từng phần tiến tới hiện đại hoá đồng bộ xe tăng thiết giáp; kết hợp đồng bộ giữa bảo quản, khai thác sử dụng với sửa chữa, khôi phục tình trạng kỹ thuật của xe tăng thiết giáp. Chủ trương đồng bộ hoá và giữ vững số đầu xe hiện có đã được các đơn vị tăng thiết giáp triển khai tổ chức thực hiện chặt chẽ, góp phần nâng cao chất lượng vũ khí, trang bị, đáp ứng kịp thời nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Đại tướng Lê Đức Anh, lực lượng tăng thiết giáp thể hiện lòng tự hào với những thành tích, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của vị tướng tài cao, đức trọng. Phát huy truyền thống vẻ vang của Binh chủng anh hùng, bộ đội tăng thiết giáp nguyện chủ động, sáng tạo, cố gắng hơn nữa, thống nhất ý chí và hành động, tập trung mọi nỗ lực hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân giao phó, xứng đáng với vai trò, vị trí là lực lượng đột kích quan trọng của lục quân Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Hơn lúc nào hết, tưởng nhớ và biết ơn sự quan tâm dìu dắt của Đại tướng, bộ đội tăng thiết giáp cần phải quán triệt sâu sắc nhiệm vụ xây dựng Binh chủng theo hướng “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”.
Trong xây dựng, phát triển lực lượng và chiến đấu trước đây, bộ đội tăng thiết giáp đã đạt được nhiều thành tích, xây đắp nên truyền thống vinh quang “Đã ra quân là đánh thắng”. Trong giai đoạn cách mạng mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay, mỗi cán bộ, chiến sĩ tăng thiết giáp càng phải thấm nhuần sâu sắc lời căn dặn của Đại tướng Lê Đức Anh, thành hành động cụ thể, thành sức mạnh tổng hợp, khắc phục và vượt qua mọi khó khăn, thách thức, xây dựng lực lượng tăng thiết giáp vững mạnh, mẫu mực, tiêu biểu gắn với xây dựng tổ chức Đảng các cấp trong sạch, vững mạnh, cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống với tinh thần: “Bộ đội tăng thiết giáp Việt Nam, thời kỳ mới, sức đột kích mới, vượt qua thách thức, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ”.
Thiếu tướng ĐỖ ĐÌNH THANH
Đại tướng Lê Đức Anh là người chiến sĩ cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo tài năng, đã có nhiều cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và quân đội. Trong thời gian trên cương vị Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (02/1987 - 8/1991), đồng chí đã cùng Quân ủy Trung ương đề xuất nhiều chủ trương, quyết sách đúng đắn và chỉ đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, trong đó có Bộ đội Hóa học vững mạnh toàn diện, không ngừng phát triển và trưởng thành.
Những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng dẫn đến sụp đổ. Ở trong nước, do duy trì quá lâu mô hình quản lý theo kiểu tập trung quan liêu, bao cấp, đất nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân và quân đội gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã định ra đường lối đổi mới sâu sắc, toàn diện, mở ra thời kỳ mới cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Về nhiệm vụ xây dựng quân đội, Đại hội chỉ rõ: “Xây dựng Quân đội nhân dân chính quy, ngày càng hiện đại, có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, có tổ chức hợp lý, cân đối, gọn và mạnh, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu cao”. “Thực hiện đúng cơ chế Đảng lãnh đạo đối với quân đội và sự nghiệp quốc phòng”2. “Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phát triển nền khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam”3. “Từng bước phát triển công nghiệp quốc phòng đi đôi với tăng cường tiềm lực kinh tế của đất nước...”4.
Thực hiện đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, Đại tướng Lê Đức Anh đã trực tiếp chỉ đạo việc “nghiên cứu, điều chỉnh tổ chức, biên chế, bố trí chiến lược của quân đội cho phù hợp với kế hoạch phòng thủ cơ bản trong thời kỳ mới”5, theo phương châm “số quân thường trực ít nhưng tinh nhuệ, hiện đại, cơ động linh hoạt”6; chỉ đạo đổi mới nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm trang bị cho quân đội nhằm tạo sức mạnh phòng thủ đất nước.
Thực hiện ý định chấn chỉnh tổ chức, điều chỉnh lực lượng của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu, năm 1987, Binh chủng Hóa học tiến hành điều chỉnh tổ chức, giải thể các đơn vị Trường hạ sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật hóa học; Khung tập huấn; Ban kinh tế; Ban chính sách; chuyển nhiệm vụ đào tạo hạ sĩ quan hóa học sang Trường Sĩ quan Phòng hóa và Trung đoàn 86; tập trung quân số cho các đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Năm 1988, điều chỉnh biên chế Trung đoàn 86 tăng từ 3 tiểu đoàn lên 6 tiểu đoàn. Thành lập mới 3 tiểu đoàn và điều chỉnh cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ Cơ quan hóa học phía Nam. Trường Sĩ quan Phòng hóa phát triển thêm nhiệm vụ đào tạo cán bộ sơ cấp, bổ túc chủ nhiệm hóa học trung đoàn, sư đoàn và tiểu đoàn trưởng, đào tạo hạ sỹ quan và nhân viên kỹ thuật trung, sơ cấp hóa học. Đồng thời, điều chỉnh vị trí đóng quân của các đơn vị Tiểu đoàn 901, Kho khí tài 61 và Tiểu đoàn 906 phù hợp với ý định của cấp trên.
Trong 3 năm (1989-1991), tiếp tục điều chỉnh biên chế cơ quan Bộ Tư lệnh và đơn vị trực thuộc theo hướng gọn, nhẹ, giảm bớt trung gian, giảm quân số nhằm đưa hoạt động của các tổ chức, lực lượng đi vào chiều sâu, có chất lượng, phù hợp với yêu cầu mới. Trường Sĩ quan Phòng hóa có nhiệm vụ đào tạo sỹ quan chỉ huy, tiểu đội trưởng, nhân viên chuyên môn kỹ thuật, bổ túc cán bộ, sĩ quan dự bị... Khối kỹ thuật cơ bản giữ như biên chế năm 1989-1990 nhưng tăng thêm một kho hóa học (28/02/1990 thành lập mới Kho K63). Giải thể Tiểu đoàn 906 và giao nhiệm vụ huấn luyện dự bị động viên cho Tiểu đoàn 905. Trung đoàn 86 được điều chỉnh rút gọn còn 03 tiểu đoàn (Tiểu đoàn 908 sáp nhập vào Tiểu đoàn 901 huấn luyện vũ khí lửa và khói; Tiểu đoàn 904 sáp nhập vào Tiểu đoàn 903 huấn luyện tiêu độc, tẩy xạ; giải thể Tiểu đoàn 907 và 909; chuyển nhiệm vụ đào tạo tiểu đội trưởng hóa học cho Trường Sĩ quan Phòng hóa). Điều chỉnh vị trí đóng quân của trung đoàn.
Lực lượng hóa học toàn quân cũng được tổ chức sắp xếp lại theo quy định của Bộ: Tổ chức tiểu đoàn phòng hóa ở các quân khu, quân đoàn trực thuộc Bộ; đại đội phòng hóa ở các quân đoàn trực thuộc quân khu, quân chủng và sư đoàn đủ quân. Các sư đoàn khung rút gọn, khung thường trực, tỉnh đội có trợ lý hóa học.
Thực hiện chủ trương xây dựng, bố trí thế trận phòng thủ đất nước, trọng tâm là xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trong phạm vi cả nước; tháng 4/1989, Binh chủng tham mưu, đề xuất với Bộ Quốc phòng xây dựng kế hoạch phòng, chống vũ khí hủy diệt lớn đồng bộ, toàn diện trong quân đội. Trên cơ sở đó quy định chức năng, nhiệm vụ các ngành có liên quan trong quân đội và đề nghị thành lập cơ quan phòng thủ dân sự ở các cấp để triển khai từng bước quy hoạch, kế hoạch phòng, chống vũ khí hủy diệt lớn theo một kế hoạch thống nhất. Đến tháng 7/1990, Binh chủng tiếp tục tham mưu, đề xuất vấn đề khắc phục sự cố hóa chất độc. Xác định đây là một nhiệm vụ của cơ quan nhà nước có liên quan và là một nội dung trong kế hoạch tác chiến phòng thủ tỉnh, thành phố, cơ quan quân sự tỉnh tham mưu, dự kiến phương án, xác định cơ chế chỉ đạo, chỉ huy, hiệp đồng, huy động lực lượng, phương tiện khắc phục sự cố hóa chất nếu xảy ra. Những tham mưu, đề xuất này thể hiện vai trò, trách nhiệm của Bộ đội Hóa học đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quán triệt tinh thần đổi mới trong huấn luyện chiến đấu, công tác huấn luyện giai đoạn 1986-1991 được các cơ quan, đơn vị trong Binh chủng triển khai toàn diện. Trong huấn luyện, các đơn vị từ cấp đại đội đến tiểu đoàn tăng cường tổ chức huấn luyện đêm, hành quân đường dài, diễn tập dã ngoại; luyện tập chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, các phương án tác chiến; rèn luyện sức chịu đựng, bền bỉ dẻo dai; huấn luyện thuần thục kỹ thuật cơ bản cá nhân, kíp xe và tiểu đội; sử dụng thành thạo các trang bị, khí tài xe máy hóa học, nắm được nguyên tắc chiến thuật và hiệp đồng chặt chẽ cấp tiểu đội, trung đội, đảm đương được nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu ở cấp tiểu đội (kíp xe), trung đội trinh sát, tiêu tẩy và tiểu đội đặt đài quan sát khi có tình huống. Công tác chỉ đạo, điều hành huấn luyện sâu sát, chặt chẽ; cán bộ các cấp bám nắm thao trường nhiều hơn; tổ chức phương pháp huấn luyện, huấn luyện thực hành có tiến bộ; việc đánh giá kết quả huấn luyện đã đi vào thực chất hơn. Công tác huấn luyện từ năm 1987 đến năm 1991 đã quán triệt tốt tinh thần đổi mới, vận dụng tốt phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, tập trung vào khâu then chốt là huấn luyện thành thạo động tác kỹ - chiến thuật chuyên môn binh chủng, huấn luyện cán bộ và phân đội. Coi trọng đổi mới tổ chức, phương pháp huấn luyện cả ở đơn vị và nhà trường nên chất lượng huấn luyện được nâng lên, kết quả huấn luyện hằng năm đạt khá, giỏi. Cùng với đó, Bộ đội Hóa học đã hoàn thành tốt nhiệm vụ xử lý sự cố hóa chất độc do vỡ các thùng chứa hóa chất cloropicrin tại Nhà máy thuốc lá Thăng Long (tháng 7/1988); giám định, kết luận khối kim loại lạ nghi là uranium tại Đà Nẵng (tháng 12/1988) giúp cho cơ quan chức năng có cơ sở xử lý một cách thỏa đáng. Kết quả khắc phục các sự cố trên khẳng định thêm Bộ đội Hóa học có đủ khả năng làm tốt nhiệm vụ khắc phục hậu quả hóa chất độc hại trong công nghiệp, cũng như chất độc tồn lưu sau chiến tranh.
Song song với công tác chấn chỉnh tổ chức lực lượng, nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; hiện đại hóa vũ khí trang bị là một nhiệm vụ chính trị quan trọng được Đại tướng Lê Đức Anh quan tâm chỉ đạo sát sao, cần phải “Xây dựng công nghiệp quốc phòng tự chủ, có khoa học kỹ thuật tiên tiến, có lực lượng cán bộ và nhân viên khoa học ngày càng phát triển”. Thực hiện chỉ đạo của Bộ trưởng, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Hóa học tăng cường chỉ đạo đẩy mạnh công tác nghiên cứu, hiện đại hóa trang bị hóa học nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; xây dựng, phát triển lực lượng; bảo đảm phòng hóa cho các lực lượng vũ trang nhân dân khi xảy ra chiến tranh địch sử dụng vũ khí hủy diệt lớn. Trong đó, chủ động khai thác, tạo nguồn, tiếp nhận, bảo quản, khai thác, sử dụng có hiệu quả số trang bị kỹ thuật hóa học do Liên Xô và các nước anh em viện trợ, hạn chế thấp nhất hư hao, mất mát. Đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu khoa học như: nghiên cứu sản xuất mặt nạ phòng độc, khói nguỵ trang có điều khiển, nghiên cứu chế thử than hoạt tẩm xúc tác; nghiên cứu, cải tiến đạn B41 thành B41C, cải tiến súng M72, đạn cháy AC-70 với tầm bắn 1000m. Nghiên cứu chuyển hóa bột tiêu độc DT-2 (Dicloramin) thành DT-1 (Monocloramin); nghiên cứu các đề tài thuộc chương trình phòng, chống vũ khí hủy diệt lớn (Chương trình 66A); nghiên cứu men sinh hóa dùng để phát hiện chất độc thần kinh độc tính cao; nghiên cứu than hấp phụ hơi khí độc từ nền than hoạt ép viên. Nghiên cứu chế thử pin CS dùng để kiểm tra độ kín mặt trùm; công trình phòng chống NBC. Triển khai xây dựng phương án tổng thể và dự án đầu tư nhà máy sản xuất mặt nạ. Công tác phòng hóa trong tác chiến bảo vệ biển, đảo; khắc phục sự cố hóa chất độc; công tác phòng hóa trong tác chiến phòng thủ tỉnh, thành phố... Chính nhờ sự quan tâm sâu sát của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, sự nỗ lực cố gắng của Binh chủng nên khi không còn sự viện trợ trang bị hóa học của Liên Xô, Binh chủng vẫn chủ động bảo đảm tốt vũ khí trang bị kỹ thuật hóa học cho các đơn vị trực thuộc và toàn quân.
Như vậy, mỗi bước phát triển, trưởng thành của Bộ đội Hóa học đều gắn liền với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương, trực tiếp là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh. Nhờ sự quan tâm chỉ đạo đó, Bộ đội Hóa học đã từng bước chấn chỉnh tổ chức lực lượng theo hướng tinh, gọn, cơ cấu hợp lý; điều chỉnh thế đứng chân trên các địa bàn, hướng chiến lược quan trọng, tạo ra sự biến đổi quan trọng về chất của lực lượng hóa học 3 thứ quân, làm nòng cốt bảo đảm phòng hóa cho các lực lượng vũ trang và nhân dân sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống.
Quán triệt, vận dụng những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc; những năm qua, Bộ đội Hóa học không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu được nâng lên một bước. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức có sự bổ sung, phát triển. Cùng với việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật, Binh chủng đã hoàn thành tốt chức năng tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng các chủ trương, giải pháp xây dựng và phát triển tiềm lực phòng, chống vũ khí hủy diệt lớn cho đất nước, quân đội; khắc phục hậu quả chất độc hóa học tồn lưu sau chiến tranh; ứng phó sự cố hóa chất độc, sinh học, phóng xạ, hạt nhân (sự cố CBRN); phòng, chống dịch bệnh và các nhiệm vụ khác được Bộ Quốc phòng giao cho. Thực hiện gần 20 dự án, nhiệm vụ khắc phục hậu quả chất độc hóa học tồn lưu sau chiến tranh. Xử lý hàng trăm sự cố CBRN, điển hình như xử lý ô nhiễm tại Nhà máy Nhiệt điện Hải Phòng, Nhà máy Z121, Công ty Cổ phần Bóng đèn, phích nước Rạng Đông... Trong đại dịch Covid-19, với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, Bộ đội Hóa học đã tổ chức tẩy độc, khử trùng, vệ sinh môi trường tại nhiều khu vực trọng điểm trên địa bàn cả nước, góp phần khống chế, không để dịch bệnh bùng phát mạnh trên diện rộng, kịp thời giúp nhân dân vùng bị dịch yên tâm, tin tưởng vào các biện pháp phòng, chống dịch của cơ quan chức năng; góp phần giữ vững môi trường an ninh, an toàn để xây dựng, phát triển đất nước, củng cố quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và quân đội, góp phần làm sáng rõ hình ảnh Bộ đội cụ Hồ trong thời bình. Đồng thời khẳng định khả năng, trình độ và vị thế của Bộ đội Hóa học trong bảo đảm phòng hóa và bảo vệ môi trường.
Trong những năm tới, Bộ đội Hóa học tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng; sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, xây dựng Binh chủng vững mạnh về mọi mặt, hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ bảo đảm phòng hóa cho lực lượng vũ trang và nhân dân; ứng phó sự cố CBRN, bảo vệ môi trường sinh thái quốc gia. Theo đó, tiếp tục xây dựng Binh chủng vững mạnh về chính trị làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu. Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng để cán bộ, chiến sĩ luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về “đối tượng”, “đối tác”; chủ động đấu tranh ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, nhất là những nhiệm vụ mới, khó khăn, phức tạp, nguy hiểm, độc hại.
Chủ động nghiên cứu tình hình, dự báo, đánh giá đúng tình hình phát triển của vũ khí hủy diệt lớn trên thế giới; các thách thức an ninh phi truyền thống, trên cơ sở đó kịp thời tham mưu, đề xuất với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng các giải pháp phát triển tiềm lực phòng, chống vũ khí huỷ diệt hàng loạt; các chủ trương, giải pháp chuẩn bị, ngăn ngừa, đối phó với mọi tình huống, không để bị động, bất ngờ cả trong thời bình và thời chiến, nhất là về tổ chức bảo đảm phòng hóa trong những hình thái tác chiến mới trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra). Tham mưu xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Binh chủng và xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Thực hiện các công ước, điều ước và cơ chế về không phổ biến vũ khí hủy diệt lớn mà Việt Nam là quốc gia thành viên, góp phần tạo sự tin cậy của cộng đồng quốc tế và môi trường hòa bình để phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc từ xa, từ sớm.
Quy hoạch tổ chức lực lượng theo hướng tinh, gọn, mạnh, linh hoạt, phù hợp với điều kiện tác chiến, nghệ thuật tác chiến của Bộ đội Hóa học, có khả năng cơ động cao, cân đối, vững chắc trên các địa bàn chiến lược, mục tiêu trọng điểm, tạo thế trận phòng hóa vững chắc trong khu vực phòng thủ, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang đánh thắng chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt (nếu xảy ra), ngăn ngừa, ứng phó hiệu quả các tình huống CBRN trong thời bình. Tập trung ưu tiên hiện đại hóa 3 Trung tâm ứng cứu sự cố hóa chất độc, phóng xạ, hạt nhân, Đội khắc phục hậu quả môi trường ASEAN và Trung tâm Hành động quốc gia khắc phục hậu quả chất độc hóa học và môi trường (NACCET) đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đề xuất, kiện toàn hệ thống cơ quan và phân đội hóa học quân khu, quân đoàn, binh chủng, sư đoàn, tỉnh, vùng hải quân...
Đầu tư mua sắm có chọn lọc trang bị, phương tiện hiện đại theo hướng đồng bộ, tích hợp nhiều công nghệ hiện đại, phù hợp với khí hậu, thời tiết, môi trường hoạt động và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước để trang bị cho lực lượng hóa học chuyên môn, các phân đội hóa học làm nhiệm vụ chống khủng bố, khắc phục sự cố CBRN; xử lý môi trường đi thẳng lên hiện đại, từng bước nâng cao tỷ lệ bảo đảm trang bị hiện đại, công nghệ mới cho lực lượng hóa học toàn quân.
Đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện, trọng tâm là huấn luyện lực lượng ứng phó sự cố hóa học, sinh học, bức xạ và hạt nhân có đủ khả năng xử trí các tình huống phức tạp trên phạm vi cả nước, sẵn sàng tham gia khắc phục sự cố môi trường trong khu vực và quốc tế. Điều chỉnh nội dung, chương trình huấn luyện cho các đối tượng theo hướng toàn diện, chuyên sâu, theo chuẩn khu vực và quốc tế, phù hợp với nhiệm vụ và những thay đổi về phương thức, môi trường tác chiến và sự phát triển của vũ khí công nghệ cao. Thực hiện tốt phương châm huấn luyện “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, thực sự, thực tế, sát đối tượng tác chiến và địa bàn, mục tiêu đảm nhiệm. Kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện với rèn luyện bản lĩnh, ý chí, tính kỷ luật, sức chịu đựng gian khổ trong môi trường độc hại; sáng tạo, linh hoạt trong xử trí các tình huống; có trình độ chuyên môn giỏi, khả năng cơ động cao, sử dụng thành thạo vũ khí trang bị có trong biên chế, làm chủ các trang bị mới, hiện đại. Coi trọng huấn luyện nâng cao trình độ, khả năng ứng cứu sự cố CBRN sát với các tình huống xảy ra trong thực tiễn, bảo đảm đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ trên phạm vi cả nước cũng như trong khu vực ASEAN.
Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, tạo ra những sản phẩm khoa học, công nghệ mang tính đột phá, trực tiếp phục vụ nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; xử lý chất độc tồn lưu sau chiến tranh và bảo vệ môi trường. Tập trung cải tiến, hiện đại hóa các trang bị phòng hóa hiện có trong biên chế. Đặc biệt coi trọng ứng dụng thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 để hiện đại hóa dây chuyền công nghệ sản xuất đã được đầu tư; chế tạo các trang thiết bị, vật tư phòng hóa. Hiện đại hóa hệ thống chỉ huy, các phòng thí nghiệm, hệ thống quan trắc, cảnh báo phóng xạ, hóa học, sinh học... Nghiên cứu, phát triển nghệ thuật sử dụng Bộ đội Hóa học trong các loại hình tác chiến, nhất là tác chiến bảo vệ biển, đảo, phòng, chống khủng bố, khắc phục sự cố CBRN.
Coi trọng xây dựng nguồn nhân lực phòng hóa chất lượng cao, làm nòng cốt bảo đảm phòng hóa trong lực lượng vũ trang đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp hiện đại hóa Quân đội. Trong đó, chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ có kiến thức toàn diện, đủ khả năng lãnh đạo, chỉ huy tham mưu tác chiến hóa học trong tác chiến hiệp đồng quân binh chủng; có đủ khả năng làm chủ kỹ thuật, đặc biệt là ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trong lĩnh vực phòng, chống vũ khí hủy diệt lớn. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia giỏi, có trình độ chuyên môn sâu trong lĩnh vực hóa học, sinh học, hạt nhân; ứng phó sự cố CBRN; xử lý chất độc tồn lưu sau chiến tranh...
Đại tướng Lê Đức Anh đã về cõi vĩnh hằng, song tấm gương tiêu biểu về phẩm chất đạo đức cách mạng suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, cùng với những quan điểm, tư tưởng, chỉ đạo thực tiễn về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc của Đại tướng vẫn là những chỉ dẫn quan trọng để các thế hệ cán bộ, chiến sĩ hóa học tiếp thu, vận dụng vào xây dựng Bộ đội Hóa học “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thiếu tướng HÀ VĂN CỬ
Tham gia cách mạng từ năm 17 tuổi (năm 1937), cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh gắn liền với nhiều mốc son lịch sử của dân tộc và quân đội. Hơn 80 năm hoạt động cách mạng, đồng chí đã đảm nhiệm nhiều cương vị công tác quan trọng: Tư lệnh Quân khu 9; Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, kiêm chỉ huy trưởng Cơ quan Tiền phương của Bộ Quốc phòng ở Mặt trận Tây Nam; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sau này là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trên mọi cương vị công tác, dù ở bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, đồng chí luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; luôn tận tụy, bản lĩnh và dám làm, dám chịu trách nhiệm, đem hết tài năng, trí tuệ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Khi đứng trước những tình thế khó khăn, buộc phải ra quyết định, đồng chí luôn thể hiện bản lĩnh, phát huy tố chất của người có “tầm nhìn sâu và rộng trong những vấn đề chiến lược của đất nước”.
Trong những năm giữ cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Quốc phòng, với kinh nghiệm thực tiễn phong phú, đồng chí cùng tập thể Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng đoàn kết, thống nhất, thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới; lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam; xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Đặc biệt, đồng chí đã đề xuất kế hoạch xây dựng quân đội tinh, gọn, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao và cắt giảm lực lượng vũ trang để tập trung cho phát triển đất nước; điều chỉnh chiến lược phòng thủ đất nước trong tình hình mới, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế lúc bấy giờ mà vẫn bảo đảm sức mạnh để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, đồng chí chỉ đạo quyết liệt vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng và là một trong những người đưa ra ý tưởng xây dựng khu vực phòng thủ, các khu kinh tế - quốc phòng trên địa bàn chiến lược. Khi kế hoạch được Bộ Chính trị thông qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, trực tiếp là đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, thế trận phòng thủ đất nước được bố trí lại phù hợp, hiệu quả hơn; thế trận chiến tranh nhân dân và sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân được phát huy cao độ, nhất là ở các vùng biên giới, hải đảo, địa bàn chiến lược; đường biên giới hữu nghị với các nước được xây dựng, củng cố; lực lượng phòng thủ trên biển, đảo được tăng cường, quân số thường trực giảm, nhưng chất lượng được nâng cao. Điều đó đã giảm được chi phí quốc phòng trong điều kiện đất nước còn rất nhiều khó khăn, khi vừa phải tập trung mọi nguồn lực khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa phải đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế theo đường lối đổi mới để sớm thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đồng thời, đồng chí hết sức quan tâm đến trang bị cho quân đội, xây dựng công nghiệp quốc phòng, chăm lo cải thiện đời sống của cán bộ, chiến sĩ.
Quan điểm của Đại tướng Lê Đức Anh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh không những có ý nghĩa chiến lược trong thời điểm đó, mà còn giá trị cả về lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc giai đoạn hiện nay, chúng ta cần nghiên cứu, tiếp thu, phát triển lên tầm cao mới.
Ngày nay, trên thế giới và khu vực, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, song diễn biến thay đổi hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Chiến tranh quy mô lớn ít có khả năng xảy ra, nhưng cạnh tranh chiến lược, xung đột cục bộ có thể diễn ra gay gắt hơn. Các yếu tố an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh vẫn tiếp diễn phức tạp; xuất hiện nhiều hình thái chiến tranh mới, làm thay đổi môi trường chiến lược, tác động sâu sắc tới mọi quốc gia, dân tộc. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, tình hình Biển Đông tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất ổn định, đặt ra thách thức lớn đối với an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên biển. Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được củng cố, nâng cao. Tuy nhiên, đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là khi hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tăng cường hoạt động “diễn biến hòa bình” với âm mưu, thủ đoạn ngày càng công khai, trực diện hơn. Yêu cầu về chấn chỉnh lực lượng quân đội phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước đang đặt ra những vấn đề mới cần quan tâm giải quyết, v.v.. Trước thực tế đó, việc quán triệt quan điểm, tư tưởng của Đại tướng Lê Đức Anh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh càng có giá trị thiết thực; cần tập trung thực hiện một số vấn đề sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với công tác quân sự, quốc phòng, sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân.
Đây là giải pháp cơ bản, xuyên suốt quá trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân. Cần phải nhận thức rõ, Đảng ta vừa tổ chức, lãnh đạo, xác định quan điểm, định ra đường lối, vừa là hạt nhân đoàn kết để động viên sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hướng vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tiếp tục thực hiện tốt chức năng tham mưu, không ngừng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng. Công tác lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ quốc phòng phải thường xuyên được duy trì thực hiện nghiêm túc, thống nhất từ Trung ương tới địa phương. Cấp ủy, chính quyền các cấp phải coi việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên để có sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời, hiệu quả đối với nhiệm vụ này ở địa bàn, địa phương mình. Hệ thống nghị quyết, văn bản, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân cần được tổ chức quán triệt kỹ, triển khai thực hiện nghiêm túc, thống nhất, hiệu quả.
Hai là, thường xuyên nắm chắc tình hình, làm tốt công tác dự báo chiến lược, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước điều chỉnh các mục tiêu, chỉ tiêu về quốc phòng, bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước, quân đội.
Là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, quân đội nhân dân phải tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trước hết, phải chủ động làm tốt công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo tình hình, làm cơ sở tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối quân sự, quốc phòng đúng đắn, khoa học; kịp thời tổ chức triển khai, xử lý thắng lợi các tình huống, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ về chiến lược. Để thực hiện tốt vấn đề này, các cơ quan chiến lược của Bộ Quốc phòng phải thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành có liên quan, trực tiếp là Bộ Công an, Bộ Ngoại giao để chia sẻ thông tin, nắm chắc tình hình trong nước, khu vực và quốc tế, nhất là những diễn biến liên quan đến quốc phòng, an ninh và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, việc đánh giá chính xác tình hình, đối tác, đối tượng để tham mưu đúng, trúng, kịp thời, giải quyết tốt các mối quan hệ quốc tế nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là vấn đề quan trọng hàng đầu, mục tiêu cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trên cơ sở đó, có kế hoạch, phương án ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi bên trong, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống.
Ba là, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, nhất là xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh, làm nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Khi còn đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh rất quan tâm xây dựng quân đội theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra những yêu cầu mới rất cao và toàn diện. Vì vậy, việc xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ) vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Cấp ủy, chỉ huy các cấp phải quán triệt, thấu suốt quan điểm của Đảng, nhận thức đúng về vị trí, vai trò của mỗi lực lượng để có chủ trương, giải pháp phù hợp. Phải tập trung xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng; chú trọng xây dựng quân đội cả về con người và vũ khí, trang bị, trong đó lấy xây dựng con người là trung tâm - nhân tố quyết định thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Thời gian tới, cùng với quá trình hiện đại hóa lực lượng vũ trang theo các đề án về điều chỉnh tổ chức, biên chế và chiến lược trang bị cho quân đội đến năm 2025, chúng ta cần tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nhằm bảo đảm cho quân đội luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện, giáo dục - đào tạo theo Nghị quyết số 765-NQ/QUTW ngày 20/12/2012 của Quân ủy Trung ương; chú trọng huấn luyện nâng cao khả năng làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, hiện đại cho cả lực lượng thường trực, dự bị động viên và dân quân tự vệ. Coi trọng nâng cao chất lượng công tác hậu cần, kỹ thuật, công nghiệp quốc phòng... bảo đảm tốt cho nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và các nhiệm vụ khác.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ, hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh và ngược lại.
Đây là giải pháp quan trọng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và tăng cường sức mạnh quốc phòng. Thực tiễn cho thấy, kinh tế, văn hóa, xã hội có phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện thì mới có cơ sở để tăng cường tiềm lực quốc phòng; ngược lại, quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường là cơ sở, nền tảng giữ vững ổn định chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tiếp tục thực hiện tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước không ngừng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm có thể huy động tối đa sức mạnh của nền kinh tế - xã hội vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc khi có chiến tranh xảy ra. Trước mắt, cần huy động sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế quốc dân vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, hình thành nên thế trận phòng thủ quốc gia, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống. Đối với các địa phương, trong quá trình quy hoạch, phát triển cần phải gắn các đề án, dự án với nhiệm vụ phòng thủ của địa phương, bảo đảm nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội luôn song song với nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, nhất là trên các địa bàn chiến lược. Đối với các đơn vị quân đội, phải quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Quân ủy Trung ương về quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, nhất là Nghị quyết số 425-NQ/QUTW ngày 18/5/2017 của Quân ủy Trung ương về sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp theo; thực hiện Đề án “Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp quân đội giai đoạn 2016-2020”. Bên cạnh đó, phải tiếp tục đẩy nhanh tiến độ và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược theo Quy hoạch tổng thể xây dựng và phát triển các khu kinh tế - quốc phòng đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Coi trọng xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trên hướng biên giới, biển, đảo xa bờ; xây dựng và hoàn thiện một số mô hình kết hợp kinh tế với quốc phòng để ổn định và cải thiện đời sống nhân dân trên vành đai biên giới, khu vực xung yếu, tạo thế bố trí chiến lược mới trên các địa bàn, hướng chiến lược của đất nước. Các đơn vị quân đội, công an cần chủ động phối hợp chặt chẽ trong chia sẻ, xử lý các thông tin về quốc phòng, an ninh; trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu ở các cấp, bảo đảm cho thế trận quốc phòng toàn dân luôn gắn chặt với thế trận an ninh nhân dân; tích cực đấu tranh ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch, phản động.
Năm là, đẩy mạnh công tác đối ngoại quốc phòng và hội nhập quốc tế, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Công tác đối ngoại quốc phòng có chi phối lớn đến nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, vì vậy phải tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, trọng tâm là Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 806-NQ/QUTW ngày 31/12/2013 của Quân ủy Trung ương về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng cả trên bình diện song phương và đa phương, bảo đảm cho sự hợp tác trên lĩnh vực này trở thành nhân tố quan trọng góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Quá trình thực hiện phải nắm vững nguyên tắc chiến lược, nhưng hết sức linh hoạt, mềm dẻo về sách lược để tổ chức thực hiện đúng đắn, sáng tạo đường lối, chủ trương đối ngoại của Đảng. Tiếp tục đưa công tác đối ngoại quốc phòng đi vào chiều sâu, bền vững; trong đó, ưu tiên hợp tác với các nước có biên giới liền kề, củng cố, phát triển mối quan hệ hợp tác với các nước lớn, coi trọng quan hệ với các nước ASEAN, tăng cường quan hệ với các nước bạn bè truyền thống và các nước công nghiệp phát triển nhằm hướng tới mục tiêu cao nhất là tăng cường quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Sáu là, thực hiện tốt việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân ngày càng phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn.
Nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân của nước ta được hình thành từ truyền thống lịch sử. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chúng ta đã đúc rút ra được kho tàng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phong phú về sự nghiệp giữ nước và nền nghệ thuật quân sự đặc sắc Việt Nam.
Quán triệt tư tưởng, quan điểm của đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam nguyện trau dồi bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; luôn nêu cao tinh thần cách mạng tiến công; không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện, trình độ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi tình huống. Đồng thời, tích cực chấn chỉnh tổ chức, lực lượng theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, bảo đảm nâng cao sức mạnh chiến đấu, phù hợp với yêu cầu của nghệ thuật tác chiến hiện nay. Tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ, “thế trận lòng dân” vững chắc. Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng; ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến. Đẩy mạnh chống “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu.
Với tinh thần đó, toàn quân tiếp tục học tập, noi gương đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh, nêu cao truyền thống, bản chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” - “bộ đội của dân”, đoàn kết, thống nhất, chủ động, sáng tạo, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thiếu tướng, TS. ĐỖ HỒNG LÂM
Những đóng góp của đồng chí Lê Đức Anh được thể hiện trên rất nhiều mặt và nhiều lĩnh vực, trong phạm vi bài tham luận của mình, tôi xin tóm lược trên một số nét cơ bản dưới góc nhìn của người làm công tác xây dựng Đảng.
Về xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Trải qua hơn 5 năm lãnh đạo tiến hành đổi mới, Đảng đã nắm bắt được yêu cầu phát triển của đất nước, nguyện vọng của nhân dân, quyết tâm sửa chữa những khuyết điểm sai lầm trước đây; kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn được nâng lên. Tuy nhiên, Đảng cũng bộc lộ những khuyết điểm, hạn chế, trong đó có những khuyết điểm đang trở thành nguy cơ cần phải ngăn chặn kịp thời. Từ hoàn cảnh thực tiễn và tình hình trong Đảng, để bảo vệ Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định đổi mới, chỉnh đốn Đảng với việc ban hành Nghị quyết hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII: Về một số nhiệm vụ đổi mới, chỉnh đốn Đảng (ngày 29/6/1992), Nghị quyết chỉ rõ:
“- Tổ chức và kỷ luật của Đảng lỏng lẻo. Hệ thống tổ chức có những khâu trì trệ, ách tắc, chưa bảo đảm được sự lãnh đạo thông suốt trên tất cả các lĩnh vực. Một số tổ chức cơ sở đảng rệu rã, tê liệt, không giữ được vai trò lãnh đạo. Tổ chức và hoạt động của nhiều đoàn thể nhân dân còn nặng về hình thức, kém hiệu quả. Tình trạng mất đoàn kết xảy ra nghiêm trọng ở một số nơi.
- Trong Đảng có một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động, mất lòng tin, trong đó một số chịu ảnh hưởng của khuynh hướng cơ hội, xét lại, muốn đưa đất nước đi con đường khác; thậm chí đã có người phản bội, đầu hàng. Không ít cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân, thực dụng cuốn hút, trở nên thoái hoá, hư hỏng. Tệ tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, ăn chơi vung phí tài sản của nhân dân trở nên hết sức nghiêm trọng và kéo dài. Những hiện tượng đó gây tác hại lớn, làm tổn hại thanh danh, uy tín của Đảng.
- Chậm đổi mới phương thức lãnh đạo, hoạt động của không ít cấp ủy lúng túng trước tình hình mới. Bệnh quan liêu xa thực tế, xa quần chúng rất nặng. Nhiều cán bộ, đảng viên nói không đi đôi với làm, sống xa dân, thậm chí cách biệt với cuộc sống của người lao động”.
Với cương vị là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng chí Lê Đức Anh có những đóng góp tích cực cho việc ra đời và thực hiện Nghị quyết này của Đảng.
Về phát huy dân chủ trong Đảng
Ở đồng chí Lê Đức Anh luôn toát lên cách làm việc dân chủ, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tập trung sức mạnh, trí tuệ của tập thể với việc phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm và vai trò, phẩm chất, năng lực của từng cá nhân. Theo đồng chí, cá nhân cán bộ, đảng viên phải có trách nhiệm rất cao với tập thể, với đất nước thì mới có những đóng góp hiệu quả vào công việc của dân, của nước. Bất cứ tập thể nào cũng phải có một người đứng đầu điều hành. Trong đó, nếu ai đó lại xen lợi ích cá nhân vào thì sẽ hỏng cho cả tập thể và hỏng cả việc điều hành. Bởi vậy, tập thể tốt hay xấu trước hết là do cá nhân đứng đầu.
Muốn khắc phục tình trạng đó, phải thực hiện dân chủ. Dân chủ là vấn đề then chốt, là động lực của cách mạng. Thực tế cho thấy, nhiều giải pháp mang tầm vĩ mô đã được nhân dân phát hiện, kiến nghị và được áp dụng có hiệu quả to lớn. Điều quan trọng là phải biết phát huy nội lực, dựa vào dân, phát huy dân chủ, động viên nhân dân bằng lợi ích để tạo ra những tiềm năng mới.
Về tổng kết thực tiễn
Là một cán bộ lãnh đạo và chỉ huy, gần 50 năm gắn bó với quân đội, với các lực lượng vũ trang và nhân dân trên các chiến trường, trải qua cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng đất nước và gần 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia, đồng chí Lê Đức Anh rất tâm huyết với công việc “tổng kết kinh nghiệm chiến tranh cách mạng”. Trước hết là, sẽ lý giải một cách thuyết phục tại sao Việt Nam, một nước nhỏ, nghèo, nền sản xuất lạc hậu mà chiến thắng được nhiều kẻ thù lớn. Hai là, việc tổng kết sẽ có ích cho công việc giữ nước hôm nay và mai sau.
Tất cả những nội dung nêu trên giúp chúng ta thấy rõ được tầm nhìn của nhà lãnh đạo lớn của dân tộc, như đồng chí Võ Văn Kiệt đã nói: một trong những người lãnh đạo quốc gia tầm cỡ trong thời kỳ đổi mới đất nước. Cách đây 30 năm mà đồng chí đã có tư duy về tổng kết thực tiễn mà cụ thể là “tổng kết kinh nghiệm chiến tranh cách mạng” cho thấy điều đó.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo được bắt đầu từ đổi mới tư duy lý luận trên cơ sở đúc kết bài học sâu sắc về sự gắn bó giữa lý luận với thực tiễn. Chính nhờ xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn mà Đảng đã có những đột phá về lý luận, mở đường đưa sự nghiệp đổi mới phát triển thắng lợi. Văn kiện Đại hội XII đã đặt cụm từ “tổng kết thực tiễn” lên trước cụm từ “nghiên cứu lý luận”. Phải đặt nhiệm vụ tổng kết thực tiễn lên trên hết, trước hết, xem đó là cơ sở quan trọng nhất của nghiên cứu lý luận. Phải đổi mới căn bản phương thức tổng kết thực tiễn theo tinh thần: Phát hiện, lựa chọn một số mô hình, nhân tố mới xuất hiện trong thực tiễn; một số vấn đề quan trọng trong đường lối, chủ trương của Đảng đang được tổ chức thí điểm hoặc đang gặp khó khăn, ách tắc khi triển khai thực hiện; một số vấn đề bức xúc xã hội đang được đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân quan tâm... tập trung khảo sát, phân tích, đánh giá, tổng kết sâu, toàn diện, hệ thống để rút ra những kết luận ở tầm lý luận, đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách.
Về chuyên chính của chính quyền cách mạng đối với các thế lực phản động, chống phá
Những năm 1988 - 1991, các thế lực phản động trong và ngoài nước ra sức bôi nhọ, âm mưu lật đổ sự lãnh đạo của Đảng. Trước tình hình đó, đồng chí Lê Đức Anh khẳng định: Thực chất chúng chỉ gây rối thôi. Hơn một triệu quân với bao nhiêu vũ khí, phương tiện hiện đại và đôla mà không làm gì được, nay bọn phản động này quậy thế ăn thua gì. Việc quan trọng bậc nhất là ta cần phải củng cố nâng cao bản chất giai cấp vô sản. Bằng mọi cách Đảng phải giữ vững quyền lãnh đạo và củng cố quyền lãnh đạo cao nhất đối với đất nước; củng cố không phải một lúc mà phải làm từng bước.
Đến khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, ở nước ta, các phe nhóm phản động càng chống phá quyết liệt. Trước tình hình đó, đồng chí đề nghị phải thực hiện đúng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần làm hai việc: Thứ nhất, củng cố lại Đảng để xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp công nhân. Thứ hai, chăm sóc lợi ích và đời sống của nhân dân cả nước.
Về nhận diện các nguy cơ
Tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa IX, tháng 9/1997, đồng chí báo cáo: Chúng ta đã tự khẳng định mình bằng những thành tựu đạt được trong 5 năm qua - những năm đầy sóng gió. Song, chúng ta còn những khuyết điểm nội tại có chiều hướng gia tăng, nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ trở thành nguy cơ. Bốn nguy cơ của cách mạng nước ta đã được Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng chỉ rõ: 1. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, 2. Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; 3. Nạn tham nhũng và các tệ quan liêu; 4. Âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Bao trùm lên tận bốn nguy cơ đó là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân đang có chiều hướng phát triển, biểu hiện muôn hình muôn vẻ trong các doanh nghiệp, cơ quan của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, chúng ta phải có biện pháp để đẩy lùi và loại trừ chủ nghĩa cá nhân trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, trong các doanh nghiệp nhà nước thì mới đẩy lùi được mọi nguy cơ, mới hoàn thành được sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nếu chúng ta không loại trừ được chủ nghĩa cá nhân và không khắc phục được bốn nguy cơ mà để chúng biến thành hiện thực trong Đảng, trong bộ máy nhà nước thì hậu quả thật khó lường.
Về chăm lo lợi ích của dân
Trong một lần vào thị sát hai tỉnh miền Tây Nam Bộ là Kiên Giang và Cần Thơ, đồng chí Lê Đức Anh phát hiện ở đây có nhiều người dân mất hết ruộng đất canh tác. Nguyên nhân là do một số cán bộ có tiền, lợi dụng lúc nông dân gặp khó khăn đã mua ruộng của họ, thế là nông dân mất ruộng. Mà nông dân cả đời gắn bó với ruộng đất canh tác nhằm duy trì cuộc sống, nay ruộng không còn thì lập tức rơi vào khốn khó. Đồng chí nói: Chúng ta làm cách mạng để giành chính quyền cho nhân dân, chính quyền của dân, do dân, vì dân. Nay có chính quyền rồi, đã nắm quyền rồi, một số cán bộ lại xuất hiện tư tưởng phú nông, địa chủ. Anh là cán bộ, đảng viên không chịu tu dưỡng theo bản chất giai cấp công nhân, thì khi có quyền trong tay, hoặc anh sẽ trở thành điền chủ mới, người làm thuê cho anh lại chính là những nông dân mà anh vừa tham gia cuộc cách mạng giải phóng họ, nay vì khốn khó phải bán ruộng rồi trở thành người làm thuê như đã từng phải làm thuê cho địa chủ trước đây; hoặc anh sẽ là người ích kỷ, vô cảm, coi việc người dân mất ruộng là chuyện bình thường. Trong buổi làm việc hôm đó, đồng chí Tám Quýt, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang, một người đã từng chiến đấu rất dũng cảm trong kháng chiến, nói: “Tôi sống sát dân mà không hiểu dân!”.
Về vận dụng, phát huy các nguồn lực
Về đường lối đối ngoại, Đảng ta đề ra chủ trương Việt Nam muốn là bạn của tất cả các quốc gia, các dân tộc trên thế giới cùng phấn đấu vì hòa bình độc lập, hữu nghị và phát triển, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi. Ta và Trung Quốc chính thức bình thường hóa quan hệ (tháng 11/1991), đồng thời xúc tiến việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Chính đồng chí Lê Đức Anh đã chọn cách tiếp cận từ khoa học bằng cách cử Nguyễn Huy Phan (Thiếu tướng, bác sĩ Viện Quân y 108, giáo sư đầu ngành y học phẫu thuật chỉnh hình) làm “người mở đầu”. Khi đi dự hội nghị khoa học quốc tế ở Pari, đồng chí Phan đã trình bày công trình “phẫu thuật chỉnh hình” của mình, được các nhà khoa học đánh giá cao. Tại hội nghị, các nhà khoa học Mỹ đã có lời mời Giáo sư Nguyễn Huy Phan sang thăm Mỹ. Khi trao đổi về nghiệp vụ, các nhà khoa học phẫu thuật của Mỹ hỏi ta về việc họ muốn làm một điều gì đó cho Việt Nam. Ta mời họ sang tham gia phẫu thuật nhân đạo cho trẻ em bị khuyết tật môi, hở hàm ếch. Họ đồng ý và cử đoàn bác sĩ “Phẫu thuật nụ cười” sang ta. Sau này, công việc thành công, nhưng ít người biết được thời điểm đó cũng rất căng thẳng. Đồng chí Phan được cử đi thực thi nhiệm vụ mở quan hệ với một nước đế quốc vừa gây chiến tranh xâm lược nước ta bị hiểu nhầm là “thỏa hiệp, đầu hàng địch”. Nhưng “sự hiểu nhầm” đáng tiếc đó đã được đồng chí Lê Đức Anh giải quyết môt cách thỏa đáng. Đồng chí Nguyễn Huy Phan đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Vận dụng các nguồn lực thông qua cách tiếp cận khoa học chính là tư tưởng về ngoại giao nhân dân mà chúng ta cần thấm nhuần sâu sắc. Nói một cách ví von là phá băng quan hệ Mỹ - Trung bằng “ngoại giao bóng bàn” thì Việt Nam thực hiện đối ngoại bình thường hóa quan hệ với Mỹ thông qua con đường khoa học, thông qua ngoại giao nhân dân.
PGS.TS. LÊ VĂN CƯỜNG
Đại tướng Lê Đức Anh, nhà lãnh đạo xuất sắc của cách mạng Việt Nam, vị tướng tài ba của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, dù ở đâu và trên cương vị nào, Đại tướng cũng luôn đem hết tâm sức và trí tuệ phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, trong những năm Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào khủng hoảng rồi dẫn đến tan rã, trên cương vị là Tổng Tham mưu trưởng, sau đó là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã thể hiện tư duy chiến lược nhạy bén, sắc sảo trong tham mưu cho Đảng, Nhà nước về chiến lược xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng thời, trực tiếp chỉ đạo xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, đảm bảo thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Trở lại tình hình, sau một thời gian phát triển, đến những năm 80 của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ. Ở Liên Xô, từ tháng 3/1985, sau khi được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, M.Gorbachev tiến hành chính sách cải cách kinh tế trải qua ba giai đoạn: “Giai đoạn chiến lược tăng tốc, giai đoạn cải tổ và giai đoạn kinh tế thị trường có điều tiết”, nhưng các kế hoạch này không thành công, nền kinh tế càng thêm khủng hoảng. Bên cạnh đó, những biện pháp cải cách về chính trị lại dẫn tới sự rối loạn trong xã hội. Ngay trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô đã xuất hiện nhiều xu hướng, hình thành nhiều phe nhóm. Các lực lượng ngoài Đảng Cộng sản tổ chức nhiều đảng phái, đưa ra các quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Đồng thời, vấn đề dân tộc ở các nước Cộng hòa thuộc Liên bang Xô viết bấy lâu âm ỉ, thời điểm này bùng phát thành phong trào đòi ly khai. Mở đầu là các Đảng Cộng sản ở ba nước vùng Bantíc (Lítva, Látvia, Extônia) tuyên bố tách khỏi Đảng Cộng sản Liên Xô. Tiếp đó, tháng 6/1990, Đại hội đại biểu nhân dân Nga thông qua tuyên bố chủ quyền quốc gia của Nga, những người cộng sản họp Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Liên bang Nga. Như vậy, có thể thấy rõ “mầm mống tan rã” bắt đầu từ nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô.
Bước sang năm 1991, Liên Xô rơi vào khủng hoảng trầm trọng không thể cứu vãn. Cuộc đảo chính bất thành ngày 19/8/1991 của một số Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô thúc đẩy nhanh quá trình tan rã. Nhiều quốc gia thành viên của Liên Xô tuyên bố ly khai. Ngày 25/12/1991, M.Gorbachev tuyên bố từ chức, đồng nghĩa với việc chấm dứt chế độ Xô viết sau 74 năm tồn tại.
Trong khi đó, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cũng rơi vào khủng hoảng. Ở Ba Lan nổ ra cuộc đấu tranh của các lực lượng đối lập, chủ yếu là “Công đoàn đoàn kết”. Cuộc bầu cử hai viện Quốc hội tháng 6/1989 mang lại thắng lợi cho “Công đoàn đoàn kết”. Những người cộng sản thuộc Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan mất quyền lãnh đạo nhà nước, đến năm 1990, tuyên bố đổi thành Đảng Xã hội Dân chủ.
Ở Cộng hòa Dân chủ Đức, từ tháng 10/1989, hàng nghìn người dân tìm đường sang Cộng hòa Liên bang Đức. Ngày 03/10/1990, nước Đức thống nhất trên cơ sở Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức. Tiếp đó, các chính quyền xã hội chủ nghĩa lần lượt sụp đổ ở Bungari, Tiệp Khắc, Hungari, Rumani, Liên bang Nam Tư, v.v..
Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, tình hình chính trị và những diễn biến hết sức phức tạp ở Liên Xô và các nước Đông Âu trong những năm 80, 90 của thế kỷ XX đã tác động mạnh mẽ đối với Việt Nam - một đất nước xây dựng theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Đại tướng Lê Đức Anh được Đảng, Nhà nước giao trọng trách Tổng Tham mưu trưởng (12/1986), rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (02/1987). Trong bối cảnh tình hình trong nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng, kinh tế - xã hội của đất nước đang đặt ra những vấn đề cấp bách cần giải quyết. Bên cạnh đó, các thế lực phản động trong và ngoài nước ra sức bôi nhọ, âm mưu lật đổ sự lãnh đạo của Đảng, tiến tới đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Trước bối cảnh tình hình diễn biến phức tạp, bằng tư duy chiến lược, sắc sảo, Đại tướng Lê Đức Anh cho rằng, việc quan trọng nhất là phải củng cố, nâng cao bản chất giai cấp công nhân; bằng mọi cách Đảng phải giữ vững quyền lãnh đạo và củng cố quyền lãnh đạo cao nhất đối với đất nước. Đại tướng Lê Đức Anh đã cùng tập thể Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương họp bàn, đề ra nhiều biện pháp xây dựng, củng cố và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng.
Cuối năm 1991, khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu hoàn toàn sụp đổ, ở trong nước, các phe nhóm phản động chống phá quyết liệt, Đại tướng Lê Đức Anh đề nghị cần thực hiện hai việc: Thứ nhất, củng cố lại Đảng để xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp công nhân. Thứ hai, chăm lo lợi ích và đời sống của nhân dân cả nước. Những đề xuất đó của Đại tướng Lê Đức Anh được Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương chấp thuận, qua đó tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, sớm ổn định đất nước, thực hiện công cuộc đổi mới, nâng cao đời sống nhân dân. Hơn nữa, sự vững mạnh của Đảng thời kỳ này còn được thể hiện trong lãnh đạo quân đội, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận rõ sứ mệnh lịch sử của mình đối với dân tộc và vai trò to lớn của quân đội với sự nghiệp cách mạng. Đảng đã vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới phù hợp với hoàn cảnh cụ thể cách mạng Việt Nam; đồng thời, khẳng định tính tất yếu phải tổ chức, lãnh đạo quân đội để quân đội trở thành lực lượng nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Nhận thức sâu sắc yêu cầu đó, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trước tình hình biến động chính trị mạnh mẽ ở Liên Xô và các nước Đông Âu, Đại tướng Lê Đức Anh đã tham mưu cho Đảng và Nhà nước nhiều chủ trương, giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Đặc biệt, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 02/NQ-TW, ngày 30/7/1987, xác định nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo. Đây là một Nghị quyết rất cơ bản về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và đường lối chiến tranh nhân dân trong tình hình mới. Sự lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý của Nhà nước và vai trò làm chủ của nhân dân trong nhiệm vụ quốc phòng, an ninh được tăng cường rõ rệt. Trên cơ sở đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành quy định vể tổ chức đảng và tổ chức cơ quan chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thời kỳ Liên Xô và các nước Đông Âu lâm vào khủng hoảng, lợi dụng việc quân tình nguyện Việt Nam thực hiện nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia, các thế lực thù địch tích cực vận động quốc tế cô lập, tăng cường bao vây, cấm vận Việt Nam. Thực tế đó đặt ra tình thế cần phải thoát ra khỏi những sức ép nặng nề ấy, “để càng lâu càng không có lợi”. Nhưng, vấn đề đặt ra là, chúng ta chỉ rút quân khi đã hoàn thành các mục tiêu chiến lược ở Campuchia (cả cho bạn và cho ta), và chúng ta rút quân về nước trong tư thế của người chiến thắng.
Nhận thức rõ việc rút quân không chỉ là vấn đề quân sự mà còn là cánh cửa đầu tiên mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hội nhập quốc tế và phát triển của đất nước; trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã tham mưu cho Đảng, Nhà nước quyết định rút quân khỏi Campuchia vào năm 1989, bởi lẽ theo Đại tướng, thì đây là “thời điểm chín muồi”. Và trên thực tế, việc rút quân tình nguyện Việt Nam về nước là một bước đi chiến lược bài bản, kỹ lưỡng, sáng suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Để bảo đảm các yêu cầu đặt ra, trước những đợt rút quân đặc biệt này, Đại tướng Lê Đức Anh ra chỉ thị: “Trước khi rút quân, phải đảm bảo đời sống cho nhân dân bạn” (sửa nhà, đào kênh, phòng chống dịch bệnh...). Thực hiện mệnh lệnh của Đại tướng Lê Đức Anh, trong khoảng thời gian còn lại ở Campuchia, bộ đội Việt Nam trở thành đội quân công tác, là lực lượng lao động chính để chăm lo cho đời sống nhân dân Campuchia, để khi không còn sự giúp đỡ trực tiếp của quân tình nguyện Việt Nam, nhân dân nước bạn vẫn sống và tự bảo vệ được mình. Thậm chí, tất cả những gì của người lính tình nguyện Việt Nam, từ lương khô, gạo, thuốc men, mùng mền... (trừ trang bị vũ khí) đều để lại cho nhân dân Campuchia. Đến ngày 26/9/1989, Việt Nam hoàn thành việc rút toàn bộ quân tình nguyện ở Campuchia về nước. Đây là đợt rút quân cuối cùng, gồm bốn Mặt trận: 479, 579, 779, 979 và các đơn vị còn lại của hai Sư đoàn bộ binh 330, 302, Đoàn 5 Hải quân, Trung đoàn căn cứ không quân 901 và một số tiểu đoàn, trung đoàn bộ binh, binh chủng, các đơn vị bảo đảm...
Có những sự kiện lịch sử khi thời gian càng lùi xa thì ý nghĩa, giá trị của nó càng lớn lao; việc rút hàng chục vạn quân tình nguyện Việt Nam từ Campuchia về nước là dấu ấn sâu đậm trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngay sau đó, Việt Nam đã từng bước bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, với Hoa Kỳ và gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với tư thế của người chiến thắng. Thành công đó bắt nguồn từ chủ trương lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong đó có vai trò tham mưu to lớn của Bộ Quốc phòng đứng đầu là Bộ trưởng, Đại tướng Lê Đức Anh.
Tư duy và hành động mang tầm chiến lược của Đại tướng Lê Đức Anh còn được thể hiện ở việc: Trước những biến cố chính trị ở Liên Xô và các nước Đông Âu, để đảm bảo quân đội tinh, gọn và phù hợp yêu cầu bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới, trên cương vị Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương và các đồng chí trong các Cơ quan Bộ Quốc phòng tập trung nghiên cứu, điều chỉnh tổ chức, biên chế, thế bố trí chiến lược của quân đội cho phù hợp với kế hoạch phòng thủ đất nước thời kỳ mới. Thượng tướng Đoàn Khuê, Tổng Tham mưu trưởng trực tiếp xây dựng kế hoạch điều chỉnh chiến lược. Trong quá trình thực hiện kế hoạch, Đại tướng Lê Đức Anh và Thượng tướng Đoàn Khuê đã có nhiều cuộc họp bàn, đi đến thống nhất trong điều chỉnh chiến lược, bố trí lại đội hình chiến lược bảo đảm mục tiêu đánh lâu dài, giảm chi phí quốc phòng, phát huy được sức mạnh toàn dân, toàn diện, tạo nên sức mạnh phòng thủ đất nước và đủ sức mạnh chống lại mọi tình huống chiến tranh. Đó là con đường đổi mới xây dựng Quân đội nhân dân, đổi mới công cuộc xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ quốc phòng và an ninh, kết hợp chặt chẽ công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói, trong điều kiện đất nước, quân đội còn nhiều khó khăn, tình hình hình chính trị ở Liên Xô và Đông Âu diễn biến phức tạp, chủ trương của Đại tướng Lê Đức Anh và Thượng tướng Đoàn Khuê là đúng đắn, sáng tạo, mang tầm chiến lược, phù hợp với thực tế xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ý tưởng về điều chỉnh chiến lược của Đại tướng Lê Đức Anh, được báo cáo trước tập thể Bộ Chính trị. Trên cơ sở xem xét kỹ lưỡng, Bộ Chính trị đã đồng ý với những đề xuất của Đại tướng Lê Đức Anh. Trên cơ sở đó, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ Quốc phòng đã khẩn trương tổ chức thực hiện. Đại tướng Lê Đức Anh chỉ đạo các cơ quan Bộ Quốc phòng, nòng cốt là Bộ Tổng Tham mưu tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ quan trọng: Một là, xây dựng kế hoạch và triển khai kế hoạch điều chỉnh bố trí chiến lược và giảm quân số; hai là, soạn thảo các văn bản, tài liệu, giáo trình, triển khai trên toàn quốc “Thế trận chiến tranh nhân dân” và nhiệm vụ ”Quốc phòng toàn dân”, làm cơ sở lý luận và thực tiễn để ngày 30/7/1987, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 02/NQ-TW xác định “Nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo”, tập trung vào ba nội dung chủ yếu:
Một là, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, bảo vệ vững chắc công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hai là, tăng cường khả năng phòng thủ đất nước, xây dựng Quân đội nhân dân chính quy, hiện đại, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, tham gia xây dựng kinh tế.
Ba là, làm tốt nghĩa vụ quốc tế với cách mạng Lào và Campuchia.
Nghị quyết số 02/NQ-TW của Bộ Chính trị đi vào cuộc sống đã góp phần quan trọng vào việc phát động toàn dân xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng các khu vực phòng thủ từ tỉnh, thành phố đến cơ sở xã, tạo nên sức mạnh tại chỗ của nền quốc phòng, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tiếp đó, để nâng cao chất lượng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, ngày 17/10/1989, Ban Bí thư Trung ương Trung ương Ðảng, khóa VI ra Chỉ thị số 381-CT/TƯ, quyết định lấy ngày 22/12 (Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam) là “Ngày hội Quốc phòng toàn dân”. Chính vì lẽ đó, ngày 22/12/1989, lần đầu Ngày hội Quốc phòng toàn dân - được tổ chức tại tất cả các địa phương trong cả nước. Sự kiện này có dấu ấn quan trọng từ
tư duy mang tầm chiến lược của Đại tướng Lê Đức Anh trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Cùng với điều chỉnh thế bố trí chiến lược thời kỳ này, Đại tướng Lê Đức Anh còn tham mưu cho Đảng, Nhà nước trong việc giảm quân số để bảo đảm đánh lâu dài và trực tiếp giảm chi phí quốc phòng. Đại tướng Lê Đức Anh nêu rõ: “Bộ Chính trị không nói mức giảm là bao nhiêu, mà để Bộ Quốc phòng tính toán sao cho hợp lý. Tôi đưa ra con số giảm trên 60% số quân thường trực và xin ngân sách quốc phòng từ 15 đến 18%, đầu tiên là tổng ngân sách, tiến tới là ngân sách thu trong nước. Với quân số cuối cùng này, chúng tôi hoàn toàn nhất trí và anh Đoàn Khuê bắt tay vào xây dựng kế hoạch”. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng Lê Đức Anh, kế hoạch giảm quân số trong quân đội được thực hiện khẩn trương, hiệu quả. Khi Bộ Chính trị họp thông qua kế hoạch điều chỉnh chiến lược và giảm mạnh quân số quân đội, từ quân thường trực 1,5 triệu xuống còn 45 vạn và bước đầu để 5 vạn quân dự bị (từ 9 quân đoàn giảm xuống còn 4 quân đoàn), nhưng sức mạnh chiến đấu không giảm mà ngược lại được tăng cường, toàn thể Bộ Chính trị nhất trí hoàn toàn, gánh nặng ngân sách quốc phòng được giải quyết một cách cơ bản.
Thời kỳ này, khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu bước vào giai đoạn khủng hoảng dẫn đến tan rã, tình hình bảo vệ chủ quyền biển, đảo trở nên cấp thiết, âm mưu của nước ngoài muốn tranh chấp chủ quyền với nước ta ở các đảo chìm trên quần đảo Trường Sa dần lộ rõ. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân báo cáo Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng để có hướng xử lý. Đại tướng Lê Đức Anh lập tức báo cáo Bộ Chính trị, bằng mọi biện pháp đưa quân ra đóng giữ các đảo chìm. Ý chí quyết tâm bảo vệ biển, đảo Tổ quốc của Đại tướng Lê Đức Anh lúc đó khiến các cán, bộ chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam thêm vững tin, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ chủ quyền đất nước.
Trên cơ sở tham mưu của Bộ Quốc phòng, đứng đầu là Đại tướng Lê Đức Anh, ngày 22/2/1988, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng ký quyết định giải quyết những vấn đề cấp bách đặt ra đối với nhiệm vụ bảo vệ biển đảo, trước mắt là nhiệm vụ đóng quân trên các điểm đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ngay sau đó, các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng làm việc với các cơ quan nhà nước tiếp nhận vật tư, trang bị, tài chính cho hải quân. Ngày 16/3/1988, Bộ Chính trị họp và có Kết luận về nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa. Thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo Quân chủng Hải quân khẩn trương xây dựng các nhà giàn và bố trí lực lượng trên tất cả các đảo nổi, đảo chìm ở quần đảo Trường Sa và thềm lục địa. Theo đó, Quân chủng Hải quân tích cực vận chuyển và xây dựng các công trình phòng thủ đảo. Các quân chủng, binh chủng như: Hải quân, Không quân, Phòng không, Đặc công, Thông tin đã tiến hành diễn tập thực binh chi viện đảo và tiếp tục hoàn chỉnh các phương án phòng thủ. Tinh thần quyết tâm bảo vệ biển, đảo của Đại tướng Lê Đức Anh được truyền đến toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân; mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam như dâng trào niềm xúc động và thấy trách nhiệm, vinh dự, tự hào và sẵn sàng dâng hiến tất cả khi đọc lời thề: Ngày 7/5/1988, tại đảo Trường Sa Lớn - “Thủ đô của quần đảo Trường Sa”, khi ấy Đại tướng Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã đọc lời thề: “Chúng ta xin thề “trước anh linh tổ tiên và các cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa trước đồng bào cả nước, xin nhắc nhủ với các thế hệ mai sau “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc chúng ta”. Âm hưởng lay động sông núi, trào dâng trong lòng biển, đảo của Tổ quốc, như tiếng vọng từ chiều sâu lịch sử, kết nối hôm nay và mai sau. Có thể nói, với những gì để lại, Đại tướng Lê Đức Anh đã có những đóng góp quan trọng trong xây dựng thế trận bảo vệ vững chắc chủ quyền Tổ quốc trên biển, đặc biệt là quần đảo Trường Sa.
Đại hội VI của Đảng (12/1986) và tiếp đó là Đại hội VII của Đảng (6/1991), đã xác định phương hướng lớn của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc gắn liền với xây dựng đất nước. Các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị khóa VII; Nghị quyết số 03-NQ/HNTW, ngày 29/6/1992 của Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, khi nhận định nhiệm vụ quốc phòng và bảo vệ an ninh quốc gia, chống diễn biến hoà bình của địch, đã cụ thể hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đánh dấu một bước phát triển quan trọng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Có thể khẳng định, là vị tướng trận mạc, từng vào sinh ra tử trong nhiều thời đoạn của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Đại tướng Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng với kinh nghiệm thực tế dạn dày và tư duy nhạy bén, sắc sảo, mang tầm chiến lược, đã trực tiếp tham mưu cho Đảng, Nhà nước nhiều vấn đề quan trọng trong xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo cũng như vấn đề rút quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước. Đồng thời, Đại tướng Lê Đức Anh đã tham mưu cho Đảng trong việc tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội; trực tiếp chỉ đạo quân đội điều chỉnh tổ chức biên chế, thế bố trí chiến lược của quân đội cho phù hợp với kế hoạch phòng thủ cơ bản trong thời kỳ mới; giảm quân số để bảo đảm đánh lâu dài và trực tiếp giảm chi phí quốc phòng, v.v.. Những tham mưu, đề xuất của Đại tướng Lê Đức Anh đã được Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đồng ý và cho triển khai thực hiện, đem lại hiệu quả cao, trực tiếp góp phần củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Thời gian đã lùi xa, Đại tướng Lê Đức Anh không còn nữa, nhưng tư duy mang tầm chiến lược của ông trong xử lý các vấn đề thuộc lĩnh vực quân sự, quốc phòng thời kỳ Liên Xô và các nước Đông Âu lâm vào khủng hoảng là những dấu ấn sâu đậm trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh và để lại những bài học đòi hỏi chúng ta phải chắt lọc, vận dụng vào sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc để đất nước Việt Nam mãi trường tồn, không ngừng phát triển và vươn lên sánh vai với các cường quốc năm châu như Chủ tịch Hồ Chí Minh mong đợi lúc sinh thời.
Đại tá, PGS.TS. NGUYỄN VĂN SÁU
Trong hơn 80 năm hoạt động cách mạng, Đại tướng Lê Đức Anh đã đảm nhiệm nhiều trọng trách và có đóng góp to lớn đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc. Nói như nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười thì “Đại tướng Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta”. Ông là người thường xuyên coi trọng, quan tâm, có những chỉ đạo sâu sắc, quan trọng với công tác báo chí nói chung, đặc biệt là báo chí quân đội.
Ở các cương vị, trọng trách được giao, đặc biệt khi là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tiếp đến là Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh thường xuyên dành cho báo chí quân đội những tình cảm và sự quan tâm đặc biệt. Những ý kiến chỉ đạo, gợi mở của ông về chống thói làm báo nặng về hiếu hỉ, lễ tân, cũng như trách nhiệm của báo chí trong nêu gương tốt, chống thói hư, tật xấu và tệ nạn trong xã hội, phục vụ quyền lợi thiết thân của người dân... vẫn nóng hổi tính thời sự.
Đầu tháng 12/1995, Ban biên tập và một nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân có dịp được đi theo Chủ tịch nước Lê Đức Anh trong những chuyến công tác trong nước và nước ngoài, được may mắn đến xin ý kiến và trao đổi với Chủ tịch nước về công tác báo chí. Trong các buổi gặp đó, Đại tướng Lê Đức Anh đã có nhiều trao đổi, chỉ đạo sâu sắc về công tác báo chí nói chung, báo chí quân đội nói riêng. Ông đã nói đến các vấn đề cập nhật của báo chí như thông tin phải trung thực, đa dạng, nhiều chiều; tính hấp dẫn và thuyết phục; phê phán cái xấu nhưng phải coi trọng xây dựng cái tốt, hướng tới điều tốt đẹp... Ông thẳng thắn nêu thực trạng: “Báo chí ta thường có nhược điểm là hay nói một chiều. Trước đây, nói đến chủ nghĩa tư bản là chỉ nói đến những điểm xấu. Bây giờ, đi ra nước ngoài, được người ta dẫn đi xem những cái hay, cái đẹp của chủ nghĩa tư bản, thế là về nước viết bài ca ngợi hết lời và phủ định luôn chủ nghĩa xã hội. Viết như thế là đúng điều anh em đã nhìn thấy nhưng lại không đúng bản chất, không đúng với thực trạng tình hình ở các nước đó, vô hình trung là không trung thực vì đó mới là một phần của sự thật. Viết về chủ nghĩa xã hội cũng vậy. Những bài viết hô khẩu hiệu, lên gân không đi vào lòng người được đâu”.
Ông gợi mở: “Báo chí muốn hấp dẫn người đọc thì phải mang đến những thông tin họ quan tâm. Đó cũng chính là những vấn đề các nhà lãnh đạo phải tập trung suy nghĩ giải quyết để đưa đất nước đi lên. Ví như báo chí phải tích cực tham gia phát huy tích cực và chống tiêu cực. Càng đi ra nước ngoài nhiều càng thấy thế giới ngày nay cạnh tranh quyết liệt lắm, làm ăn khó lắm. Đồng vốn vay về quay đi quay lại “bốc hơi” một ít. Sản xuất, kinh doanh kém, thua lỗ, lãi mẹ đẻ lãi con thì thật nguy hiểm. Nếu như vậy thì hậu quả khó tránh là đến đời con, đời cháu chúng ta cũng không trả hết nợ do cha, ông để lại. Thấy vị giám đốc nào đi xe đẹp, xây nhà to mà xí nghiệp, công ty làm ăn thua lỗ, đời sống công nhân khó khăn các đồng chí cứ nêu lên báo để nhân dân phán xét”. Chủ tịch cho rằng, bên cạnh nội dung của thông tin thì sự diễn đạt, cách thức thể hiện thông tin là rất quan trọng: “Các đồng chí phải viết thế nào để trong bài viết không cần có chữ “định hướng”, mà từ chi tiết đến toàn bài lại toát ra định hướng, ngấm vào người đọc một cách tự nhiên. Sức thuyết phục của báo chí chính là chỗ đó”.
Chủ tịch nước Lê Đức Anh còn nhắc nhở về các tin bài còn nặng tính “hiếu hỉ” của báo chí quân đội. Ông cho rằng, do nhiều “hiếu hỉ” nên thông tin còn ít. “Có người nói thẳng với tôi rằng, đối với nhiều báo gửi lãnh đạo, họ thường chỉ xem lướt qua cái đầu đề, vì những điều báo đề cập đã được nói rõ ở các nghị quyết”. Ông có những gợi ý sâu sắc về cách đưa tin hoạt động của lãnh đạo: “Thông tin về hoạt động của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội là rất quan trọng, nhân dân cần phải biết. Vấn đề là đưa tin như thế nào? Theo tôi, mỗi hoạt động chỉ nên viết về người lãnh đạo vài ba dòng thôi, còn thì phải thông tin cho dân biết nơi các đồng chí lãnh đạo đến làm việc tình hình ra sao, cả mặt tốt và mặt chưa tốt. Dân rất cần biết những điều đó. Báo chí đưa tin hoạt động của lãnh đạo, chứ không phải tuyên truyền cho lãnh đạo”. Chủ tịch nước cũng bày tỏ sự tán đồng với ý kiến của một phóng viên: Cách làm báo của ta phải đạt hai yêu cầu: Được lãnh đạo chấp nhận và nhân dân đồng tình.
Về mối quan hệ giữa “xây và chống”, Chủ tịch nước Lê Đức Anh lấy ví dụ: “Mới đây, tôi có xem một vở kịch ngắn trên truyền hình, trong đó nói về người nông dân Hà Nam nghèo khó nhưng lại có tấm lòng, có đạo đức, còn mấy kẻ giàu có ở Hà Nội là thân nhân của cháu bé bị lạc lại quá vô lương tâm. Nhưng nếu vì thế mà lại khái quát lên rằng tất cả mọi người dân Hà Nội đều vô lương tâm, chỉ có dân quê nghèo khó mới có đạo đức thì lầm to. Đúng như lời bác thợ cạo trong vở kịch là: “Ở Hà Nội có rất nhiều người tốt. Cái bọn xấu kia chỉ là rác rưởi, phải tìm cách quét nó đi”. Vì thế, bên cạnh việc chống tiêu cực, phê phán cái xấu, phải hết sức chú trọng phát hiện biểu dương những nhân tố mới; những điểm sáng trong sản xuất, kinh doanh; người tốt, việc tốt ở các địa phương, các ngành, các đơn vị”.
Trên các cương vị công tác, Đại tướng Lê Đức Anh thường xuyên quan tâm đến báo chí quân đội, thông hiểu, tạo điều kiện tốt nhất cho những người làm báo hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ông cũng luôn bày tỏ niềm tin tưởng sâu sắc về truyền thống vẻ vang và tương lai phát triển, đặt ra yêu cầu cao với báo chí cách mạng nói chung, báo chí quân đội nói riêng. Trong lần đến thăm và chúc mừng các nhà báo nước ta vào đúng ngày kỷ niệm truyền thống lần thứ 70 (21/6/1925 - 21/6/1995) và 45 năm Ngày thành lập Hội Nhà báo Việt Nam, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã có phát biểu sâu sắc. Ông tin tưởng trong giai đoạn cách mạng hiện nay, với những thời cơ thuận lợi mới và những thử thách mới, các nhà báo nước ta sẽ tiếp tục phát huy truyền thống quý báu của báo chí cách mạng Việt Nam, góp phần tích cực trên các lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội...
Đến dự lễ kỷ niệm 40 năm Ngày Báo Quân đội nhân dân ra số đầu tiên và đón Huân chương Hồ Chí Minh ngày 20/10/1990, Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phát biểu động viên: “Toàn quân ta có quyền tự hào về tờ báo Quân đội nhân dân của mình. Đội ngũ thế hệ cán bộ, phóng viên, công nhân viên, chiến sĩ của báo hôm nay có quyền tự hào về thế hệ của các đồng chí đi trước, về những phóng viên đã hy sinh anh dũng ngoài mặt trận... Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Báo Quân đội nhân dân tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang đã làm tốt và cần làm tốt hơn nữa nhiệm vụ trên mặt trận đấu tranh và xây dựng tư tưởng một cách khoa học và đầy sức thuyết phục, cần tuyên truyền cổ vũ một cách sinh động quân và dân ta thực hiện hai nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Khi báo Quân đội nhân dân thứ bảy (nay là báo Quân đội nhân dân cuối tuần) ra số báo đầu tiên, ngày 26/6/1990, Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã trực tiếp viết tay lời chúc mừng, trong đó yêu cầu báo: “Không ngừng phấn đấu góp phần đáp ứng yêu cầu tinh thần, nhu cầu được thông tin của bạn đọc trong và ngoài quân đội. Báo viết hay, lượng thông tin nhiều và đa dạng, in ấn đẹp, được bạn đọc gần xa ưa thích. Đó là cách góp phần tốt nhất cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình và xây dựng tình hữu nghị giữa nhân dân các nước”.
Nguyễn Viết Sơn và Hồ Quang Lợi - nguyên là hai phóng viên của Báo Quân đội nhân dân từng được tháp tùng Chủ tịch nước Lê Đức Anh trong nhiều chuyến công tác trong nước và nước ngoài (Đại tá Nguyễn Viết Sơn đã mất, Đại tá Hồ Quang Lợi hiện là Phó Chủ tịch thường trực Hội Nhà báo Việt Nam). Đầu tháng 12/1995, hai ông đã dự cuộc gặp mặt thân tình của Chủ tịch nước Lê Đức Anh với một số cán bộ, phóng viên Báo Quân đội nhân dân. Hai phóng viên đã có bài viết “Nhân dân cần gì?” đăng trang trọng trên Báo Quân đội nhân dân ghi lại chi tiết nội dung cuộc gặp với những tình cảm và chỉ đạo sâu sắc của Chủ tịch nước với báo chí cách mạng Việt Nam, trực tiếp là báo chí quân đội. Bài viết có đoạn: “Đối với không ít bạn đọc, công việc cũng như suy tư hằng ngày của các nhà lãnh đạo quốc gia là điều không dễ hình dung. Cuộc chuyện trò tối hôm đó tại nhà ở của Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã cho chúng tôi một nhận thức sâu sắc hơn về mối quan tâm thường nhật của vị Chủ tịch nước. Không có gì bức xúc hơn là những nhu cầu thiết yếu của người dân, chỉ những điều có ý nghĩa đối với cuộc sống của nhân dân thì mới có giá trị đích thực. Đã có lần chúng tôi nhìn thấy Chủ tịch nước Lê Đức Anh xắn quần lội trong nước lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long để thăm hỏi, động viên những người dân mất nhà mất cửa, cuộc sống gặp muôn vàn khó khăn. Lúc đó, điều quan tâm nóng bỏng nhất của Chủ tịch nước là cái ăn, cái mặc, chỗ nương thân của người dân. Còn bây giờ, khi gặp cánh nhà báo chúng tôi, Chủ tịch nước lại quan tâm trên hết đến nhu cầu thông tin, quyền được thông tin của nhân dân. Chúng tôi hiểu đó không chỉ là một tấm lòng, mà còn là một trí tuệ năng cảm luôn trăn trở trước những đòi hỏi chính đáng và ước muốn của người dân lao động”.
Từ suy nghĩ, tình cảm và chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh với báo chí trong các cuộc gặp, làm việc, trong các bài viết, bài phát biểu, có thể rút ra những điều cốt yếu nhất cho báo chí quân đội hiện nay như sau:
Thứ nhất, thông tin trên báo chí phải khách quan.
Đây là chức năng, nhiệm vụ, cũng là yêu cầu quan trọng hàng đầu của báo chí. Đại tướng Lê Đức Anh cho rằng, thông tin báo chí phải trung thực, đa dạng, tránh nói một chiều.
Thứ hai, tìm hiểu và đi đến cùng sự thật.
Đó là nguyên tắc cơ bản của báo chí, là đặc trưng, là chuẩn mực của báo chí cách mạng và báo chí quân đội. Đại tướng Lê Đức Anh cho rằng làm được điều này, đòi hỏi nhà báo phải dũng cảm, có trí tuệ và kinh nghiệm, vì động cơ trong sáng: “Làm việc có ích cho dân, cho nước, không có sai phạm, tại sao sợ? Làm báo phải dũng cảm”- ông từng nói.
Thứ ba, các nhà báo phải luôn rèn luyện, tư duy và lao động trí tuệ thực thụ.
Đại tướng Lê Đức Anh luôn thấu hiểu lao động đặc thù của báo chí nên ông đồng cảm, tạo điều kiện thuận lợi cho phóng viên tác nghiệp, đồng thời yêu cầu họ phải luôn phấn đấu, vươn lên. Ông cho rằng: “Nhà báo phải làm việc căng thẳng, phải lao tâm khổ tứ, phải mất nhiều tâm sức”; phải quan tâm, tạo điều kiện cho phóng viên hoàn thành nhiệm vụ...
Thứ tư, báo chí phải thực chất, coi trọng thông tin, không hiếu hỉ.
Ông khẳng định: “Tin hay bài, điều quan trọng là ở lượng thông tin, không có thông tin mới, người ta không đọc” và “do nhiều hiếu hỉ nên thông tin còn ít. Cái mà dân cần báo chí cung cấp là thông tin”. Đây là những chỉ đạo rất sát với tình hình báo chí, đến nay vẫn mang tính thời sự.
Thứ năm, tính chiến đấu của báo chí.
Báo chí cách mạng cần bảo vệ quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát hiện, tuyên truyền và bảo vệ nhân tố tích cực; phát huy vai trò, hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, bác bỏ các quan điểm sai trái, phê phán các luận điệu xuyên tạc và các hành vi chống phá của các thế lực thù địch với công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, “phê phán cái xấu nhưng phải coi trọng xây dựng cái tốt, hướng cái điều tốt đẹp” như ông từng nhắc nhở.
Thứ sáu, phương pháp đưa tin như thế nào?
Theo Đại tướng Lê Đức Anh, tin trong nước, tin thế giới, tin văn hóa - thể thao, chuyện lạ đó đây... rất hấp dẫn người đọc. Nên coi trọng tin và bình luận ngắn. Mỗi sự kiện nổi bật xảy ra trong nước và thế giới cần có bình luận kịp thời, ngắn gọn sắc bén làm rõ vài ba ý để hướng dẫn dư luận.
Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Lê Đức Anh, những người làm báo ở các cơ quan báo chí quân đội, trong đó có các cán bộ, phóng viên, biên tập viên, công nhân viên, chiến sĩ và người lao động Báo Quân đội nhân dân luôn ghi nhớ tình cảm và những chỉ đạo ân cần, sâu sắc của Đại tướng Lê Đức Anh. Trong giai đoạn phát triển mới, chúng tôi nguyện noi gương đồng chí Lê Đức Anh và các đồng chí lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng, ra sức phấn đấu, học tập, lao động và cống hiến sức lực, trí tuệ, góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Với Báo Quân đội nhân dân, chúng tôi mới kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống (20/10/1950 - 20/10/2020). Thật vinh dự, tự hào, tờ báo của lực lượng vũ trang được chính Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đặt tên. Người nói: Quân đội ta là Quân đội nhân dân, tờ báo của quân đội là: “Báo Quân đội nhân dân”. Ngay trong quá trình chuẩn bị số báo đầu tiên, Bác Hồ đã căn dặn Báo Quân đội nhân dân những điều hết sức gần gũi mà sâu sắc: Nói những điều thật thiết thực, đúng đường lối chính trị, ít tếu, viết ngắn, giản dị, vẽ dễ hiểu, trình bày rõ ràng, ít tiếp sang trang khác. Lời căn dặn của Bác đã trở thành kim chỉ nam không chỉ đối với người làm báo quân đội mà cả với toàn thể những người làm báo cách mạng, đó là những lời khắc cốt ghi tâm và đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, quán triệt lời dạy của Bác Hồ và chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội, trong đó có Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trong thời gian tới, Báo Quân đội nhân dân cần đổi mới mạnh mẽ, có những giải pháp cơ bản, đột phá, cả trong tuyên truyền, hoạt động xã hội và xây dựng cơ quan, Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
Đại tướng Lê Đức Anh đã đi xa nhưng tình cảm, sự quan tâm và những chỉ đạo sâu sắc của ông vẫn luôn đồng hành trong bước đường đổi mới, hiện đại hóa và phát triển báo chí quân đội nói chung, Báo Quân đội nhân dân nói riêng. Nhớ về ông là nhớ về một nhà lãnh đạo quân sự, chính trị tài năng, luôn thấu hiểu và dành cho báo chí sự ưu ái, thân tình, với nhiều tư tưởng, quan điểm về báo chí cách mạng và người làm báo của ông đến nay vẫn nóng hổi tính thời sự.
Đại tá ĐOÀN XUÂN BỘ
Cuộc đời hoạt động của Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đồng chí Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: “Anh Lê Đức Anh là nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta”. Đặc biệt, bước vào thời kỳ đổi mới, trên các cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng, với tầm nhìn chiến lược sắc sảo, nhạy bén cùng với phương pháp tư duy biện chứng, cụ thể, sát thực tiễn, Đại tướng Lê Đức Anh đã có nhiều đóng góp nổi bật về đổi mới tư duy quân sự, quốc phòng, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới:
1. Tham mưu và trực tiếp chỉ đạo kiện toàn tổ chức, biên chế, giảm quân số thường trực và điều chỉnh lại thế bố trí chiến lược của đất nước
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi, nhân dân ta bắt tay vào khôi phục kinh tế, phát triển sản xuất. Tuy nhiên, các thế lực thù địch lại tiếp tục gây chiến ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Tình hình đó đòi hỏi Đảng, Chính phủ, quân đội phải điều chỉnh lại thế bố trí chiến lược nhằm bảo vệ thành quả cách mạng trong bối cảnh đất nước gặp muôn vàn khó khăn. Sau khi đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược ở hai đầu đất nước, quân đội cùng với toàn Đảng, toàn dân ra sức thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược đó, quân đội trước hết phải kiện toàn lại tổ chức biên chế, giảm quân số thường trực, điều chỉnh lại thế bố trí chiến lược nhằm giảm gánh nặng cho nền kinh tế đất nước.
Đáp ứng những yêu cầu mới của cách mạng và công tác quân sự, quốc phòng, ngày 07/12/1986, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký quyết định điều chuyển Đại tướng Lê Đức Anh từ chiến trường Campuchia về đảm nhiệm cương vị Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đại tướng được bầu vào Bộ Chính trị và được phân công đảm nhiệm trọng trách Phó Bí thư Đảng ủy quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Với kinh nghiệm dày dạn và tầm nhìn chiến lược, sau những đợt thị sát ở các đơn vị cơ sở trong toàn quân, Đại tướng Lê Đức Anh đề xuất với Thường vụ Bộ Chính trị thực hiện ngay việc giảm quân số thường trực và điều chỉnh thế bố trí chiến lược của quân đội.
Đại tướng Lê Đức Anh cho rằng: ngân sách quốc phòng hằng năm tuy chiếm đến 25% tổng ngân sách quốc gia nhưng vẫn không đủ trang trải các nhu cầu tối thiểu về ăn, ở, trang bị, huấn luyện và chiến đấu của bộ đội; đời sống bộ đội hết sức khó khăn, trang bị thiếu thốn; nếu không thực hiện được việc giảm quân số, không những nền kinh tế không chịu nổi mà sức chiến đấu của quân đội cũng sẽ ngày càng giảm sút, an ninh quốc phòng không bảo đảm. Do vậy, việc đầu tiên để tăng cường sức chiến đấu của quân đội, tiếp tục xây dựng nền quốc phòng vững mạnh, giảm tải gánh nặng cho nền kinh tế, phải giảm quân số thường trực. Mục tiêu là giảm trên 60% số quân thường trực và xin ngân sách quốc phòng từ 15 đến 18% tổng ngân sách.
Đề xuất của Đại tướng Lê Đức Anh không tránh khỏi những băn khoăn của các đồng chí trong Bộ Chính trị về việc giảm quân số thường trực liệu có làm giảm khả năng chiến đấu của quân đội, trong khi nhiệm vụ quốc phòng an ninh, nhiệm vụ quốc tế vẫn còn rất nặng nề. Với trọng trách trước Đảng, Nhà nước, Đại tướng Lê Đức Anh khẳng định việc giảm quân số thường trực về thực chất không làm ảnh hưởng mà trái lại sẽ làm tăng sức mạnh quốc phòng của đất nước nếu ta thực hiện điều chỉnh thế bố trí chiến lược một cách đúng đắn, hợp lý. Sức mạnh quân đội ta được phát huy bởi sức mạnh toàn dân, toàn diện, phù hợp với khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam. Do đó, việc giảm quân số thường trực phải gắn chặt và thực hiện song song với việc điều chỉnh thế bố trí chiến lược mới.
Với chỉ đạo quyết liệt dựa trên cơ sở khoa học, sâu sát thực tiễn nên vấn đề điều chỉnh thế bố trí chiến lược và giảm quân số thường trực đã được Bộ Chính trị nhất trí. Trên cương vị Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương và các cơ quan Bộ Quốc phòng, nòng cốt là Bộ Tổng Tham mưu tập trung nghiên cứu, điều chỉnh tổ chức biên chế, điều chỉnh thế bố trí chiến lược quốc phòng của đất nước phù hợp với thời kỳ mới. Quan điểm nhất quán trong quá trình điều chỉnh là phải giảm quân số thường trực, giảm tổ chức biên chế, giảm được chi phí quốc phòng nhưng phải làm cho quân đội tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi.
Công việc khẩn trương, đòi hỏi phải tính toán rất kỹ. Những ý kiến tham mưu của Bộ Tổng Tham mưu và các cơ quan đơn vị trong toàn quân đều được Đại tướng Lê Đức Anh nghiên cứu, chỉ đạo từng việc cụ thể. Kết quả của đợt điều chỉnh tổ chức biên chế toàn quân trong hai năm 1987 và 1988: đã hợp nhất 41 đơn vị thuộc cơ quan quân khu, quân đoàn và tổng cục; giải thể 71 đầu mối từ cấp tiểu đoàn đến sư đoàn và tương đương, giảm biên chế 20% quân số đối với các cơ quan trực thuộc Bộ. Năm 1989, Bộ Quốc phòng quyết định giải thể 12 sư đoàn bộ binh, 1 lữ đoàn, 3 trung đoàn, 1 tiểu đoàn thuộc các quân khu, quân đoàn và tổng cục.
Trong việc điều chỉnh thế bố trí chiến lược, được sự nhất trí của Bộ Chính trị, dưới sự chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh, trên vùng biên giới phía Bắc, ngày 11/9/1987, Bộ Tổng Tham mưu ra Quyết định số 179/QĐ-TM thành lập 83 đồn biên phòng thuộc 6 tỉnh biên giới phía Bắc; các đơn vị chủ lực làm nhiệm vụ ở tuyến trước như Quân đoàn 14 và Quân đoàn 26 (Quân khu 1) được lệnh lùi về phía sau. Trên hướng Đông Bắc, tháng 8/1987, Đảng ủy Quân sự Trung ương quyết định hợp nhất Đặc khu Quảng Ninh và Quân khu 3, giữ tên gọi là Quân khu 3 và thành lập Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Ninh nhằm tăng cường hệ thống phòng thủ vùng đảo Quảng Ninh. Ở hướng đồng bằng Bắc Bộ, Quân đoàn 3 đang đứng chân ở Bắc Bộ được lệnh vào đóng quân trên địa bản Tây Nguyên. Trên nước bạn Lào và Campuchia, sau khi đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ quốc tế, năm 1989, toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam rút về nước. Việc điều chỉnh các đơn vị chiến đấu áp sát biên giới dãn ra phía sau; đặc biệt điều động một bộ phận dự bị chiến lược trên hướng Bắc về đứng chân trên địa bàn Tây Nguyên, đề phòng những sự cố có thể xảy ra trong vùng chiến lược xung yếu này và sẵn sàng cơ động xuống vùng bờ biển miền Trung là một chủ trương đúng đắn, vừa có ý nghĩa về chiến lược quân sự, vừa có ý nghĩa về chính trị, ngoại giao; tạo điều kiện để bình thường hoá quan hệ và tiếp tục củng cố, tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt - Trung sau này.
Như vậy, sau một thời gian thực hiện tinh giản tổ chức, biên chế và điều chỉnh thế bố trí chiến lược, đến cuối năm 1990, việc điều chỉnh lực lượng trong toàn quân đã đạt tỷ lệ tương đối hợp lý, phù hợp với yêu cầu tổ chức quân đội trong thời kỳ đổi mới. Quân số toàn quân giảm 64 vạn (chiếm 55% tổng quân số); trong đó giải thể 3 quân đoàn: Quân đoàn 29 (Quân khu 2), Quân đoàn 14, Quân đoàn 26 (Quân khu 1), 5 mặt trận (379, 479, 579, 779, 979), 30 sư đoàn bộ binh, 18 tiểu đoàn bộ đội địa phương, 5 trung đoàn và 4 tiểu đoàn pháo binh. Đây là cuộc giảm quân thường trực rất lớn, chưa từng có trong tiền lệ Quân đội nhân dân Việt Nam. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh việc giảm quân số thường trực và điều chỉnh thế bố trí chiến lược trong thời gian này là phù hợp với tư duy nghệ thuật quân sự hiện đại và xu thế phát triển về kinh tế - xã hội, đối ngoại của đất nước, đặt tiền đề cho tiến trình phá bỏ thế cấm vận, hội nhập và phát triển. Đại tướng Lê Đức Anh khẳng định: “khi đất nước ta bước vào thời kỳ mới, thời kỳ hòa bình xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, Đảng ta, Nhà nước ta quyết định giảm hai phần ba quân số thường trực, điều chỉnh chiến lược. Điều đó đáp ứng yêu cầu cấp bách của nhân dân ta là tập trung sức xây dựng đất nước về mọi mặt sau gần một phần hai thế kỷ bị cuốn vào các cuộc chiến tranh; phù hợp với chính sách của Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nuớc trong cộng đồng thế giới, góp phần vào củng cố và phát triển xu thế hoà bình, đối thoại, hợp tác giữa các quốc gia - dân tộc trong khu vực và trên thế giới”.
2. Chỉ đạo hoàn thiện bố trí lực lượng trên khu vực quần đảo Trường Sa
Trong khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang khẩn trương xây dựng đất nước, củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang theo đường lối đổi mới của Đảng thì tình hình vùng Biển Đông, đặc biệt là khu vực quần đảo Trường Sa có những diễn biến phức tạp do các hoạt động của hải quân một số nước trong khu vực gây ra, nhằm do thám, khiêu khích, quấy phá, chiếm đóng một số đảo của ta. Do vậy, việc tăng cường phòng thủ bờ biển, hải đảo là nhiệm vụ rất quan trọng và cấp thiết. Với tư duy và tầm nhìn chiếc lược của một vị tướng dày dạn kinh nghiệm, cuối tháng 02/1987, Đại tướng Lê Đức Anh một mặt chỉ đạo Quân chủng Hải quân đưa ngay lực lượng ra đóng giữ bãi đá ngầm Thuyền Chài, một mặt chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu khẩn trương hoàn thành và trình lên Trung ương chủ trương và kế hoạch giữ các đảo và bãi đá ngầm của ta ở quần đảo Trường Sa. Trong các buổi làm việc với Quân chủng Hải quân, Đại tướng luôn nhấn mạnh: Phải thấy hết vị trí chiến lược của Biển Đông; phải lo tăng cường phòng thủ quần đảo Trường Sa, nơi có thể xảy ra xung đột; phải hành động kiên quyết để bảo vệ các đảo nổi và đảo chìm. Ngày 10/6/1987, tiếp tục làm việc với Bộ Tư lệnh Hải quân và Vùng 4, Đại tướng Lê Đức Anh khẳng định rõ thêm: “Ta phải nỗ lực cao nhất để bảo vệ quần đảo Trường Sa, tăng cường khả năng phòng thủ tại chỗ, giữ vững các đảo, coi trọng việc chi viện từ bờ ra. Vừa qua quốc phòng và cả nước chưa làm hết sức. Nay ta phải làm, làm cho ngày nay và cho thế hệ mai sau”.
Trên cơ sở kế hoạch đóng giữ các bãi đá ngầm tại Trường Sa do Bộ Tổng Tham mưu chuẩn bị đã được đồng chí Đỗ Mười, Thường trực Ban Bí thư, phê duyệt, ngày 06/11/1987, Đại tướng Lê Đức Anh ký ban hành Mệnh lệnh số 1679/ML-QP giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân: “Đưa lực lượng ra đóng giữ các bãi đá cạn chưa có người; trước mắt đưa ngay lực lượng ra đóng giữ Đá Tây, Đá Chữ Thập, Đá Lớn, Đá Tiên Nữ để khai thác và sẵn sàng bảo vệ đảo”. Cuối năm 1987 và tháng 01/1988, Đại tướng Lê Đức Anh tiếp tục chỉ thị Bộ Tổng Tham mưu và Tổng cục Chính trị tổ chức hội nghị giao nhiệm vụ cho các quân chủng Hải quân, Phòng không và Không quân phối hợp xây dựng kế hoạch hiệp đồng tác chiến giữa ba quân chủng để bảo vệ quần đảo Trường Sa.
Từ tháng 01 đến tháng 4 năm 1988, Trung Quốc chiếm đóng bãi đá Gạc Ma, Châu Viên, Ga Ven, Huy Gơ, Xu Bi gây ra tình hình hết sức căng thẳng ở khu vực quần đảo Trường Sa. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương, Đại tướng Lê Đức Anh ra lệnh cho Quân chủng Hải quân với quyết tâm cao nhất, không quản ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh, sử dụng tối đa mọi lực lượng, phương tiện có thể, tranh thủ mọi thời gian xây dựng, rải quân đóng giữ các đảo chìm và bãi đá ngầm như Co Lin, Len Đao, Tiên Nữ (26/01), Đá Lát (05/02), Đá Lớn (06/02), Đá Đông (18/02), đá Tốc Tan (27/02), đá Núi Le (02/3). Ngày 07/5/1988, phát biểu tại cuộc mít tinh kỷ niệm 33 năm Ngày truyền thống Quân chủng Hải quân được tổ chức tại đảo Trường Sa Lớn, Đại tướng Lê Đức Anh đã nhấn mạnh: “Chúng ta xin thề trước hương hồn của tổ tiên ta, trước hương hồn của các cán bộ, chiến sĩ đã hi sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau: “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta”. Với những quyết tâm cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, năm 1988, Đại tướng Lê Đức Anh tiếp tục chỉ đạo Quân chủng Hải quân khắc phục mọi khó khăn, đưa quân ra đóng giữ tiếp 11 bãi đá ngầm khác. Đến tháng 6/1989, ta bắt đầu đóng giữ các bãi đá ngầm: Tư Chính, Phúc Nguyên, Phúc Tần, Huyền Trân, Quế Đường, Ba Kè, cơ bản hoàn thành việc chốt giữ các đảo chìm và bãi đá ngầm còn lại ở Trường Sa, bước đầu ngăn chặn được hành động mở rộng phạm vi chiếm đóng của hải quân nước ngoài ra các đảo lân cận.
3. Chỉ đạo đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, kết hợp với bạo loạn lật đổ, nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, để nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình”, kết hợp với bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc. Đồng chí đã chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu xây dựng, ban hành Chỉ thị số 94/CT-TM của Bộ Tổng tham mưu về củng cố tăng cường vũ khí, trang bị, nhằm nâng cao khả năng, sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang khi có tình huống xảy ra; tăng cường tổ chức các cuộc diễn tập chống “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ ở các thành phố lớn, các vùng trọng điểm; tổ chức diễn tập chỉ huy - tham mưu, kết hợp với diễn tập thực binh ở các đơn vị chủ lực cấp sư đoàn bộ binh, bộ binh cơ giới, phòng không - không quân... và ở cấp cao hơn. Đồng thời, tăng cường chỉ đạo đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; đề phòng diễn biến phức tạp và có biện pháp xử lý đúng các tình huống ở Biển Đông, vùng biển Tây Nam, biên giới, các địa bàn trọng yếu; chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, chú trọng xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt; chủ động trong mọi tình huống, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc cùng các thế lực thù địch...
Vì vậy, trong mười năm từ năm 1986 đến năm 1996, thế trận nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố; trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang được nâng cao; đã kịp thời ngăn chặn và dập tắt các vụ bạo loạn, sẵn sàng đối phó có hiệu quả với mọi tình huống xảy ra; công tác dự báo, bám nắm địch trên các hướng chặt chẽ, không để bị động, bất ngờ. Đặc biệt, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo tăng cường công tác kiểm tra, chỉ đạo các đơn vị nâng cao chất lượng và trình độ sẵn sàng chiến đấu, nhất là các đơn vị phòng ngự ở phía trước. Rà soát, bổ sung, hoàn chỉnh các kế hoạch tác chiến, trong đó có kế hoạch A2; xúc tiến xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), trước mắt chú trọng nâng cao khả năng phòng, chống bạo loạn. Chỉ đạo xây dựng kế hoạch cùng các phương án tác chiến sẵn sàng đối phó với các tình huống... Củng cố, xây dựng, nâng cao khả năng chiến đấu của quân chủng Hải quân, Không quân và các đơn vị làm nhiệm vụ cơ động mạnh của Bộ. Các đơn vị quân đội và Bộ đội Biên phòng phối hợp với các địa phương, các ngành làm kinh tế biển tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, phát triển kinh tế biển, đi đôi với tăng cường công tác quản lý biển...
Đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo Bộ Quốc phòng phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an kịp thời vô hiệu hóa âm mưu, hành động phá hoại của các tổ chức, các thế lực phản động, thù địch. Chuẩn bị tốt các đơn vị có nhiệm vụ A2, coi trọng huấn luyện lực lượng phản ứng nhanh cho các đơn vị. Nghiên cứu, bổ sung hoàn chỉnh các phương án đối phó với các tình huống có thể xảy ra, thường xuyên nắm chắc diễn biến tình hình, đặc biệt là âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.
Thời gian đã lùi xa, nhưng tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng vẫn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”; trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là xây dựng khu vực phòng thủ biển, đảo, biên giới của Tổ quốc. Đặc biệt, chủ trương sắp xếp tổ chức biên chế ở các cơ quan, đơn vị toàn quân hiện nay cần kế thừa tư duy của Đại tướng trong chỉ đạo cắt giảm quân số thường trực giai đoạn 1986 - 1990 để quân đội thực sự tinh nhuệ và nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu thắng lợi.
Đại tá, TS. NGUYỄN VĂN LƯỢNG
Trải qua hơn 80 năm gắn bó với sự nghiệp cách mạng, từ buổi đầu tham gia hoạt động cho đến khi về với cõi vĩnh hằng, Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã kinh qua nhiều cương vị công tác và luôn thể hiện bản lĩnh chính trị kiên cường, dũng cảm; luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc và quân đội lên trên hết; toàn tâm, toàn trí, toàn lực cống hiến cho Đảng, cho dân tộc và nhân dân; giữ trọn danh hiệu cao quý của người Cộng sản, luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân giao phó.
Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh, nhà lãnh đạo xuất sắc của cách mạng Việt Nam gắn bó chặt chẽ với nhiều trí thức tên tuổi khác của dân tộc Việt Nam, trong đó có ba tôi, Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Huy Phan - Người đã được Chủ tịch nước Lê Đức Anh giao cho nhiệm vụ vô cùng đặc biệt và tuyệt mật. Chính bởi nhiệm vụ đặc biệt này, mà cá nhân ông, Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Huy Phan và gia đình ông đã gặp phải rất nhiều khó khăn từ những hiểu lầm của đồng chí, đồng đội, thậm chí là cả người thân. Ba tôi là người khá kín đáo, luôn không muốn mẹ và chúng tôi phải gánh những nỗi lo lắng vượt quá khả năng giải quyết.
Ẩn ức của ba tôi, Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Huy Phan sẽ theo ông mãi với nhiều dự định còn dang dở vào ngày 17/9/1997. Hiện tại và cả quá khứ sẽ chẳng mấy ai hay biết sự việc này, nếu như gần 4 năm sau, Ngày 28/5/2001, nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh - một trong những nhân vật chủ chốt nhất “kiến tạo” việc bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Mỹ giao nhiệm vụ đặc biệt cho Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Huy Phan hơn 20 năm về trước không nói ra, nhưng Đại tướng đã khẳng định rất rõ rằng:
“Hôm nay, tôi viết văn bản này báo cáo với Ban Bí thư Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng một việc sau:
Trước đây trên cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch nước và sau này là Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị, Chủ tịch nước, tôi được giao nhiệm vụ chỉ đạo phá bao vây cấm vận của Mỹ. Để làm nhiệm vụ này, tôi đã chọn con đường khoa học làm khâu đột phá và chọn đồng chí Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Huy Phan, nguyên Phó Viện trưởng Viện Quân y 108, là một người giỏi chuyên môn vi phẫu thuật và có đạo đức trong nghề nghiệp. Vì yêu cầu bảo đảm bí mật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, tôi đã trực tiếp giao nhiệm vụ mở đường đột phá bao vây, cấm vận của Mỹ bằng con đường khoa học cho đồng chí Nguyễn Huy Phan.
Quá trình thực hiện nhiệm vụ, đồng chí Nguyễn Huy Phan thường xuyên trực tiếp báo cáo và nhận chỉ thị của tôi. Đồng chí đã có nhiều cố gắng, âm thầm, lặng lẽ vượt qua mọi khó khăn, mang hết tài năng của mình để thực thi nhiệm vụ và đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Để hiện tại và sau này đánh giá đúng công lao của đồng chí Nguyễn Huy Phan, tôi viết văn bản này kính gửi để Ban Bí thư Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng biết về việc làm và thành tích trên của đồng chí Nguyễn Huy Phan”.
Giữa năm 2010, hồi tưởng lại sự kiện này, Đại tướng Lê Đức Anh cho biết “Lúc đó, tôi đương làm Bộ trưởng Quốc phòng và được Bộ Chính trị giao cho việc tìm cách nào đó để phá thế bao vây cấm vận của Mỹ... Lúc đó, giữa Việt Nam và Mỹ không có một kênh tiếp cận nào cả nên rất khó làm. Vả lại chiến tranh mới kết thúc hơn 10 năm, sự hận thù vẫn còn sâu sắc lắm. Không thể tiếp cận với nhau bằng chính trị, kinh tế thì phải tìm ở lĩnh vực khoa học - kỹ thuật vậy. Cuối cùng ta đã chọn được một người làm khoa học - kỹ thuật là bác sĩ Nguyễn Huy Phan ở Viện Quân y 108... Tuy nhiên, công việc của anh Phan là “tuyệt mật”, tôi chỉ báo cáo với Bộ Chính trị thôi... Bình thường hóa quan hệ với Mỹ là chuyện khó ngay từ nội bộ ta lúc bấy giờ. Cán bộ và nhân dân ta chưa đồng tình. 20 năm chiến tranh tàn khốc còn để lại bao vết thương trên cơ thể đất nước và trong tâm lý mọi người. Lúc đó mà nói đến lập quan hệ ngoại giao với Mỹ là bị quy kết liền. Anh Phan không tránh khỏi và anh Thạch (tức Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch thời kỳ đó) cũng bị một chút. Đặc biệt, thời kỳ tôi bị xuất huyết não phải nằm viện giữa nhiệm kỳ Chủ tịch nước, anh Phan “Chỉ còn biết khóc bởi bất lực”. Ra viện, trở lại Phủ Chủ tịch, tôi đã khôi phục lại danh dự cho anh Phan, tặng Huân chương cho anh, nhưng lúc đó anh đã suy sụp, đổ bệnh và qua đời”1. Tấm Huân chương mà nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh nhắc ở đây chính là Huân chương Độc lập hạng Nhất mà Đảng, Nhà nước trao tặng ba tôi ngày 16/9/1997, một ngày trước khi ông qua đời.
Gần đây hơn, trong cuốn Đại tướng Lê Đức Anh: Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng (Hồi ký), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản năm 2015 cho mọi người hiểu thêm về nhiệm vụ của ba tôi ngày ấy. Đại tướng Lê Đức Anh thêm một lần nữa thuật lại rằng: “Anh Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nói với tôi: Anh có cách gì hay thì anh làm bước mở đầu. Tôi đồng ý và chọn con đường tiếp cận từ khoa học. Tôi đã chọn ngành y học và cử anh Nguyễn Huy Phan (Thiếu tướng, bác sĩ Viện Quân y 108, giáo sư đầu ngành y học phẫu thuật tạo hình) làm “người mở đầu”. Khi đi dự Hội nghị quốc tế ở Paris, anh Phan đã trình bày công trình “Phẫu thuật tạo hình dương vật” của mình, được các nhà khoa học đánh giá cao. Tại hội nghị, các nhà khoa học Mỹ đã có lời mời Giáo sư Nguyễn Huy Phan sang thăm Mỹ. Trước khi đi, tôi dặn anh Phan: Sang đó, anh làm tốt việc trao đổi về khoa học với các nhà khoa học Mỹ là đã phục vụ nhân dân, phục vụ chính trị rồi - Tôi sẽ thực hiện lời Chủ tịch căn dặn và cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ - Anh Nguyễn Huy Phan xúc động nói... Sau đó, Chính phủ quyết định đưa anh Phan lên làm Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Mỹ để làm “cầu nối” liên lạc. Sau này, công việc thành công, nhưng ít người biết được thời điểm đó cũng rất căng thẳng. Bởi vì những ý tưởng, chủ trương này phải giữ bí mật. Anh Phan được cử đi thực thi nhiệm vụ mở quan hệ với một nước đế quốc vừa gây chiến tranh xâm lược nước ta, thì bị mọi người và nhất là cấp trên trực tiếp gán cho tội “thỏa hiệp, đầu hàng địch”. Vì cấp trên trực tiếp của anh không được phổ biến, quán triệt. Khi tôi bị xuất huyết não (năm 1997) nằm cấp cứu tại Viện Quân y 108, anh Phan vào thăm tôi, thấy tôi nằm bất động, anh khóc: “Thủ trưởng ơi, hãy sống lại đi. Chỉ có Thủ trưởng sống lại thì mới minh oan cho tôi!... Khi tôi khỏe trở lại, công việc đã thành công, tôi đã đề nghị khôi phục mọi quyền lợi chính trị cho anh Nguyễn Huy Phan và anh được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạnh Nhất”.
Những ngày trước lúc ra đi giữa tháng 9/1997, nằm trên giường bệnh chống chọi với căn bệnh ung thư ở vào giai đoạn cuối, ba tôi tuyệt nhiên không nói một lời nào về “sứ mệnh” tuyệt mật mà ông được Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh giao trong các chuyến thăm Mỹ ngày trước, và cũng tuyệt nhiên không nói một lời về những bi kịch xảy ra với ông ngay tại Viện Quân y 108, nơi ông làm việc. Ngày 15/9/1997, trước 2 ngày, chúng tôi mất ba vĩnh viễn, ba tôi chỉ nói với mấy chị em tôi và nhà báo Trần Mai Hạnh trong hơi thở khó nhọc, rằng: “Báo và tạp chí đăng bài anh phỏng vấn tôi về chuyến đi Mỹ ngày ấy (ngày 30/11/1992), tôi vẫn giữ. Bài báo được nhiều người đồng tình, hoan nghênh nhưng tôi cũng đã gặp không ít rắc rối. Nhưng bây giờ mọi chuyện đã rõ. Đảng hiểu tôi, lãnh đạo hiểu tôi, đồng chí hiểu tôi. Như thế, có ra đi tôi cũng đã có được sự thanh thản anh ạ”. Nghe ba nói vậy, chúng tôi ứa nước mắt, thương ba - một nhà khoa học chân chính, đầy tài năng và nhân cách ấy đã có thời điểm, như lời kể lại của nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh: “Chỉ biết khóc bởi bất lực”. Ba tôi không chỉ là nhà khoa học tài năng và nhân cách mà chúng tôi còn cảm nhận được từ ba thực sự là “nhà ngoại giao xuất sắc” đã đặt những dấu ấn đầu tiên trên đại lộ đầy chông gai trong tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam và Mỹ.
Sau ngày ba tôi mất, bạn bè của ông nhiều nơi trên thế giới đã gửi thư tới gia đình tỏ lòng khâm phục ba tôi. Trong bức thư đề ngày 26/11/1997, bác sĩ William Magee, người sáng lập ra Hội Phẫu thuật nụ cười quốc tế đã thuật lại ký ức của ông: “Dường như chỉ mới ngày hôm qua tôi ngồi đối diện với giáo sư Phan trong một căn phòng ở Hà Nội vào năm 1988 cùng bàn về khả năng dùng ngành y tế làm cầu nối gắn kết hai quốc gia Việt - Mỹ” và lời ba tôi: “Bố của tôi mất trong chiến tranh, em trai của tôi cũng mất trong chiến tranh; đã đến lúc chúng ta đặt chiến tranh lại phía sau và tiếp tục cuộc sống hiện tại của chúng ta. Câu nói đơn giản nhưng đầy tình cảm và sự trung thực ấy không những là động lực thúc đẩy người Việt Nam và người Mỹ bắt đầu quá trình làm việc với nhau, mà còn là tấm gương sáng mà chúng ta có thể chia sẻ với mọi người trên thế giới”. Cũng trong một bức thư khác đề ngày 05/12/1997 của bác sĩ Craig Merrell người Mỹ viết: “Ông (tức Giáo sư Phan) rơi nước mắt và đã nói rằng, “tình bạn mà chúng ta thiết lập trong tuần vừa qua với các bạn đồng nghiệp từ Hội Phẫu thuật nụ cười đã cho phép quá trình hàn gắn đau thương được bắt đầu”. Quá trình này không chỉ tiếp tục giữa giáo sư Phan và các thành viên của Hội Phẫu thuật nụ cười, mà còn diễn ra giữa hai đất nước Việt Nam và Mỹ”.
Bác sĩ Nguyễn Ngọc Dung
Đồng chí Lê Đức Anh - nguyên Chủ tịch nước đã đi xa. Ông sinh năm 1920 và lớn lên trên quê hương Thừa Thiên Huế, tham gia cách mạng năm 1937, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1938. Trải qua hơn 80 năm gắn bó với sự nghiệp cách mạng, từ buổi đầu tham gia hoạt động cho đến khi về với cõi vĩnh hằng, đồng chí Lê Đức Anh đã kinh qua nhiều cương vị công tác, nhưng dù ở bất cứ cương vị và hoàn cảnh nào, đồng chí cũng luôn thể hiện bản lĩnh chính trị kiên cường, dũng cảm; luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc và quân đội lên trên hết; toàn tâm, toàn trí, toàn lực cống hiến cho Đảng, cho dân tộc và nhân dân; giữ trọn danh hiệu cao quý của người cộng sản, luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân giao phó.
Qua mỗi chặng đường lịch sử, đồng chí đều để lại nhiều dấu ấn sâu đậm đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc, nhưng có lẽ không thể không nhắc tới những năm đầu đổi mới đất nước (1987 - 1997) - thời kỳ khó khăn nhất của Đảng và Nhà nước ta về công tác đối ngoại, ảnh hưởng nhất định đến công cuộc xây dựng đất nước. Thời kỳ này, trên cương vị là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, rồi Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều đóng góp quan trọng trên lĩnh vực đối ngoại của đất nước, nổi bật là việc xúc tiến bình thường hóa quan hệ với Mỹ và thúc đẩy Việt Nam gia nhập ASEAN. Đồng chí được Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ hệ trọng này trong bối cảnh Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 13-NQ/TW (5/1988) kịp thời điều chỉnh chiến lược đối ngoại với phương châm “hạn chế đối đầu, tăng cường đối tác”, “củng cố tăng cường quan hệ với bạn bè”. Tất cả nhằm mục đích “chuyển cuộc đấu tranh từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác cùng tồn tại hòa bình” làm thất bại cuộc bao vây, cấm vận và cô lập Việt Nam về kinh tế, chính trị và ngoại giao, làm cho Việt Nam chủ động hòa hợp với cộng đồng quốc tế, thực hiện mục tiêu “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các quốc gia và dân tộc trên thế giới”. Do vậy, Mỹ bắt đầu có sự thay đổi chiến lược với Việt Nam. Chính quyền của Tổng thống G.Bush có sự điều chỉnh chính sách: tập trung giải quyết vấn đề tù binh chiến tranh và người Mỹ mất tích trong chiến tranh; bước đầu đề cập thận trọng vấn đề dân chủ, nhân quyền “từng bước có điều kiện” để nới lỏng các mức quan hệ, dần dần đi đến xóa bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Trước đó, vào thập niên 80 của thế kỷ XX, Việt Nam chủ trương hướng tới cải thiện quan hệ với Mỹ bằng những hành động giải quyết vấn đề liên quan tới người Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA). Tháng 2/1982, lần đầu tiên Việt Nam trao trả một số hài cốt cho đoàn đại biểu Mỹ do Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Richard Armitage dẫn đầu đến thăm Hà Nội. Tháng 6/1985, Việt Nam thông báo với Mỹ về việc sẵn sàng giải quyết vấn đề MIA trong vòng hai năm. Hai tháng sau, Việt Nam trao trả hài cốt 26 người Mỹ và đây là lần trao trả số lượng lớn nhất tính từ năm 1982. Vào tháng 11/1985, Việt Nam cho phép tiến hành cuộc khai quật chung đầu tiên giữa Việt Nam và Mỹ tại khu vực máy bay B52 rơi nhằm tìm kiếm các hài cốt quân nhân Mỹ.
Thực hiện nhiệm vụ ngoại giao được Bộ Chính trị Trung ương Đảng giao, đồng chí Lê Đức Anh đã chọn con đường tiếp cận với phía chính quyền Mỹ qua các hoạt động khoa học để bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Mỹ. Ông cử Thiếu tướng, GS.TS. Nguyễn Huy Phan - chuyên gia đầu ngành y học phẫu thuật chỉnh hình của nước ta sang Mỹ trao đổi nghiệp vụ, mời đoàn bác sĩ Mỹ trong tổ chức “Phẫu thuật nụ cười” sang thăm, trao đổi nghiệp vụ với ngành y học Việt Nam. Sau bước mở đầu thành công bằng con đường khoa học, bước tiếp theo, đồng chí Lê Đức Anh đề xuất với Bộ Chính trị tạo điều kiện thuận lợi cho phía Mỹ trở lại đất nước Việt Nam tìm kiếm người Mỹ mất tích và hài cốt lính Mỹ chết trong thời kỳ chiến tranh trước đây (gọi tắt là POW/MIA).
Việc này được khởi đầu với việc ký Hiệp định Liên hợp quốc tại Hội nghị Pari về một giải pháp chính trị cho Campuchia với điều kiện Việt Nam phải thuyết phục Phnôm Pênh ký và thực hiện Hiệp định Pari..., ưu tiên hợp tác và giải quyết nhanh chóng các thông tin liên quan tới MIA, thu hồi hài cốt quân nhân Mỹ được tìm thấy. Phía Mỹ sẽ bỏ giới hạn đi lại 25 dặm đối với các nhà ngoại giao Việt Nam làm việc tại Liên hợp quốc ở New York, bắt đầu đối thoại về thể thức liên quan tới bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Mỹ và Việt Nam, thảo luận vấn đề tài sản giữa hai nước, quy chế cho các doanh nghiệp Mỹ tới Việt Nam.
Tháng 2/1987, tướng Mỹ John Vessey, đặc phái viên của Tổng thống G.Bush sang Việt Nam bàn về vấn đề MIA, được xem như bước khởi đầu về mặt ngoại giao cho các hoạt động hỗn hợp giữa Việt Nam và Mỹ để tăng cường quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Đặc biệt, tháng 4/1991, tại New York, phía Mỹ trao cho Việt Nam “Bản lộ trình 4 bước” thể hiện rõ từng bước có điều kiện thực hiện ý đồ chính trị của phía Mỹ đối với phía Việt Nam. Tháng 8/1987, hai hội nghị được tổ chức tại Washington và Hà Nội để thảo luận vấn đề MIA và vấn đề viện trợ nhân đạo khẩn cấp cho Việt Nam. Việt Nam đã đồng ý cho phép đội ngũ kỹ thuật hỗn hợp Việt Nam - Hoa Kỳ cùng làm việc nhằm tìm kiếm hài cốt các nhân viên công vụ. Tới tháng 9/1990, Mỹ nhận từ phía Việt Nam 100 bộ hài cốt. Ngày 29/9/1990, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch đã gặp gỡ Ngoại trưởng Hoa Kỳ James Baker tại New York.
Từ ngày 16 đến ngày 21/11/1991, Chính phủ Mỹ cử tiếp một đoàn đại biểu do Thượng nghị sĩ John Kerry dẫn đầu sang thăm Việt Nam. Ngày 18/11/1992, đồng chí Lê Đức Anh trên cương vị Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam coi vấn đề POW và MIA là vấn đề thuần túy nhân đạo. Chủ trương của Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục hợp tác với phía Mỹ để sớm giải quyết thỏa đáng và cũng mong muốn hai bên cùng tích cực hợp tác giải quyết sớm vấn đề này. Tháng 4/1994, phía Chính phủ Mỹ mở văn phòng tại thủ đô Hà Nội liên quan tới vấn đề POW và MIA. Tháng 2/1992, thành lập lực lượng đặc nhiệm tìm kiếm hỗn hợp về MIA. Tháng 7/1993, Tổng thống Mỹ Bill Clinton mở đường cho Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (World Bank) cung cấp tín dụng cho Việt Nam. Ngày 03/02/1994, Tổng thống Mỹ Bill Clinton tuyên bố chấm dứt lệnh cấm vận thương mại kéo dài 19 năm đối với Việt Nam. Bằng những nỗ lực của cả hai phía Việt Nam và Mỹ, trong đó có vai trò quan trọng của cá nhân đồng chí Lê Đức Anh, sáng ngày 12/7/1995 (theo giờ Việt Nam), hai nước tuyên bố bình thường hóa quan hệ, tiến hành thiết lập quan hệ ngoại giao và mở văn phòng liên lạc tại Washington và Hà Nội.
Tháng 10/1995, Chủ tịch nước Lê Đức Anh dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam sang New York dự Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Liên hợp quốc. Chuyến thăm này của ông cũng đồng thời trở thành chuyến thăm đầu tiên của Nguyên thủ quốc gia Việt Nam đặt chân tới Mỹ.
Cùng với xúc tiến bình thường hóa quan hệ với Mỹ, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã có nhiều đóng góp cho tiến trình thúc đẩy để Việt Nam gia nhập ASEAN vào ngày 28/7/1995.
Để Việt Nam gia nhập ASEAN, điều tiên quyết là phải bình thường hóa quan hệ với hai nước Trung Quốc và Mỹ. Việc này, Việt Nam đã có những bước đi ngoại giao khôn khéo, hợp lý, mạnh mẽ và đạt được thành tựu quan trọng với những dấu ấn đậm nét của cá nhân đồng chí Lê Đức Anh. Công lao của ông đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ghi nhận, đánh giá cao. Đồng chí Lê Đức Anh, với tư duy lý luận và thực tiễn sắc sảo đã có công đóng góp ý kiến vào việc điều chỉnh chiến lược quân sự và điều chỉnh chiến lược đối ngoại, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW (tháng 5/1988) của Bộ Chính trị (khóa VI) đạt kết quả, nhất là bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Thái Lan và Mỹ.
Năm 1993, đồng chí Lê Đức Anh với cương vị Chủ tịch nước đã sang thăm chính thức Trung Quốc, mở ra giai đoạn bình thường hóa quan hệ giữa hai nước sau 15 năm đối đầu căng thẳng, tạo điều kiện cho Việt Nam gia nhập ASEAN và bình thường hóa quan hệ với Mỹ vào ngày 12/7/1995. Chỉ sau đó hai tuần, ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN. Việt Nam chính thức hội nhập với cộng đồng khu vực và thế giới, phục vụ chủ trương xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trước khi gia nhập tổ chức ASEAN, Việt Nam đã phải nỗ lực rất lớn nhằm mở ra quan hệ bình thường với Chính phủ Thái Lan. Thái Lan là một nước trong khối ASEAN rất căng thẳng với Việt Nam, thường xuyên công kích Việt Nam trước dư luận quốc tế bởi Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh bại hoàn toàn tàn quân phản động Pôn Pốt đứng chân trên lãnh thổ Thái Lan. Năm 1989, Việt Nam rút toàn bộ Quân tình nguyện ở Campuchia về nước khiến Thái Lan hết lo ngại. Năm 1990, Thủ tướng Thái Lan Chạt chai Chuhavan tuyên bố muốn biến “Đông Dương từ chiến trường thành thị trường” đã thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Thái Lan chuyển biến tích cực hơn. Đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Trần Văn Quang chủ động tiếp xúc với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng tư lệnh quân đội Thái Lan bàn nối lại quan hệ ngoại giao giữa hai quân đội và hai nước. Trong đặt vấn đề, Việt Nam đã nhấn mạnh sự tương đồng về lịch sử giữa hai nước, hai dân tộc; nhân dân Thái Lan giúp đỡ Chủ tịch Hồ Chí Minh và giúp nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp; nhân dân hai nước đều theo đạo Phật, mà tín đồ Phật giáo chỉ làm điều thiện, không hận thù, tránh gây đổ máu. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Thái Lan là Đông Chai Dut rất cảm kích khi được mời sang thăm Việt Nam; sau đó, góp phần nối lại quan hệ hữu nghị, bình thường hóa hai nước vào năm 1990, trước khi bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Việc này đã có tác động sâu sắc đến quan hệ của Việt Nam với ASEAN, phương Tây và Trung Quốc.
Như vậy, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng với Bộ Chính trị chỉ đạo sát sao các bộ, ngành để mở rộng quan hệ với các nước. Sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Mỹ và gia nhập ASEAN, hàng loạt các quốc gia tìm đến Việt Nam để tìm hiểu và hợp tác, đầu tư về kinh tế và khoa học - công nghệ. Cũng trong nhiệm kỳ Chủ tịch nước, thay mặt Nhà nước và nhân dân ta, đồng chí Lê Đức Anh đi dự một số hội nghị quốc tế quan trọng; thăm chính thức và làm việc với 13 nước trên thế giới; đón tiếp 26 nguyên thủ quốc gia thăm hữu nghị chính thức và nhiều đoàn khách quốc tế tới thăm Việt Nam; tiếp nhận 90 đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài ở Việt Nam và cử 57 đại sứ Việt Nam tại các nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam; ký quyết định phê chuẩn một Hiến chương, 26 Công ước, 5 Hiệp ước, 35 Hiệp định, 3 Nghị định thư giữa Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế, trình Quốc hội phê chuẩn 1 Công ước theo quy định của Hiến pháp (Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển); ủy quyền đàm phán và ký kết một số điều ước quốc tế khác.
Đại tá, TS. Lê Đức Hạnh
Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng... Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh để lại nhiều dấu ấn sâu đậm, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, vào quá trình củng cố, tăng cường tình đoàn kết quốc tế, xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ những cống hiến xuất sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, Đại tướng Lê Đức Anh đã được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều Huân chương, Huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế. Khi còn sống cũng như khi qua đời, Đại tướng Lê Đức Anh để lại nhiều tình cảm tốt đẹp trong lòng bạn bè thế giới.
Trong suốt những năm hoạt động cách mạng, Đại tướng Lê Đức Anh đã góp phần quan trọng xây dựng, củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam - Lào. Trên cương vị Tổng Tham mưu trưởng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cũng như trên cương vị Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã có nhiều cuộc gặp gỡ, hội đàm cấp cao với lãnh đạo Bộ Quốc phòng Lào, lãnh đạo Đảng, Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào để bàn biện pháp đẩy mạnh hợp tác giữa hai nước trên các lĩnh vực. Thành tựu quan hệ giữa Việt Nam - Lào đạt được bắt nguồn từ truyền thống đoàn kết giữa hai nước, trong đó có công lao to lớn của Đại tướng Lê Đức Anh.
Ngày 22/4/2019, Đại tướng Lê Đức Anh từ trần, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Quốc hội, Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào xây dựng đất nước gửi Điện chia buồn tới Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bức điện viết: “Chúng tôi đánh giá cao sự đóng góp to lớn của đồng chí Lê Đức Anh trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước của Việt Nam trong hơn 80 năm qua. Đồng chí Lê Đức Anh đã góp phần quan trọng vào việc tăng cường mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa Lào và Việt Nam”.
Ngày 03/5/2019, lễ viếng và truy điệu Đại tướng Lê Đức Anh được tổ chức trọng thể tại Hà Nội theo nghi thức quốc tang. Trong niềm tiếc thương vô hạn, Đoàn đại biểu cấp cao Lào do Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào xây dựng đất nước Saysomphone Phomvihane làm Trưởng đoàn đến viếng nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh. Trong sổ tang, đồng chí Saysomphone Phomvihane viết: “Đồng chí Lê Đức Anh từ trần, không chỉ Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam mất đi một nhà lãnh đạo kính yêu, mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào chúng tôi cũng mất đi một người bạn thân thiết, gần gũi. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, đồng chí Lê Đức Anh có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực bảo vệ đất nước, bảo vệ trật tự, an ninh, an toàn xã hội.
Đồng chí Lê Đức Anh cũng là nhà lãnh đạo có những đóng góp quan trọng vào việc phát triển mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa Lào - Việt Nam trong suốt thời gian qua...”.
Không chỉ có nhiều đóng góp trong xây dựng, phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Đại tướng Lê Đức Anh có nhiều đóng góp trong xây dựng mối quan hệ Việt Nam - Campuchia. Biểu hiện rõ nét là, sau khi các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam đánh tan quân Pôn Pốt xâm lược trên tuyến biên giới Tây Nam và cùng quân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng, đồng chí Lê Đức Anh có nhiều đề xuất thể hiện tầm nhìn và tư duy chiến lược về việc giúp Campuchia hồi sinh đất nước. Việc đầu tiên đồng chí Lê Đức Anh đề xuất và được tập thể lãnh đạo nhất trí là bộ đội và chuyên gia Việt Nam phải tập trung cứu đói, cứu đau cho dân; nhanh chóng khôi phục lại xã hội Campuchia; khôi phục lại sản xuất; vận động binh lính Pôn Pốt bỏ hàng ngũ trở về với gia đình; giúp bạn xây dựng thực lực cách mạng để bạn tự đảm đương công việc của mình. Đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam cùng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đánh bại các cuộc phản kích và truy quét, làm tan rã một bộ phận lớn tàn quân Pôn Pốt, giữ vững thành quả cách mạng; đồng thời giúp bạn xây dựng công trình phòng thủ biên giới mang tên “K5”, dài 800km.
Trong những năm làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia, đồng chí Lê Đức Anh luôn quan tâm giáo dục, động viên bộ đội và chuyên gia Việt Nam vượt qua khó khăn, gian khổ, hy sinh để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế cao cả. Dưới sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của đồng chí Lê Đức Anh, quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam cùng quân dân Campuchia đã thực hiện thắng lợi ba mục tiêu chiến lược của cách mạng Campuchia được xác định trong Nghị quyết số 39 ngày 15/02/1983 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia: “1. Tiếp tục làm cho quân Pôn Pốt tan rã, suy tàn hơn nữa. 2. Tiếp tục xây dựng thực lực cách mạng Campuchia mạnh hơn cả về số lượng và chất lượng, đủ sức đảm nhiệm cuộc đấu tranh thắng lợi với mọi kẻ thù, bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng, bảo vệ và xây dựng đất nước. 3. Bảo đảm đoàn kết liên minh chiến lược, chiến đấu Campuchia - Việt Nam trên một thế vững chắc hơn và mạnh hơn”. Với thành tích xuất sắc trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và cùng quân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng, tái thiết đất nước, đồng chí Lê Đức Anh được thăng quân hàm từ Trung tướng lên Thượng tướng vào tháng 01/1980, Đại tướng tháng 12/1984.
Tháng 12/1986, Đại tướng Lê Đức Anh được bổ nhiệm giữ chức Tổng Tham mưu trưởng, đến tháng 02/1987, làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ngày 23/9/1992, Quốc hội khóa IX bầu Đại tướng Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và giữ cương vị này đến tháng 12/1997. Trong thời gian này, Đại tướng Lê Đức Anh tiếp tục có nhiều đóng góp trong xây dựng, phát triển mối quan hệ Việt Nam - Campuchia. Với những đóng góp to lớn cho mối quan hệ Việt Nam - Campuchia, khi Đại tướng Lê Đức Anh qua đời, nhân dân Campuchia bày tỏ niềm tiếc thương to lớn. Giáo sư, Tiến sĩ Ka Mathul, Chủ nhiệm Khoa Quan hệ quốc tế, Viện Quan hệ quốc tế Campuchia (thuộc Viện Hàn lâm Hoàng gia Campuchia) trong bài trả lời phỏng vấn Phóng viên Thông tấn xã Việt Nam thường trú tại Campuchia ngày 04/5/2019, nhấn mạnh: “Phần lớn cuộc đời Đại tướng Lê Đức Anh cống hiến, phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là một người con anh hùng của nhân dân Việt Nam. Đại tướng Lê Đức Anh tham gia chống Pháp, chống Mỹ và trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, ông là Tư lệnh Bộ đội tình nguyện Việt Nam tại Campuchia”. Bên cạnh đó, Giáo sư, Tiến sĩ Ka Mathul nêu rõ: Với sự trợ giúp của Việt Nam, đặc biệt là Đại tướng Lê Đức Anh, Campuchia đã thành lập một đơn vị chiến đấu tại Việt Nam với tên gọi Đoàn 125, tại xã Long Giao, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai (12/5/1978), sau đó kết hợp với Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước (thành lập ngày 02/12/1978). Hai bên nhận thấy cần phải lật đổ chế độ Khmer đỏ và lấy ngày 25/12/1978 là ngày lật đổ chế độ này, sau đó chiến thắng hoàn toàn vào ngày 07/01/1979. Giáo sư Ka Mathul khẳng định: Với sự trợ giúp của quân tình nguyện Việt Nam tinh nhuệ và tài chỉ huy quân sự sáng suốt của Đại tướng Lê Đức Anh, đất nước Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng Khmer Đỏ để có được đất nước Campuchia như ngày hôm nay.
Khi Đại tướng Lê Đức Anh qua đời, Đoàn đại biểu cấp cao Campuchia do Thủ tướng Vương quốc Campuchia Samdech Techo Hun Sen làm Trưởng đoàn đến viếng. Xúc động vào ghi sổ tang, Thủ tướng Hun Sen viết: “Việc giải phóng nhân dân thoát khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt, việc ngăn chặn chế độ diệt chủng quay trở lại, công cuộc xây dựng lại đất nước Campuchia, đặc biệt, sự trưởng thành của Quân đội Campuchia đều có sự đóng góp của Bác. Trong quá trình làm nhiệm vụ của Bác tại Campuchia, Bác đã thay mặt Đảng, Chính phủ và quân tình nguyện Việt Nam thực hiện trọn vẹn chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền của Campuchia, tôn trọng sự lựa chọn của nhân dân Campuchia về hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội của Campuchia. Trong quá trình thực hiện chức năng là Chủ tịch nước Việt Nam, Bác là một trong những người cùng với Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân Việt Nam thúc đẩy quan hệ trên mọi lĩnh vực giữa hai nước Campuchia - Việt Nam phát triển nhanh chóng... Với tư cách là một nhà chính trị và Tư lệnh Quân đội, tôi luôn coi Bác là nhà chiến lược tài ba về quân sự và chính trị mà tôi chưa từng gặp người nào như vậy ở các nước khác”.
Cùng với sự đánh giá của lãnh đạo Campuchia, khi Đại tướng Lê Đức Anh qua đời, tác giả William Branigin viết: Đại tướng Lê Đức Anh được biết nhiều với vai trò chỉ huy lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam lật đổ chế độ Khmer Đỏ, sau đó giúp nhân dân Campuchia hồi sinh đất nước...
Không chỉ Lào, Campuchia, Cuba là nước có quan hệ gắn bó với Việt Nam. Mối quan hệ đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa Việt Nam và Cuba do Chủ tịch Fidel Castro và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặt nền móng, ngày càng gắn bó khăng khít, phát triển trên nhiều lĩnh vực. Góp phần vào thành tựu của mối quan hệ giữa hai nước, Đại tướng Lê Đức Anh để lại nhiều dấu ấn. Khi Đại tướng Lê Đức Anh qua đời, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Cuba Miguel Díaz-Canel Bermúdez gửi Điện chia buồn tới Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc, nêu rõ: “Thay mặt nhân dân và Chính phủ Cuba, tôi xin bày tỏ với các đồng chí niềm tiếc thương sâu sắc khi biết tin đồng chí Lê Đức Anh, người bạn thân thiết, người đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển mối quan hệ mật thiết giữa Cuba và Việt Nam qua đời”.
Tại Hà Nội, ngày 03/5/2019, lễ viếng và truy điệu Đại tướng Lê Đức Anh được tổ chức trọng thể. Đoàn đại biểu cấp cao Cuba do Bộ trưởng Bộ Truyền thông Jorge Luis Perdomo dẫn đầu đến viếng, ghi sổ tang: “Sự ra đi của đồng chí Lê Đức Anh là một tổn thất to lớn đối với sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam và trên thế giới. Cuộc đời mẫu mực và những đóng góp to lớn của đồng chí với nền độc lập và chủ quyền của Việt Nam sẽ không bao giờ bị lãng quên... Đồng chí Lê Đức Anh là một người bạn lớn của
nhân dân Cuba và là người đã gìn giữ và vun đắp mối quan hệ anh em và đoàn kết giữa Việt Nam và Cuba...”.
Thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam từng bước tiến hành bình thường hóa quan hệ với một số nước lớn, trong đó có Hoa Kỳ. Bộ Chính trị giao lãnh đạo Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng lo việc này. Lúc đó, Đại tướng Lê Đức Anh đang giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Điều cần nhấn mạnh, trong thời điểm ấy, giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chưa có một kênh tiếp cận chính thức nào. Chiến tranh đã kết thúc được hơn một thập kỷ nhưng sự hận thù vẫn còn sâu sắc. Sau những trăn trở, tìm tòi, Đại tướng Lê Đức Anh đã đề xuất những bước đi khôn khéo với chiến dịch “Phẫu thuật nụ cười” và “Tìm kiếm người Mỹ mất tích - MIA” - mở ra một cách tiếp cận trong việc bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ. Đó là cách làm đầy sáng tạo và bước mở đầu đó góp phần quan trọng trong việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Chủ tịch nước Lê Đức Anh sang New York dự Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Liên hợp quốc vào tháng 10/1995, ông trở thành Nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Việt Nam đặt chân tới Hoa Kỳ. Thực tế cho thấy, trong 25 năm qua, những bước phát triển trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, góp phần vào sự phát triển thịnh vượng của mỗi nước và hòa bình ổn định ở khu vực đã chứng minh tầm nhìn của Đại tướng Lê Đức Anh. Đánh giá công lao của Đại tướng Lê Đức Anh, khi ông qua đời, Tờ “The Washington Post” số ra ngày 26/4/2019, tác giả William Branigin viết: Đại tướng Lê Đức Anh được biết đến là người cộng sản kiên trung, người luôn nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng đối với mọi hoạt động của đời sống xã hội, người góp nhiều công sức cho sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam và chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường trong thời gian giữ cương vị Chủ tịch nước từ năm 1992 đến năm 1997. Tác giả William Branigin nhấn mạnh: trong thời gian Đại tướng Lê Đức Anh giữ cương vị đứng đầu đất nước, Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, chấm dứt sự đối đầu giữa hai nước kéo dài trong những năm chiến tranh.
Cùng với Hoa Kỳ, Đại tướng Lê Đức Anh được Đảng, Nhà nước tin tưởng giao trọng trách “mở đường” trong việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Với tài năng và sự sáng tạo của mình, Đại tướng Lê Đức Anh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này. Tháng 7/1991, Bộ Chính trị cử Đại tướng Lê Đức Anh làm Phái viên của Bộ Chính trị sang bàn bạc những vấn đề cụ thể việc bình thường hóa quan hệ hai nước. Tháng 11/1991, nhận lời mời của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân và Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc Lý Bằng, Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt dẫn đầu sang thăm Trung Quốc, chính thức bình thường hóa quan hệ hai nước và mở ra một trang sử mới trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Kết quả này có sự đóng góp quan trọng của Đại tướng Lê Đức Anh. Khi Đại tướng qua đời, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình gửi Điện chia buồn tới Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Bức điện viết: “Đồng chí Lê Đức Anh đã có cống hiến quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam, luôn không ngừng nỗ lực trong việc thúc đẩy quan hệ hai nước Trung - Việt phát triển”.
Có thể nói, với tất thảy những gì để lại, Đại tướng Lê Đức Anh không chỉ là vị tướng xuất sắc thời đại Hồ Chí Minh, vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết đoán, mưu lược, sáng tạo, vị Chủ tịch nước có nhiều cống hiến xuất sắc đối với sự nghiệp đổi mới đất nước mà còn để lại nhiều tình cảm tốt đẹp trong lòng bè bạn thế giới. Ngay từ khi Đại tướng Lê Đức Anh còn sống cũng như khi đã về cõi vĩnh hằng, bạn bè thế giới luôn dành cho ông tình cảm sâu đậm và khẳng định công lao to lớn của ông đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam cũng như việc củng cố tình đoàn kết quốc tế giữa các dân tộc.
Đại tướng Lê Đức Anh đã đi xa, nhưng những cống hiến của Đại tướng đối với cách mạng Việt Nam và tình đoàn kết quốc tế vẫn sẽ còn mãi. Nhiệm vụ của chúng ta hôm nay và mai sau là phải kế thừa, phát huy những kinh nghiệm mà Đại tướng Lê Đức Anh để lại vào công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, để xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xứng đáng với những đóng góp của các thế hệ cha anh và của Đại tướng Lê Đức Anh.
Đại tá, TS. TRƯƠNG MAI HƯƠNG
Đại tướng Lê Đức Anh là một trong những bậc lão thành cách mạng đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa - một tấm gương sáng cho thế hệ trẻ trong quân đội học tập, noi theo.
Chứng kiến tình cảnh quê hương, đất nước mất quyền độc lập, tự do; dân chúng lầm than dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến đã sớm hun đúc lòng yêu nước, ý chí đấu tranh và hối thúc chàng trai Lê Văn Giác vừa học, vừa từng bước tham gia các đoàn thể quần chúng cách mạng ở địa phương. Năm 1938, đồng chí Lê Đức Anh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước, đồng chí Lê Đức Anh thường xuyên có mặt ở các khu vực chiến trường trọng điểm, khó khăn, ác liệt; đảm trách lần lượt các chức vụ chỉ huy từ cấp đại đội, chi đội, trung đoàn, Tham mưu trưởng các khu 7, 8 và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ, Cục phó Cục Tác chiến, Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Tham mưu trưởng Quân giải phóng miền Nam, Phó Bí thư Khu ủy - Tư lệnh Quân khu 9, Phó Bí thư Quân ủy Miền, Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam. Trên các cương vị được Đảng và quân đội giao, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, đồng chí cũng tìm mọi cách khắc phục khó khăn, lấy việc xây dựng khối đoàn kết thống nhất nội bộ, dựa vào dân mà chiến đấu là khâu then chốt trong chỉ huy, điều hành tác chiến...
Một trong những dấu ấn sâu đậm trong sự nghiệp cầm quân của đồng chí Lê Đức Anh là thời gian lần lượt đảm trách các chức vụ Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam, Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, Tư lệnh Quân khu 9, Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam, đồng chí luôn kiên định tư tưởng giữ vững thế tiến công, chủ động tấn công, tìm ra những cách đánh hiệu quả, góp phần cùng quân và dân ta giành được nhiều thắng lợi bước ngoặt thay đổi cục diện chiến trường, điển hình như: đánh bại cuộc hành quân Gianxơn Xiti trên chiến trường miền Đông Nam Bộ (1967) - đánh bại kế hoạch bình định, lấn chiếm của địch trên địa bàn Quân khu 9 (1973) - tạo ra thế và lực mới cho cách mạng miền Nam; tiến hành Chiến dịch Đường 14 - Phước Long (1974) - đòn thăm dò chiến lược chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 và chiến dịch Hồ Chí Minh (1975), giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ghi nhận những công lao đó đồng chí Lê Đức Anh được Đảng và Nhà nước thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá (1958) lên Trung tướng (1974).
Đất nước vừa thống nhất không được bao lâu, quân Pôn Pốt Iêng Xary lại gây ra cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Với trọng trách Tư lệnh Quân khu 9, sau đó là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Trưởng Cơ quan Tiền phương Bộ Quốc phòng ở phía Nam, đồng chí Lê Đức Anh lại một lần nữa trực tiếp chỉ huy lực lượng vũ trang chiến đấu bảo vệ vững chắc biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. Tiếp đó, với các cương vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Trưởng Ban Lãnh đạo Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Campuchia, đồng chí đã quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”; sâu sát chỉ đạo Quân tình nguyện Việt Nam anh dũng chiến đấu cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng; chuẩn bị mọi mặt chu đáo trong các cuộc tiếp xúc với bạn; coi trọng công tác chuyên gia, luôn chỉ đạo bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần và phát huy hiệu quả trình độ, năng lực và kinh nghiệm của đội ngũ này, thường xuyên rèn luyện cho Quân tình nguyện Việt Nam và đội ngũ chuyên gia nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm các mệnh lệnh, nguyên tắc trong hoạt động đối ngoại quân sự với bạn. Có thể nói, bên cạnh việc hoàn thành xuất sắc chức trách của nhà quân sự, đồng chí Lê Đức Anh còn là một “nhà ngoại giao” có những đóng góp tích cực cho việc tăng cường quan hệ hữu nghị Việt Nam - Campuchia.
Khi được Đảng và Nhà nước bổ nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (1986), rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1987), Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), để chủ động ứng phó hữu hiệu với những biến động phức tạp khó lường của tình hình quốc tế và khu vực, Đại tướng Lê Đức Anh đã tham mưu cho Đảng và Nhà nước từng bước xây dựng kế sách giữ nước một cách toàn diện: củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân gắn với xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, chủ động hoạch định các chủ trương, giải pháp đúng đắn, kịp thời về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng bảo vệ biên giới Tây Nam, phía Bắc và biển đảo của Tổ quốc, góp phần giữ vững an ninh chủ quyền đất nước trước mọi tình huống; đồng thời từng bước giảm quân thường trực từ 1,5 triệu xuống còn 45 vạn người, điều chỉnh thế bố trí chiến lược phòng thủ đất nước; mặt khác, khẩn trương phá thế bao vây cấm vận của Mỹ, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và tìm cách gia nhập khối ASEAN.
Rất mềm dẻo, khôn khéo, linh hoạt và kịp thời trong ứng phó chiến lược, nhưng là người hiểu sâu sắc nguyên lý “lợi ích quốc gia, dân tộc là mãi mãi” và thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Rừng vàng, biển bạc là của ta, do nhân dân ta làm chủ”. nên trong chuyến thị sát quần đảo Trường Sa và dự lễ kỷ niệm 33 năm Ngày truyền thống của Hải quân nhân dân Việt Nam (07/5/1955 - 07/5/1988) ngay sau khi diễn ra sự kiện quân Trung Quốc nổ súng vào tàu HQ-604 của Việt Nam tại đảo Gạc Ma (14/3/1988) làm 64 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, Đại tướng - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh đã có bài phát biểu quan trọng, trong đó có đoạn nhấn mạnh: “... chúng ta xin thề trước hương hồn của tổ tiên ta, trước hương hồn của các cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta”. Đây không chỉ là mệnh lệnh chiến đấu cho quân đội, mà còn là Tuyên bố đanh thép của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam với thế giới rằng: Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam, không thể bàn cãi.
Trong lịch sử chiến tranh giải phóng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới thời đại Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Đức Anh là một vị tướng cầm quân trải qua đủ các thời kỳ liệt oanh nhất: kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam và phía Bắc, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng của chế độ Pôn Pốt Iêng Xari. Với uy tín cao, tài năng xuất chúng và bề dày kinh kinh nghiệm hoạt động cách mạng, nên dù đã ngoài 70 tuổi, Đại tướng Lê Đức Anh vẫn được Quốc hội tín nhiệm bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992). Đáp lại sự tin yêu của toàn dân, toàn quân, đồng chí đã cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng trong công tác đối nội, đối ngoại, góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, quốc phòng, an ninh được giữ vững và củng cố, vị thế của Việt Nam không ngừng được khẳng định và lan tỏa khắp các châu lục.
Là vị tướng công tác trong quân đội trở thành người đứng đầu Nhà nước, đồng chí Lê Đức Anh luôn đau đáu trong lòng về chính sách đãi ngộ đối với người có công. Nổi bật trong đó là việc đề xuất của đồng chí về xét tặng danh hiệu cao quý “Mẹ Việt Nam Anh hùng” đã được Đảng và Nhà nước chấp thuận và triển khai thực hiện rất thành công, thực sự là dấu ấn rất lớn góp phần xoa dịu nỗi đau thương, mất mát trong chiến tranh, tăng cường lòng tin của dân đối với Đảng và Nhà nước, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân ngày thêm vững mạnh - nhân tố quyết định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
“Tận trung với nước, tận hiếu với dân”, từ thực tiễn hoạt động cách mạng, trong hồi ký của mình, Đại tướng Lê Đức Anh viết: “... tôi rút ra được đôi điều tâm huyết là phải luôn luôn rèn luyện, phấn đấu thường xuyên, liên tục, quá trình rèn luyện cần hội tụ đủ ba yếu tố. Thứ nhất là, luôn học tập không ngừng, nâng cao tri thức mọi mặt, đặc biệt là học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và lối sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thứ hai là, thường xuyên rèn luyện bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, trước cán bộ, chiến sĩ và trước cấp trên. Trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, lập trường cách mạng, cần có sự mềm dẻo, linh hoạt trong từng trường hợp cụ thể, năng động, sáng tạo để đạt hiệu quả cao nhất trong chỉ đạo thực hiện nghị quyết của Đảng và mệnh lệnh của cấp trên. Thứ ba là, luôn rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của người chiến sĩ cộng sản, có tinh thần cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, luôn đặt lợi ích cách mạng lên trên hết. Mọi suy nghĩ và hành động phải xuất phát từ lợi ích chung của Đảng, của nhân dân, của dân tộc; luôn phấn đấu vì lợi ích của nhân dân và của cả dân tộc, hết lòng thương yêu gắn bó với nhân dân, gắn bó với Tổ quốc thì dù khó khăn, gian khổ ác liệt và nguy hiểm đến mấy chúng ta cũng vượt qua được”.
Tài năng, phẩm chất đạo đức và cống hiến của Đại tướng Lê Đức Anh chưa có công trình nào thể hiện một cách toàn diện và đầy đủ; bởi, theo đánh giá của Tổng Bí thư Đỗ Mười: Lê Đức Anh thật sự “là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng ta, Nhà nước ta, nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam”. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh thực sự là tấm gương mẫu mực cho tuổi trẻ quân đội - một trong những bộ phận ưu tú của thế hệ trẻ Việt Nam, đã và đang ngày đêm tiên phong thực hiện nhiệm vụ trên tuyến đầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và tiếp sau - tự soi lại mình và sửa mình, quyết tâm học tập, tu dưỡng, rèn luyện và công tác tốt; sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao; giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, tiếp nối xứng đáng với những đóng góp to lớn của Đại tướng - Chủ tịch nước đối với Đảng, Nhà nước, quân đội và dân tộc Việt Nam.
Thượng tá NGUYỄN NGỌC TÙNG
1. Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh - người chiến sỹ cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo tài năng đã cống hiến trọn cuộc đời vì sự nghiệp cách mạng
Đồng chí Lê Đức Anh (1920 - 2019) sinh ra trong một gia đình, dòng tộc có truyền thống hiếu học, có nhiều đời làm quan dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, ở xã Lộc An, huyện Phú Lộc - một làng quê có truyền thống văn hóa và lịch sử lâu đời ở Huế. Thân phụ từng là sỹ phu tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp. Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, phải chứng kiến và thấu hiểu sự nghèo đói, lam lũ của người dân, gia đình dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, phong kiến; cùng với đó, do ảnh hưởng từ các phong trào đấu tranh cách mạng trên quê hương Phú Lộc của các thế hệ tiền bối, của các bậc cha chú, đồng chí Lê Đức Anh đã sớm giác ngộ cách mạng và tích cực tham gia các phong trào đấu tranh yêu nước.
Năm 1938, sau quá trình tham gia phong trào đấu tranh dân chủ ở Phú Vang, đồng chí Lê Đức Anh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1939, trước sự khủng bố ráo riết của kẻ thù, hệ thống cơ sở Đảng ở Huế bị tổn thất hết sức nặng nề, để bảo toàn lực lượng theo chủ trương của tổ chức, đồng chí đã bí mật rời quê hương vào Đà Lạt hoạt động và tham gia xây dựng tổ chức cách mạng.
Thời kỳ từ năm 1939 - 1944, đồng chí hoạt động trong các hội Ái hữu ở Đà Lạt, Lộc Ninh, Thủ Dầu Một và các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh, Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch.
Trong Cách mạng Tháng 8 năm 1945, với vai trò là Ủy viên Ban cán sự Đảng tỉnh Thủ Dầu Một kiêm Bí thư Chi bộ Lộc Ninh, đồng chí Lê Đức Anh đã lãnh đạo công nhân, nhân dân và đồng bào dân tộc thiểu số giành chính quyền thắng lợi ở các quận Hớn Quản, Bù Đốp và chi viện cho Thủ Dầu Một, đóng góp quan trọng vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám ở Thủ Dầu Một.
Sau Cách mạng Tháng Tám, đồng chí Lê Đức Anh tham gia quân đội và bắt đầu gắn bó với cuộc đời binh nghiệp. Cuộc đời gắn với nhiều chiến trường từ Nam ra Bắc, đồng chí được tin tưởng giao những trọng trách quan trọng: Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8, Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn, Tham mưu Phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ; từ năm 1955 đến năm 1963, đồng chí là Phó Cục trưởng Cục Tác chiến, rồi Cục phó, Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu và trở thành Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; từ đầu năm 1964, đồng chí lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Tham mưu trưởng, Tư lệnh Khu 9, Phó Bí thư Khu ủy; Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Miền, Ủy viên Quân ủy Miền.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng chí được phân công chỉ huy bộ đội ở hướng Tây Sài Gòn, từ Long An đánh vào Tổng nha Cảnh sát và Cảnh sát Đô thành. Quá trình diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, trên cơ sở phân tích, đánh giá thấu đáo tình hình, đồng chí đã có những đề xuất quan trọng về chuyển hướng tiến công. Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã có ý nghĩa quan trọng, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh.
Sau khi Hiệp định Pari được ký kết (27/01/1973), chính quyền và quân đội Sài Gòn ngang nhiên vi phạm Hiệp định, ráo riết thực hiện kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ”, đẩy mạnh bình định lấn chiếm. Trước tình hình đó, mặc dù chưa có chủ trương của trên về tiến công quân sự, song dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, sự chỉ huy trực tiếp, quyết đoán và dám chịu trách nhiệm của Tư lệnh Lê Đức Anh, quân và dân Quân khu 9 đã chiến đấu ngoan cường, bẻ gãy các cuộc hành quân lấn chiếm quy mô cấp quân đoàn của địch đánh vào Chương Thiện, lần lượt đánh bại 75 tiểu đoàn cùng với kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” của chúng.
Với những thành tích trong chỉ huy chống địch lấn chiếm, phá hoại Hiệp định Pari năm 1973 trên địa bàn Quân khu 9 và những thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1964 - 1974; ngày 16/4/1974, đồng chí Lê Đức Anh được Chủ tịch nước ký quyết định phong quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng chí Lê Đức Anh đảm nhiệm cương vị Phó Tư lệnh Chiến dịch kiêm Tư lệnh cánh quân tiến công trên hướng tây - tây nam đánh vào Sài Gòn. Với tài thao lược và kinh nghiệm trận mạc được tích lũy trong suốt hai cuộc chiến tranh giải phóng, đồng chí Lê Đức Anh đã tổ chức lực lượng, chỉ huy các cánh quân đánh chiếm các mục tiêu theo kế hoạch tác chiến, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt của dân tộc.
Tư lệnh Quân tình nguyện làm nghĩa vụ quốc tế cao cả giúp bạn Campuchia và Trưởng ban Lãnh đạo các chuyên gia tại Campuchia, đồng chí Lê Đức Anh đã trực tiếp chỉ huy chiến trường và giành nhiều thắng lợi quan trọng, góp phần bảo vệ biên giới thiêng liêng của Tổ quốc, giúp dân tộc Campuchia khỏi họa diệt chủng và hồi sinh đất nước. Những việc làm của đồng chí được nhân dân Campuchia quý trọng và nhân dân tiến bộ trên thế giới đánh giá cao sự giúp đỡ to lớn của quân và dân Việt Nam đối với nhân dân Campuchia. Với việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đồng chí Lê Đức Anh được thăng quân hàm từ Trung tướng lên Thượng tướng (tháng 01/1981) và lên Đại tướng (tháng 12/1984).
Tháng 12/1986, Đại tướng Lê Đức Anh là Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, từ năm 1987 là Bộ trưởng Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. Đồng chí là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 1992 - 1997. Đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng khóa VII; Ủy viên Bộ Chính trị khóa V, VI, VII, VIII; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ năm 1997 đến tháng 4 năm 2001; đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII, IX.
Hơn 80 năm tham gia hoạt động cách mạng, gần 30 năm chỉ huy chiến đấu trên chiến trường Nam Bộ - Thành đồng Tổ quốc, gần 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia, Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng dày dạn trận mạc, một nhà chỉ huy xuất sắc, có tầm nhìn chiến lược, có chiến thuật tài tình và linh hoạt xử lý các tình huống phức tạp. Đồng chí luôn có mặt trên các chiến trường ác liệt nhất, trong những thời điểm gay go nhất với nhiều trận đánh mang tính lịch sử, tạo ra những bước ngoặt lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trên lĩnh vực chính trị và đối ngoại, thực hiện nhiệm vụ của Bộ Chính trị giao và xuất phát từ lòng nhân ái, từ truyền thống hoà hiếu của dân tộc, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã góp một phần quan trọng trong quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, nổi bật là quá trình xúc tiến việc bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc; ký kết nhiều hiệp định, điều ước quốc tế, để lại những dấu ấn quan trọng và tình cảm tốt đẹp với các quốc gia, cộng đồng quốc tế. Thông qua đó, ta đã tranh thủ được sự giúp đỡ, khai thác được thế mạnh của từng quốc gia, từng tổ chức quốc tế vào công cuộc tái thiết và xây dựng đất nước, từng bước nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế.
Trưởng thành từ một người lính, người chỉ huy qua nhiều trận đánh, rồi sau này khi là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Lê Đức Anh thấu hiểu hơn ai hết những mất mát, hy sinh để có ngày toàn thắng. Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã đề xuất việc phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và được Bộ Chính trị đồng ý. Ngày 29/12/1994, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, hàng trăm Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở tuổi ngoài 70 đã cùng duyệt hàng quân danh dự với người đứng đầu Nhà nước Việt Nam - Chủ tịch nước Lê Đức Anh trong khuôn viên Phủ Chủ tịch.
Không chỉ là một nhà lãnh đạo tài năng, một chiến sĩ quân đội có tầm nhìn chiến lược, sắc sảo, thận trọng và quyết đoán, đồng chí Lê Đức Anh còn giàu lòng nhân ái, chân tình, độ lượng, luôn dành tình cảm thương yêu và quan tâm chăm lo đời sống của đồng bào, đồng chí, chiến sĩ.
Với 99 tuổi đời, hơn 80 năm tuổi Đảng, Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã dành trọn cuộc đời cống hiến vì sự nghiệp cách mạng. Luôn gánh vác những trọng trách quan trọng trong suốt chiều dài đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dù ở cương vị nào, đồng chí cũng luôn dành trọn tâm huyết, trí tuệ và tài năng, làm tròn nhiệm vụ của mình với tình cảm cách mạng trong sáng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đồng chí đã đi xa nhưng sự hy sinh, cống hiến của đồng chí sẽ mãi là những trang sử vàng sáng chói, trường tồn với thời gian.
2. Học tập tấm gương Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh, Đảng bộ và nhân dân Thừa Thiên Huế quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh
Thừa Thiên Huế là quê hương, nơi lưu giữ nhiều kỷ niệm thời thơ ấu của Đại tướng, cũng là nơi đã nuôi dưỡng, hun đúc tinh thần, ý chí cách mạng của đồng chí Lê Đức Anh. Chính tình yêu quê hương là động lực, là sức mạnh để đồng chí hăng hái tham gia hoạt động cách mạng, cùng đồng bào cả nước đứng lên chống lại ách áp bức của thực dân, đế quốc, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Mặc dù sớm thoát ly gia đình và quê hương để tham gia hoạt động cách mạng, đến khi trở thành người lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và lúc nghỉ công tác, đồng chí vẫn luôn dành thời gian và tình cảm đặc biệt đối với Thừa Thiên Huế. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đồng chí nhiều lần trở lại Thừa Thiên Huế và gợi mở giúp quê hương khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội; gợi ý cho lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế xin phép Chính phủ xây dựng cảng Chân Mây để vừa phục vụ kinh tế, vừa phục vụ quốc phòng. Trong những năm 2004 - 2007, đồng chí đã nhiều lần cùng với các bộ, ban, ngành Trung ương về làm việc với lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế và đặc biệt quan tâm đề xuất để tỉnh triển khai thực hiện các đề án lớn như: Đề án công trình thủy lợi hồ Tả Trạch; Đề án nâng cấp thành phố Huế từ đô thị loại 2 lên đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh; Đề án nâng cấp sân bay Phú Bài.
Là một người con sâu nặng nghĩa tình với quê hương, đồng chí vui mừng và phấn khởi trước những khởi sắc của Thừa Thiên Huế, đồng chí luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải không ngừng chăm lo cho đời sống, học tập và lao động sản xuất của nhân dân, của đồng bào, chiến sĩ, luôn đoàn kết, đồng lòng tích cực xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, giàu mạnh. Trong ký ức của mỗi người dân Thừa Thiên Huế, đồng chí Lê Đức Anh là một vị Chủ tịch nước, vị Đại tướng gần gũi, giản dị và thân thương, một nhân cách đức độ với tài - đức vẹn toàn. Đồng chí Lê Đức Anh là một tấm gương sáng để Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế tri ân, học tập và noi theo.
Với niềm tự hào và kính trọng đối với Chủ tịch nước, Đại tướng, trong những năm qua, Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế vẫn luôn khắc ghi sâu sắc những lời căn dặn, dạy bảo của đồng chí, luôn nêu cao ý chí, lòng kiên trung cách mạng, đoàn kết, đồng lòng vượt qua những khó khăn, thử thách, quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và đã đạt được những kết quả quan trọng và toàn diện. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn bởi thiên tai, dịch bệnh, Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế đã nỗ lực phấn đấu, vững bước đi lên và đạt những thành quả quan trọng trên các lĩnh vực. Tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức khá, cao hơn bình quân chung của cả nước và một số tỉnh trong khu vực miền Trung. Thu ngân sách nhà nước tăng bình quân gần 8%/năm. Thu nhập bình quân đầu người đứng thứ 3 Vùng duyên hải miền Trung. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt trên 100.000 tỷ đồng. Kết cấu hạ tầng, bộ mặt đô thị, nông thôn ngày càng khang trang, hiện đại. Nhiều công trình, dự án quan trọng được hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đề án di dời dân cư, giải phóng mặt bằng khu vực I di tích Kinh thành Huế được triển khai quyết liệt, có ý nghĩa lớn về mặt xã hội và kinh tế. Vị trí đô thị “di sản, văn hóa, sinh thái, cảnh quan, thân thiện môi trường và thông minh” của tỉnh được xác lập và khẳng định. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Quan hệ đối ngoại tiếp tục được mở rộng. Khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày càng đi vào chiều sâu. Bộ máy hành chính từng bước được đổi mới theo hướng tinh gọn, hiện đại, hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả.
Những thành tựu mà Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế đã đạt được trong thời gian qua thể hiện tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trong tỉnh, là kết quả của quá trình phấn đấu đầy năng động và sáng tạo; là dấu ấn của sự đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện của các cấp ủy Đảng và chính quyền; sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương nhưng cao hơn hết, đây là sản phẩm của sức mạnh tinh thần to lớn được xây dựng và vun đắp của đồng bào, chiến sĩ, những người con ưu tú của quê hương đã không quản ngại khó khăn, gian khổ hy sinh trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những kết quả đạt được là hết sức quan trọng và toàn diện, song phía trước còn rất nhiều khó khăn, thách thức. Với tinh thần kế thừa, phát huy những kết quả đã đạt được và quyết tâm khắc phục những khó khăn, hạn chế, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ XVI đã xác định phương châm: “Đoàn kết - Dân chủ - Sáng tạo - Phát triển” với 15 chỉ tiêu kinh tế - xã hội đặt ra trong nhiệm kỳ mới (2020 - 2025) và 6 chương trình trọng điểm tập trung thực hiện. Đại hội cũng đã xác định tập trung triển khai 4 nhóm giải pháp đột phá chiến lược, gồm có: cơ chế, chính sách đặc thù để xây dựng đô thị di sản và phát triển kinh tế; phát triển nguồn nhân lực; đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng, phát triển và chuyển giao khoa học - công nghệ, tạo động lực mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; bồi đắp, phát huy giá trị văn hóa và con người Huế.
Tiếp tục phát huy ý chí, nghị lực của một vùng đất giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, là cái nôi đã sản sinh và nuôi dưỡng biết bao thế hệ lãnh đạo tài năng, tinh hoa của dân tộc, Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế khẳng định quyết tâm tiếp tục nỗ lực, đoàn kết, sáng tạo, biến chủ nghĩa anh hùng thành sức mạnh tinh thần và hành động; đem tất cả tâm huyết, tài năng và trí tuệ, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa Thừa Thiên Huế ngày càng đổi mới, hội nhập và phát triển, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 54-NQ/TW, ngày 10/12/2019 của Bộ Chính trị về xây dựng phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; góp phần đáp ứng nguyện vọng và lòng mong mỏi của Đảng, Bác Hồ vĩ đại, của các thế hệ tiền bối, của Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh - người con ưu tú của quê hương và dân tộc.
LÊ TRƯỜNG LƯU
Thừa Thiên Huế - Kinh đô của Việt Nam thời nhà Nguyễn - là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, có bề dày về lịch sử và văn hóa, được hình thành, phát triển cùng với tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Trong thời đại Hồ Chí Minh, người dân Thừa Thiên Huế luôn một lòng đi theo Đảng, bất khuất, kiên cường chống giặc ngoại xâm, hăng say trong lao động, sản xuất. Nhiều người con ưu tú của quê hương đã trở thành những chiến sĩ cộng sản trung kiên, cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, trong đó có Đại tướng Lê Đức Anh - nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế mãi mãi tự hào về nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, của nhân dân, vị tướng tài ba, có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước và thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả.
1. Quê hương Thừa Thiên Huế và gia tộc họ Lê làng Bàn Môn tự hào là nơi sinh ra, nuôi dưỡng và hình thành nhân cách đồng chí Lê Đức Anh
Đại tướng Lê Đức Anh (bí danh Nguyễn Phú Hòa, còn gọi là Chín Hòa, Sáu Nam), sinh ngày 01/12/1920 tại làng Trường Hà, huyện Phú Vang, quê quán ở làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc nằm giữa vùng đầm phá và đồi núi, trên con đường thiên lý xưa (là quốc lộ 1 hiện nay) nên thuận lợi về giao thông, giao thương. Đây là một trong 10 làng của xã Lộc An, huyện Phú Lộc và cũng là làng lớn nhất của xã, có lịch sử hình thành từ khá sớm. Với điều kiện kinh tế khá giả, trong làng có nhiều dòng họ giàu có, nên con cháu có điều kiện để ăn học và làm quan dưới các triều đại phong kiến nhà Nguyễn, đóng góp cho đất nước. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Bàn Môn là nơi diễn ra nhiều phong trào yêu nước và đấu tranh cách mạng có sức ảnh hưởng trong tỉnh và lan tỏa trong cả nước.
Đại tướng Lê Đức Anh sinh ra trong gia tộc họ Lê - một gia tộc giàu truyền thống hiếu học, yêu nước và đấu tranh cách mạng trên quê hương Thừa Thiên Huế. Trong gia tộc có nhiều tấm gương sáng về tinh thần hiếu học, cần mẫn, chịu khó nhưng cũng rất khí khái, hiên ngang, như: ngài Lê Văn Hoằng, đời thứ hai, làm quan đến chức Tri phủ từ đời Lê cho đến đời Nguyễn; ngài Lê Văn Thành, đời thứ bảy, làm tri huyện Minh Linh tỉnh Quảng Trị, vào khoảng niên hiệu Gia Long (1802 - 1819), vua nghe tiếng ông giỏi về nghề thuốc liền triệu về kinh, phong chức Y chính ở Thái Y viện… Ông cố của đồng chí Lê Đức Anh là cụ Lê Văn Trinh (1835 - 1915), cũng là một danh y tài giỏi, có tấm lòng nhân ái, hay cứu giúp người, được người dân địa phương làm vè ca ngợi. Ông Lê Quang Túy (1885 - 1969), thân phụ của đồng chí Lê Đức Anh là con trai trưởng, cũng là một thầy thuốc. Ông từng là đội trưởng phụ trách đội thuyền chở vua về trú tại làng Hà Trung trong cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang Phục hội ở miền Trung do Thái Phiên, Trần Cao Vân cầm đầu với sự tham gia của vua Duy Tân. Thân mẫu của đồng chí Lê Đức Anh là bà Lê Thị Thoa (1886 - 1967), người làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc, là một người phụ nữ cần cù và chịu thương, chịu khó. Ngày nay, tiếp nối truyền thống tốt đẹp của các thế hệ cha ông, con cháu dòng họ Lê không ngừng nỗ lực phấn đấu trong công cuộc xây dựng và phát triển quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, giàu đẹp, xứng đáng với sự hy sinh và lòng mong mỏi của các bậc sinh thành và tiền nhân.
Được sinh ra trong một gia tộc có truyền thống hiếu học và trên quê hương có truyền thống đấu tranh cách mạng, lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân lầm than, cơ cực, đồng chí Lê Đức Anh và các anh, chị, em của ông sớm được thừa hưởng truyền thống tốt đẹp của gia đình và quê hương. Chính tính nhẫn nhịn, chịu thương, chịu khó của phụ mẫu và người dân quê hương đã ảnh hưởng nhiều đến tính cách và chí hướng của đồng chí Lê Đức Anh và các anh, chị, em trong gia đình về sau này.
2. Thừa Thiên Huế tự hào là nơi hun đúc ý chí cách mạng và là nơi Đại tướng luôn đau đáu nhớ về
Mặc dù cuộc sống khó khăn nhưng đồng chí Lê Đức Anh đã sớm được gia đình chăm lo và cho đi học. Lên 5 tuổi, đồng chí được học chữ Nho tại nhà. Từ 6 tuổi đến 10 tuổi, đồng chí được học chữ Quốc ngữ ở làng Dưỡng Mong và Trường An Lương Đông của huyện Phú Lộc. Năm lên 11 tuổi, nạn đói kém, thất học hoành hành các làng quê Việt Nam, để không gián đoạn việc học, đồng chí được bố mẹ gửi ra Nghệ An sống với gia đình người chị ruột, học hết bậc tiểu học; sau đó quay trở lại quê nhà ở Trường Hà, Vinh Phú.
Khi đồng chí Lê Đức Anh đến tuổi trưởng thành, bố mẹ nuôi của thân, phụ mẫu cũng lần lượt qua đời. Gia đình đồng chí chuyển về sống tại quê gốc ở làng Bàn Môn. Cũng chính nơi đây, đồng chí Lê Đức Anh đã được nghe những cuộc chuyện trò của các bậc cha chú, những người luôn đau đáu với thời cuộc và bắt đầu hun đúc tinh thần cách mạng. Một trong những người đã định hướng và góp phần vun đắp, bồi dưỡng tinh thần yêu quê hương, đất nước và từng bước hướng đồng chí Lê Đức Anh đến với chủ nghĩa cộng sản là đồng chí Lê Bá Dị (cậu họ của đồng chí Lê Đức Anh), Bí thư Chi bộ ghép Phú Vang - Phú Lộc, một trong những chi bộ cộng sản đầu tiên ở Huế. Đồng chí Lê Đức Anh đã được đọc các loại sách, báo về tình hình trong và ngoài nước do đồng chí Lê Bá Dị sưu tầm, được đồng chí Lê Bá Dị sớm khơi gợi tinh thần yêu nước, đấu tranh cách mạng. Cũng nhờ vị tiền bối này, đồng chí Lê Đức Anh đã sớm được tiếp xúc với những người yêu nước và cách mạng, tìm hiểu về chủ nghĩa cộng sản, về đồng chí Nguyễn Ái Quốc... Năm 1938, chính đồng chí Lê Bá Dị đã kết nạp đồng chí Lê Đức Anh vào Đảng Cộng sản Đông Dương, khi tròn 18 tuổi. Từ đây, đồng chí Lê Đức Anh bắt đầu cuộc đời của người cộng sản. Hoạt động cách mạng của đồng chí bắt đầu từ những việc nhỏ như rải truyền đơn, treo cờ đỏ đến việc tuyên truyền, vận động trong dân chúng. Đồng chí tham gia hoạt động cách mạng trong Mặt trận Dân chủ huyện Phú Vang và Phú Lộc tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 1937.
Thoát ly hoạt động cách mạng từ rất sớm, nhưng đồng chí Lê Đức Anh luôn nhớ về quê hương với một tình cảm rất sâu đậm. Một lần về thăm quê hương, đồng chí Lê Đức Anh đã gợi ý cho lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế xin phép Chính phủ làm cảng Chân Mây, vừa phục vụ kinh tế vừa phục vụ quốc phòng. Từ gợi ý đó, lãnh đạo tỉnh đã cho tiến hành khảo sát và đề xuất lên Chính phủ. Ngày 24/3/1996, Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt cùng với các bộ, ngành liên quan về Chân Mây kiểm tra thực địa và sau đó giao các bộ, ngành liên quan cùng tỉnh Thừa Thiên Huế xây dựng quy hoạch khu vực Chân Mây. Những năm 2004 - 2007, trong những lần cùng với các bộ, ban, ngành Trung ương về làm việc với lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế, đồng chí Lê Đức Anh đặc biệt quan tâm tới ba đề án lớn chưa triển khai thực hiện được: Đề án công trình thủy lợi hồ Tả Trạch; Đề án xin nâng cấp thành phố Huế từ đô thị loại 2 lên đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh; Đề án nâng cấp sân bay Phú Bài. Công trình thủy lợi hồ Tả Trạch được đầu tư nhằm chống lũ tiểu mãn, lũ sớm, giảm lũ chính vụ cho hệ thống sông Hương; tạo nguồn nước tưới ổn định cho đất canh tác, bổ sung nguồn nước ngọt cho hạ lưu sông Hương để đẩy mặn, cải thiện môi trường đầm phá Tam Giang - Cầu Hai; phục vụ nuôi trồng thủy sản, cấp nước sinh hoạt và công nghiệp, phát điện khi cần thiết. Đề án quy hoạch thành phố Huế từ đô thị loại 2 lên đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh cũng đóng vai trò hết sức quan trọng cho sự phát triển của tỉnh. Đây là vấn đề mới, đầu tiên của cả nước mà từ trước đến nay chưa địa phương nào thực hiện. Đề án nâng cấp sân bay Phú Bài để phát triển kinh tế, nhất là du lịch. Với trách nhiệm, tấm lòng hướng về quê hương, đồng chí Lê Đức Anh đã trực tiếp viết thư gửi Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải để đề xuất nguyện vọng của tỉnh. Sau khi nhận được ý kiến của Đại tướng, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã cùng với các bộ, ngành Trung ương xem xét và ra quyết định phê chuẩn để thực hiện. Đến nay, các công trình mang tính bước ngoặt lớn của tỉnh có công lớn của đồng chí Lê Đức Anh đã và đang phát huy hiệu quả.
Theo lời kể của người dân xã Lộc An, khi còn khỏe, đồng chí rất nhiều lần về thăm quê. Mỗi lần về quê, đồng chí thường đi thăm bà con quanh xóm, ân cần hỏi thăm tình hình cuộc sống, lao động sản xuất của bà con. Nhìn thấy con đường xuống bến sông Truồi bị xuống cấp, đồng chí đã đầu tư kinh phí để bê tông hóa, giúp bà con đi lại được thuận tiện hơn. Năm 2014, trong chuyến về thăm quê, đồng chí Lê Đức Anh ghé vào Ủy ban nhân dân xã Lộc An để thăm các cán bộ đang làm việc; đồng thời nhắn nhủ: “Quê hương Lộc An còn nghèo, nhân dân còn khó khăn. Cán bộ chính quyền phải quan tâm đến đời sống của nhân dân, biết yêu thương dân, phải biết gần dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của dân; biết khơi dậy sức mạnh của sự đoàn kết để chung tay, góp sức thay đổi bộ mặt quê nhà, nâng cao đời sống nhân dân”.
3. Thừa Thiên Huế tự hào về đồng chí Lê Đức Anh - người cộng sản kiên cường, người chỉ huy quân sự tài ba, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, dạn dày kinh nghiệm trận mạc, có nhiều đóng góp trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và làm nhiệm vụ quốc tế cao cả; suốt đời cống hiến, hy sinh vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, phải chứng kiến cảnh người dân nô lệ mất nước sống cơ cực dưới chế độ thực dân, phong kiến, đã hun đúc trong đồng chí Lê Đức Anh lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh cách mạng. Từ khi còn nhỏ, bệnh đậu mùa đã làm một bên mắt bị mờ và một bên chân bị yếu cho đến tận sau này, nhưng ý chí và nghị lực mạnh mẽ đã thôi thúc đồng chí hăng hái tham gia hoạt động cách mạng và đi suốt các cuộc chiến tranh của dân tộc. Những năm đầu hoạt động cách mạng sôi nổi với bao khó khăn, thử thách đã tôi rèn đồng chí Lê Đức Anh trở thành người chiến sĩ cộng sản kiên cường, để suốt đời chiến đấu hy sinh vì lý tưởng cách mạng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Lê Đức Anh thật phong phú và oanh liệt. 99 năm tuổi đời, hơn 80 năm tuổi Đảng, hoạt động ở nhiều vùng, nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực, trải rộng trên cả ba miền đất nước và được Đảng tin cậy giao phó nhiều trọng trách, dù ở đâu, làm công việc gì, ở cương vị nào, đồng chí Lê Đức Anh cũng luôn hết lòng vì Đảng, vì dân, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách, kiên định mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ và đã có những đóng góp to lớn cho Đảng, cho cách mạng. Trên bất kỳ cương vị công tác nào, đồng chí cũng luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, giữ vững khí tiết, phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản, bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”; không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện. Trong công tác, đồng chí luôn đổi mới, quyết đoán, nhanh nhạy, bám sát thực tiễn, gần dân, chăm lo cho dân, dám chịu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và cũng rất giản dị, sâu sắc, nhân văn trong cuộc sống, được đồng chí, đồng đội và nhân dân yêu mến, bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Đồng chí đã được Đảng và Nhà nước tín nhiệm, giao giữ nhiều trọng trách quan trọng:
Đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng khóa VII; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa V, VI, VII, VIII; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ tháng 12/1997 đến tháng 4/2001; Đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII và IX.
Đồng chí đã được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân chương, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.
4. Thừa Thiên Huế tự hào về đồng chí Lê Đức Anh - nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân, với nhiều dấu ấn nổi bật trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, với cương vị Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Lê Đức Anh đã có những đề xuất xác đáng với Bộ Chính trị về giải quyết vấn đề biên giới, và từ vấn đề biên giới để định ra chiến lược và sách lược của công tác đối ngoại.
Với thành công của chuyến thăm Trung Quốc vào cuối tháng 7/1991, mở đầu cho chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt dẫn đầu, theo lời mời của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân và Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Bằng, đồng chí Lê Đức Anh đã có công trong việc xúc tiến bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Đồng chí đã đề xuất với Đảng, Nhà nước và trực tiếp chỉ đạo giải quyết nhiều vấn đề lớn, quan trọng về quân sự, quốc phòng, như: Thực hiện giảm quân số, giảm ngân sách quốc phòng trong tình hình nền kinh tế bị khủng hoảng; tiến hành các chính sách cụ thể để cải thiện đời sống bộ đội, giải quyết việc làm cho quân nhân xuất ngũ, thực hiện chính sách hậu phương quân đội; chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân trong tình hình mới... Đồng chí đặc biệt quan tâm và có tầm nhìn chiến lược về phòng thủ, bảo vệ chủ quyền biển, đảo; đưa lực lượng ra đóng giữ các đảo Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ để khai thác và sẵn sàng bảo vệ quần đảo Trường Sa; đóng giữ, bảo vệ khu vực biển thềm lục địa, các bãi đá ngầm (khu DK1) của Việt Nam.
Trên cương vị Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều công lao, cống hiến to lớn với nhiều dấu ấn nổi bật cả về đối nội và đối ngoại. Về đối nội, đồng chí đã cùng các đồng chí trong Bộ Chính trị dồn hết tâm lực cho công việc với quyết tâm và cố gắng cao nhất, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy mọi động lực mới, khai thác mọi tiềm năng để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân. Đồng chí thường tận dụng quỹ thời gian của mình đến các địa phương để nắm bắt tình hình thực tế ở cơ sở, nhìn rõ những thuận lợi cần khai thác, những khó khăn cần tháo gỡ; trên cơ sở đó, đã hoàn thành tốt các công việc về công tác xây dựng pháp luật, công tác cán bộ, công tác tiếp dân, công tác thi đua - khen thưởng...
Về đối ngoại, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc xúc tiến bình thường hóa quan hệ với Mỹ và thúc đẩy Việt Nam gia nhập ASEAN; cùng Bộ Chính trị chỉ đạo sát sao các bộ, ngành để mở rộng quan hệ với các nước. Đồng chí đã đi dự một số hội nghị quốc tế quan trọng; thăm chính thức và làm việc với 13 nước trên thế giới; đón tiếp 26 nguyên thủ quốc gia thăm hữu nghị chính thức và nhiều đoàn khách quốc tế tới thăm Việt Nam; tiếp nhận 90 đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài tại Việt Nam và cử 57 đại sứ của nước ta tại các nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam; ký quyết định phê chuẩn 1 Hiến chương, 26 công ước, 5 hiệp ước, 35 hiệp định, 3 nghị định thư giữa Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế; trình Quốc hội phê chuẩn 1 Công ước theo quy định của Hiến pháp (Công ước quốc tế về Luật Biển); ủy quyền đàm phán và ký kết một số điều ước quốc tế khác.
5. Thừa Thiên Huế mãi tự hào về đồng chí Lê Đức Anh - một nhân cách đức độ, giản dị, gần gũi, thẳng thắn, chân thành, giàu tình yêu thương con người
Hơn 80 năm hoạt động cách mạng, là cán bộ lão thành cách mạng, được tôi luyện, vào sinh ra tử, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí Lê Đức Anh luôn giữ vững ý chí, phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; không ngừng rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, nâng cao tri thức, sáng tạo, sắc sảo, quyết đoán và hành động quyết liệt trong mọi công việc. Đồng chí không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn thể hiện rõ phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc và nhân dân lên trên hết. Khi ốm nặng và trong quá trình điều trị, mỗi lần đồng chí, đồng đội, đồng bào đến thăm, đồng chí Lê Đức Anh đều quan tâm hỏi về tình hình đất nước, về cuộc sống của người dân với tình cảm ân cần, cảm động.
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều cống hiến cho Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân, đồng chí sống giản dị và vô cùng thanh bạch, là tấm gương sáng để đồng bào, đồng chí, cán bộ, chiến sĩ cả nước yêu quý, kính trọng, học tập và noi theo. Đối với đồng chí, đồng đội, không phân biệt cấp bậc, chức vụ, sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi, luôn quan tâm, chăm lo cho cán bộ, chiến sĩ và thực hiện chế độ, chính sách hậu phương quân đội. Mặc dù là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy ở tầm chiến lược, nhưng đồng chí Lê Đức Anh luôn xông xáo, không ngại hiểm nguy, luôn có mặt ở những nơi khó khăn để chỉ đạo cách giải quyết. Trong chiến đấu và trong công việc, đồng chí rất quyết đoán, thẳng thắn và nghiêm khắc, nhưng trong sinh hoạt đời thường, đồng chí lại thương yêu, quan tâm, chăm lo và sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi với cán bộ, chiến sĩ. Dù là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nhưng khi đến thăm đơn vị quân đội, đồng chí nói chuyện rất thân mật, gần gũi với các chiến sĩ trẻ. Để nắm bắt tình hình thực tế, nhìn rõ những thuận lợi, khó khăn, đồng chí luôn lắng nghe để nắm bắt tâm tư, tình cảm của nhân dân, bởi thế khi làm việc với lãnh đạo các địa phương, đơn vị, những ý kiến chỉ đạo của đồng chí rất sát đáng và phù hợp với thực tiễn. Đồng chí thường xuyên nhắc nhở lãnh đạo địa phương: “Chúng ta làm cách mạng để giành chính quyền cho nhân dân, chính quyền của dân, do dân, vì dân”. Đồng chí luôn động viên, giúp đỡ các cựu chiến binh khắc phục khó khăn; luôn quan tâm chỉ đạo giải quyết tốt các chế độ chính sách và đặc biệt đối với các Bà mẹ Việt Nam anh hùng đã sinh ra rất nhiều thế hệ anh hùng Việt Nam. Đồng chí đã ký công bố Pháp lệnh quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người tham gia hoạt động kháng chiến, người có công với cách mạng. Cũng kể từ đó, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, xây dựng nhà tình nghĩa và nhận phụng dưỡng suốt đời các Bà mẹ Việt Nam anh hùng và xây dựng “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”, toàn dân chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng được hưởng ứng sôi nổi, rộng khắp trong cả nước, thể hiện sâu sắc đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.
Trên cương vị Chủ tịch nước, là nguyên thủ quốc gia, đồng chí Lê Đức Anh nhiều lần dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao của nước ta đến thăm các nước, các tổ chức quốc tế và ký kết nhiều hiệp định, điều ước quốc tế. Đồng chí đã để lại những dấu ấn quan trọng và tình cảm tốt đẹp với các quốc gia, cộng đồng quốc tế.
Đồng chí luôn gần gũi, chân tình, sâu sắc và nặng tình nghĩa với quê hương. Mỗi lần về quê, đồng chí thường đi thăm bà con lối xóm, ân cần thăm hỏi cuộc sống, tình hình lao động sản xuất; động viên bà con, họ hàng, con cháu quê nhà chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy tinh thần thi đua yêu nước, tích cực lao động sản xuất để phát triển quê hương ngày càng giàu đẹp.
Noi gương đồng chí Lê Đức Anh và các thế hệ lãnh đạo tiền bối của Đảng, trong những năm qua, dù đứng trước muôn vàn khó khăn, phức tạp, Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế đã đoàn kết, chủ động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu đạt những thành quả quan trọng trên các lĩnh vực, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng. Kinh tế duy trì ổn định và có sự tăng trưởng khá, bình quân ước đạt 6,5%/năm, cao hơn bình quân chung cả nước và một số tỉnh trong khu vực miền Trung; so với năm 2015, quy mô nền kinh tế tăng gấp 1,6 lần; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2020 đạt 2.169 USD, đứng thứ 3 của vùng duyên hải miền Trung. Phát huy vị thế 4 trung tâm văn hóa, du lịch đặc sắc của cả nước, y tế chuyên sâu, khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao và nâng cao công tác an sinh xã hội, giảm nghèo, giải quyết việc làm gắn với bảo vệ môi trường. Thực hiện có hiệu quả đường lối và chính sách đối ngoại; góp phần nâng cao hình ảnh, vị thế của Thừa Thiên Huế trong thời kỳ hội nhập. Quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác xây dựng Đảng được chú trọng, Đảng bộ tỉnh trong sạch, ngày càng vững mạnh và đoàn kết; quan tâm chăm lo, xây dựng đào tạo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Kiên quyết ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên; các biểu hiện suy thoái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân huyện Phú Lộc nói chung và xã Lộc An nói riêng, đã xác định nhiệm vụ cốt lõi là phải xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tăng cường sự lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng, trách nhiệm và đạo đức của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức vì nhân dân phục vụ; không ngừng nỗ lực thi đua lao động sản xuất, phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương để phát triển kinh tế, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị luôn được quan tâm và triển khai thực hiện tốt, nhiều năm liền Đảng bộ đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh.
Kỷ niệm 100 Ngày sinh của đồng chí Lê Đức Anh (01/12/1920 - 01/12/2020) cũng là thời điểm Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và lực lượng vũ trang trong tỉnh đang ra sức thi đua chào mừng thành công của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Càng vinh dự và tự hào với những truyền thống tốt đẹp của quê hương, của các thế hệ lãnh đạo tiền bối, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế càng nhận thức rõ trọng trách của mình trong công cuộc xây dựng và phát triển quê hương, đất nước. Noi gương đồng chí Lê Đức Anh, Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế nguyện nỗ lực phấn đấu, ra sức hành động, thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, tạo môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển, xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
PHAN NGỌC THỌ
Đồng chí Lê Đức Anh (1920 - 2019) là một chiến sĩ cộng sản kiên cường, một vị tướng tài ba, một nhà chính trị tầm cỡ, người đã có nhiều cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng. Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí Lê Đức Anh gắn liền với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng, của dân tộc, của Quân đội nhân dân Việt Nam, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Là một người con ưu tú của quê hương Thừa Thiên Huế, đồng chí Lê Đức Anh được sinh ra và lớn lên trong một gia tộc giàu truyền thống hiếu học, yêu nước và đấu tranh cách mạng - gia tộc họ Lê ở làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chính truyền thống yêu nước, đấu tranh cách mạng và tinh thần nhân văn được lưu truyền trong gia đình, dòng tộc đã chắp cánh cho những quyết tâm, hoài bão và con đường cách mạng của đồng chí Lê Đức Anh.
1. Vài nét về làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc
Làng Bàn Môn là một trong 10 làng của xã Lộc An, huyện Phú Lộc và cũng là làng lớn nhất của xã. Làng có lịch sử hình thành từ khá sớm, trong thư tịch cổ, tên này chưa xuất hiện trong Ô châu cận lục (viết năm 1555), nhưng đã xuất hiện trong Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Ðôn (viết khoảng sau năm 1774). Vào đầu thế kỷ XIX, theo ghi chép của địa bạ lập dưới thời vua Gia Long (1810 - 1818), Bàn Môn là 1 trong 23 làng của tổng Dương Nổ, huyện Phú Vang.
Làng Bàn Môn nằm giữa vùng đầm phá và đồi núi, trên con đường thiên lý xưa, là quốc lộ 1 hiện nay nên thuận lợi về giao thông, giao thương của cửa ngõ kinh đô Huế với xứ Quảng trước đây. Hiện nay, số dòng họ sinh sống ở làng thống kê được đến 43 dòng họ, gồm có: Trần Hữu, Hoàng, Cao, Trương, Lê Đăng, Lê Bá, Lê Ðức...
Mặc dù, ở gần đầm Cầu Hai và vùng đồi núi ven ngọn núi Truồi thơ mộng, nhưng Bàn Môn xưa nay vẫn là một làng thuần nông, có truyền thống lâu đời về hoạt động nông nghiệp, đặc biệt là truyền thống khai hoang, làm thủy lợi để bảo đảm cuộc sống sinh tồn của mình. Do địa thế của làng ở vị trí nơi cuối cùng của con sông Truồi nổi tiếng giáp với vùng đầm phá nên lượng phù sa được bồi đắp hằng năm khá lớn, cộng với sự cần cù thông minh của bao thế hệ nông dân tụ cư về đây, khai phá nên công cuộc khai hoang mở rộng diện tích canh tác, mở rộng làng xã có nhiều thành tựu và Bàn Môn nhanh chóng phát triển thành một làng lớn.
Với điều kiện kinh tế khá giả, trong làng có nhiều dòng họ giàu có nên con cháu có điều kiện để ăn học và làm quan dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn, đóng góp cho đất nước, tiêu biểu như: họ Hoàng có ông Hoàng Văn Diễn (1767 - 1854) làm đến chức Thượng thư Bộ Lại; họ Trần có ông Trần Ðình Túc (1807 - 1892) làm quan đến chức Thượng Thư dưới triều Nguyễn... Các ông đều nổi tiếng là các vị quan thanh liêm, cần mẫn, thương dân, được nhân dân nhiều đời truyền tụng.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Bàn Môn là nơi diễn ra nhiều phong trào yêu nước và đấu tranh cách mạng. Đầu thế kỷ XX, Bàn Môn là địa bàn tập hợp quần chúng nổi lên hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang Phục hội ở miền Trung do Thái Phiên, Trần Cao Vân lãnh đạo với sự tham gia của vua Duy Tân. Cụ Lê Túy - thân phụ đồng chí Lê Ðức Anh, làm Đội trưởng phụ trách Đội thuyền chở vua về trú tại làng Hà Trung. Hoạt động của ông Hoàng Ðức Trạch ở Viện dân biểu Trung Kỳ tiêu biểu cho một thời kỳ đấu tranh công khai hợp pháp với thực dân Pháp. Trong quá trình vận động chuẩn bị thành lập Ðảng Cộng sản Việt Nam ở Huế, Truồi đã trở thành một trung tâm và với sự vận động của Nguyễn Khoa Văn, Trần Hữu Duẫn, Trần Phạm Phương, ông Lê Bá Dị quê ở Bàn Môn đã được kết nạp vào Ðảng Tân Việt năm 1929 và năm 1930, trở thành Bí thư Chi bộ ghép hai huyện Phú Vang - Phú Lộc của Đảng Cộng sản Đông Dương. Bàn Môn cũng là nơi đã sản sinh ra những người con ưu tú, những thế hệ đảng viên đầu tiên đông đảo nhất trong tỉnh gồm các đồng chí: Lê Trọng Uẩn, Lê Trọng Ngạc, Lê Thúc Khánh, Lê Nhã, Nguyễn Sơn...
Trải qua 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, dù trong vòng tạm chiếm, nhân dân Bàn Môn vẫn một lòng một dạ theo Ðảng và đã đóng góp nhiều cho sự nghiệp cách mạng đến ngày thắng lợi. Ghi nhận những đóng góp to lớn của nhân dân Bàn Môn cho sự nghiệp cách mạng, năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng đã tặng Bảng vàng “Có công với nước” cho làng, phong tặng 7 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, hàng trăm liệt sĩ và gia đình có công với cách mạng.
Làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc chính là vùng đất tiêu biểu có truyền thống văn hóa lịch sử và truyền thống cách mạng kiên cường trên quê hương Thừa Thiên Huế, nơi đã sản sinh ra nhiều gia đình, dòng tộc, người con có truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng trong lịch sử của Đảng và lịch sử dân tộc.
2. Gia tộc họ Lê - một gia tộc giàu truyền thống hiếu học, yêu nước và đấu tranh cách mạng trên quê hương Phú Lộc
Là một trong những dòng họ lớn của làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc, họ Lê có nguồn gốc từ xã La Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội, xứ Bắc Kỳ (nay là Thủ đô Hà Nội). Ngài sơ tổ của họ là Từ Gia Diệu Tướng Lê Quý Công, húy là Bôi (Lê Ngọc Bôi). Ông chính là người đầu tiên vào lập nghiệp tại làng La Khê (Bao Vinh), huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế (nay là làng La Khê, xã Hương Vinh, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế).
Theo gia phả họ Lê thì đến thời điểm năm 1994, dòng họ này đã truyền đến 15 đời, đến nay khoảng 18, 19 đời và có 5 phái. Đồng chí Lê Đức Anh thuộc phái thứ 4, đời thứ 12.
Đây là một trong những gia tộc có nhiều tấm gương sáng về tinh thần hiếu học, cần mẫn, chịu khó nhưng cũng rất khí khái, hiên ngang, tiêu biểu như: ngài Lê Văn Hoằng, đời thứ hai, làm quan đến chức Tri phủ từ đời Lê cho đến đời Nguyễn; ngài Lê Văn Thành, đời thứ bảy, làm Tri huyện huyện Minh Linh tỉnh Quảng Trị, vào khoảng niên hiệu Gia Long (1802 - 1819), vua nghe tiếng ông giỏi về nghề thuốc liền triệu về kinh, phong chức Y chính ở Thái Y viện; ông Lê Văn Mậu, đời thứ 9, dưới triều vua Tự Đức ông thi đỗ khoa Võ nghệ, được cử huấn luyện hương binh; ông Lê Đình Trân, đời thứ 11 đỗ tú tài Hán học khoa thi Hương Mậu Ngọ (1918)... Đặc biệt, ông Lê Văn Hộ, thuộc đời thứ 8, dưới thời vua Minh Mạng, ông làm quan cửu phẩm tại viện Thái Y, được cử giữ chức Chánh ngự y, ông đã từ chối không nhận, xin về quê dưỡng hưu và làm thuốc. Vua ân phong tước Hộ Đức Nam. Năm Tân Sửu đầu đời Thiệu Trị (1841), vì cớ tuổi già mà con cái nhỏ dại, ở chốn phồn hoa e dễ tập quen thói xa xỉ, ông bèn về Hà Trung, Phú Lộc, sớm cày ruộng, chiều dạy học. Lúc đầu chỉ dựng nhà cửa, cuối cùng lập thành thôn ấp. Đến đời Đồng Khánh, dân trong ấp thờ làm tiền Khai Canh và xin sắc phong thần. Đến năm Duy Tân thứ tám, ông được sắc phong Dực bảo.
Không chỉ là các bậc tiền nhân tiên tổ, các đấng sinh thành, anh em gia đình của đồng chí Lê Đức Anh cũng là những con người học cao, hiểu rộng, có cốt cách nhân hậu, sống chan hòa, nhân văn nhưng cũng rất kiên trung, bản lĩnh trong đấu tranh cách mạng để bảo vệ quê hương, đất nước.
Ông cố của đồng chí Lê Đức Anh là cụ Lê Văn Trinh (1835 - 1915). Ông là một danh y tài giỏi, có tấm lòng nhân ái, hay cứu giúp người. Không chỉ người dân trong làng, ông còn được người dân quanh vùng tìm đến và được ông tận tình cứu giúp. Người dân địa phương vẫn truyền tụng những bài vè ca ngợi tài năng của ông:
“Thương hàn thầy Giáo, thầy Lan
Châm chích Lưu, Thống, đậu Sang, Vinh, Huỳnh”.
Khi ông mất, nhân dân địa phương vô cùng thương xót, tình cảm ấy được bày tỏ qua bài hò:
“Xưa nay ai được như thầy.
Công ơn nghĩa nặng đong đầy vẻ vang.
Làm người trung hiếu lưỡng toàn.
Đáng trang trung dũng khí thiên lương (như) cao hề”.
Bà cố của đồng chí Lê Đức Anh là cụ Võ Thị Mân (1835 - 1885), người xã Bàn Môn, tổng An Nông, huyện Phú Lộc; vốn là con gái thứ hai của ông Võ Quý, là Án sát tỉnh Vĩnh Long (Nam Kỳ)2. Hai ông bà sinh hạ được 8 người con (7 con trai và 1 con gái).
Người con trai thứ ba của ông Lê Văn Trinh - ông Lê Văn Chuân (1860 - 1922), là người từng làm việc nhiều năm dưới các triều đại nhà Nguyễn. Năm Đồng Khánh nguyên niên (1886), ông được bổ nhiệm chức đằng lục ở Quốc Sử quán, sung bút thiếp (như thư ký), biên chép bộ Thực lục. Năm Duy Tân thứ 7 (1913), ông được thăng hàm chánh thất phẩm. Vợ của ông là bà Hoàng Thị Chanh (1867 - 1944), người xã Bích Khê, huyện Đăng Xương, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Bà là con gái thứ ba của ông Hoàng Hữu Công, Phó Đô ngự sử viện Đô Sát3.
Các con trai của ông Lê Văn Chuân cũng đều là những người đỗ đạt và làm quan, có nhiều đóng góp công sức dưới các triều đại nhà Nguyễn, như: ông Lê Mộng Hủ (1893 - 1968), là sơ bổ thừa phái, làm việc ở phủ Bình Sơn, tỉnh Quãng Ngãi; ông Lê Đình Trân (1900 - 1971), đỗ tú tài Hán học khoa thi Hương Mậu Ngọ (năm 1918), là sơ bổ thừa phái tỉnh Hà Tĩnh (năm 1931), đến năm 1956 ông nghỉ hưu với ngạch kiểm sự.
Ông nội của đồng chí Lê Đức Anh - cụ Lê Thảng (1861 - 1939) là người con trai thứ tư; làm nghề thuốc nhưng phần lớn là chữa bệnh cứu người. Bà nội của đồng chí Lê Đức Anh là cụ Cung Thị Quyến. Hai cụ sinh được 6 người con. Ông Lê Quang Túy (1885 - 1969), thân phụ của đồng chí Lê Đức Anh là con trai trưởng.
Bà cô của ông Lê Quang Túy là Lê Thị Kiêm lấy chồng ở làng Trường Hà, xã Vinh Phú, huyện Phú Vang. Do gia đình không có con nên ông Túy sang làm con nuôi của ông bà. Ông bà nuôi đã truyền nghề làm thuốc cho ông Túy, cho ông học chữ Nho rồi cưới vợ cho. Cũng chính vì vậy nên dù quê quán ở làng Bàn Môn, xứ Truồi, xã Lộc An, huyện Phú Lộc, nhưng nơi chào đời và lớn lên của anh chị em Đại tướng Lê Đức Anh là ở làng Trường Hà, xã Vinh Phú, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là vùng quê nghèo, đất đai cằn cỗi nằm bên kia phá Tam Giang. Sau này có cây cầu Trường Hà nổi tiếng nối đôi bờ từng một thời cách sông trở đò. Việc học hành của Đại tướng Lê Đức Anh từ thuở nhỏ cũng vì thế mà hết sức gian nan.
Thân mẫu của đồng chí Lê Đức Anh là bà Lê Thị Thoa (1886 - 1967), cũng là người làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc. Bà là một người phụ nữ cần cù và chịu thương, chịu khó. Hai ông bà sinh được 13 người con, 4 người mất lúc nhỏ, còn lại 9 người. Mặc dù, ông Túy có thêm nghề thầy thuốc nhưng chủ yếu vẫn là làm việc thiện cứu người. Gia đình đông con nên ông bà phải tần tảo, bươn chải, vừa làm ruộng, vừa làm thuốc, vừa đi làm thuê kiếm sống. Mặc dù vậy, hai ông bà vẫn chăm lo cho con học hành.
Được sinh ra trong một gia tộc có truyền thống hiếu học và trên quê hương có truyền thống đấu tranh cách mạng, đồng chí Lê Đức Anh và các anh, chị, em của mình sớm được thừa hưởng truyền thống tốt đẹp của gia đình và quê hương. Chính tính nhẫn nhịn, chịu thương, chịu khó của phụ mẫu và người dân quê hương đã ảnh hưởng nhiều đến tính cách và chí hướng của đồng chí Lê Đức Anh và các anh, chị, em trong gia đình về sau này.
Đồng chí Lê Đức Anh sinh ngày 01/12/1920 tại gia đình ông bà nuôi ở làng Trường Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế - một làng quê nghèo bên phá Tam Giang. Ở đây, ruộng canh tác ít, đất cát rất khó để gieo trồng, người dân quanh vùng phải đi làm thuê khắp nơi để kiếm sống. Nạn đói kém, ốm đau, bệnh tật cộng với sự bóc lột hà khắc của chủ nghĩa thực dân, phong kiến nên đời sống nhân dân hết sức khốn cùng. Bản thân đồng chí Lê Đức Anh sau một trận dịch đậu mùa không có điều kiện để chữa trị, đã hỏng một bên mắt trái, đôi chân yếu ớt phải mất một năm mới đi lại được.
Mặc dù, cuộc sống còn nhiều khó khăn, nhưng đồng chí Lê Đức Anh đã sớm được gia đình chăm lo và cho đi học. Lên 5 tuổi, đồng chí được học chữ Nho tại nhà. Từ 6 tuổi đến 10 tuổi, đồng chí được học chữ Quốc ngữ ở làng Dưỡng Mong và Trường An Lương Đông của huyện Phú Lộc. Trong hồi ký của mình, đồng chí kể lại: “Trường xa nhà, nên buổi sáng đi học tôi thường nhịn đói. Ngày ấy, những đứa học trò nhà quê như chúng tôi không có giày dép, đi đâu cũng chân trần. Trên chặng đường tới trường ở Dưỡng Mong (nay thuộc xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang) phải qua một trảng cát, những ngày trời nắng, cát bỏng như rang, chúng tôi phải lấy những cái bẹ nan của cây tre, rồi dùng dây bẹ chuối cột dưới bàn chân để đi qua trảng cát cho đỡ bỏng chân”.
Năm đồng chí lên 11 tuổi, nạn đói kém, thất học hoành hành các làng quê Việt Nam như một thứ “giặc nội xâm”. Để không gián đoạn việc học, đồng chí Lê Đức Anh được bố mẹ gửi ra Nghệ An sống với gia đình người chị ruột. Bằng những bữa cơm nửa đói, nửa no với củ khoai, củ mì, những món “nhút” truyền thống xứ Nghệ và sự động viên hết mực của anh chị, đồng chí đã học hết bậc tiểu học và quay trở lại quê nhà ở Trường Hà, Vinh Phú.
Khi đồng chí Lê Đức Anh đến tuổi trưởng thành, bố mẹ nuôi của thân, phụ mẫu cũng lần lượt qua đời. Gia đình đồng chí chuyển về sống tại quê gốc ở làng Bàn Môn. Cũng chính nơi đây, đồng chí Lê Đức Anh đã được “dự thính” những cuộc chuyện trò của các bậc cha chú, những người luôn đau đáu với thời cuộc và bắt đầu hun đúc tinh thần cách mạng.
Một trong những người đã định hướng và góp phần vun đắp, bồi dưỡng tinh thần yêu quê hương, đất nước và từng bước hướng đồng chí Lê Đức Anh đến với chủ nghĩa cộng sản phải kể đến là đồng chí Lê Bá Dị - Bí thư Chi bộ ghép Phú Vang - Phú Lộc, một trong những chi bộ cộng sản đầu tiên ở Huế, cũng là người cậu họ của đồng chí Lê Đức Anh. Chính đồng chí Lê Bá Dị đã sưu tầm các loại sách, báo về tình hình trong và ngoài nước rồi đưa cho người thiếu niên sáng dạ Lê Đức Anh đọc và sớm khơi gợi tinh thần yêu nước, đấu tranh cách mạng cho đồng chí Lê Đức Anh. Cũng chính vị tiền bối này đã kết nạp đồng chí Lê Đức Anh vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).
Nối tiếp truyền thống tốt đẹp của gia đình và quê hương, các anh, chị, em của đồng chí Lê Đức Anh sau này đều tích cực tham gia hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Người chị gái đầu là Lê Thị Ngọc Tỉ cùng chồng là ông Trần Mạnh Kiệp đều tích cực tham gia hoạt động trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và đều là liệt sĩ. Ông Trần Mạnh Kiệp từng là Xã đội trưởng. Năm 1947, trong lúc làm nhiệm vụ thì ông bị địch truy bắt và hy sinh tại đầm Cầu Hai, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Các con của ông, bà sau này cũng đều tích cực tham gia kháng chiến và có một người con trai là liệt sĩ.
Người chị thứ chín là Lê Thị Kha cùng chồng là anh Hồ Nguyên cũng tích cực tham gia hoạt động cách mạng. Anh Hồ Nguyên là một trong những người đã dìu dắt, giúp đỡ và định hướng cho đồng chí Lê Đức Anh đến với cách mạng. Năm 1937, nghe tin đại diện Chính phủ Pháp sẽ sang điều tra tình hình ở Đông Dương chính anh Hồ Nguyên đã giao nhiệm vụ cho đồng chí Lê Đức Anh đi vận động lấy chữ ký của nông dân các làng vào danh sách yêu cầu đối với thực dân Pháp. Sau cuộc vận động, anh là người đã giới thiệu để kết nạp đồng chí Lê Đức Anh vào Đảng Cộng sản. Năm 1947, anh bị chỉ điểm, bị địch bắt và đã hy sinh không lâu sau đó.
Em gái đồng chí Lê Đức Anh - bà Lê Thị Xoan (thường gọi là Soan), tham gia cách mạng từ lúc còn trẻ. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, bà làm cán bộ Hội Phụ nữ cứu quốc huyện Phú Lộc. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bà làm Bí thư chi bộ làng Bàn Môn và bám trụ hoạt động trong một thời gian dài, sau đó bà bị địch bắt, kết án và giam vào nhà lao Thừa Phủ 3 năm. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, bà công tác tại Trường Trung cấp y tế Huế.
Ngày nay, tiếp nối truyền thống tốt đẹp của các thế hệ cha ông, con cháu dòng họ Lê không ngừng nỗ lực phấn đấu trong công cuộc xây dựng và phát triển quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, giàu đẹp, xứng đáng với sự hy sinh và lòng mong mỏi của các bậc sinh thành và tiền nhân.
Gia tộc họ Lê - nơi đã sản sinh ra người cộng sản ưu tú tài năng xuất sắc Lê Đức Anh, là một gia tộc có truyền thống hiếu học từ nhiều đời, có nhiều người từng làm quan dưới các triều đại phong kiến và có nhiều đóng góp cho dân tộc. Dưới chế độ thực dân, đế quốc xâm lược, mặc dù có lúc phải chịu nhiều khó khăn, gian khổ nhưng đây là một trong những gia đình, dòng họ luôn giữ vững bản lĩnh, chí khí kiên trung, luôn giữ vững phẩm chất và lý tưởng vì sự nghiệp cách mạng, đóng góp tích cực vào công cuộc đấu tranh giải phóng quê hương, đất nước. Đúng như gia phả họ Lê đã biên chép lại: “Tổ tiên ta có lúc hy sinh gian khổ mà đầy khí phách, có lúc lầm than khó nhọc, rày đây mai đó nhưng cũng có lúc vinh quang, chói lọi với non sông”. Đây thực sự là một gia tộc đã góp phần làm rạng rỡ truyền thống đấu tranh cách mạng của quê hương Phú Lộc nói riêng và Thừa Thiên Huế nói chung trong công cuộc đấu tranh chung của dân tộc.
HOÀNG KHÁNH HÙNG
Đại tướng Lê Đức Anh, người con ưu tú của quê hương Thừa Thiên Huế đã trọn đời phấn đấu, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Nhân dân ta. Đánh giá về Đại tướng Lê Đức Anh, đồng chí Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư Đảng ta đã nhận định: “anh Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta”. “Vốn là cán bộ chỉ huy quân đội, đã trải qua thực tế chiến đấu gian khổ của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và mười năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp nước bạn ở Campuchia, nên ở anh quan điểm giai cấp rất vững vàng và rõ ràng... Sinh hoạt và lối sống thì giản dị, mẫu mực”2.
Cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú cùng những cống hiến xuất sắc của đồng chí Lê Đức Anh là một tấm gương sáng về phẩm chất của người cán bộ cách mạng. Chính trong lời kết của cuốn hồi ký “Đại tướng Lê Đức Anh - Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng”, đồng chí đã viết: “Từ thực tiễn... hoạt động cách mạng của mình, tôi rút ra được đôi điều tâm huyết là phải luôn luôn rèn luyện, phấn đấu thường xuyên, liên tục, quá trình rèn luyện cần hội tụ đủ ba yếu tố. Thứ nhất là, luôn học tập không ngừng, nâng cao tri thức mọi mặt, đặc biệt là học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và lối sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thứ hai là, thường xuyên rèn luyện bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, trước cán bộ, chiến sĩ và trước cấp trên. Trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, lập trường cách mạng, cần có sự mềm dẻo, linh hoạt trong từng trường hợp cụ thể, năng động, sáng tạo để đạt hiệu quả cao nhất trong chỉ đạo thực hiện nghị quyết của Đảng và mệnh lệnh của cấp trên. Thứ ba là, luôn rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của người chiến sĩ cộng sản, có tinh thần cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, luôn đặt lợi ích cách mạng lên trên hết. Mọi suy nghĩ và hành động phải xuất phát từ lợi ích chung của Đảng, của nhân dân, của dân tộc; luôn phấn đấu vì lợi ích của nhân dân và của cả dân tộc, hết lòng thương yêu gắn bó với nhân dân, gắn bó với Tổ quốc thì dù khó khăn, gian khổ ác liệt và nguy hiểm đến mấy chúng ta cũng vượt qua được”..
Hơn 80 năm hoạt động cách mạng không mệt mỏi, vượt qua bao cam go, thử thách khốc liệt của chiến tranh, dù ở bất kỳ cương vị công tác, điều kiện, hoàn cảnh nào, đồng chí Lê Đức Anh vẫn luôn trung thành với lý tưởng cách mạng, với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tuyệt đối trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Là cán bộ lão thành cách mạng, được tôi luyện, vào sinh ra tử, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí luôn giữ vững ý chí, phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; không ngừng rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, nâng cao tri thức, sáng tạo, sắc sảo, quyết đoán và hành động quyết liệt trong mọi công việc. Đồng chí không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn thể hiện rõ phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc và nhân dân lên trên hết.
Những phẩm chất cao quý của người chiến sĩ cách mạng cùng những tri thức quân sự của Đại tướng Lê Đức Anh là tấm gương sáng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nói chung và cho quân, dân tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng học tập, noi theo. Từ trước đến nay, đặc biệt sau khi Đại tướng qua đời, với lòng tiếc thương vô hạn, lòng thành kính, sự tri ân sâu sắc với những đóng góp to lớn của Đại tướng với đất nước, với quê hương và sự quan tâm của Đại tướng dành cho tỉnh Thừa Thiên Huế, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tỉnh nhà tích cực học tập, noi gương Đại tướng Lê Đức Anh quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Trong những năm qua lực lượng vũ trang tỉnh đã đạt được kết quả nổi bật là: Đảng ủy - Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh tích cực, chủ động tham mưu, đề xuất với Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Quân khu về nhiệm vụ quốc phòng và công tác quân sự địa phương mà trọng tâm là Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị (khóa X) về “Tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới”; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và các nghị quyết, nghị định của Chính phủ về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Phối hợp chặt chẽ với các lực lượng nắm, dự báo tình hình, tham mưu xử lý tốt các tình huống xảy ra, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện cho tỉnh Thừa Thiên Huế phát triển kinh tế - xã hội. Chất lượng tổng hợp, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang tỉnh từng bước được nâng lên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng khu vực phòng thủ trong tình hình mới. Đội ngũ cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Công tác hậu cần, kỹ thuật được triển khai chặt chẽ, đồng bộ, bảo đảm kịp thời cho các nhiệm vụ của lực lượng vũ trang tỉnh. Công tác xây dựng Đảng bộ được chú trọng, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo nhiệm vụ trong mọi tình huống. Nhiều tập thể, cá nhân tiêu biểu trong thực hiện nhiệm vụ chính trị huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, phòng, chống đại dịch Covid-19, thiên tai, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn đã dũng cảm hy sinh vì cuộc sống yên bình và hạnh phúc của nhân dân. Một lần nữa những hành động, nghĩa cử cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tỉnh Thừa Thiên Huế được tỏa sáng, lan tỏa...
Trong những năm tới, dự báo xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng gặp nhiều trở ngại. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực. Ở trong nước, ổn định chính trị và kinh tế vĩ mô tiếp tục là nền tảng quan trọng thúc đẩy phát triển đất nước. Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 10/12/2019 về xây dựng và phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã tạo ra những tiền đề, định hướng quan trọng để xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Tuy nhiên, những diễn biến phức tạp của thế giới, khu vực, của dịch bệnh Covid-19 khiến cho nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia rất nặng nề. Biến đổi khí hậu, thiên tai khó lường cũng ảnh hưởng lớn tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong tỉnh.
Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; noi gương phẩm chất, đạo đức của Đại tướng Lê Đức Anh, lực lượng vũ trang tỉnh nguyện đoàn kết, tập trung hoàn thành tốt và xuất sắc các nhiệm vụ.
Thứ nhất, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh vững mạnh toàn diện, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu. Quán triệt sâu sắc mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo của Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX, XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội, Quân khu lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, nhiệm kỳ 2020 - 2025. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Đề án đổi mới, nâng cao công tác giáo dục chính trị tại đơn vị của Tổng cục Chính trị; xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có ý chí quyết tâm cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Chủ động đấu tranh phòng, chống có hiệu quả chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Thực hiện tốt phong trào thi đua gắn với thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, chỉ tiêu của Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” và việc học tập, noi theo tấm gương Đại tướng Lê Đức Anh. Chăm lo xây dựng, củng cố các tổ chức trong lực lượng vũ trang tỉnh vững mạnh; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ.
Thứ hai, chú trọng thực hiện nghiêm túc các quy định về tổ chức biên chế bảo đảm sự ổn định, hợp lý, tinh gọn, đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ; ưu tiên các đơn vị sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, làm nhiệm vụ A2. Đẩy mạnh xây dựng chính quy, quản lý, rèn luyện kỷ luật, tạo bước đột phá mới có chiều sâu, vững chắc. Hạn chế thấp nhất các vụ việc vi phạm kỷ luật, kiên quyết không để xảy ra vi phạm pháp luật, kỷ luật nghiêm trọng, bảo đảm an toàn tuyệt đối trong lực lượng vũ trang tỉnh.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang tỉnh. Lãnh đạo, chỉ đạo duy trì chấp hành nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu ở tất cả các cấp. Thường xuyên nắm chắc tình hình, tham mưu, phối hợp với các lực lượng, nhất là lực lượng công an, bộ đội biên phòng xử lý có hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ, nhất là trên tuyến biên giới, tuyến biển và các địa bàn trọng điểm. Chú trọng đổi mới tổ chức, nội dung và phương pháp huấn luyện, đào tạo phù hợp với vũ khí, trang bị, phương tiện hiện có. Tập trung chỉ đạo công tác tổ chức, điều hành huấn luyện, các mặt bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, tài chính... tạo sự chuyển biến tích cực về chất lượng huấn luyện cho lực lượng thường trực, dân quân tự vệ và dự bị động viên.
Thứ tư, tham mưu, hướng dẫn, thực hiện tốt việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện tốt nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng. Quan tâm đầu tư xây dựng các công trình trong khu căn cứ hậu phương của tỉnh và các địa phương cấp huyện. Quy hoạch lập dự án, đầu tư xây dựng căn cứ hậu cần, kỹ thuật khu vực phòng thủ cấp huyện gắn với quy hoạch thế trận quân sự, quốc phòng. Tiếp tục đầu tư xây dựng doanh trại các cơ quan, đơn vị bảo đảm cơ bản, chính quy, xanh, sạch, đẹp. Đáp ứng đầy đủ, kịp thời số lượng, chất lượng, đồng bộ vũ khí, trang bị kỹ thuật. Tập trung ưu tiên các bộ phận trọng yếu, chuyên trách trong thực hiện các nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, diễn tập và phòng, chống cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai...
Thứ năm, tăng cường mối quan hệ đoàn kết, thống nhất giữa cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tỉnh với cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể và nhân dân địa phương. Tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân quán triệt, chấp hành nghiêm mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo sự đồng thuận trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh ở các địa phương, cơ sở. Chủ động nắm chắc tình hình, phát hiện sớm và tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương giải quyết tốt các vấn đề mâu thuẫn, bức xúc trong nội bộ nhân dân, không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng, kích động nhân dân làm phức tạp tình hình. Thực hiện tốt công tác dân vận, tuyên truyền đặc biệt, công tác chính sách hậu phương quân đội; phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa”, “Xóa đói, giảm nghèo”. Quan tâm đầu tư thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua “lực lượng vũ trang tham gia xây dựng nông thôn mới”, “Không để ai tụt lại phía sau”... xứng đáng là lực lượng nòng cốt, chỗ dựa tin cậy của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân Thừa Thiên Huế, quê hương của Đại tướng Lê Đức Anh trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trực tiếp góp phần cùng địa phương thực hiện tốt Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 10/12/2019 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Luôn giữ vững ổn định về chính trị, mạnh về kinh tế, tiến bộ về văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vững chắc trong điều kiện mới.
Ngày nay, sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển mới, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Yêu cầu về chấn chỉnh lực lượng quân đội phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước đang đặt ra những vấn đề mới cần quan tâm giải quyết. Quán triệt tư tưởng, quan điểm của đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tỉnh Thừa Thiên Huế tiếp tục rèn luyện, trau dồi bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; tinh thần cách mạng tiến công; không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện, trình độ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi tình huống. Đồng thời, tích cực chấn chỉnh tổ chức, lực lượng theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, bảo đảm nâng cao sức mạnh chiến đấu, phù hợp với yêu cầu của nghệ thuật tác chiến hiện nay. Tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ, “thế trận lòng dân” vững chắc. Đẩy mạnh chống “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thân thế và sự nghiệp của Đại tướng Lê Đức Anh là tấm gương sáng ngời chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, đoàn kết nghĩa tình; cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Đại tướng, cán bộ, chiến sĩ toàn quân và lực lượng vũ trang tỉnh Thừa Thiên Huế cần ra sức học tập, rèn luyện, công tác, tiếp nối xứng đáng những di sản và sự nghiệp vẻ vang của Đại tướng Lê Đức Anh, phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thượng tá NGÔ NAM CƯỜNG
Phú Lộc là mảnh đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng; có vị trí địa chính trị - kinh tế quan trọng của tỉnh Thừa Thiên Huế; với diện tích tự nhiên 720,9km2, địa hình chia cắt phức tạp, với bờ biển dài trên 60km, diện tích vùng đầm phá hơn 12.000 ha, có nơi núi kéo dài ra đến biển; nằm trên tuyến quốc lộ 1A dài gần 65km và trên tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây thông ra biển qua Cảng nước sâu Chân Mây; là nơi hội đủ các điều kiện, tiềm năng thế mạnh về rừng, đồng bằng, biển và đầm phá với nhiều địa danh, cảnh quan thiên nhiên đẹp. Hiện nay, toàn huyện có 15 xã và 2 thị trấn, dân số khoảng 130.000 người. Đảng bộ huyện có 39 tổ chức cơ sở đảng (29 đảng bộ, 10 chi bộ) với 305 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở, tổng số đảng viên là 3.945 đồng chí.
Trong suốt chiều dài lịch sử, nhân dân Phú Lộc đã trải qua biết bao thăng trầm để xây dựng và bảo vệ quê hương. Núi rừng, đèo dốc, đầm phá, biển cả cùng với các cảnh quan nổi tiếng, như: Bạch Mã, Hải Vân, Phú Gia, Phước Tượng, đầm Cầu Hai, đầm Lăng Cô, núi Truồi, sông Truồi,... luôn gắn liền với mồ hôi, xương máu, trí tuệ của nhân dân Phú Lộc, ghi dấu bước phát triển của con người nơi đây. Bằng sức lao động cần cù, sáng tạo, nhân dân Phú Lộc từ xa xưa đã tạo ra trên quê hương mình những sản phẩm và ngành nghề truyền thống nổi tiếng, như: nghề đóng thuyền Diêm Trường, tơ tằm Mỹ Lợi, bánh ướt, bánh lọc, dâu Truồi, chè Truồi,... Sông Truồi, sông Nong trở thành giao thông đường thủy từ rừng tới biển, nối liền đầm phá Cầu Hai, Lăng Cô giàu hải sản với vùng núi cao nhiều lâm sản, để phục vụ giao thương hàng hóa của địa phương.
Đất và người Phú Lộc ngay từ thuở các bậc tiền nhân “khai sơn phá thạch” đã thể hiện ý chí kiên cường, tinh thần đoàn kết, nhân ái, bao dung trong quá trình đấu tranh chống thiên tai, địch họa, xây dựng cuộc sống. Quá trình đó đã hình thành nên nhiều làng quê có bề dày văn hóa và nổi tiếng bởi truyền thống hiếu học, như: làng Bàn Môn (xã Lộc An), làng Mỹ Lợi (xã Vinh Mỹ),... là nơi đã sản sinh nhiều anh hùng hào kiệt, nhiều nhà yêu nước và cách mạng, trong đó có Đại tướng
Lê Đức Anh - một nhà chính trị, nhà quân sự tài năng, người con ưu tú của quê hương Phú Lộc.
Đại tướng, Chủ tịch nước Lê Đức Anh sinh ra ở làng Trường Hà, huyện Phú Vang; quê gốc ở xứ Truồi, làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc. Làng Bàn Môn là nơi có truyền thống yêu nước và cách mạng, nơi thành lập Chi bộ đảng đầu tiên ở nông thôn của tỉnh Thừa Thiên Huế. Tuổi thơ của ông gắn bó với xứ Truồi với những vườn cây trái xanh tươi, cho quả ngọt bốn mùa, nơi có núi Truồi, sông Truồi. Chính con sông Truồi trong xanh, hiền hòa đã nuôi dưỡng tâm hồn, tuổi thơ ông.
Sinh ra và lớn lên trong chế độ thuộc địa nửa phong kiến, phải chứng kiến cảnh người dân sống cơ cực lầm than đã hun đúc trong ông lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc và tinh thần đấu tranh cách mạng triệt để. Sớm được tiếp xúc với những người yêu nước và cách mạng, ở tuổi niên thiếu, ông đã nghe cậu Giảng và ông Lê Bá Dị nói chuyện với nhau về chuyện nước, về các danh nhân yêu nước Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, về Nguyễn Ái Quốc, Đệ tam Quốc tế Cộng sản. Năm 15 tuổi, ông đã đọc báo chí tiến bộ và tìm hiểu về chủ nghĩa cộng sản, về Nguyễn Ái Quốc và tham gia phong trào đấu tranh giành độc lập cho đất nước, tự do cho dân tộc. Ông bắt đầu giác ngộ và chính thức tham gia hoạt động cách mạng lúc 17 tuổi, bắt đầu từ việc đọc sách, báo đến việc tuyên truyền, vận động trong dân chúng. Ngày 01/5/1938, ông đã được kết nạp vào Ðảng Cộng sản Đông Dương khi 18 tuổi.
Có thể nói, mảnh đất quê hương đã hun đúc nên tinh thần yêu nước, đi theo con đường đấu tranh cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh. Cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng gắn liền với nhiều mốc son lịch sử của dân tộc. Đại tướng đã mang hết sức lực, trí tuệ và phẩm chất của người cộng sản để cống hiến cho sự nghiệp cách mạng đầy gian khổ, hy sinh, nhưng rất đỗi vẻ vang, tự hào; góp phần làm rạng rỡ quê hương Phú Lộc anh hùng. Đảng bộ, quân và dân Phú Lộc không chỉ tự hào về vùng đất đã đi vào thơ ca, mà còn tự hào có một người con là vị tướng tài ba, nhà lãnh đạo xuất sắc như Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, với vị trí chiến lược quan trọng về quân sự nên bọn thực dân, đế quốc và tay sai đã bố trí trên địa bàn huyện Phú Lộc nhiều đồn bốt, cứ điểm được trang bị kỹ thuật quân sự tối tân, cùng với một lực lượng dày đặc để đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, Phú Lộc là một chiến trường ác liệt nhưng cán bộ, đảng viên và lực lượng vũ trang của huyện nhà vẫn kiên trì bám đất, bám dân để xây dựng phong trào, sáng tạo nhiều cách đánh hiệu quả, hỗ trợ tích cực cho phong trào kháng chiến ở Thừa Thiên Huế, góp phần cùng cả nước đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn. Trải qua 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, phong trào cách mạng ở Phú Lộc có lúc thăng, lúc trầm bởi sự đàn áp dã man của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Là một trong những chiến trường gay go ác liệt, chịu nhiều mất mát hy sinh to lớn, song cán bộ, quân và dân huyện Phú Lộc đã nắm chắc, vận dụng sáng tạo phương châm “Đảng bám dân, dân bám đất, du kích bám địch, trên bám dưới”, từng bước khôi phục lại phong trào, từng bước tạo thế và lực, củng cố và xây dựng lực lượng cách mạng ở địa phương, đẩy mạnh chiến đấu, diệt ác, trừ gian giải phóng nhiều vùng, làm cơ sở cho việc lấy nông thôn bao vây thành thị, đánh cắt giao thông, ngăn chặn việc tiếp viện của địch từ Đà Nẵng ra Trị Thiên Huế, là chiến trường mở đầu và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968. Đặc biệt, năm 1975, trước khí thế cách mạng của toàn miền Nam, thực hiện mệnh lệnh chiến đấu thần tốc, táo bạo của Quân khu Trị Thiên Huế, quân và dân huyện Phú Lộc đã phối hợp với chiến trường toàn tỉnh tham gia nhiều chiến dịch trên các vùng ở khu 1, khu 2, khu 3 và toàn huyện; đã tiêu hao và tiêu diệt nhiều sinh lực địch, làm cho địch hoang mang, dao động, buộc chúng phải co cụm phòng thủ, tạo điều kiện cho ta làm chủ ở nhiều vùng. Sáng ngày 24/3/1975, quân và dân Phú Lộc phối hợp với các lực lượng đồng loạt tiến công địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, giải phóng hoàn toàn huyện Phú Lộc; góp phần vào giải phóng Thừa Thiên Huế ngày 26/3/1975 và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Phú Lộc đã lập được nhiều chiến công. Toàn huyện có 12.450 người con thoát ly tham gia kháng chiến, đã có 2.358 liệt sĩ, gần 500 thương bệnh binh, hàng nghìn gia đình có công với nước. Hàng nghìn người con thân yêu của mọi miền đất nước chiến đấu trên quê hương Phú Lộc đã hy sinh xương máu, đóng góp sức người, sức của cho cách mạng.
Những sự hy sinh anh dũng và chiến công oanh liệt đó của quân và dân huyện Phú Lộc được Đảng, Nhà nước ghi nhận và phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Bên cạnh đó, toàn huyện có 11 xã, thị trấn và đơn vị Công an huyện Phú Lộc được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Có 5 cá nhân được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; 307 Bà mẹ Việt Nam anh hùng; một Huân chương Quân công hạng Nhì; hai Huân chương Quân công hạng Ba; một Huân chương Chiến công hạng Nhất; một Huân chương Thành đồng Tổ quốc hạng Ba; 2 Huân chương Giải phóng hạng Nhất và Nhì cùng hàng trăm huân, huy chương cho các tập thể và cá nhân. Những chiến công, sự hy sinh to lớn của các thế hệ đảng viên, cán bộ quân và dân Phúc Lộc đã góp phần to thắm thêm truyền thống vẻ vang của quê hương, để lại lòng biết ơn, niềm vinh dự, tự hào cho các thế hệ mai sau.
Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mặc dù phải đương đầu với muôn vàn khó khăn để khắc phục hậu quả chiến tranh, đói nghèo, lạc hậu, song Đảng bộ, chính quyền và nhân dân toàn huyện đã nỗ lực vượt qua bao khó khăn, thử thách, chiến thắng đói nghèo, lạc hậu và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Cùng với tiến trình đổi mới của đất nước từ năm 1986 đến nay, tình hình kinh tế - xã hội của huyện liên tục phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện luôn đạt cao hơn mức bình quân chung của tỉnh, bình quân hằng năm đạt trên 14%. Từ một huyện thuần nông, đến nay lĩnh vực dịch vụ - du lịch và công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng 93,6% trong cơ cấu kinh tế. Tỷ trọng nông nghiệp chỉ còn 6,4%. Nhiều dự án du lịch, sản xuất công nghiệp có quy mô lớn đã được triển khai và đi vào hoạt động, đặc biệt là các dự án tại Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô, Khu công nghiệp La Sơn. Tổng lượng khách du lịch đến Phú Lộc (trước khi ảnh hưởng của đại dịch Covid-19) đạt hơn 1 triệu lượt khách/năm. Nông nghiệp phát triển theo hướng khai thác tiềm năng, lợi thế của vùng biển và đầm phá. Đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, sản xuất theo hướng hàng hóa. Tổng thu ngân sách hơn 600 tỷ đồng/năm, trong đó thu cân đối ngân sách 200 tỷ đồng. Bộ mặt đô thị và nông thôn thay đổi rõ rệt; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư (tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2016 - 2020 gần 35.000 tỷ đồng), góp phần khai thác và phát huy các tiềm năng, lợi thế của địa phương về phát triển dịch vụ, du lịch.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có nhiều hoạt động sôi nổi, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương và nhu cầu của nhân dân. An sinh xã hội được bảo đảm; đời sống của nhân dân được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn đa chiều) giảm còn 4,1%; thu nhập bình quân đầu người đạt 62,5 triệu đồng/người/năm. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng cao; hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân được xây dựng, củng cố vững chắc; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Trong sự phát triển và đi lên của Phú Lộc luôn có những tình cảm đặc biệt của Đại tướng Lê Đức Anh dành cho quê hương. Mặc dù sống xa quê và bận rộn công tác, nhưng trong những lần về thăm quê, Đại tướng luôn có nhiều trăn trở và gợi mở giúp quê hương khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội.
Khắc ghi lời căn dặn của Ðại tướng, nhiều năm qua, Ðảng bộ, chính quyền, nhân dân và các lực lượng vũ trang toàn huyện đã không ngừng nỗ lực thi đua lao động sản xuất, ra sức xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Tháng 9/2018, xã Lộc An - quê hương Đại tướng đã được Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới. Đến nay, toàn huyện đã có 8/14 xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Những kết quả trên tuy mới chỉ là bước đầu, song rất đáng tự hào, là những tiền đề cơ bản và quan trọng để Phú Lộc tiếp tục phát triển nhanh và toàn diện hơn trong thời gian tới.
Thể theo nguyện vọng của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và các lực lượng vũ trang huyện Phú Lộc, để tôn vinh, ghi nhớ công lao to lớn của Đại tướng, năm 2011, Đảng và Nhà nước đã xây dựng Nhà văn hoá Đại tướng Lê Đức Anh tại xã Lộc An. Nhà Văn hóa được khánh thành và đưa vào sử dụng năm 2012. Đây là địa chỉ đỏ để tuyên truyền, giáo dục truyền thống vẻ vang của Đảng, Nhà nước, Quân đội nhân dân Việt Nam và là nơi lưu giữ nhiều tư liệu, sách, ảnh quý giá về cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng. Từ khi đưa vào sử dụng, Nhà văn hóa đã đón từ 20.000 đến 25.000 lượt khách/năm đến tìm hiểu, nghiên cứu, học tập.
Tự hào với những truyền thống vẻ vang của quê hương, đất nước; noi gương, học tập Đại tướng Lê Đức Anh, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và các lực lượng vũ trang huyện Phú Lộc tiếp tục phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước. Trong nhiệm kỳ 2020 - 2025, Đảng bộ huyện Phú Lộc xác định tập trung phát huy tinh thần đổi mới tư duy, huy động và sử dụng tốt các nguồn lực để phát triển toàn diện các lĩnh vực, trong đó, góp phần cùng với tỉnh xây dựng, phát triển Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô sớm trở thành đô thị loại III, gắn phát triển kinh tế với đảm bảo quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường; giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của địa phương; chăm lo cho các gia đình chính sách, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Mục tiêu tổng quát đến năm 2025, xây dựng Phú Lộc thành vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh, ngày càng giàu đẹp, văn minh.
NGUYỄN VĂN MẠNH
Vào một ngày cuối năm 1973, đi học về, tôi thấy những chiếc xe ô tô đậu quanh nhà, chưa bao giờ tôi thấy cảnh này. Mẹ tôi nói: “Ba về, đang làm việc với các chú, các bác”. Những lần trước, ba tôi từ chiến trường về Hà Nội lặng lẽ hơn, không có cảnh xe cộ đến nhà như thế, mà Hà Nội lúc đó ít ô tô lắm, chỉ có xe cơ quan và lãnh đạo cấp cao mới đi ô tô. Lần này thì khác hẳn, tôi cũng không hiểu chuyện gì.
Một thời gian sau, ba tôi lại vào Nam và có một hôm, mấy mẹ con nghe tin ba tôi được thăng quân hàm vượt cấp, từ Đại tá lên Trung tướng. Tôi tự hào lắm!
Lúc đó, vẫn còn rất ít người biết đến ông Lê Đức Anh là ai. Trước đó nữa, thì càng ít người biết và còn nhầm lẫn ông Lê Đức Anh với người khác. Tôi nhớ, hồi ký hiệp định Paris tháng 1/1973, thành lập Ban Liên hợp quân sự bốn bên, đại diện đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam là ông Hoàng Anh Tuấn. Nhiều người nói với mẹ tôi đấy chính là ông Lê Đức Anh. Cả nhà bán tin, bán nghi, sau biết là không phải.
Chiến dịch giải phóng Sài Gòn, ba tôi chỉ huy một trong năm cánh quân đánh trận cuối cùng này. Sau ngày thống nhất đất nước có mấy ngày, mẹ tôi được vào thăm ba, được đi cùng chuyến bay với một lãnh đạo cấp cao nào đó, tôi không nhớ. Mẹ vui và tự hào vô cùng. Lúc về Hà Nội, mẹ tôi kể đi, kể lại chuyện gặp ba và chuyện về Sài Gòn lạ lẫm với những người miền Bắc.
Cả nhà vui sướng và hãnh diện hơn nữa khi biết ba tôi được chỉ huy cuộc diễu binh hoành tráng vào ngày Quốc khánh thống nhất đầu tiên, ngày 2/9/1975 tại Thủ đô Hà Nội rực rỡ cờ hoa.
Cuộc chiến bắt buộc
Cho mãi đến sau này, tôi mới biết để được thăng quân hàm vượt cấp lên Trung tướng và được dẫn đầu đoàn quân chiến thắng diễu binh trên Quảng trường Ba Đình, ba tôi đã từng bị cấp trên phê bình vì đã không thực hiện “5 cấm chỉ” sau ngày hiệp định Paris được ký kết.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ba tôi đã trực tiếp tham gia và chỉ huy nhiều chiến dịch lớn: Đánh bại cuộc hành quân Junction City của Mỹ năm 1967; cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; chống địch lấn chiếm, phá hoại hiệp định Paris năm 1973 trên địa bàn Quân khu 9; giải phóng tỉnh Phước Long năm 1974 và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tháng 4/1975.
Sau hơn 10 năm xa cách, gia đình chúng tôi được đoàn tụ, những tưởng từ nay đất nước hoàn toàn im tiếng súng. Thế nhưng chỉ 2 năm sau, đúng ngày 30/4/1977, súng lại nổ trên toàn tuyến biên giới Tây Nam. Và từ năm 1979, ba tôi, Trung tướng Lê Đức Anh lại ra chiến trường, lần này là chiến trường ở nước bạn - Campuchia.
Năm 1963, mặc dù lúc đó rất bé, nhưng tôi vẫn nhớ cảnh ba cầm khẩu súng trường được phát trước khi đi B chĩa lên trời qua cửa sổ của ngôi nhà số 32 Điện Biên Phủ, TP Hà Nội. Ba đi vào Nam chiến đấu lúc nào, chúng tôi không hề biết, chỉ nhớ nhà còn mấy mẹ con. Ông đi biền biệt, có mấy lần ra công tác và được thăm vợ con. Ba tôi đi bằng đủ loại phương tiện: Tàu không số, tàu đánh cá, vượt Trường Sơn, máy bay của Hoàng gia Campuchia. Hiểm nguy luôn rình rập trên đường ông đi.
Bảy năm ba tôi ở chiến trường Campuchia thì khác. Quân đội ta lớn mạnh, làm chủ chiến trường cả trên bộ lẫn trên không nên điều kiện đi lại của sỹ quan, chiến sỹ cũng thuận lợi hơn. Ông bay liên tục về TP.HCM và Hà Nội công tác. Các chuyến bay đến các mặt trận, đến các chốt của ông thì rất nhiều. Ở nhà vẫn nói đùa là ông bay nhiều hơn cả phi công. Bây giờ nghĩ lại thấy lo cho ba mặc dù việc đã lùi xa nhiều năm rồi, ngày đó, máy bay chưa hiện đại, điều kiện bảo trì, bảo dưỡng không thể bằng bây giờ, nên độ an toàn khó mà cao.
Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia 10 năm. Sao lại lâu thế? Thậm chí có ý kiến chỉ trích rằng “Việt Nam đã sa lầy ở Campuchia”. Đại tướng Lê Đức Anh là người ủng hộ mạnh mẽ việc Quân tình nguyện Việt Nam ở lại Campuchia và ông cũng là người chủ trương phải rút quân tình nguyện hết khi Chính phủ Campuchia đã lớn mạnh, đã tự đảm đương được và biên giới phía Bắc đã im tiếng súng.
Bởi vì, nếu không làm cho tàn quân Pôn Pốt tan rã, suy tàn và lực lượng cách mạng Campuchia chưa đủ mạnh, thì đến một lúc nào đó bè lũ diệt chủng sẽ quay lại cướp chính quyền, tiếp tục cướp phá, xâm lấn biên giới với nước ta, giết hại đồng bào ta. Để làm tan rã tàn quân của đối phương lẩn trốn ở rừng núi và thậm chí trú ẩn bên kia biên giới nước ngoài, cần phải nhiều năm. Lực lượng cách mạng Campuchia cũng cần rất nhiều năm để trưởng thành.
Là một người lính, Đại tướng Lê Đức Anh mong muốn chiến tranh kết thúc thật nhanh để máu đồng đội không tiếp tục đổ xuống. Là một người cha, ba tôi mong sớm được ở bên gia đình vợ, con. Thế nhưng, cuộc chiến này là bắt buộc, ở lại Campuchia nhiều năm là bắt buộc.
Một số nước tự đặt ra điều kiện, “tiêu chuẩn kép” trong quan hệ quốc tế. Họ tấn công, chiếm đóng nước khác ở xa ngàn dặm với lý do để bảo vệ an ninh của quốc gia họ. Thế nhưng, khi chúng ta tấn công để tự vệ, tấn công để xóa bỏ chế độ diệt chủng và chúng ta ở lại để giúp đất nước Campuchia hồi sinh thì họ lên án, cho rằng “Việt Nam xâm lược Campuchia”, lấy cớ đó để bao vây, cấm vận nước ta.
3 lần được thăng quân hàm cấp tướng
Ba tôi 3 lần được thăng quân hàm cấp tướng, lần thứ nhất trong kháng chiến chống Mỹ, thăng vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng. Hai lần sau, ông được thăng quân hàm từ Trung tướng lên Thượng tướng và từ Thượng tướng lên Đại tướng khi đang phục vụ tại chiến trường Campuchia. Như thế, đủ thấy tầm quan trọng cũng như tính khốc liệt của chiến trường này.
Lúc đó, vào năm 1982, Thượng tướng Lê Đức Anh đang là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã được tham gia Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng, mặc dù không nằm trong “bộ tam cơ cấu” Bộ Chính trị: Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam và Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam. Điều đó một lần nữa nói lên tầm quan trọng của chiến trường này và thể hiện Đảng, Nhà nước đã đánh giá đúng, chính xác năng lực và phẩm chất của Đại tướng Lê Đức Anh.
Thế nhưng, không phải là không có những tin đồn, những thông tin ác ý về ba tôi khi ông làm nhiệm vụ ở Campuchia. Khi tôi đi học cao cấp chính trị, trong một lần ngồi uống nước lúc ra chơi, một giảng viên của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nói ông Lê Đức Anh là người “gây ra vụ Xiêm Riệp”. Tất nhiên, giảng viên đó không biết ngồi trước mặt ông ta chính là con trai của ông Lê Đức Anh.
Tôi về kể lại với ba chuyện này. Ông nói: “Có những người không đủ thông tin nên nói thế, đáng tiếc đây lại là một giảng viên của một trường quan trọng”. Vụ “Đánh địch ngầm ở Xiêm Riệp” đã được ông viết rất rõ trong hồi ký. Lúc đó, vào năm 1983, ba tôi đang chữa mắt ở Liên Xô (sau này có giai thoại là ông được thay mắt màu xanh của một người Nga), thì được ông Lê Đức Thọ thay mặt Bộ Chính trị ký điện gọi về xử lý sai lầm của Bộ Tư lệnh Mặt trận 479.
Lý do, thời kỳ đó, Bộ Tư lệnh 479, dựa vào những nguồn tin chưa được thẩm tra đã đi đến một số quyết định: Bắt giữ những người đứng đầu chính quyền Xiêm Riệp để điều tra, tước vũ khí của du kích bạn, phân tán cán bộ bạn vào bộ đội ta…
Ba đã viết trong hồi ký, nguyên văn như sau: “Việc đầu tiên là tôi điện lên Mặt trận yêu cầu thả ngay tất cả những người đã bị bắt. Và tôi ra lệnh, kể cả lính Xiem Riệp đã ra hàng, cả những tên bị người ta tố cáo là có tội ác cũng không được đánh đập, ngược đãi mà phải cho họ ăn uống tử tế rồi thả cho họ về.
Việc thứ hai là tôi yêu cầu tất cả các ngành nộp toàn bộ các bản báo cáo tình hình, các bức điện đi, điện đến, tôi ngồi đọc hết. Lúc đầu có anh em không hiểu còn cho tôi là phản động. Họ nói là “Đã hỏi ý kiến của Hà Nội rồi”. Tôi biết, nếu hỏi “Ý kiến Hà Nội là của người nào?” thì sẽ rất rối nên tôi “không hỏi, không biết”, các anh đã tin tưởng giao cho tôi “xử lý” thì chỉ “xử lý” thôi. Ở đây tôi kiên quyết: Một là, nhất định không hỏi “Hà Nội là ai?”; Hai là, chỉ “xử lý” thôi, sau khi xử lý rồi thì nhất định không giải thích nữa.
Khi tôi trở về báo cáo trong hội nghị Bộ Chính trị toàn bộ sự việc đã giải quyết, thì không ai phát biểu gì; chỉ có anh Phạm Văn Đồng nói “xử lý được thế là tốt, xử lý nội bộ có mức độ thế là đúng!”. Thực chất các cán bộ bên đó đều mong muốn quan hệ giữa hai Đảng ngày càng tốt hơn, nhưng vì nóng vội và ấu trĩ nên phạm khuyết điểm, sai lầm, chứ không có hề có ý đồ xấu”.
Đảng ta đã nghiêm khắc kiểm điểm và có hình thức kỷ luật thích đáng đối với cán bộ liên quan vụ “Đánh địch ngầm ở Xiêm Riệp”. Bộ Chính trị cử Đại tướng Chu Huy Mân khi ấy là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đại diện sang xin lỗi Bộ Chính trị Trung ương Đảng bạn.
Về việc xây dựng tuyến phòng thủ biên giới Campuchia - Thái Lan (K5) dài 800km là một việc quan trọng, nhưng cũng có ý kiến không đồng tình vì cho rằng tốn kém, không hiệu quả. Thực tế tuyến phòng thủ này có tác dụng chia cắt chiến lược ngoại biên và nội địa, ngăn chặn xâm nhập từ phía Thái Lan vào Campuchia, tạo điều kiện thuận lợi truy quét địch trong nội địa. Sau này, rút kinh nghiệm chính Việt Nam cũng xây tuyến tuần tra biên giới của mình.
Tư lệnh Lê Đức Anh đã chỉ đạo mở các chiến dịch truy quét tàn quân địch vào các năm 1983, mùa khô 1984-1985, làm tan rã một bộ phận lớn sinh lực địch, giữ vững thành quả cách mạng của Campuchia.
Người cha vĩ đại
Cuối năm 1986, khi tình hình Campuchia đã tương đối ổn định, ba tôi trở về Bộ Quốc phòng nhận nhiệm vụ mới. Lúc này, mẹ tôi được ở bên ông tại Hà Nội, nhưng gia đình thì lại tiếp tục không được đoàn tụ vì tất cả các con của ba mẹ đều sinh sống ở TP.HCM. Gia đình tôi rất ít khi có bữa ăn đầy đủ các thành viên.
Năm 1987, Việt Nam bắt đầu rút quân từ Campuchia về nước theo kế hoạch, khi bạn đã tự đảm đương được. Năm 1989, khi biên giới phía Bắc và Biển Đông không còn căng thẳng, Việt Nam rút hết quân tình nguyện khỏi Campuchia về nước. Hòa bình một lần nữa đã được lập lại, chúng ta bước vào giai đoạn phát triển mới. Đại tướng Lê Đức Anh đã có đóng góp to lớn vào thành quả này.
Hòa bình rồi, ba tôi lại được giao thêm nhiệm vụ làm ngoại giao, công việc dường như không liên quan gì đến người gần như suốt đời trận mạc như ông. Có lẽ cấp trên khi giao nhiệm vụ cho ông đã nhận định rằng, những người lính trận mới thực sự hiểu hết cái giá của hòa bình và hơn ai hết họ muốn sống trong hòa bình.
Ba tôi đã được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ mở đường để bình thường quan hệ với Trung Quốc và Mỹ, hai nước mà chính ông đã phải đối mặt ở chiến trường. Ông đã hoàn thành nhiệm vụ trên lĩnh vực mới và trong thời gian ông làm Chủ tịch nước, Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, với Mỹ, gia nhập ASEAN. Các nhà lãnh đạo của thế hệ ông đã đặt nền móng vững chắc cho Việt Nam hội nhập và phát triển.
Sau khi đề xuất và được Bộ Chính trị đồng ý, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh quy định Danh hiệu vinh dự nhà nước "Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, danh hiệu đầy tính nhân văn và riêng có của Việt Nam, tri ân những bà mẹ của hàng vạn người con đã ngã xuống vì Tổ quốc.
Nghỉ hưu rồi, ba tôi vẫn thường xuyên theo dõi tình hình đất nước. Ông phản đối việc dùng Quân đội tham gia cưỡng chế. Ông theo đúng nguyên tắc Quân đội có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ; Quân đội không được cưỡng chế nhà dân, không đối đầu với dân. Khi làm Tư lệnh Quân khu 9, ông đã kiên quyết không đưa lực lượng Quân đội đi dẹp bạo loạn ở Trà Vinh theo đề nghị của Bí thư Tỉnh ủy lúc đó. Ông nói, không đưa lực lượng Quân khu 9 dẹp bạo loạn, kể cả nếu mất chính quyền một huyện.
Tôi viết những dòng này để nói đến những quyết định mang tính bước ngoặt của cha tôi - Đại tướng Lê Đức Anh. Viết đầy đủ về cuộc đời, về sự nghiệp của ông thật khó vì ông đã làm được rất nhiều, tư liệu thì không đủ. Nhiều việc thực sự tôi cũng chỉ mới tìm hiểu, mới nghiên cứu trong thời gian gần đây, khi ba nằm trên giường bệnh, khi tôi đã nghỉ hưu và sau khi ba mất. Ông không bao giờ nghĩ mình là người vĩ đại. Nhưng với tôi, ông thực sự là người cha vĩ đại.
Khi tiễn biệt cha mình về vĩnh hằng với các đồng đội, tôi đã thưa với ông: “Ba đã sống một cuộc sống kiên cường của người chiến sỹ và bình dị như bao người dân khác. Vượt qua 4 cuộc chiến và 3 cơn bạo bệnh, ba đã sống đến 100 tuổi. Yêu thương, nghị lực, may mắn và sức sống phi thường đã giúp ba sống thật lâu và thật sự có ích cho đời. Thế nhưng quy luật của muôn đời đã đưa ba đi mãi mãi.
Gia tài ba để lại cho con cháu thật đồ sộ và quý giá, đó là trái tim nhân hậu của con người dũng cảm. Yêu thương và vị tha, nhân hậu để vị tha. Chúng con thật vinh dự và tự hào được nhận món quà quý giá đó. Cảm ơn ba”.
Cuộc đời của người lính dũng cảm Lê Đức Anh gắn với lịch sử của dân tộc ta 100 năm qua. Từ người lính qua chiến tranh và lên đến vị trí nguyên thủ quốc gia, một vị trí ông không hề muốn, nhưng đã nhận vì đó là trọng trách phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
TS. Lê Mạnh Hà
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng!
Kính thưa các vị lão thành cách mạng, Mẹ Việt Nam anh hùng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, các đồng chí tướng lĩnh, sĩ quan!
Kính thưa các nhà khoa học cùng quý vị đại biểu!
Kính thưa đại diện gia đình đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh!
Đồng chí Lê Đức Anh là một chiến sĩ cộng sản kiên cường, mẫu mực, nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân ta, có nhiều đóng góp quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh là việc làm cần thiết, không chỉ tôn vinh một nhà lãnh đạo chủ chốt tiêu biểu của Đảng, Nhà nước, nhà chiến lược quân sự xuất sắc, vị tướng văn võ song toàn, một người con ưu tú của quê hương Thừa Thiên Huế, mà còn góp phần tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh (01/12/1920 - 01/12/2020), thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Văn phòng Chủ tịch nước và Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế tổ chức Hội thảo khoa học cấp Nhà nước “Đồng chí Lê Đức Anh với cách mạng Việt Nam và quê hương Thừa Thiên Huế”. Mục đích Hội thảo nhằm tiếp tục khẳng định những cống hiến xuất sắc của Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân; đồng thời động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đặc biệt là thế hệ trẻ học tập và noi theo tấm gương Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình chuẩn bị, Ban Tổ chức Hội thảo đã nhận được 87 bản tham luận từ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đồng chí lão thành cách mạng; Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị; lãnh đạo, chỉ huy một số tổng cục, quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, học viện, nhà trường, viện nghiên cứu; các nhà khoa học trong và ngoài quân đội; lãnh đạo Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế và những người đã từng tiếp xúc, làm việc với Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh. Các tham luận gửi đến Hội thảo khoa học được nghiên cứu công phu, nghiêm túc, đảm bảo tính khoa học, vừa khẳng định những cống hiến xuất sắc trên nhiều lĩnh vực, vừa thể hiện lòng kính trọng và sự tri ân sâu sắc của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng và nhân dân ta đối với Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh. Tuy cách tiếp cận của từng tham luận ở những góc độ khác nhau, nhưng tựu trung lại, đã tập trung phân tích, luận giải làm nổi bật chủ đề Hội thảo: “Đồng chí Lê Đức Anh với cách mạng Việt Nam và quê hương Thừa Thiên Huế”. Từ các tham luận và ý kiến phát biểu, có thể khái quát một số nội dung chính sau:
1. Tiếp tục khẳng định Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh là người cộng sản kiên trung, mẫu mực, nhà lãnh đạo xuất sắc, người con ưu tú của quê hương Thừa Thiên Huế, suốt đời vì dân, vì nước
Đây là nội dung được hầu hết các ý kiến, tham luận, lý giải sâu sắc và khẳng định. Khởi nguồn từ lòng yêu nước, truyền thống quê hương và gia đình, với khát khao được góp sức vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, đồng chí Lê Đức Anh đã sớm giác ngộ và đi theo con đường cách mạng của Đảng. Vượt lên hoàn cảnh, mọi khó khăn, gian khổ, đồng chí xác định rõ lý tưởng cộng sản và hăng hái tham gia hoạt động cách mạng, trở thành nòng cốt lãnh đạo trong các phong trào đấu tranh chống áp bức, bóc lột, đòi dân sinh, dân chủ ở Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Được lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng yêu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soi đường, được các bậc tiền bối của Đảng dìu dắt, đồng chí Lê Đức Anh say mê tự học tập, rèn luyện, phấn đấu, sớm trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) khi vừa tròn 18 tuổi.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược và chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc của Tổ quốc, đồng chí Lê Đức Anh luôn có mặt ở những chiến trường khó khăn, gian khổ nhất. Trên các cương vị công tác, đồng chí Lê Đức Anh luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta giành được những thắng lợi vĩ đại, giành độc lập dân tộc, bảo vệ được chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Khi giữ trọng trách Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với tư duy chiến lược, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tác phong sâu sát, đồng chí cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước đề ra và chỉ đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
2. Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh có nhiều đóng góp trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Các tác giả đã tập trung đi sâu, luận giải, khẳng định Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh là nhà tham mưu chiến lược xuất sắc, góp phần chuẩn bị và hoàn thiện nhiều quan điểm, chủ trương, chính sách về quân sự, quốc phòng; điều chỉnh thế bố trí chiến lược của đất nước từ thời bình sang thời chiến và từ thời chiến sang thời bình; củng cố và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân và tổ chức quân sự, quốc phòng của đất nước; xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.
Trong 30 năm chiến tranh cách mạng (1945 - 1975) và chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, đồng chí Lê Đức Anh luôn có mặt ở những chiến trường trọng yếu, khó khăn, ác liệt. Đồng chí đã kinh qua các chức vụ từ cấp đại đội, chi đội, trung đoàn, Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8, Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn, Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ, Phó Cục trưởng Cục Tác chiến, Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong mọi hoàn cảnh, đồng chí luôn vượt qua mọi khó khăn, chỉ đạo tác chiến, xây dựng đoàn kết nội bộ, mở rộng vùng căn cứ, thể hiện phẩm chất cao quý của Bộ đội Cụ Hồ, của người chỉ huy, mưu trí, dũng cảm, quyết đoán, quyết thắng.
Trên cương vị là Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh miền Nam, Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh miền Nam, Tư lệnh Khu 9, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam, đồng chí đã trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch lớn, luôn thể hiện bản lĩnh của người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, giữ vững thế tiến công, chủ động tiến công, lăn lộn với thực tế chiến trường để tìm ra những cách đánh hiệu quả, giảm hy sinh xương máu của chiến sĩ và đồng bào, góp phần cùng quân và dân ta giành được nhiều thắng lợi có ý nghĩa quan trọng, quyết định, như: Đánh bại cuộc hành quân Gianxơn Xiti của Mỹ tiến công căn cứ của Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền ở Tây Ninh năm 1967, chống địch lấn chiếm, phá hoại Hiệp định Pari năm 1973 trên địa bàn Khu 9, lãnh đạo, chỉ đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng nhiều tỉnh, thành phố có vị trí chiến lược, làm thay đổi cục diện chiến trường, góp phần vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, đồng chí là một trong những tướng lĩnh trực tiếp chỉ huy chiến trường và giành nhiều thắng lợi quan trọng, bảo vệ biên giới thiêng liêng của Tổ quốc và giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Là Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Trưởng ban Lãnh đạo đoàn chuyên gia giúp Campuchia, đồng chí đã quán triệt nghiêm túc đường lối đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam “giúp bạn là mình tự giúp mình”, chuẩn bị mọi mặt chu đáo các cuộc tiếp xúc với bạn, coi trọng công tác chuyên gia... thường xuyên rèn luyện cho cán bộ, bộ đội tình nguyện chấp hành các mệnh lệnh, nguyên tắc. Kết quả hoạt động đối ngoại của đồng chí đã góp phần tích cực vào việc tăng cường quan hệ hữu nghị quốc tế Việt Nam - Campuchia. Đồng chí cũng là người trực tiếp thị sát, chỉ đạo và đóng góp quan trọng trong thực hiện chủ trương xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Sau khi đất nước hòa bình, thống nhất, đồng chí được Đảng, Nhà nước giao nhiều trọng trách, như: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương; là Ủy viên Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, VII và VIII; Bí thư Trung ương Đảng khóa VII; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa V, VI, VII, VIII; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ tháng 9/1992 đến tháng 12/1997; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ năm 1997 đến tháng 4/2001; đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII và IX.
Sau Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986), Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác đối ngoại, trong đó có việc bình thường hóa quan hệ với các nước lớn. Đại tướng Lê Đức Anh đã được tin tưởng giao trọng trách “mở đường” trong việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ; và tiếp đó là việc gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Với tài năng và sự sáng tạo của mình, đồng chí đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này, góp phần hoàn thành những mục tiêu lớn trong thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đưa vị thế của Việt Nam lên một tầm cao mới trên trường quốc tế.
Ở bất kỳ cương vị nào, đồng chí luôn trăn trở, tìm tòi, tâm huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng để tái thiết, đổi mới và phát triển đất nước, phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước; cùng Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng thế trận “chiến tranh nhân dân” và nền quốc phòng toàn dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước.
3. Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh - tấm gương sáng về đạo đức cách mạng
Các tham luận đều khẳng định Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh là một tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng. Suốt cuộc đời mình, đồng chí đã đi theo ngọn cờ quang vinh của Đảng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, luôn đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của nhân dân, của quân đội lên trên lợi ích của cá nhân, gia đình, thật sự là người lãnh đạo, người “đầy tớ”, “công bộc” trung thành tận tụy của nhân dân, chiến đấu vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh luôn xác định lấy việc phục vụ nhân dân vô điều kiện làm tiêu chuẩn cả cuộc đời mình, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, bám sát thực tiễn cuộc sống bình dị của nhân dân; đối với lực lượng vũ trang, Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh luôn gần gũi, hiểu tâm tư của cán bộ, chiến sĩ, hết lòng giúp đỡ, yêu thương; lời nói đi đôi với việc làm, lý luận gắn với thực tiễn, đạo đức đi đôi với tài năng. Chính nhờ lối sống chan hòa với cuộc sống của nhân dân,... đồng chí đã nhìn ra những bất cập trong hoạt động thực tiễn, tìm ra hướng giải quyết, nhờ đó đã bồi đắp những kinh nghiệm thực tiễn, làm chìa khóa cho sự phát triển công việc cho mình, cho Đảng, cho Nhà nước và cho quân đội tiến lên.
Hơn 80 năm hoạt động cách mạng, Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã có nhiều công lao to lớn và cống hiến xuất sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta, tuyệt đối trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Là cán bộ được tôi luyện, vào sinh ra tử, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí luôn giữ vững ý chí, phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; không ngừng rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, nâng cao tri thức, sáng tạo, sắc sảo, quyết đoán và hành động quyết liệt trong mọi công việc.
Là một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt tiêu biểu của Đảng, dù ở cương vị nào, đồng chí cũng mang hết nhiệt huyết đóng góp nhiều ý kiến quan trọng vào những vấn đề lớn của đất nước. Đồng chí không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn thể hiện rõ phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, luôn đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc và nhân dân lên trên hết. Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà chính trị, nhà quân sự tài năng, một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí là tấm gương sáng để đồng bào, đồng chí, cán bộ, chiến sĩ cả nước yêu quý, kính trọng, học tập và noi theo.
Kính thưa các quý vị đại biểu, thưa toàn thể các đồng chí!
Hội thảo khoa học “Đồng chí Lê Đức Anh với cách mạng Việt Nam và quê hương Thừa Thiên Huế” là một chủ đề lớn, hết sức phong phú. Trong khuôn khổ một buổi Hội thảo, chỉ có thể luận bàn được những vấn đề cơ bản nhất.
Ban Chỉ đạo Hội thảo mong muốn sau Hội thảo này, với trách nhiệm chính trị và tinh thần khoa học nghiêm túc, sẽ còn nhiều công trình nghiên cứu, có đóng góp quý báu, thiết thực làm sâu sắc và toàn diện hơn về cuộc đời, sự nghiệp và những cống hiến to lớn của Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh. Qua đó góp phần thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Với ý nghĩa đó, Ban Chỉ đạo Hội thảo bày tỏ lòng biết ơn và lời chúc sức khỏe, thành công đến các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội, các vị lão thành cách mạng, các vị tướng lĩnh, nhà khoa học và thân nhân gia đình Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh cùng toàn thể các đồng chí đã đến dự, đóng góp cho sự thành công của cuộc Hội thảo khoa học này.
Trân trọng cảm ơn!
Thiếu tướng, TS. Nguyễn Hoàng Nhiên