Nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng tài ba, nhà lãnh đạo xuất sắc, một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã có nhiều cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng. Cuộc đời của Đại tướng gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Đại tướng đã có công lao lớn trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, có mặt trên nhiều chiến trường khó khăn, ác liệt, chỉ huy, trực tiếp chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cũng như trong cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ ở phía Tây Nam và giúp cách mạng Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Khmer đỏ, để hồi sinh, xây dựng đất nước Campuchia. Trên cương vị là Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn đầu đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, Đại tướng đã cùng tập thể lãnh đạo của Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng trong công tác đối nội, đối ngoại, góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, quốc phòng, an ninh được giữ vững và củng cố... Hơn 80 năm hoạt động cách mạng, trên các cương vị công tác, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, Đại tướng cũng luôn trung thành với Đảng, với Tổ quốc, giữ vững và phát huy phẩm chất đạo đức cách mạng của người đảng viên cộng sản, nỗ lực làm hết sức mình với tư tưởng tiến công, hoàn thành cao nhất nhiệm vụ và trọng trách được giao.
Nhằm ôn lại và ghi nhớ hình ảnh khó phai về một nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn; người hoạt động thực tiễn sôi nổi, sâu sắc, có hiệu quả, nói đi đôi với làm, có tư duy sáng tạo, tinh thần quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, một chiến sĩ cách mạng tài trí, kiên cường, hết lòng vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, Hiệu sách Minh Châu phối hợp với Nhà xuất bản Dân trí xuất bản và phát hành cuốn sách: Đại tướng Lê Đức Anh - Nhà quân sự tài ba, nhà lãnh đạo xuất sắc. Nội dung sách gồm:
Phần I: Tóm tắt tiểu sử Đại tướng Lê Đức Anh;
Phần II: Đại tướng Lê Đức Anh với cách mạng Việt Nam;
Phần III: Đại tướng Lê Đức Anh - Nhà quân sự tài ba, nhà lãnh đạo xuất sắc;
Phần IV: Những kỷ niệm sâu sắc với Đại tướng Lê Đức Anh;
Phần V: Lễ quốc tang nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh.
Chúng tôi hy vọng cuốn sách sẽ phần nào thể hiện hình ảnh Đại tướng Lê Đức Anh - Nhà quân sự tài ba, nhà lãnh đạo xuất sắc, hết lòng vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, qua đó, chúng ta nguyện tiếp bước sự nghiệp cách mạng của Đảng ta và nhân dân ta; tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa trong tình hình mới.
Trong quá trình thực hiện cuốn sách không thể tránh khỏi những hạn chế. Chúng tôi mong nhận được góp ý chân thành của bạn đọc để khi có điều kiện tái bản cuốn sách được hoàn thiện hơn. Vì lý do khách quan, chúng tôi chưa thể liên lạc để xin phép được hết các tác giả có bài viết, hình ảnh sử dụng trong cuốn sách này, chúng tôi rất mong các tác giả vui lòng lượng thứ, hoặc liên hệ với chúng tôi để chúng tôi có dịp bày tỏ sự cảm ơn chân thành và thực hiện bổn phận với tác giả.
Trân trọng giới thiệu cuốn sách tới bạn đọc.
HIỆU SÁCH MINH CHÂU
TÓM TẮT TIỂU SỬ ĐỒNG CHÍ ĐẠI TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH,
nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Đồng chí Lê Đức Anh (bí danh Nguyễn Phú Hòa; Sáu Nam), sinh ngày 1-12-1920; quê quán: Xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế; thường trú tại số nhà 5A Hoàng Diệu, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Tham gia hoạt động cách mạng năm 1937; vào Đảng tháng 5-1938.
QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC
Năm 1937, đồng chí tham gia phong trào dân chủ ở Phú Vang (tỉnh Thừa Thiên Huế); tháng 5-1938, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1939 - 1943, địch khủng bố mạnh, mất liên lạc, đồng chí vào Hội An, Đà Lạt, Lộc Ninh, Thủ Dầu Một tham gia hoạt động trong các hội Ái hữu.
Tháng 3-1944, đồng chí bắt liên lạc được với tổ chức và được giao nhiệm vụ hoạt động trong các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh, Quảng Lợi, Xa Can, Xa Cát.
Đầu năm 1945, đồng chí được giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng trung kiên trong các nghiệp đoàn, chuẩn bị đấu tranh võ trang.
Tháng 8-1945, đồng chí được phân công phụ trách chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền ở các đồn điền cao su và hai huyện Hớn Quản, Bù Đốp, tỉnh Bình Phước. Thời gian này, đồng chí tham gia Quân đội, chỉ huy giành chính quyền ở Lộc Ninh, tham gia tỉnh uỷ lâm thời, phụ trách quân sự phía Bắc tỉnh Thủ Dầu Một.
Tháng 11-1946 đến tháng 10-1948, đồng chí làm Chính trị viên Chi đội 1 (sau là Trung đoàn 301), Trung đoàn Uỷ viên, Tỉnh uỷ viên Thủ Dầu Một.
Tháng 10-1948 đến tháng 12-1948, đồng chí làm Tham mưu trưởng Khu 7, Quân khu Uỷ viên.
Tháng 1-1949 đến tháng 10-1949, đồng chí làm Tham mưu trưởng Khu 8, Quân khu Uỷ viên.
Tháng 11-1949 đến tháng 5-1950, đồng chí làm Tham mưu trưởng Quân khu Sài Gòn - Chợ lớn, Quân khu Uỷ viên.
Tháng 6-1950 đến tháng 12-1950, đồng chí làm Tham mưu trưởng Khu 7.
Tháng 1-1951, đồng chí làm Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ.
Tháng 5-1955, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Phó Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 10-1957, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Cục phó thứ nhất Cục Quân lực, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 12-1958, đồng chí được Đảng, Nhà nước phong quân hàm Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 8-1961, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Cục trưởng Cục Quân lực, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 8-1963, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 8-1965, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh miền Nam , Uỷ viên Quân uỷ Miền.
Năm 1968, đồng chí giữ chức Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh miền Nam , Uỷ viên Quân ủy Miền.
Năm 1969, đồng chí giữ chức Tư lệnh Khu 9, Phó Bí thư Khu ủy.
Năm 1974, đồng chí giữ chức Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh miền Nam , Ủy viên Quân ủy Miền. Đồng chí được Đảng, Nhà nước thăng quân hàm từ Đại tá lên Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam (tháng 4/1974).
Năm 1975, đồng chí giữ chức Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam.
Tháng 5-1976, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Quân khu 9, Bí thư Quân Khu ủy.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (tháng 12-1976), đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Tháng 6-1978, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Uỷ viên Thường vụ Quân uỷ Trung ương.
Tháng 1-1981, đồng chí được Đảng, Nhà nước thăng quân hàm Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 6-1981, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Cam-pu-chia.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (tháng 3-1982), đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị.
Tháng 12-1984, đồng chí được Đảng, Nhà nước thăng quân hàm Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986), đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 2-1987, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6-1991), đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng.
Tháng 9-1992, tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá IX, đồng chí được bầu giữ chức Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6-1996), đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị, làm Thường vụ Bộ Chính trị.
Tháng 12-1997, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư khoá VIII, đồng chí xin thôi tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thôi giữ chức Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng suy tôn làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng đến tháng 4-2001.
Đồng chí là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khoá IV, V, VI, VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng khoá VII; Uỷ viên Bộ Chính trị các khoá V, VI, VII, VIII; Thường vụ Bộ Chính trị khoá VIII; Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ tháng 9-1992 đến tháng 12-1997); Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng (từ năm 1997 đến tháng 4-2001); Đại biểu Quốc hội các khoá VI, VIII, IX.
Do có công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc, đồng chí được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng; Huân chương Quân công hạng Nhất; Huân chương Chiến công hạng Nhất; Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.
Với tầm nhìn xa trông rộng, từ lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị đã nhận thấy rằng: Đương đầu với kẻ thù có tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân sự lớn hơn ta gấp nhiều lần, chúng ta phải biết thắng từng bước cho đúng và đánh vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Ngay từ năm 1965, trước sự phá sản của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh vào miền Nam thực hiện chiến lược "Chiến tranh cục bộ". Mưu đồ chiến lược này là bằng sức mạnh quân sự Mỹ cùng với quân ngụy mở các cuộc tiến công lớn “tìm diệt” (sau đó là "tìm diệt" và "bình định") chủ lực của ta ở miền Nam; dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện từ Bắc vào Nam, cô lập và đè bẹp cách mạng miền Nam. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (tháng 12-1965), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phân tích, đánh giá đúng cả mặt mạnh và mặt yếu của địch, thế và lực của ta, Đảng ta chỉ rõ: Cần tiếp tục giữ vững và phát huy thế chiến lược tiến công, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị trong đó đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp, để đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta tiếp tục tiến lên.
Tuy chúng ta đã giành được nhiều thắng lợi nhưng chưa làm chuyển biến cơ bản cục diện chiến tranh. Một vấn đề lớn đặt ra là ta cần có một đòn chiến lược có ý nghĩa quyết định để tạo ra cục diện mới-một bước ngoặt của cách mạng miền Nam.Tư tưởng chỉ đạo nói trên trở thành ý chí, hành động cách mạng của quân và dân cả nước. Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã liên tiếp đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, trong đó có cuộc hành quân Junction City (Gian-xơn Xi-ty) ở phía bắc tỉnh Tây Ninh-cuộc hành quân lớn nhất của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam; làm thất bại các bước leo thang chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ trên miền Bắc. Bị thất bại liên tiếp nhưng Mỹ vẫn có ý định tăng hơn 25,6 vạn quân, chuẩn bị kế hoạch mở cuộc phản công lần thứ ba với quy mô lớn hơn.
Bám sát và phân tích động thái chiến trường, tình hình nước Mỹ và thế giới, Hội nghị Bộ Chính trị (tháng 12-1967) dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: "Chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược. Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược”. Từ đó, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quyết định: "... Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta tiến lên bước phát triển cao nhất bằng phương pháp Tổng công kích-tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định". Bộ Chính trị cho rằng cần phải tập trung toàn bộ sức mạnh của chiến tranh cách mạng miền Nam, đánh địch bằng cả tiến công quân sự và tiến công chính trị. Đây là "nhiệm vụ trọng đại và cấp bách", nhằm giáng cho địch một đòn thật mạnh, làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ, tạo ra sự thay đổi cơ bản cục diện chiến tranh có lợi cho ta, "chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới-thời kỳ giành thắng lợi quyết định". Hướng tiến công chiến lược chủ yếu là các thành phố, trung tâm đầu não của Mỹ-ngụy trên toàn miền Nam vào dịp Tết Mậu Thân.
Tháng 10-1967, anh Nguyễn Văn Linh và anh Trần Văn Trà ra Trung ương họp. Sang tháng 11, hai anh trở vào phổ biến việc Bộ Chính trị quyết định Tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Để chuẩn bị cho Tổng công kích, trên điều anh Hoàng Văn Thái vào làm Tư lệnh Bộ chỉ huy Miền.Căn cứ vào chủ trương trên, ta triển khai nhiều biện pháp tổ chức thực hiện: Xây dựng quyết tâm, tạo sự nhất trí cao giữa Trung ương và chiến trường cả về tư tưởng lẫn hành động; tiến hành nghi binh bằng quân sự, tiến hành mọi công tác chuẩn bị theo một kế hoạch chặt chẽ, nghiêm ngặt, giữ bí mật ý định chiến lược của ta. Nhớ lại đầu năm 1967, Trung ương Cục đánh giá cũng trúng và chỉ đạo mùa mưa này chuẩn bị thật tốt để mùa khô tới giành thắng lợi lớn hơn. Bộ chỉ huy Miền tăng cường và phát triển lực lượng biệt động, lấy người tại chỗ ngay trong nội thành. Trung ương Cục giao cho anh Võ Văn Kiệt-Bí thư Thành ủy Sài Gòn-Gia Định lo xây dựng, củng cố các lực lượng biệt động thành và tăng cường các đồng chí cán bộ đầu ngành vào chỉ đạo các lực lượng chính trị trong nội thành. Đồng thời, Trung ương Cục chỉ đạo Bộ chỉ huy Miền và các quân khu phối hợp với các tỉnh ủy, thành ủy làm tốt công tác chuẩn bị.
Trước khi nổ ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, tuy đã có bước chuẩn bị các hướng rồi, nhưng còn nhiều việc phải làm, thời gian lại quá gấp. Hơn nữa, ý của trên đánh thế nào không được phổ biến kỹ, mọi người chỉ hiểu là: "Đánh vào đô thị". Chúng tôi thảo luận: Phải nghiên cứu tìm ra cách đánh, táo bạo cho đòn tiến công, có ý nghĩa chiến lược, dự kiến các tình huống và các phương án cụ thể. Trong quá trình xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược, Bộ chỉ huy Miền chú trọng việc theo dõi, đánh giá khả năng hành động của bộ đội ta khi đánh vào thành phố và khả năng nổi dậy của quần chúng, cũng như khả năng binh biến trong ngụy quân, ngụy quyền...
Mặc dù thời gian chuẩn bị gấp nhưng ta đã vận chuyển được một khối lượng lớn vũ khí và phương tiện chiến đấu, giấu trong nhà dân gần các mục tiêu dự định tiến công. Nhưng không phải đến lúc nhận lệnh ta mới chuẩn bị. Mà trước đó, những gì lo được, ta đã tính toán chuẩn bị: Từ năm 1965, ta đã xây dựng các hầm chứa vũ khí và hầm bí mật trong nội thành. Tính đến cuối năm 1967, ta đã thiết lập được 19 "lõm" căn cứ chính trị ngay sát những mục tiêu trọng yếu của địch, bao gồm: 325 gia đình cơ sở, 400 điểm ém quân, 12 kho vũ khí, thiết lập đường dây liên lạc và chuyển vũ khí vào gần các mục tiêu tiến công, sẵn sàng đón và đáp ứng thời cơ chiến lược. Đây là thắng lợi lớn của phương châm đánh địch trên ba vùng chiến lược, là một trong những cơ sở quan trọng để Đảng ta hạ quyết tâm đưa chiến tranh vào đô thị, mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trong dịp Tết Mậu Thân 1968.
Cho đến nay, đã hơn một phần ba thế kỷ, nhiều nhà nghiên cứu quân sự trong nước và ngoài nước, kể cả bộ máy chiến tranh của Mỹ, vẫn cố tìm hiểu, bằng cách gì mà ta triển khai trên diện rộng toàn miền Nam, bằng cách gì mà ta đồng loạt nổ súng tiến công ở tất cả các đô thị, tỉnh lỵ mà ta vẫn giữ được tuyệt đối bí mật? Tôi nhớ, gần sát "thời điểm tổng tiến công", Bộ Chính trị và đồng chí Lê Duẩn-Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng mới triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ 14; họp xong, về ngay để triển khai nhiệm vụ. Đồng chí Phạm Hùng-Bí thư Trung ương Cục gọi riêng từng đồng chí bí thư tỉnh ủy lên giao nhiệm vụ. Mỗi tỉnh chỉ một người biết rõ "Giờ G, ngày N"-thời điểm nổ súng đồng loạt tiến công địch.
Điều này nói lên sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh sáng tạo của Đảng ta; sự thống nhất của ý chí, sự nghiêm minh của kỷ luật chiến trường đã quyện trong ý thức tự giác, lòng trung thành và phẩm chất mẫu mực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp. Ngay sự thống nhất ý chí, hành động của quân và dân ta lúc đó đã tạo sức mạnh tiến công đối với quân thù. Đây cũng là yếu tố quan trọng tạo nên chiến thắng trong Tết Mậu Thân 1968.
Quần chúng đã tham gia tích cực vào cuộc chuẩn bị cho đợt Tổng tiến công này và sau khi nổ súng đã tham gia đông đảo bằng nhiều hình thức trên nhiều lĩnh vực. Nhân dân trinh sát, nắm tình hình, dẫn đường, che giấu cán bộ và tích cực tham gia chiến đấu; tiếp tế cơm nước cho bộ đội, nuôi dưỡng thương binh rồi đưa về căn cứ an toàn. Nhiều người, có trường hợp cả gia đình bị địch bắt, khủng bố, tù đày... vẫn một lòng hướng về cách mạng, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Do xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân-thế trận lòng dân nên chúng ta đã làm tốt công tác chuẩn bị, giữ được bí mật cho đến giờ nổ súng và chúng ta mới có thể tiến công địch theo kiểu Mậu Thân 1968. Điều này khiến giới lãnh đạo Washington (Oa-sinh-tơn) kinh hoàng vì khi cuộc tiến công "Tết Mậu Thân" vừa xảy ra, nhiều nhà hoạt động chính trị Mỹ đã ý thức được ngay rằng: Cuộc tấn công "Tết Mậu Thân", "chứng tỏ Mỹ hoàn toàn không kiểm soát được gì đất nước này"; "... chứng tỏ nhân dân Nam Việt Nam ủng hộ kẻ thù của Mỹ".
Thực hiện kế hoạch đã định, cuối tháng 1-1968, ta bắt đầu mở đợt hoạt động lớn ở Mặt trận Đường 9-Khe Sanh, nhằm đánh lạc hướng, thu hút một bộ phận đáng kể quân cơ động của Mỹ; vây hãm, giam chân và tiêu hao chúng, tạo thế cho các chiến trường khác tiến công và nổi dậy. Lập tức, tướng Westmoreland (Oét-mo-len)-Tổng chỉ huy quân Mỹ ở Nam Việt Nam phải điều quân tăng cường, chống giữ; cho không quân ném bom các khu rừng xung quanh căn cứ Khe Sanh và khu vực giới tuyến. Như vậy, tướng Westmoreland đã sập bẫy bởi đòn nghi binh chiến lược của ta.
Đêm 29 rạng ngày 30-1-1968 (tức đêm Giao thừa Tết Mậu Thân, theo lịch miền Nam), quân và dân ta đồng loạt nổ súng tiến công trên toàn chiến trường miền Nam, gồm 4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn, 4 bộ tư lệnh quân đoàn địch, hầu hết các bộ tư lệnh sư đoàn, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần của chúng. Trong đó, có những trận đánh đã gây chấn động lớn như trận đánh vào dinh Độc Lập, vào bộ tổng tham mưu, vào đài phát thanh Sài Gòn, vào tòa đại sứ Mỹ và đặc biệt ta đã làm chủ TP Huế trong 25 ngày đêm.
Cuộc Tổng tiến công táo bạo của ta đã làm cho bộ máy điều hành chiến tranh Việt Nam của Mỹ sững sờ. Chỉ trong 24 giờ, toàn bộ hậu phương an toàn nhất của kẻ địch đều bị tiến công đồng loạt. Cái thế của hai bên trong chiến tranh bị đảo lộn, hậu phương của địch bỗng chốc trở thành tiền tuyến nóng bỏng. Đúng là ta đã ra những đòn sấm sét ngay trong lúc Mỹ-ngụy có hơn một triệu quân, nắm trong tay những phương tiện chiến tranh hiện đại, lại bố trí trong thế phòng thủ liên hoàn, vững chắc, mà chúng hoàn toàn bị bất ngờ. Có thể nói, đợt đầu của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, chúng ta đã ra đòn bất ngờ và đánh trúng vào hệ thần kinh trung ương của địch, đánh vào "huyết mạch", vào "tim óc" và "yết hầu" của chúng.
Vì thất bại nặng nề, sau Mậu Thân, Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược chiến tranh, tiến hành "Việt Nam hóa chiến tranh" (thực chất là thay màu da trên xác chết, như một quan chức Mỹ nói). Để thực hiện kế hoạch "Việt Nam hóa chiến tranh", chúng tiến hành theo ba bước. Bước một, đến ngày 30-6-1970: Thực hiện "bình định" vùng đông dân để quân Mỹ rút được một bộ phận. Bước hai, đến ngày 30-6-1971: "bình định" được tất cả các vùng đông dân để quân Mỹ rút được đại bộ phận lực lượng chiến đấu. Bước ba, đến ngày 30-6-1972: Cơ bản, Sài Gòn chỉ huy được miền Nam. Hoàn thành giai đoạn cơ bản nhất của "Việt Nam hóa chiến tranh". Mỹ sẽ rút hết quân về nước, đáp ứng kịp thời việc bầu cử Tổng thống Mỹ vào tháng 11-1972.
Đến cuối năm 1971, quân Mỹ cơ bản đã chấm dứt vai trò chiến đấu trên bộ. Tính đến ngày 31-1-1972, tổng số quân Mỹ ở miền Nam chỉ còn 139.000. Tính theo đơn vị, 30 trên tổng số 34 lữ đoàn đã rút. Như vậy, đến đầu năm 1972, Mỹ đã cơ bản thực hiện xong chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Nhưng lúc đó, bộ đội ta, kể cả lãnh đạo chỉ huy chưa hiểu hết cái khó khăn, khốc liệt của "Việt Nam hóa chiến tranh" và chưa thấy hết cái độc ác của đế quốc Mỹ (có thể nói cái độc ác này chưa từng có trong lịch sử); nên lúc đầu có nơi bộ đội ta đã thoát ly khỏi địa bàn, không làm chỗ dựa cho dân, cho cơ sở chống bình định, nên đã gây cho dân và cơ sở nhiều tổn thất. Đây cũng là bài học xương máu. Trong quá trình rút quân, Mỹ dùng mọi thủ đoạn độc ác và mọi biện pháp, như: Tăng cường cảnh sát và mật thám ở đô thị, gom dân vào ấp chiến lược ở nông thôn, tăng cường bắt lính, xây dựng ngụy quân, ngụy quyền. Nhân dân ở đô thị sống trong cảnh ngột ngạt đến nghẹt thở dưới sự kiểm soát, o ép của chính quyền ngụy, người dân trong ấp chiến lược như sống trong trại tù khổng lồ. Vì vậy, khi thời cơ chín muồi (Mỹ rút hết quân), có tác động mạnh của bộ đội ta và hoạt động nhịp nhàng của các ngành, các chiến trường thì những người bị bắt lính, những người sống nghẹt thở ở đô thị và những người bị nhốt trong ấp chiến lược được bung ra thành những người tự do, thành vùng tự do, đỉnh cao là Chiến dịch Sài Gòn-Gia Định mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trên đà thắng lợi Tết Mậu Thân 1968, quân và dân ta tiếp tục chiến đấu, dù còn phải trải qua nhiều gian khổ, ác liệt, hy sinh, nhưng chúng ta có điều kiện mới và thời cơ mới để thực hiện thắng lợi Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau 40 năm nhìn lại, chúng ta càng thêm tự hào về ý nghĩa, tầm vóc của Chiến thắng Mậu Thân 1968 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc. Đó là thắng lợi của ý chí độc lập tự chủ, bản lĩnh và sáng tạo trong việc đề ra chủ trương chiến lược; là thắng lợi của niềm tin tuyệt đối của toàn dân, toàn quân vào sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu; là thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, tất cả vì chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do"!
Đại tướng LÊ ĐỨC ANH, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước
Trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang đứng trước những khó khăn gay gắt: Mỹ tiếp tục bao vây cấm vận, "chiến tranh ở hai đầu biên giới" vẫn chưa nguôi. Những năm hòa bình sau mấy chục năm chiến tranh ta chưa khôi phục, hàn gắn được bao nhiêu thì từ sự chậm đổi mới cộng với những sai lầm trong chính sách vĩ mô về kinh tế, nhất là đợt biến động "giá - lương - tiền" đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân lao động nói chung, cán bộ, công nhân viên khối hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang nói riêng. Trong lúc đó, một bộ phận cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân tác động, chi phối, rơi vào thói tham ô vụ lợi, hách dịch cửa quyền, quan liêu xa rời quần chúng đã làm xói mòn lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và tạo kẽ hở cho kẻ thù giai cấp và những kẻ cơ hội lợi dụng để đả kích, chỉ trích bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nhằm mục đích phá hoại Đảng Cộng sản, phá hoại thành quả cách mạng...
Từ ngày 13 đến 18-10-1986, Đại hội đại biểu Đảng bộ quân đội lần thứ IV được tổ chức tại Hà Nội. Đại hội diễn ra cách đây gần 30 năm rồi, nhưng đến nay, có điều làm tôi còn suy nghĩ: Không khí Đại hội nặng nề, có người đã vin vào câu chữ trong chỉ đạo lúc đó là "nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật..." một cách phiến diện, tận dụng diễn đàn không khí bên ngoài Đại hội để "nói cho sướng miệng" và thực hiện ý đồ cá nhân. Quá trình chuẩn bị giới thiệu nhân sự dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng thì có việc một số cá nhân vận động ngầm xuyên tạc, nói xấu một số đồng chí lãnh đạo Bộ Quốc phòng. Khi họ nói với tôi cần có cuộc "hội ý về nhân sự" thì tôi nói "Không được! Giờ ai tốt thì bầu lên làm; đừng có người này nói xấu người kia, có gì thì cứ phê hình trong hội nghị đàng hoàng". Rõ ràng có một ý đồ xấu nhằm chia rẽ đoàn kết nội bộ, đi ngược lại những điều tốt đẹp đã trở thành truyền thống của quân đội ta. Khi giải lao, có người còn khích tôi:
- Sao anh im lặng thế?
- Im lặng để còn nghe các anh nói - Tôi trả lời.
Tôi im lặng vì thấy tình hình quá phức tạp. Trong chiến tranh trước đây, cũng có chuyện phức tạp, nhưng đoạn sau này còn phức tạp hơn.
Ngày 7-12-1986, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký quyết định: tôi giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Các anh trên Trung ương gọi tôi ra, anh Lê Đức Thọ trực tiếp giao nhiệm vụ cho tôi. Tôi nói với anh Thọ:
- Xin các anh để tôi làm nốt nhiệm vụ ở Campuchia, xong, cho tôi làm tổng kết kinh nghiệm về công tác quân sự trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ.
- Cậu từng làm Tổng Tham mưu phó, rồi Thứ trưởng, giờ qua làm Tổng Tham mưu trưởng, có gì mà không làm được - Anh Thọ động viên tôi.
Làm Tổng Tham mưu trưởng, việc đầu tiên là, tôi đi thị sát dọc vùng biên giới sáu tỉnh phía Bắc. Những ngày cuối đông, ở vùng cao rét càng đậm. Sương muối giăng phủ khắp miền biên giới. Chúng tôi gặp gỡ người dân, cán bộ địa phương và kiểm tra trực tiếp, hỏi chuyện cán bộ, chiến sĩ, thấy nhiều vấn đề nổi cộm quá.
Bấy lâu nay, các đơn vị cấp dưới báo cáo lên cấp trên thường chỉ nói mặt tốt, ưu điểm, còn mặt yếu kém, khuyết điểm thì không báo cáo. Lúc đó, tôi thấy rõ bộ đội về tinh thần rất căng thẳng, về vật chất thì điều kiện ăn, ở, sinh hoạt rất thiếu thốn, kham khổ. Bởi vậy, bộ đội sinh ra bất mãn, tiêu cực và vi phạm kỷ luật dân vận, có nơi bộ đội quan hệ với nhân dân chưa tốt. Quan hệ cán bộ, chiến sĩ cũng nhiều nơi chưa tốt.
Ngày hôm sau, tại một số điểm chốt, tôi bảo anh em hãy cho đơn vị lui về phía sau. Anh em cán bộ và cả chiến sĩ nữa nói rằng nếu mình lui mà bên kia họ lên thì lo lắm. Tôi bảo cứ rút đi. Tiếp đó, tôi cho rút từng phần các đơn vị chủ lực về tuyến hai để đưa dân quân, bộ đội địa phương và bộ đội biên phòng lên tuyến một. Tâm lý chung của cán bộ chỉ huy các cấp là lo sợ không anh nào dám cho chủ lực và các đơn vị dưới quyền mình lui xuống.
Hôm tôi đến Sở Chỉ huy Sư đoàn 316 thuộc Quân khu 2 ở phía dưới Phố Lu, tướng Vũ Lập, Tư lệnh Quân khu kéo đồng chí An là Chỉ huy trưởng Sư đoàn 316 lại gặp riêng tôi và hỏi:
- Báo cáo Tổng Tham mưu trưởng, đêm qua đồng chí An đã báo cáo với tôi là anh cho đơn vị của đồng chí lui xuống?
- Đúng thế - Tôi trả lời. Tướng Vũ Lập tỏ ra sửng sốt, bất ngờ nói rằng:
- Vậy thì xin anh cho văn bản!
Tôi bảo đồng chí Phi Long, Cục phó Cục Tác chiến cùng đi với tôi viết lệnh để tôi ký. Thấy thái độ kiên quyết của tôi, anh Vũ Lập nói vẻ xoa dịu:
- Anh lệnh thì dù mệnh lệnh bằng giấy hay bằng miệng chúng tôi cũng chấp hành. Nhưng anh cho giấy để cơ quan còn lưu trữ.
Lúc này, tôi chỉ thực hiện điều chỉnh sơ bộ, để thế phòng thủ biên giới của bộ đội ta có chiều sâu, vững chắc hơn.
Từ biên giới trở về, tôi báo cáo tình hình với anh Văn Tiến Dũng (Bộ trưởng Bộ Quốc phòng) và anh Nguyễn Văn Linh (Thường trực Ban Bí thư Trung ương).
Anh Linh nói:
- Mình mới được gọi ra, mình chưa đề nghị họp được.
Tôi gặp anh Lê Đức Thọ, anh Phạm Văn Đồng, báo cáo các vấn đề: ta, Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc, Đông Nam Á. Tôi nói cả ý kiến các địa phương, ý kiến của quần chúng và những suy nghĩ của tôi. Tình hình nhân dân và bộ đội ở biên giới là đáng lo ngại, cần phải chấn chỉnh, tổ chức lại. Tôi nói thẳng với anh Văn Tiến Dũng rằng: nếu đối phương mà đánh lớn thì bộ đội ta sẽ đánh trả nhưng cũng có bộ phận không nhỏ sẽ... rã! Về "chiến tranh tâm lý", họ đưa sang ta đủ thứ, từ cái nhỏ nhất như hộp quẹt lửa, nhưng ta thì không có gì hết, v.v… Bộ đội biên cương ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, vậy mà ngân sách quốc phòng chỉ mới lo chuyện đời sống, chưa tính đến trang bị, đã chiếm tới 25% tổng ngân sách quốc dân, bởi vì quân số thường trực quá lớn, trong khi nền kinh tế - xã hội đang lâm vào khủng hoảng. Cứ như thế này tiếp diễn thì ta sẽ chịu được bao lâu nữa?
Nghe tôi nói vậy, anh Phạm Văn Đồng lúc đó là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lắc đầu:
- Không chịu được! Không chỉ khủng hoảng về kinh tế mà còn khủng hoảng cả về tư tưởng nữa. Nói thì hăng hái, nhưng thực chất trong lòng thì lo lắm.
Bên quân đội, tôi nói với anh Văn Tiến Dũng về thỏa ước liên minh của Trung Quốc và Mỹ tháng 10-1975. Anh Dũng nói:
- Tình hình phức tạp...
- Phía Nam, nhất là ở Tây Nguyên và vùng biển đảo còn sơ hở. Bố trí như thế thì không thể đánh lâu dài được. Trong quân đội có nhiều cán bộ bề ngoài nói thì rất hăng nên chỉ thấy mặt tốt của họ, còn đằng sau thế nào thì anh chưa biết hết. Hiện tại số cán bộ chủ trì các quân khu, quân đoàn và cơ quan Bộ Tổng Tham mưu thì hăng lắm, còn ở cấp dưới như thế, đời sống bộ đội như thế, ngân sách quốc phòng như thế, liệu ta có trụ được không? - Tôi nói hết lời.
Anh Dũng hỏi tiếp:
- Ý kiến anh thế nào?
- Trước hết, cần quan tâm đến hai vấn đề: đời sống bộ đội và bố trí lực lượng phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc - Tôi trả lời rồi hỏi anh:
- Giờ, giảm quân số được không?
Anh nói:
- Hiện nay quân số thường trực đã rất lớn, mà trước khi anh ra làm Tổng Tham mưu trưởng, Bộ Tổng Tham mưu còn đề nghị tăng thêm một quân đoàn đứng chân ở đồng bằng Bắc Bộ và Thanh Hóa. Tình hình này mà giảm quân thì khó, mà để vậy cũng thật khó.
Tăng quân số, tăng chi phí quốc phòng, nhưng an ninh quốc phòng không bảo đảm, nguy cơ đối với độc lập dân tộc trên lĩnh vực quốc phòng tăng lên. Lúc đó, tôi cảm nhận một điều là cần phải giảm quân và điều chỉnh lại thế bố trí chiến lược.
Tôi gặp anh Trường Chinh và báo cáo anh đúng một giờ với tư cách Tổng Tham mưu trưởng báo cáo Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Anh Trường Chinh chăm chú nghe. Báo cáo xong, tôi hỏi:
- Anh có hỏi gì nữa không?
- Mọi điều rõ rồi. Cảm ơn! Vấn đề này cần suy nghĩ thêm - Anh Trường Chinh trả lời.
Vấn đề điều chỉnh, bố trí và giảm quân, trong Bộ Chính trị lúc đó có hai ý kiến đồng ý nên điều chỉnh; còn lại nhiều ý kiến cho rằng điều chỉnh là khó, vì lúc đó ta nghe qua đài phát thanh, phía bên kia có quan chức cấp cao vẫn tuyên bố "Sáng ăn cơm Vân Nam, tối ăn cơm ở Hà Nội". Vậy giảm quân như thế nào, chuyện gì sẽ xảy ra? Mà không giảm quân thì chi phí quốc phòng không giảm được. Lúc đó, anh Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, hai anh Phạm Hùng và Đỗ Mười làm Phó Chủ tịch; các anh ấy muốn giảm chi phí quốc phòng, giảm quân nhưng đều thấy khó.
Từ ngày 15 đến 18-12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội. Đại hội diễn ra trong bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều đặc điểm mới. Ở trong nước, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội lên đến đỉnh điểm, lạm phát lên tới 774%. Trước tình hình đó, Đại hội VI đã xác định các chính sách và biện pháp để ổn định tình hình, nhằm đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đại hội đã thảo luận và nhất trí về đường lối đổi mới đất nước, xác định nhiệm vụ cấp bách nhất là đổi mới tư duy kinh tế, nêu rõ vai trò của các thành phần kinh tế trong công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, khẳng định kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế cả nước; thống nhất quan điểm và chủ trương về công nghiệp hóa, tập trung vào ba chương trình kinh tế lớn và về quản lý kinh tế, kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, nhấn mạnh sự thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Đối với nhiệm vụ quốc phòng, Đại hội nêu bật quan điểm chỉ đạo: toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa VI gồm 124 ủy viên chính thức, 49 ủy viên dự khuyết (Đảng bộ quân đội có 15 ủy viên chính thức, 2 ủy viên dự khuyết). Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đoàn đại biểu quân đội có anh Đoàn Khuê và tôi được bầu vào Bộ Chính trị.
Ngày 18-2-1987, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký Quyết định số 6782/HĐNN bổ nhiệm tôi - Đại tướng Lê Đức Anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Thượng tướng Đoàn Khuê làm Tổng Tham mưu trưởng, Thượng tướng Nguyễn Quyết làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng chí Nguyễn Văn Linh - Tổng Bí thư của Đảng kiêm Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, tôi làm Phó Bí thư.
Ngày 17 và 18-6-1987, Quốc hội khóa VII họp kỳ thứ nhất bầu các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Nhà nước.
- Chủ tịch Hội đồng Nhà nước: Võ Chí Công.
- Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Lê Quang Đạo.
- Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng: Phạm Hùng.
- Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng: Võ Chí Công.
- Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng: Phạm Hùng và các ủy viên: Nguyễn Cơ Thạch, Mai Chí Thọ và tôi.
Đại hội VI đã quyết định công cuộc đổi mới đất nước với những nội dung cơ bản trong "đường lối đổi mới" như: xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế - xã hội bằng hành chính quan liêu bao cấp, xây dựng nền kinh tế hàng hóa với năm thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của nhà nước. Về quan hệ đối ngoại là thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa mà tư tưởng xuyên suốt là Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia, các dân tộc trên thế giới. Đây là những vấn đề mới mẻ, đầy thử thách, gian nan, nhất định phải làm bằng được, nhưng không thể nóng vội, vì cơ chế quan liêu bao cấp đã hằn sâu trong cán bộ các cấp, các ngành. Bởi vậy, Đảng ta chỉ rõ: thực hiện đổi mới trước hết là phải "đổi mới tư duy".
Triển khai thực hiện chủ trương này, về lĩnh vực quốc phòng, trên cương vị Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tôi đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương và các đồng chí trong cơ quan Bộ Quốc phòng tập trung nghiên cứu, điều chỉnh tổ chức biên chế, bố trí chiến lược của quân đội cho phù hợp với kế hoạch phòng thủ cơ bản trong thời kỳ mới. Anh Đoàn Khuê tiếp tục xây dựng kế hoạch điều chỉnh chiến lược. Chúng tôi thống nhất trong điều chỉnh chiến lược, bố trí lại đội hình chiến lược bảo đảm mục tiêu đánh lâu dài, giảm chi phí quốc phòng, phát huy được sức mạnh toàn dân, toàn diện, tạo nên sức mạnh phòng thủ đất nước và đủ sức mạnh chống lại mọi tình huống chiến tranh. Đó là con đường đổi mới xây dựng quân đội nhân dân, đổi mới công cuộc xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ quốc phòng và an ninh, kết hợp chặt chẽ công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Sau khi tôi báo cáo ý tưởng về điều chỉnh chiến lược, được Bộ Chính trị nhất trí, chúng tôi tổ chức thực hiện, chỉ đạo các cơ quan Bộ Quốc phòng, trong đó nòng cốt là Bộ Tổng Tham mưu, tiến hành song song hai việc lớn: một là, xây dựng kế hoạch và triển khai kế hoạch điều chỉnh bố trí chiến lược và giảm quân số. Hai là, soạn thảo các văn bản, tài liệu, giáo trình và triển khai trên toàn quốc "Thế trận chiến tranh nhân dân" và nhiệm vụ "Quốc phòng toàn dân", làm cơ sở lý luận và thực tiễn để Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 02/NQ-BCT xác định nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo.
Nghị quyết được triển khai thực hiện đã nhanh chóng đi vào cuộc sống; phát động được toàn dân xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng các khu vực phòng thủ từ tỉnh, thành phố đến cơ sở xã, tạo nên sức mạnh tại chỗ của nền quốc phòng. Ở đây tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về "Chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính, lâu dài, tự lực, tự chủ và đoàn kết quốc tế" đã được vận dụng phù hợp với tình hình mới, hoàn cảnh mới của đất nước. Cũng từ đây, Ngày truyền thống 22 tháng 12 vốn là ngày kỷ niệm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, giờ mang thêm một ý nghĩa – "Ngày hội Quốc phòng toàn dân". Anh Đoàn Khuê chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu tiến hành nghiên cứu biên soạn và triển khai tổ chức thực hiện cuộc điều chỉnh chiến lược với tư tưởng xuyên suốt là đánh lâu dài, trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi, số quân thường trực ít, nhưng tinh nhuệ, hiện đại, cơ động linh hoạt, xây dựng khu vực phòng thủ bền vững bảo đảm cho người dân vừa đánh giặc vừa sản xuất phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống.
Việc xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh để chống chiến tranh xâm lược do cấp ủy đảng trực tiếp lãnh đạo và điều hành. Bí thư Tỉnh ủy phải đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng của tỉnh, Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy việc xây dựng, phát huy tác dụng khu vực phòng thủ, điều động, chỉ huy các lực lượng vũ trang và lực lượng quần chúng tại chỗ trong tình huống có chiến tranh và cả trong tình huống chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ; rồi xây dựng sự liên kết giữa các khu vực phòng thủ với nhau; xác định rõ các "khu vực phòng thủ then chốt", có sự kết hợp giữa các lực lượng vũ trang, giữa các quân khu và Bộ, kết hợp giữa lực lượng chủ lực cơ động của quân khu và chủ lực cơ động của Trung ương; đặc biệt tăng cường phòng thủ bờ biển, hải đảo và thềm lục địa,...
Một vấn đề nữa là chú trọng xây dựng công nghiệp quốc phòng tự chủ, có khoa học kỹ thuật tiên tiến, có lực lượng cán bộ và nhân viên khoa học ngày càng phát triển. Phương hướng là sẽ giảm quân thường trực với số lượng lớn, nhưng lực lượng nghiên cứu khoa học nên tăng chứ không giảm.
Công việc khẩn trương, đòi hỏi phải tính toán rất kỹ. Nhiều đêm chúng tôi phải thức trắng để làm việc. Anh Đoàn Khuê chỉ đạo từng việc cụ thể về bố trí lực lượng, từng đơn vị, từng cơ quan một, trong đó đặc biệt chú ý cân nhắc khi bố trí các đơn vị chủ lực cơ động của Bộ, của các quân khu, lực lượng phòng không quốc gia, lực lượng không quân, hải quân. Chú ý khâu bảo quản và hiện đại hóa vũ khí, tiến tới tự động hóa phòng không tầm trung và tầm cao. Lực lượng hải quân phát triển và bố trí ngày càng thêm chặt chẽ ở hướng Cam Ranh, biển đảo và đóng được tàu 5.000 tấn, tiến lên 10.000 tấn. Trên cơ sở đó, đã bố trí lại lực lượng và tổ chức phòng thủ trên các hướng, các địa bàn chiến lược quan trọng, vùng biển đảo và biên giới đất liền, các trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế,... Bảo đảm khả năng phòng thủ của từng địa phương và cả nước vững chắc trong mọi tình huống. Bộ Chính trị quyết định di chuyển vị trí đóng quân của Quân đoàn 3, một trong những quân đoàn chủ lực cơ động của Bộ, từ miền Bắc vào Tây Nguyên, đồng thời tăng cường lực lượng ở Cam Ranh và vùng biển đảo. Cơ cấu biên chế, tổ chức và nhiệm vụ, chức năng của các học viện, nhà trường trong toàn quân cũng được điều chỉnh thích hợp.
Cùng với việc soạn thảo tài liệu hướng dẫn và triển khai xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là việc biên soạn các tài liệu để tiến hành tập huấn kiến thức quốc phòng và quân sự cho đội ngũ Bí thư Đảng các tỉnh, huyện và tương đương, kể cả các bộ, ban, ngành ở cấp Trung ương. Các cơ quan Bộ Tổng Tham mưu đã soạn thảo 21 tài liệu cơ bản, tổ chức các lớp tập huấn, tiến hành diễn tập với nhiều tình huống, nhiều giả định sát thực tế trên cả hai nội dung: chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ và đối phó với các tình huống chiến tranh, điển hình là các cuộc diễn tập ở Hải Phòng, Khánh Hòa và Đồng Nai.
Tiến hành đồng thời với việc điều chỉnh bố trí đội hình chiến lược là tính toán cụ thể việc giảm quân số để bảo đảm đánh lâu dài và trực tiếp giảm chi phí quốc phòng. Lúc này, Bộ Chính trị không nói mức giảm là bao nhiêu, mà để Bộ Quốc phòng tính toán sao cho hợp lý. Tôi đưa ra con số giảm trên 60% số quân thường trực và xin ngân sách quốc phòng từ 15 đến 18%, đầu tiên là tổng ngân sách, tiến tới là ngân sách thu trong nước. Với quân số cuối cùng này, chúng tôi hoàn toàn nhất trí và anh Đoàn Khuê bắt tay vào xây dựng kế hoạch.
Khi Bộ Chính trị họp thông qua kế hoạch điều chỉnh chiến lược và giảm mạnh quân số quân đội, từ quân thường trực 1,5 triệu xuống còn 45 vạn và bước đầu để 5 vạn quân dự bị (từ 9 quân đoàn giảm xuống còn 4 quân đoàn), nhưng sức mạnh chiến đấu không giảm mà càng được tăng cường, thì toàn thể Bộ Chính trị nhất trí hoàn toàn, gánh nặng ngân sách quốc phòng được giải quyết một cách cơ bản.
Đi đôi với việc giảm quân số, giảm ngân sách quốc phòng, chúng tôi đề nghị Đảng và Nhà nước có chính sách cụ thể cải thiện đời sống cho bộ đội tại ngũ; giải quyết việc làm và đời sống cho số cán bộ, chiến sĩ xuất ngũ trong đợt giảm quân số thường trực về địa phương.
Đối với cán bộ, chiến sĩ và công nhân viên quốc phòng tại ngũ thì trước mắt là nâng mặt bằng tiền lương của sĩ quan và những người hưởng lương trong quân đội lên 1,5 lần; thứ hai là giải quyết nhà ở cho họ. Từ lâu vấn đề nhà ở cho các hộ gia đình luôn là chuyện bức xúc trong đời sống của anh chị em. Bởi vậy, để giải quyết một cách cơ bản, chúng tôi đã đưa ra một phương cách mới là xin trích một phần quỹ đất quốc phòng để chia và cấp cho anh em tự xây nhà ở, còn đơn vị thì lo phần kết cấu hạ tầng như đường sá, điện, nước..., cho các khu hộ gia đình. Trong đó ưu tiên cho số anh em giải quyết chính sách ra quân (như về hưu, nghỉ mất sức, gia đình thương binh, liệt sĩ,...). Số anh em không có gia đình ở đô thị, trở về sinh sống ở nông thôn thì cấp một khoản tiền cùng với vật liệu xây dựng để anh em có thể xây được căn hộ cấp IV. Đề nghị của chúng tôi được các đồng chí trong Bộ Chính trị và Nhà nước đồng ý. Các đồng chí nói rằng trước mắt là Bộ Quốc phòng tự thu xếp, nếu còn thiếu thì báo cáo để Nhà nước bổ sung.
Sau một thời gian, việc ăn ở, định cư của các hộ gia đình cán bộ, công nhân viên quốc phòng đã được giải quyết một cách căn bản.
Một vấn đề nữa là giải quyết việc làm cho số anh chị em ra quân do giảm quân số thường trực với số lượng lớn. Chúng tôi đề nghị với Bộ Chính trị và một số bộ, ban, ngành có liên quan đến xuất khẩu lao động thì phải ưu tiên cho bộ đội. Trung ương nhất trí, các bộ cũng hoàn toàn ủng hộ. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử quân đội, có những đợt ra quân, anh chị em ở các đơn vị và cơ quan quân đội đi lao động ở nước ngoài, lại được tổ chức thành "đoàn, đội" có nền nếp, chặt chẽ. Tính từ năm 1987 đến 1990, quân đội đã tổ chức cho 37.338 người đi lao động xuất khẩu. Khi anh em trở về nước vừa có nghề, vừa được giải quyết chính sách theo chế độ, thỏa đáng, vừa có một khoản thu nhập đáng kể để cải thiện kinh tế và ổn định đời sống gia đình. Nhiều đồng chí khi trở về đã có một khoản vốn để tiếp tục đầu tư vào sản xuất kinh doanh, nâng cao mức sống và làm giàu chính đáng, góp phần giải quyết khó khăn chung cho đất nước.
Trong việc tăng cường phòng thủ bờ biển, hải đảo và thềm lục địa có hai vấn đề nổi lên rất quan trọng và cấp thiết cần phải giải quyết. Đó là, tiếp tục hoàn thiện bố trí lực lượng trên các đảo thuộc khu vực quần đảo Trường Sa và việc xử lý các vấn đề thuộc cảng quân sự Cam Ranh.
Cuối tháng 2-1987, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Quân chủng Hải quân củng cố và tăng cường lực lượng phòng thủ quần đảo Trường Sa. Cuối tháng 3-1987, tôi xuống làm việc với Bộ Tư lệnh Hải quân và chỉ thị rõ: Phải thấy hết vị trí chiến lược của biển Đông. Trước tiên, phải lo phòng thủ quần đảo Trường Sa, nơi có thể xảy ra xung đột. Ta phải hành động kiên quyết để bảo vệ các đảo nổi và đảo chìm. Các đồng chí suy nghĩ mọi cách để xây dựng hải quân hùng mạnh.
Ngày 10-6-1987, tôi vào Cam Ranh, tiếp tục làm việc với Bộ Tư lệnh Hải quân và Vùng 4, tôi nói rõ thêm: Ta phải nỗ lực cao nhất để bảo vệ quần đảo Trường Sa, tăng cường khả năng phòng thủ tại chỗ, giữ vững các đảo, coi trọng việc chi viện từ bờ ra. Vừa qua quốc phòng và cả nước chưa làm hết sức. Nay ta phải làm, làm cho ngày nay và cho thế hệ mai sau.
Cuối năm 1987 và tháng 1-1988, Bộ Tổng Tham mưu và Tổng cục Chính trị đã tổ chức hội nghị giao nhiệm vụ cho các quân chủng: Hải quân, Phòng không và Không quân, kế hoạch hiệp đồng tác chiến giữa ba quân chủng để bảo vệ quần đảo Trường Sa và vùng cảng Cam Ranh.
Chiều ngày 13-2-1988, làm việc với Tư lệnh Hải quân, tôi đã phê phán nghiêm khắc việc để mất đảo Đá Chữ Thập và giao cho Tư lệnh Quân chủng kiêm nhiệm Tư lệnh Vùng 4 Hải quân. Ngày là tháng 2, đúng mùng 1 Tết Mậu Thìn, Bộ Tư lệnh Hải quân vào Sở Chỉ huy Vùng 4 ở Cam Ranh để trực tiếp chỉ huy các đơn vị. Hai ngày sau, tôi gửi báo cáo lên Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng và Bộ Ngoại giao đề nghị giải quyết một số vấn đề cấp bách như tàu vận chuyển hàng ra Trường Sa, cấp kinh phí, vật tư cho hải quân.
Ngày 22-2-1988, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng đã ký quyết định giải quyết những vấn đề cấp bách mà nhiệm vụ bảo vệ biển đảo đặt ra. Trước mắt là nhiệm vụ đóng quân trên các điểm đảo thuộc chủ quyền của ta. Ngay sau đó, các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng đã làm việc với các cơ quan nhà nước để tiếp nhận vật tư, trang bị, tài chính cho hải quân.
Ngày 16-3-1988, Bộ Chính trị đã họp và có kết luận về nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa.
Từ ngày 4 đến 9-5-1988, tôi trực tiếp ra thị sát tình hình bộ đội chốt giữ ở quần đảo Trường Sa. Trước đó, ngày 12 tháng 4, ta công bố công khai các đảo mà Việt Nam đã quản lý từ trước đến nay: Ngày 7 tháng 5, Bộ Tư lệnh Hải quân tổ chức kỷ niệm ngày truyền thống của Quân chủng tại đảo Trường Sa. Tới dự có đại diện các cơ quan của Bộ Quốc phòng, các quân chủng và Tỉnh ủy tỉnh Phú Khánh. Lễ mít tinh tổ chức ngay bên cột mốc có dòng chữ khẳng định chủ quyền của Việt Nam. Trong bài phát biểu tại buổi lễ, tôi đã nhắc lại: Trong những năm 1950 và 1960, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc là quan hệ hữu nghị, tình sâu nghĩa nặng. Đặc biệt là sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trong những năm từ 1965 đến 1970 là rất to lớn và có hiệu quả. Nhân dân Việt Nam vô cùng biết ơn sự giúp đỡ to lớn đó của nhân dân Trung Quốc đã dành cho mình. Mặt khác, thắng lợi của chúng ta cũng đã góp phần đáng kể phá vỡ sự bao vây của đế quốc Mỹ đối với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa... Sau khi nêu lên sự kiện ngày 14-3-1988 vừa qua, tôi nói rằng: Tại sao một số người lãnh đạo Trung Quốc nhân danh gì lại sử dụng vũ lực xâm chiếm một phần lãnh thổ của Việt Nam trên biên giới Việt - Trung, chiếm quần đảo Hoàng Sa, nay lại lấn chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam chúng ta?... Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là sự thật trên thực tế, phù hợp với pháp lý quốc tế, với đạo lý quốc tế… Chúng ta tin tưởng rằng trong tương lai, nhân dân và cán bộ Trung Quốc sẽ hiểu rõ sự thật... Chúng ta nhớ mãi không bao giờ quên tình sâu nghĩa nặng giữa nhân dân hai nước Việt - Trung, kiên trì phấn đấu để khôi phục tình hữu nghị giữa hai nước, đồng thời chúng ta quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc chúng ta... Hôm nay, giữa trời cao, biển rộng bao la, trước anh linh tổ tiên và các cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắc nhủ với các thế hệ mai sau: "Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc chúng ta!". Các chiến sĩ hải quân cùng hô vang với tôi: "Xin thề!". Tiếng hô: "Xin thề! Xin thề! Xin thề!" vang vọng cả biển trời.
Sau đó, tôi đã chỉ đạo Quân chủng Hải quân khẩn trương xây dựng các nhà giàn và bố trí lực lượng trên tất cả các đảo nổi, đảo chìm ở quần đảo Trường Sa và thềm lục địa. Anh em rất tích cực vận chuyển và xây dựng các công trình phòng thủ đảo. Các quân chủng, binh chủng: hải quân, không quân, phòng không, đặc công, thông tin đã tiến hành diễn tập thực binh chi viện đảo và tiếp tục hoàn chỉnh các phương án phòng thủ.
Về vùng vịnh Cam Ranh và quân cảng Cam Ranh, tôi đặc biệt quan tâm đến vị trí này ngay từ khi tôi làm Tổng Tham mưu trưởng. Đây là một trong ba vịnh tốt nhất thế giới cùng với San Francisco (Xan Phranxixcô) của Mỹ và Rio de Janeiro (Riô đơ Giannêrô) của Braxin. Cam Ranh có vị trí chiến lược, một khu vực phòng thủ then chốt của miền Trung và của cả nước, là căn cứ bảo vệ cả vùng biển rộng lớn và quần đảo Trường Sa. Ngoài ra, ở Cam Ranh còn có một điều vô cùng quý giá mà không phải cảng biển nào cũng có được là ngay sát mặt nước biển mặn chát lại có một mỏ nước ngọt với trữ lượng lớn. Biên giới phía Bắc nóng bỏng như vậy, kể cả những trọng điểm như Chi Lăng, Vị Xuyên, Trà Lĩnh, tôi cũng chỉ cố gắng đến được hai lần; vậy mà với Cam Ranh, tôi vào tới bốn lần. Vậy bây giờ xu hướng giải quyết với Liên Xô về Cam Ranh như thế nào, về lực lượng cố vấn như thế nào, tôi nghĩ giải quyết phải có tình có lý, có pháp lý. Trước đây, hai nhà nước Liên Xô và Việt Nam đã ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện, những gì đã ký kết thì phải tôn trọng. Những gì bổ sung ngoài nội dung ký kết thì phải trao đổi, hai bên đồng thuận thì mới được thực hiện. Chẳng hạn, họ yêu cầu cho gia đình của họ vào ở bãi Cam Ranh cho thuận tiện đối với sĩ quan của họ, đây là điểm "bổ sung", ta đồng ý. Nhưng nếu Liên Xô đưa tàu ngầm và các chiến hạm mang đầu đạn hạt nhân vào quân cảng Cam Ranh thì ta từ chối, vì sẽ làm phức tạp thêm, hơn nữa trong hiệp định ký kết giữa hai nước không ghi.
Khi vào Cam Ranh, Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh đưa tôi đi thị sát toàn bộ khu vực. Thấy họ khai thác đá và cát trong vịnh để xây dựng kho và hầm ngầm, tôi bảo: "Không được! Cứ cho họ khai thác thế này thì vịnh Cam Ranh sẽ bị sa mạc hóa". Ở đây mỗi cục đá là một cục vàng, cát cũng là vàng, một nhành cây cũng không được chặt mà chỉ có trồng thêm. Sẽ giải quyết đá và cát cho họ, nhưng không phải lấy ở vịnh mà lấy trong đất liền mang ra. Trở về Hà Nội, tôi báo cáo các anh trong Bộ Chính trị. Với tư cách là Bộ trưởng Quốc phòng, tôi đề nghị kiên quyết: Một là, không đưa vũ khí hạt nhân vào Cam Ranh. Hai là, không khai thác đá và cát trong vịnh Cam Ranh. Các anh đồng ý. Lúc đó, tôi đã nghiên cứu kỹ văn bản hiệp định để có thể "gỡ" vấn đề. Trong hiệp định không có chỗ nào nói đến "hạt nhân và nguyên tử", nên với danh nghĩa Bộ trưởng Quốc phòng, tôi nói với Trưởng đoàn cố vấn Liên Xô: "... Trong văn bản hiệp ước không nói, nên các đồng chí không được lấy đá ở trong vịnh để xây dựng công trình, mà phải lấy ở ngoài. Hơn nữa, văn bản hiệp định cũng không hề nói đến vũ khí hạt nhân, nên mọi vũ khí hạt nhân và các phương tiện mang đầu đạn hạt nhân không được có ở đây". Sau khi Đại sứ Liên Xô điện về nước, họ xin gặp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng của ta. Anh Phạm Hùng gặp Đại sứ Liên Xô (theo yêu cầu của Đại sứ), đồng thời gọi tôi lên. Tôi bảo trong hiệp ước không có chuyện hạt nhân, tên lửa và không khai thác đá và cát trong vịnh Cam Ranh. Chúng tôi sẽ có đá và cát cho các đồng chí. Đại sứ Liên Xô điện về nước. Sự việc êm! Tôi chỉ đạo bộ đội ở vịnh Cam Ranh làm một con đường chừng 30km vào khai thác đá núi trong đất liền chở ra vịnh.
Đến khi Liên Xô tan rã, Chính phủ Nga thay thế tiếp tục thực hiện hiệp định, duy trì quân đội Nga đứng chân ở Cam Ranh. Mặc dù hiệp định còn hiệu lực tới năm 2004, nhưng tàu ngầm và chiến hạm của Liên Xô không còn ở Cam Ranh.
Cuối tháng 2-1987, diễn ra cuộc họp "Bộ Chính trị hẹp" tại Nhà con rồng - Sở Chỉ huy của Bộ Quốc phòng. Tại đây, sau khi nghe báo cáo tình hình chính trị, kinh tế - xã hội và nhiều vấn đề quan trọng, tôi đã báo cáo tình hình quân đội, tình hình biên giới phía Bắc, tình hình liên quan đến Trung Quốc, Mỹ, một số nước ASEAN đối với ta và đề xuất việc tiến hành phá thế bao vây cấm vận của Mỹ và bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, tìm cách gia nhập ASEAN. Bộ Chính trị nhất trí với đề xuất của tôi và giao cho Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng thực hiện việc này. Tôi nói: Đề nghị Bộ Ngoại giao làm, Bộ Quốc phòng sẽ giúp đỡ. Anh Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nói: Đề nghị Bộ Quốc phòng và anh Lê Đức Anh lo cái đoạn "mở đầu" như thế nào. Anh Trường Chinh nói:
- Bộ Ngoại giao làm là tất nhiên rồi. Nhưng trước hết đề nghị anh Lê Đức Anh suy nghĩ cách làm, biện pháp cụ thể và làm cái đoạn "mở đầu" với Trung Quốc.
Bộ Chính trị đồng ý với ý kiến của anh Trường Chinh.
Tôi dự kiến, sẽ "mở hai luồng thăm dò". Một là, thăm dò qua cộng đồng Hoa kiều ở khu vực Chợ Lớn, Thành phố Hồ Chí Minh, vì từ xưa đến nay, nói chung cộng đồng người Hoa có truyền thống đoàn kết bao bọc nhau, có tổ chức chặt chẽ và có quan hệ mật thiết với Chính phủ Trung Hoa lục địa. Hai là, thăm dò qua đường đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội.
Khoảng mươi ngày sau, vào đầu tháng 3-1987, tôi vào gặp Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, nói chuyện với Ban Hoa vận của Thành ủy, gặp gỡ một số người đại diện và có uy tín trong cộng đồng người Hoa của khu vực Chợ Lớn. Cuộc gặp có tám Hoa kiều, một đồng chí đại diện Thành ủy và tôi. Tôi điểm lại quá trình quan hệ hữu nghị của Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Trung Quốc - Việt Nam. Tôi nói có những đồng chí người gốc Việt nhưng đã tham gia Giải phóng quân Trung Quốc, trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc. Cũng có khá nhiều người gốc Trung Quốc là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi nói về cộng đồng người Hoa suốt mấy chục năm qua định cư, làm ăn sinh sống tại Việt Nam đã tham gia, đóng góp vào hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, tôi đã chứng kiến có những bà mẹ người Hoa nuôi giấu và cứu chữa thương binh là bộ đội giải phóng ngay tại nhà mình, bất chấp hiểm nguy. Đó là những nghĩa cử cao đẹp của bà con Hoa kiều tại khu vực Chợ Lớn này. Người Việt và người Hoa, Trung Quốc và Việt Nam, hai nước bấy lâu vẫn đoàn kết, hữu nghị. Vừa rồi xảy ra chuyện Trung Quốc và Việt Nam xung khắc nhau là chuyện không bình thường. Vì vậy, cả người Việt và người Hoa có trách nhiệm góp sức mình hàn gắn lại tình hữu nghị, đoàn kết để xóa bỏ cái không bình thường này. Tình hữu nghị Việt - Trung là truyền thống tốt đẹp, chúng ta cần làm cho nó bền vững và phát triển. Tôi nói những điều này, nét mặt mọi người rạng rỡ. Họ phát biểu: Từ lâu rồi, chúng tôi cũng muốn như thế. Việt Nam và Trung Quốc cứ tốt như hồi xưa với nhau, giúp nhau như anh em trong nhà thì chúng tôi sung sướng lắm. Chúng tôi cũng muốn góp công xây dựng đất nước Việt Nam, quê hương thứ hai của mình...
Cuộc gặp gỡ những người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh kết thúc trong niềm vui tươi, phấn khởi và có sự đồng thuận cao.
Trở ra Hà Nội, tôi nói đồng chí Vũ Xuân Vinh, Cục trưởng Cục Đối ngoại quân sự gửi thiếp mời Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy đến dùng cơm tại nhà khách Bộ Quốc phòng. Tôi và đồng chí Đại sứ vừa ăn cơm vừa nói chuyện. Tôi nói về quá trình quan hệ hữu nghị giữa hai nước và khẳng định Trung Quốc giúp Việt Nam về cách mạng nói chung, về quân sự nói riêng là rất quan trọng. Từ chiến dịch Biên giới năm 1950 đến chiến dịch Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên tận nơi để chỉ đạo, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã cử các đồng chí Trần Canh, Vi Quốc Thanh là những vị tướng giỏi cùng đoàn cố vấn Trung Quốc sang giúp bộ đội Việt Nam về cách đánh chiến dịch. Ở Điện Biên Phủ, nếu không có lựu pháo, vũ khí, đạn dược và quân trang quân dụng của Trung Quốc giúp đỡ thì Việt Nam khó giành được thắng lợi. Những năm đánh Mỹ, có những đoàn cán bộ, những đoàn học sinh miền Nam được đưa sang Trung Quốc học tập. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng rất ủng hộ Trung Quốc, quân đội Việt Nam hành quân vượt Thập Vạn Đại Sơn theo điện yêu cầu của đồng chí Chu Ân Lai sang đánh dẹp quân Tưởng, giải phóng vùng đất Ung - Liêm - Khâm để đón đại quân Nam Hạ của các đồng chí giải phóng quân Trung Quốc, v.v… Đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, đó là chiến thắng của Việt Nam và cũng là chiến thắng chung của hai Đảng, hai nước. Vậy mà bây giờ tại sao lại xung đột? Việc này không phải do nhân dân và bộ đội gây ra. Tôi mới nhậm chức, nhưng cũng sẽ báo cáo với lãnh đạo của Việt Nam, đề nghị lãnh đạo hai nước gặp nhau giải quyết việc này. Tôi kể lại với Đại sứ Trương chuyến đi với đồng chí Phạm Văn Đồng sang Tô Châu gặp Chủ tịch Mao Trạch Đông hồi tháng 12-1966. Khi Chủ tịch Mao Trạch Đông hỏi "Chiến trường miền Nam có khó khăn và cần gì?", tôi nói rằng cần súng đạn và tiền để mua gạo; thì một tháng sau chiến trường Nam Bộ đã nhận được vũ khí và tiền của nhân dân Trung Quốc gửi đến. Nghe tôi nói vậy, Đại sứ Trương Đức Duy nói: Tôi sẽ về báo cáo với lãnh đạo bên tôi. Đến đây, sứ mệnh "mở luồng" và "thăm dò" mà Bộ Chính trị giao cho tôi, được xem như đã hoàn tất và tôi báo cáo tình hình với các anh trong Bộ Chính trị để các anh có kế hoạch gặp Đảng, Nhà nước Trung Quốc.
Trong chuyến thăm Xingapo (tháng 7-1990), Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đã "đánh tiếng" là "sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với Việt Nam". Một tháng sau đó, ngày 19-8-1990, Tổng Bí thư Trung Quốc Giang Trạch Dân gửi thư qua đường đại sứ mời Tổng Bí thư Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Cố vấn Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Đỗ Mười sang thăm Trung Quốc.
Cuối tháng 7-1991, Bộ Chính trị cử tôi làm phái viên của Bộ Chính trị sang bàn bạc những vấn đề cụ thể về việc bình thường hóa quan hệ hai nước. Cùng đi với tôi có đồng chí Hồng Hà, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương. Sáng ngày 28 tháng 7, chúng tôi bắt đầu khởi hành. Trên đường đi Bắc Kinh, chúng tôi dừng chân ở Nam Ninh, thủ phủ Khu tự trị dân tộc Choang, tỉnh Quảng Tây. Đồng chí Triệu Phú Lâm, Bí thư Khu ủy Khu tự trị Quảng Tây tiếp chúng tôi và giới thiệu những thành tựu kinh tế - xã hội Quảng Tây đạt được trong 10 năm cải cách, mở cửa. Ông cũng cho biết:
- Tuy mấy năm gần đây Quảng Tây đã thực hiện chính sách về buôn bán ở biên giới nhưng nhân dân ở vùng biên giới còn nghèo nên rất cần có sự trao đổi qua lại. Năm 1988, Quảng Tây bị mất mùa, nhờ có lúa gạo của Việt Nam bán sang nên đã giải quyết được một phần nhu cầu cho nhân dân. Chúng ta cùng cố gắng từng bước làm tốt trật tự biên phòng để bảo đảm ổn định chính trị và kinh tế.
Đáp lời ông, tôi nói:
- Trước đây Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc đã giúp đỡ to lớn cho Việt Nam, tỉnh Quảng Tây ở sát kề Việt Nam cũng đã giúp đỡ nhiều cho Việt Nam trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Đồng chí Vi Quốc Thanh là người Quảng Tây, trước là Trưởng Đoàn cố vấn Trung Quốc, đã nhiệt tình giúp đỡ quân đội Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Được thông báo những thành tựu của tỉnh Quảng Tây trong 10 năm cải cách, mở cửa, chúng tôi rất phấn khởi, đặc biệt là khi quan hệ giữa Quảng Tây và Việt Nam ngày càng được trở lại bình thường. Chúng ta cùng cố gắng quản lý biên giới cho tốt hơn, làm cho biên giới ngày càng trở thành biên giới hữu nghị. Tôi rất cảm ơn sự đón tiếp của các đồng chí lãnh đạo tỉnh Quảng Tây.
Sau khi ăn cơm trưa ở Quảng Tây, chúng tôi đi máy bay lên Bắc Kinh. Ra sân bay Bắc Kinh đón chúng tôi có đồng chí Chu Lương, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Trung Quốc, nữ đồng chí Chu Sĩ Cầm, Cục trương Cục 2 châu Á và một số cán bộ Ban Đối ngoại. Đồng chí Chu Lương chủ yếu giới thiệu về cải cách kinh tế của Trung Quốc những năm vừa qua.
Sáng hôm sau (ngày 29 tháng 7) từ 9 giờ đến 12 giờ, đồng chí Kiều Thạch, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc làm việc với chúng tôi tại Đại lễ đường. Cùng dự, về phía Trung Quốc còn có các đồng chí: Chu Lương và Chu Thiện Khanh, Trưởng và Phó Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương; Chu Sĩ Cầm, Trịnh Quốc Tài là Cục trưởng và Phó Cục trưởng Cục 2 châu Á, Ban Đối ngoại; Trương Đức Duy, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam; Từ Đôn Tín, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Cuộc hội đàm này để chuẩn bị cho cuộc hội kiến chính thức với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân sau đó.
Sáng ngày 30 tháng 7, đồng chí Chu Thiện Khanh và một số cán bộ Ban Đối ngoại Trung Quốc đưa chúng tôi tới thăm xã Tứ Quý Thanh (tức bốn mùa xanh) ở ngoại ô Bắc Kinh. Buổi chiều, Thủ tướng Lý Bằng tiếp đoàn chúng tôi tại Tử Quang Cáo trong Trung Nam Hải.
Cuộc hội kiến chính thức diễn ra tại Trung Nam Hải vào buổi chiều ngày 31-7-1991, phía Trung Quốc do Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc kiêm Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Giang Trạch Dân làm Trưởng đoàn. Trước khi hội đàm, có ít phút gặp riêng giữa Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và tôi, có hai phiên dịch của hai Ban Đối ngoại Trung ương Việt Nam và Trung Quốc. Đồng chí Giang Trạch Dân nêu một vấn đề khá "hóc búa":
- Tới đây lãnh đạo cấp cao hai nước gặp nhau sẽ mở lại trang sử tốt đẹp quan hệ Trung - Việt. Nhưng có một vấn đề quan trọng phải bàn riêng, vì ra họp chung khó nói. Tôi ở địa phương mới lên làm Tổng Bí thư. Trước chưa biết, nhưng nay nghiên cứu lịch sử mới biết Nam Sa (tức Trường Sa) là của Trung Quốc.
Nghe vậy tôi liền nói:
- Tôi cũng như đồng chí, tôi ở chiến trường mới về Trung ương, có dịp nghiên cứu lịch sử, địa lý và pháp lý thì thấy Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc lãnh thổ Việt Nam. Bây giờ chúng ta nên cử các cơ quan chức năng nghiên cứu và xác định cụ thể.
Nghe vậy, đồng chí Giang Trạch Dân không nói gì nữa, chỉ cười thôi. Rồi ông bảo:
- Tới giờ rồi, mời đồng chí ra hội đàm!
Nói chung cuộc hội đàm đạt kết quả tốt, mọi vấn đề đặt ra đều được hai bên thỏa thuận, nhất trí. Trung Quốc cũng thấy rằng quan hệ hữu nghị với Việt Nam để phát triển là một nhu cầu của cải cách, mở cửa của họ. Họ đang có nhu cầu phát triển, ta cũng có nhu cầu bình thường hóa quan hệ để ổn định và phát triển.
Tôi còn nhớ một số đoạn trong lời phát biểu của hai Trưởng đoàn tại cuộc hội đàm này. Đồng chí Tổng Bí thư Giang Trạch Dân đứng dậy trịnh trọng nói:
- Tôi nhiệt liệt hoan nghênh đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Hồng Hà. Hôm nay, được dịp quen biết đồng chí Lê Đức Anh - phái viên đặc biệt của Việt Nam, chúng tôi rất phấn khởi. Đồng chí đã hội đàm rất tốt với đồng chí Kiều Thạch và đồng chí Lý Bằng. Một giờ sáng nay, tôi mới ở địa phương về đến Bắc Kinh. Theo tập quán của chúng tôi, xin mời đồng chí nói trước.
Tôi đứng lên nói:
- Tôi rất phấn khởi được gặp đồng chí Tổng Bí thư - Chủ tịch nước. Tôi biết đồng chí rất bận, nhưng vẫn dành thì giờ tiếp chúng tôi. Cảm ơn đồng chí. Chúng tôi rất phấn khởi thấy được thành tựu 10 năm cải cách của các đồng chí. Điều đó cổ vũ rất lớn đối với Đảng và nhân dân Việt Nam chúng tôi. Về công việc, chúng tôi đã thông báo kết quả Đại hội VII. Hôm qua, tôi đã nêu tất cả những ý này với đồng chí Kiều Thạch và đồng chí Lý Bằng. Hôm nay, gặp đồng chí Tổng Bí thư, xin đề nghị đồng chí cho ý kiến về việc Đoàn cấp cao Đảng và Nhà nước Việt Nam do đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười dẫn đầu sang thăm chính thức Trung Quốc sẽ được thực hiện trong năm 1991 này.
Từ nay đến khi có cuộc gặp cấp cao đó, đề nghị đồng chí Tổng Bí thư chỉ đạo các ban gặp nhau trao đổi kinh nghiệm xây dựng Đảng, kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước hết, chúng tôi mời đoàn Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng san Trung Quốc sang làm việc với Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng tôi đề nghị các đoàn thể, các hội hữu nghị Việt - Trung và Trung - Việt trao đổi kinh nghiệm, tăng cường hiểu biết lẫn nhau. Tôi có mấy ý kiến như thế, mong đồng chí cho ý kiến.
Đồng chí Giang Trạch Dân nói:
- Hôm qua tôi đã đọc thư đồng chí Đỗ Mười gửi cho chúng tôi. Hôm nay tôi xin nói thẳng thắn. Sáng nay tôi gặp đồng chí Lý Bằng, đồng chí Kiều Thạch và nhiều đồng chí Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khác, chúng tôi đã bàn với nhau và chúng tôi hoan nghênh Đoàn đại biểu cấp cao Đảng và Nhà nước Việt Nam do đồng chí Đỗ Mười dẫn đầu sang thăm chính thức Trung Quốc năm nay. Tôi rất đồng ý với ý kiến của đồng chí Lê Đức Anh, các cơ quan của hai Đảng qua lại trao đổi ý kiến với nhau. Ban Đối ngoại Trung Quốc sang thăm Việt Nam trước. Hôm qua đồng chí Lý Bằng đã trao đổi ý kiến với các đồng chí rất tốt. Ý kiến chúng ta nhất trí với nhau. Tình hình thế giới bây giờ rất phức tạp. Tôi biết đồng chí Lê Đức Anh hiểu biết hơn tôi về quân sự. Đồng chí là Bộ trưởng Quốc phòng, tôi là Chủ tịch Quân ủy Trung ương... Tôi giữ chức Tổng Bí thư từ ngày 24-6-1989, từ đó đến nay, tôi không ngờ tình hình Đông Âu biến động và Liên Xô rối ren đến như vậy.
Chúng ta là những người cộng sản, phải thực sự cầu thị. Hiện nay chủ nghĩa xã hội đang thoái trào. Tình hình ngày nay khác tình hình khi nước chúng tôi giải phóng và khi nước các đồng chí được giải phóng. Nhưng chúng ta là những nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải khẳng định chủ nghĩa xã hội sẽ thắng lợi. Chúng ta phải thấy đây là quá trình đấu tranh hết sức gian khổ. Cho nên chúng ta là hai nước láng giềng, hai Đảng Cộng sản cầm quyền, không có lý do gì không xây dựng quan hệ láng giềng hữu hảo với nhau. Từ sự đột biến ở Đông Âu và qua 25 tháng tôi công tác ở Trung ương, tôi nhận thức được rằng kiên trì chủ nghĩa xã hội là rất quan trọng. Các nước phương Tây lúc nào cũng muốn xóa bỏ chủ nghĩa xã hội khỏi trái đất này. Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nhân dân Trung Quốc đánh đổ chính quyền Quốc dân Đảng, giành chính quyền. Chúng tôi xây dựng đất nước, không bao lâu, chúng tôi phải chống Mỹ viện Triều. Cho nên phương Tây, nhất là Mỹ qua hai lần đọ sức bằng phương thức chiến tranh, chúng không xóa được chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Họ dùng biện pháp "diễn biến hòa bình" của Ngoại trưởng Mỹ Dulles (Đalét), để đối phó với chủ nghĩa xã hội, đối phó với bức màn sắt - như Nixon đã viết cuốn 1999 - chiến thắng không cần chiến tranh...
Đối với âm mưu lật đổ, chúng có pháp bảo: dùng chế độ đa đảng để lật đổ Đảng Cộng sản. Chúng tôi rất cảnh giác chế độ đa đảng. Về mặt này chúng tôi kiên quyết chống hoạt động đa đảng. Quả thật như thế, Yeltsin (Enxin) vừa lên làm Tổng thống Cộng hòa Liên bang Nga liền thủ tiêu các cơ sở đảng ở cơ quan, xí nghiệp. Yeltsin đã từng là ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô. Nghe tin này, như người Trung Quốc nói "Xúc mục kinh tâm" - Những điều trông thấy khiến ta giật mình. Hiện nay các nước phương Tây muốn dùng chiêu bài dân chủ, tự do, nhân quyền để thực hiện "diễn biến hòa bình". Mỗi năm chúng tôi triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc một lần. Tôi đã dự hội nghị đó hai lần. Quan điểm của tôi là, Đại hội đại biểu nhân dân là của dân, không đi theo con đường nghị viện kiểu phương Tây. Chúng tôi cũng có tám đảng nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, không cho phép có đảng đối lập... Chúng tôi bây giờ hết sức cảnh giác với tư tưởng luân phiên nắm chính quyền. Điều đáng sợ không phải là có tồn tại hay không tồn tại vấn đề đó mà là ở chỗ Đảng có kiên quyết chống tư tưởng đó, có cảnh giác với âm mưu đó hay không. Nếu biết cảnh giác, có biện pháp, thì không sợ gì cả...
Tôi nhận thức được quân đội nhân dân phải tuyệt đối đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quân đội là cây súng, hình thái ý thức là cây bút. Với tư cách quân đội, đồng chí Lê Đức Anh lâu năm hơn tôi. Tôi vừa đi hơn 20 tỉnh và thành phố trong tổng số 30 tỉnh, thành. Tôi đã đi 18 quân khu. Trước đây tôi chưa được bầu làm Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Sau khi được bầu tôi thường xuyên đi thăm các quân khu. Đồng chí Lê Đức Anh hiểu tầm quan trọng của cây súng hơn tôi. Cây bút cũng rất quan trọng. Về tuyên truyền quả thật phải không ngừng cải tiến phương pháp tuyên truyền. Mục đích của tuyên truyền là đi sâu vào lòng người. Nếu ta chỉ theo cách cũ cứng nhắc là không được. Tuyên truyền phải sống động, hoạt bát, không thế sẽ không có kết quả tốt. Về phương thức, về công tác tư tưởng, phải tính đến sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Hiện nay ti vi rất phổ biến ở thành phố. Hằng ngày dân chúng cứ nghe, nhìn, rồi qua tai, mắt, nếu chúng ta không có năng lực phân tích thì dân chúng sẽ hấp thụ những điều dở... Chúng ta chống tư sản không chỉ chống văn hóa màu vàng. Phải chống cả tự do hóa tư sản. Đứng về góc độ phiên dịch chắc khó diễn đạt hết hàm ý của nội dung này. Nội dung chống này bao gồm việc chống lại tất cả những tư tưởng chống chủ nghĩa cộng sản, chống chủ nghĩa xã hội, chống những sự thối tha đồi trụy của tư sản. Còn đối với những kỹ thuật tiên tiến, cách quản lý khoa học, văn hóa ưu tú của tư sản chúng ta lại phải học tập. Chúng tôi có chuyển hướng cải cách mở cửa, khuyến khích nước ngoài đầu tư nhưng phải tôn trọng pháp luật... Trên đây tôi đã giới thiệu tóm tắt nhận thức của cá nhân. Tôi tin rằng chuyến đi thăm của đồng chí thúc đẩy việc tiến tới bình thường hóa quan hệ hai Đảng, hai nước. Qua đồng chí, xin gửi lời thăm tốt đẹp tới đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười, các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng và các đồng chí lãnh đạo khác của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi rất phấn khởi được gặp đồng chí. Hôm nay là bước mở đầu tốt đẹp của chúng ta.
Cuộc đàm đạo được nối tiếp trong buổi chiêu đãi ngay tối hôm đó tại Trung Nam Hải. Đồng chí Giang Trạch Dân nói tiếp:
- Fucik (Phu xích) viết trong tác phẩm Viết dưới giá treo cổ có một câu nói tôi mãi mãi không quên: "Nhân dân ơi! Tôi yêu nhân dân, nhưng nhân dân đừng quên cảnh giác!". Ý này rất hay, chúng ta phải luôn luôn cảnh giác. Tôi hiểu rằng kinh nghiệm của đồng chí Lê Đức Anh rất phong phú. Các nước phương Tây bắt đầu tính toán đến vấn đề rất nghiêm trọng đối với chúng ta là vấn đề giáo dục thanh niên. Thanh niên dễ tiếp thu văn minh phương Tây. Tiếp thu kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của phương Tây, chúng ta không phản đối. Tôi thường xuyên có quan điểm tiếp thu những văn hóa ưu tú phương Tây. Nhưng phải làm cho thanh niên thấy nhân dân ta đã từng bị áp bức của các cường quốc... Bắt đầu từ năm nay, chương trình giáo dục cấp I của chúng tôi có phần giáo dục tình hình đất nước, có phần lịch sử cận đại, vì thế hệ chúng tôi sớm muộn cũng đi gặp Các Mác, nên chính quyền sau này rơi vào tay ai không thể không suy nghĩ. Tôi xin nói thẳng với đồng chí và nói nhiều vì lần đầu gặp đồng chí nhưng cảm thấy như người bạn lâu năm.
Tôi nói:
- Khi ở chiến trường, tôi thấy rõ sự giúp đỡ của Trung Quốc. Tất nhiên có cả Liên Xô. Sự giúp đỡ của Trung Quốc cụ thể, thiết thực như: súng B40, lương khô, mũ cối, giày, dép, quần áo, thuốc xoa chống muỗi, chống vắt, v.v., rồi giúp cả tiền chuyển vào chiến trường để mua gạo... Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các đồng chí đã viện trợ toàn diện cho Việt Nam.
- Đó là việc cần làm - Đồng chí Giang Trạch Dân nói.
- Bây giờ Trung Quốc hơn một tỷ dân, đang tiến lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đó là viện trợ to lớn nhất, không thể đánh giá hết được - Tôi nói.
- Tôi nghe thông báo về Đại hội VII, thấy các đồng chí kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tự đáy lòng tôi thấy rất phấn khởi - Đồng chí Giang Trạch Dân nói.
- Về quốc tế, đồng chí nói gọn, đủ, tôi rất phấn khởi trước lập trường quan điểm của đồng chí, điều đó làm tăng niềm tin ở tương lai xã hội chủ nghĩa đối với chúng tôi. Trong thời điểm này, Trung Quốc đóng vai trò cực kỳ to lớn trước sự tồn vong, còn hay mất của chủ nghĩa xã hội, của phong trào độc lập dân tộc trên thế giới. Đó là nhận thức sâu sắc của chúng tôi. Về phía Việt Nam, chúng tôi kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên không cần lập mặt trận chống ai, nhưng Trung Quốc ổn định, vững, là niềm cổ vũ lớn cho phong trào cộng sản quốc tế - Tôi nói.
- Quan hệ quốc tế với quốc gia, chúng tôi theo năm nguyên tắc chung sống hòa bình, mấu chốt nhất là không can thiệp vào nội bộ của nhau. Còn giải quyết quan hệ Đảng với Đảng, chúng tôi theo bốn nguyên tắc, mấu chốt cũng là không can thiệp vào nội bộ nhau. Người ta ai cũng mong muốn người trong họ hàng của mình tốt lên. Láng giềng cũng muốn láng giềng của mình tốt hơn. Như tôi đã nói, trước tình hình quốc tế hiện nay, chủ nghĩa xã hội đang thoái trào, những nhà nước do Đảng Cộng sản cầm quyền không còn bao nhiêu, nên tôi hết sức tán thưởng đường lối Đại hội VII của Việt Nam... Đối với chúng ta phải kiên trì sự lãnh đạo của Đảng. Trong kinh tế, sở hữu nhiều thành phần nhưng phải lấy công hữu làm cơ sở. Đó là những điều tâm huyết của tôi. Lần đầu tiên được gặp đồng chí, tôi rất thú vị - Đồng chí Giang Trạch Dân nói.
- Lần đầu tiên được gặp đồng chí Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, tôi thấy rất thân tình. Những lời từ đáy lòng đồng chí nói ra được thể hiện cụ thể ở những nơi tôi đến tham quan: xã Tứ Quý Thanh, Công ty gang thép Thủ Đô,... - Tôi nói.
- Đồng chí lớn tuổi hơn tôi, làm việc lâu năm hơn tôi, kinh nghiệm phong phú hơn tôi - Đồng chí Giang Trạch Dân nói.
- Chúng tôi ở nước nhỏ, tầm nhìn hạn chế trong phạm vi độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia - Tôi khiêm tốn nói.
Đồng chí Giang Trạch Dân cười, vui vẻ nói:
- Trung Quốc có câu nói "Con chim chích tuy nhỏ, nhưng gan mật đều có". Tôi chủ trương bố trí cho cán bộ công tác cơ sở rồi mới điều lên trên, như vậy mới tốt... Chúng tôi phải quyết tâm phát triển kinh tế. Nhưng điều đó hoàn toàn không phải do một mình chúng tôi quyết định được. Chúng tôi phải hết sức cố gắng. Trời không chiều ý người nên chúng ta phải chuẩn bị đầy đủ mọi mặt, như thế tốt hơn chỉ nghĩ tới một mặt.
Tối hôm nay, tôi rất phấn khởi được làm quen và được tâm sự nhiều với đồng chí, một lần lạ, lần sau quen. Chuyến đi của đồng chí là một chuyến đi tốt "Bon voyage" - Đồng chí Giang Trạch Dân nói tiếng Pháp.
Chúng tôi trở về Việt Nam. Ngày 3-8-1991, tại cuộc họp Bộ Chính trị, sau khi tôi báo cáo kết quả chuyến đi Trung Quốc, các thành viên dự họp phát biểu sôi nổi và thống nhất đánh giá chuyến đi đạt kết quả tốt và nhất trí mấy việc cần làm là:
- Thông báo kết quả chuyến đi này với Lào và Campuchia. Thông báo về chuyến đi trong nội bộ Đảng và báo cáo với Quốc hội.
- Triển khai các công việc cần thiết trước mắt, nhất là các cơ quan chức năng như Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trungương và Thủ tướng Chính phủ để xúc tiến các bước trong tiến trình thực hiện bình thường hóa quan hệ Việt - Trung.
Tiếp đó là những cuộc tiếp xúc, trao đổi giữa hai Ban Đối ngoại Trung ương của hai Đảng, giữa Bộ Ngoại giao hai nước và giữa Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm với Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy.
Tháng 11-1991, nhận lời mời của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân và Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc Lý Bằng, Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt dẫn đầu sang thăm chính thức Trung Quốc từ ngày 5 đến 10. Sau lễ đón tiếp và hội đàm, hai bên ra Thông cáo chung và ký Hiệp định chính thức bình thường hóa quan hệ giữa hai nước Trung - Việt trên cơ sở năm nguyên tắc chung sống hòa bình, đồng thời ký kết quan hệ bình thường giữa hai Đảng, mở đầu trang sử mới trong quan hệ giữa hai Đảng, hai nước sau hơn 10 năm trắc trở.
Nhớ lại, tôi từ chiến trường Campuchia trở về nhậm chức Tổng Tham mưu trưởng được hơn hai tháng, rồi nhậm chức Bộ trưởng Quốc phòng trong bối cảnh nước ta đang lâm vào khủng hoảng kinh tế. Tình hình thực tế về kinh tế - xã hội đang đặt ra một số vấn đề cấp bách cần phải giải quyết, trong khi đó lại nảy sinh những khó khăn về đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng, nhất là cán bộ cao cấp: Tổng Bí thư Lê Duẩn ốm nặng phải nằm viện dài ngày rồi qua đời; Chủ tịch Tôn Đức Thắng qua đời; Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh, quyền Tổng Bí thư lâm bệnh rồi qua đời; đồng chí Lê Đức Thọ bị bệnh ung thư rồi mất; Cố vấn Phạm Văn Đồng bị bệnh; trước đó, các anh Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Duy Trinh đã ra đi; anh Lê Trọng Tấn, anh Hoàng Văn Thái rồi anh Đinh Đức Thiện cũng từ trần. Một biến động về nhân sự chưa từng có.
Lúc đó, các thế lực phản động trong và ngoài nước ra sức bôi nhọ, âm mưu lật đổ sự lãnh đạo của Đảng. Nữ nhà văn Dương Thu Hương đứng lên diễn thuyết, dựng chuyện bôi nhọ Đảng Cộng sản. Bùi Tín - Đại tá quân đội, nguyên Phó Tổng biên tập báo Nhân Dân, chạy sang nhóm phản động ở nước ngoài. Bùi Tín và nhóm Hoàng Minh Chính chắc mẩm là khi ởtrong nước "khởi sự" thì bên kia sẽ hỗ trợ... Đồng thời với việc gây rối, bọn Lê Quốc Túy đổ bộ đường biển vào Cà Mau, Hoàng Cơ Minh qua đất Lào đột nhập về. Lúc đó, tôi nói: Thực chất chúng chỉ gây rối thôi. Hơn một triệu quân với bao nhiêu vũ khí, phương tiện hiện đại và đôla mà không làm gì được, nay bọn phản động này quậy thế ăn thua gì. Việc quan trọng bậc nhất là ta cần phải củng cố nâng cao bản chất giai cấp vô sản. Tôi nghĩ, bằng mọi cách Đảng phải giữ vững quyền lãnh đạo và củng cố quyền lãnh đạo cao nhất đối với đất nước; củng cố không phải một lúc mà phải làm từng bước.
Đến khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, ở nước ta, các phe nhóm phản động càng chống phá quyết liệt. Trước tình hình đó, tôi đề nghị phải thực hiện đúng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần làm hai việc: Thứ nhất, củng cố lại Đảng để xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp công nhân. Thứ hai, chăm sóc lợi ích và đời sống của nhân dân cả nước.
Là một cán bộ lãnh đạo và chỉ huy, gần 50 năm gắn bó với quân đội, với các lực lượng vũ trang và nhân dân trên các chiến trường, trải qua cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945, qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng đất nước và gần 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia, đã từ lâu tôi rất tâm huyết với công việc "tổng kết kinh nghiệm chiến tranh cách mạng". Bởi tôi cho rằng làm được việc này một cách đầy đủ, thấu đáo sẽ có ý nghĩa rất to lớn. Trước hết là, sẽ lý giải một cách thuyết phục tại sao ta, một nước nhỏ, nghèo, nền sản xuất lạc hậu mà chiến thắng được nhiều kẻ thù lớn. Hai là, việc tổng kết sẽ có ích cho công việc giữ nước hôm nay và mai sau. Điều này cần lắm, vì nước Việt Nam ta ở một vị trí địa - chiến lược rất quan trọng nên luôn bị những nước lớn "dòm ngó". Chính vì rất tâm huyết với công việc có ý nghĩa này nên cuối nhiệm kỳ Đại hội VI, tôi đã viết hai bức thư lên cấp trên để đề đạt nguyện vọng xin không ứng cử vào Quốc hội khóa IX và xin rút khỏi danh sách đề cử vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng để chuyên trách công tác tổng kết kinh nghiệm chiến tranh.
Ý nguyện của tôi không được Bộ Chính trị chấp nhận. Các anh trong Bộ Chính trị và Ban Bí thư còn động viên tôi: Anh cố gắng làm thêm một khóa nữa để cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta vượt qua những khó khăn gay gắt này.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, tiến hành từ ngày 24 đến 27-6-1991, đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tôi được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương và Ban Chấp hành Trung ương đã bầu tôi vào Ban Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng.
Từ ngày 19 tháng 9 đến 8-10-1992, Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ nhất đã bầu tôi làm Chủ tịch nước, đồng chí Nguyễn Thị Bình làm Phó Chủ tịch nước.
Nếu như nhiệm kỳ Đại hội lần thứ VI là thực hiện công cuộc đổi mới, thì nhiệm kỳ Đại hội lần thứ VII là nhiệm kỳ triển khai công cuộc đổi mới một cách toàn diện, trọng tâm là đổi mới nền kinh tế, tập trung vào mấy việc lớn: hình thành nền kinh tế nhiều thành phần; đưa kinh tế quốc doanh ra hoạt động theo cơ chế thị trường; tìm cách mở cửa với bên ngoài. Đảng ta đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và thông qua Hiến pháp năm 1992 để phù hợp với điều kiện mới. Đảng và Nhà nước dựa vào Cương lĩnh và Hiến pháp để hoạt động. Về bối cảnh quốc tế, lúc này hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới khủng hoảng, Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, Việt Nam bị cắt hoàn toàn viện trợ. Trung Quốc chưa bình thường hóa quan hệ, Mỹ đang bao vây cấm vận Việt Nam.
Về công tác đối nội, đây là giai đoạn toàn Đảng, toàn dân ta triển khai công cuộc đổi mới đất nước trong hoàn cảnh thuận lợi cũng có, mà khó khăn, thách thức cũng nhiều. Bởi vậy, tôi cũng như các thành viên trong Bộ Chính trị dồn hết tâm lực cho công việc với một quyết tâm và cố gắng cao nhất, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy mọi động lực mới, khai thác mọi tiềm năng phát triển sản xuất,...
Về công tác lập pháp, Quốc hội khóa IX đã soạn thảo và thông qua nhiều văn bản pháp luật. Để thực hiện nghiêm túc và trực tiếp đóng góp vào lĩnh vực hoạt động quan trọng này của Nhà nước, tôi, trên cương vị Chủ tịch nước và đồng chíNguyễn Thị Bình, Phó Chủ tịch nước, đã tập trung nghiên cứu, góp ý kiến vào các dự án luật và pháp lệnh.
Chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong bối cảnh đất nước vừa trải qua ba cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, còn gặp nhiều khó khăn, tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch đang thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình". Trung ương Đảng, mà trực tiếp là Bộ Chính trị, thường xuyên chỉ đạo việc khắc phục hậu quả chiến tranh và thực hiện nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Với cương vị và trách nhiệm của mình, tôi thường xuyên gặp gỡ trao đổi, bàn bạc với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao về những chủ trương, công việc lớn mang tầm chiến lược, những việc trước mắt đang đặt ra bức thiết phải giải quyết để bảo đảm công tác an ninh - quốc phòng và công tác đối ngoại hoạt động tốt, nhằm ổn định chính trị, quốc phòng - an ninh.
Trong điều kiện đời sống còn khó khăn, những người có công, nhất là các Bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống cô đơn, nghèo khổ, Bộ Chính trị đã có chủ trương khắc phục từng bước. Ngày 10-9-1994, với cương vị Chủ tịch nước, tôi ký Lệnh số 36L/CTN, công bố Pháp lệnh quy định Danh hiệu vinh dự nhà nước "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" và Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người tham gia hoạt động kháng chiến, người có công với cách mạng.
Sau gần hai tháng triển khai thực hiện Pháp lệnh trên phạm vi cả nước, ngày 1-12-1994, Đảng và Nhà nước ta long trọng tổ chức lễ phong tặng Danh hiệu vinh dự nhà nước "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" đợt một tại hội trường Ba Đình lịch sử. Ngày 29-12-1994, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, hàng trăm Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở tuổi ngoài 70 đã đi bên tôi, trong cương vị người đứng đầu nhà nước, hay nói đúng hơn là lần đầu tiên trong đời tôi được đi bên các Bà mẹ Việt Nam anh hùng duyệt hàng quân danh dự trong khuôn viên của Phủ Chủ tịch. Bên hàng quân danh dự là những chiến sĩ trẻ trung và nghiêm trang, nắng Ba Đình soi rõ ánh mắt và nụ cười rạng rỡ của các bà mẹ.
Kể từ khi công bố hai pháp lệnh nói trên, đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã phong tặng bảy đợt danh hiệu cao quý cho 42.803 bà mẹ. Cũng từ đây đã xuất hiện phong trào "Đền ơn đáp nghĩa", xây tặng "Nhà tình nghĩa" và nhận phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Phong trào xây dựng "Quỹ đền ơn đáp nghĩa", "Toàn dân chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với nước" trong các cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân đã trở thành nếp sống mang đậm tính nhân văn và truyền thống văn hóa "Uống nước nhớ nguồn" của các tầng lớp nhân dân trong cả nước. Khi tôi được biết tin cả nước có 10.700 Bà mẹ Việt Nam anh hùng hiện còn sống đã được các tổ chức xã hội, các cơ quan đoàn thể nhận phụng dưỡng suốt đời, tôi rất vui mừng. Trong lòng tôi vẫn mong ước làm sao để nâng mức sống của các Bà mẹ Việt Nam anh hùng và các đối tượng có công với cách mạng ngang hàng, hoặc vượt trội so với mức sống trung bình của người dân trong cùng khu vực.
Một lần vào thị sát hai tỉnh miền Tây Nam Bộ là Kiên Giang và Cần Thơ, tôi phát hiện ở đây có nhiều người dân mất hết ruộng đất canh tác. Tôi đã gặp và hỏi những nông dân này vì sao mất ruộng, thì họ trình bày hết, rồi họ khóc. Thì ra một số cán bộ có tiền lợi dụng lúc nông dân gặp khó khăn đã mua ruộng của họ, thế là nông dân mất ruộng. Mà nông dân cả đời gắn bó với ruộng đất canh tác nhằm duy trì cuộc sống, nay ruộng không còn thì lập tức rơi vào khốn khó. Lúc đó, tôi nói với cán bộ lãnh đạo của tỉnh rằng, vấn đề cơ bản nhất đối với nông dân là vấn đề ruộng đất. Chúng ta làm cách mạng để giành chính quyền cho nhân dân, chính quyền của dân, do dân, vì dân. Nay có chính quyền rồi, đã nắm quyền rồi, một số cán bộ lại xuất hiện tư tưởng phú nông, địa chủ. Anh là cán bộ, đảng viên không chịu tu dưỡng theo bản chất giai cấp công nhân, thì khi có quyền trong tay, hoặc anh sẽ trở thành điền chủ mới, người làm thuê cho anh lại chính là những nông dân mà anh vừa tham gia cuộc cách mạng giải phóng họ, nay vì khốn khó phải bán ruộng rồi trở thành người làm thuê như đã từng phải làm thuê cho địa chủ trước đây; hoặc anh sẽ là người ích kỷ, vô cảm, coi việc người dân mất ruộng là chuyện bình thường. Tôi đề nghị với lãnh đạo tỉnh cho nông dân vay tiền và bằng nhiều cách giúp họ chuộc lại đất. Hôm đó, ông Tám Quýt, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang, một người trong kháng chiến đã chiến đấu rất dũng cảm, nói: "Tôi sống sát dân mà không hiểu dân!".
Tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa IX, tháng 9-1997, tôi báo cáo: Chúng ta đã tự khẳng định mình bằng những thành tựu đạt được trong 5 năm qua - những năm đầy sóng gió. Song, chúng ta còn những khuyết điểm nội tại có chiều hướng gia tăng, nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ trở thành nguy cơ. Bốn nguy cơ của cách mạng nước ta đã được Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng chỉ rõ: 1. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, 2. Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; 3. Nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; 4. Âm mưu và hành động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Bao trùm lên tận bốn nguy cơ đó là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân đang có chiều hướng phát triển, biểu hiện muôn hình muôn vẻ trong các doanh nghiệp, cơ quan của Đảng và Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó"1. Vì vậy, chúng ta phải có biện pháp để đẩy lùi và loại trừ chủ nghĩa cá nhân trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, trong các doanh nghiệp nhà nước thì mới đẩy lùi được mọi nguy cơ, mới hoàn thành được sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nếu chúng ta không loại trừ được chủ nghĩa cá nhân và không khắc phục được bốn nguy cơ mà để chúng biến thành hiện thực trong Đảng, trong bộ máy nhà nước thì hậu quả thật khó lường.
Trong lịch sử chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của Đảng ta, đã có nhiều truyền thống quý báu, mà một trong những truyền thống đó là sự kế thừa. Chúng ta thường nói Đại hội VI là mốc son của công cuộc đổi mới đất nước. Nhưng ý tưởng này đã xuất hiện từ Đại hội IV, tới Đại hội V thì rõ dần ra, tới trước Đại hội VI, tình thế, điều kiện về mọi mặt đã chín muồi cho việc Đảng, Nhà nước ta quyết định chủ trương đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước và công khai mở ra năm thành phần kinh tế. Việc điều chỉnh về chiến lược quân sự và quốc phòng, giảm hơn một nửa số quân thường trực, giảm ngân sách quốc phòng như thế là những quyết định lớn, những việc lớn lắm. Chúng ta cần khẳng định rằng chính thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong suốt hơn 20 năm cũng là cơ sở cho công cuộc đổi mới đất nước ngày hôm nay, tuy rằng mô hình đó của chủ nghĩa xã hội còn có những khuyết tật cần sửa chữa, đổi mới.
Chính đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn là người đầu tiên phát hiện ra "vấn đề của nông dân": 5% ruộng đất giao cho hộ gia đình thì người ta làm ra 50% thu nhập, còn 95% ruộng đất giao cho hợp tác xã thì chỉ làm ra khoảng 50% thu nhập. Như vậy, nông dân làm ruộng không có động lực, cần phải tạo ra động lực cho bà con nông dân. Lịch sử về đổi mới trong nông nghiệp đã minh chứng: bắt đầu từ tư duy "khoán hộ" của anh Kim Ngọc, 15 năm sau thì xuất hiện "khoán chui", "khoán sản" của Hải Phòng đã làm cơ sở cho Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (tháng l-1981) và Nghị quyết "khoán 10" (tháng 4-1988) của Bộ Chính trị khóa VI. Lúc này, sức sản xuất thực sự được giải phóng, sản xuất bung ra. Nếu như trước đó, khi đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đề ra chỉ tiêu 21 triệu tấn lương thực, nhiều người hoài nghi, thì đến thời điểm này chúng ta không những đã giải quyết được cơ bản về lương thực, bảo đảm an ninh lương thực, mà còn có gạo xuất khẩu.
Nhiệm kỳ Đại hội IV và V, Bộ Chính trị đã chủ trương tập trung đầu tư cho một số công trình trọng điểm như: thủy điện Hòa Bình, nhiệt điện Phả Lại, xi măng Hoàng Thạch, thủy lợi vùng đồng bằng sông Cửu Long, khai thác dầu khí, v.v.. Về dầu khí, lúc đó, bị lôi kéo vào chiến dịch cấm vận, các Công ty kinh doanh dầu khí của một số nước đang hợp tác với ta liền chịu bồi thường để hủy bỏ hợp đồng và rút lui, Đảng và Nhà nước ta quyết định mời Liên Xô vào hợp tác, liên doanh, thăm dò và khai thác dầu khí ngoài khơi. Ngày 19-6-1981, tại điện Klemlin, Hiệp định về việc Liên Xô giúp Việt Nam thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa Nam Việt Nam và thành lập Xí nghiệp liên doanh Việt - Xô được ký kết. Và, Việt - Xô Petro trở thành mốc son lịch sử ra đời của ngành dầu khí Việt Nam.
Công cuộc đổi mới đất nước hôm nay đã và đang thành công là do ta kế thừa những thành quả của các nhiệm kỳ Đại hội Đảng trước và nhờ có cơ sở nền tảng của những công trình mà thế hệ lãnh đạo trước đã lo một bước.
Ở nhiệm kỳ mà chúng tôi được đảm trách các vị trí chủ trì, chúng tôi đã thường xuyên giải quyết tốt mối quan hệ giữa tập trung sức mạnh, trí tuệ của tập thể với việc phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm và vai trò, phẩm chất, năng lực của từng cá nhân. Cá nhân cán bộ, đảng viên có trách nhiệm rất cao với tập thể, với đất nước thì mới có những đóng góp hiệu quả vào công việc của dân của nước. Bất cứ tập thể nào cũng phải có một người đứng đầu điều hành. Trong đó nếu ai đó lại xen lợi ích cá nhân vào thì sẽ hỏng cho cả tập thể và hỏng cả việc điều hành. Bởi vậy, tập thể tốt hay xấu trước hết là do cá nhân đứng đầu.
Muốn đạt được những thành tựu đổi mới, phải thực hiện dân chủ. Dân chủ là vấn đề then chốt, là động lực của cách mạng. Thực tế cho thấy, nhiều giải pháp mang tầm vĩ mô đã được nhân dân phát hiện, kiến nghị và được áp dụng có hiệu quả to lớn. Điều quan trọng là phải biết phát huy nội lực, dựa vào dân động viên nhân dân bằng lợi ích để tạo ra những tiềm năng mới và đó cũng là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong"2.
Về đường lối đối ngoại, Đảng ta đề ra chủ trương Việt Nam muốn là bạn của tất cả các quốc gia, các dân tộc trên thế giới cùng phấn đấu vì hòa bình độc lập, hữu nghị và phát triển, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi. Ta ký Hiệp định chính thức quan hệ bình thường giữa Việt Nam và Trung Quốc (tháng 11-1991), đồng thời xúc tiến việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Bộ Chính trị giao cho lãnh đạo của Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng lo việc này.
Anh Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nói với tôi:
- Anh có cách gì hay thì anh làm bước mở đầu.
Tôi đồng ý và chọn con đường tiếp cận từ khoa học.
Tôi chọn ngành y học và cử anh Nguyễn Huy Phan (Thiếu tướng, bác sĩ Viện Quân y 108, giáo sư đầu ngành y học phẫu thuật chỉnh hình) làm "người mở đầu". Khi đi dự hội nghị khoa học quốc tế ở Paris, anh Phan đã trình bày công trình "phẫu thuật chỉnh hình" của mình, được các nhà khoa học đánh giá cao. Tại hội nghị, các nhà khoa học Mỹ đã có lời mời Giáo sư Nguyễn Huy Phan sang thăm Mỹ. Trước khi đi, tôi dặn anh Phan:
- Sang đó, anh làm tốt việc trao đổi về khoa học với các nhà khoa học Mỹ là đã phục vụ nhân dân, phục vụ chính trị rồi.
- Tôi sẽ thực hiện lời Chủ tịch căn dặn và cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ - Anh Nguyễn Huy Phan xúc động nói.
Đoàn của anh Phan sang Mỹ. Khi trao đổi về nghiệp vụ, các nhà khoa học phẫu thuật của Mỹ hỏi ta về việc họ muốn làm một điều gì đó cho Việt Nam. Ta mời họ sang tham gia phẫu thuật nhân đạo cho trẻ em bị khuyết tật môi, hở hàm ếch. Họ đồng ý và cử đoàn bác sĩ "Phẫu thuật nụ cười" sang ta.
Sau đó, Chính phủ quyết định đưa anh Phan lên làm Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt - Mỹ để làm "cầu nối" liên lạc. Sau này, công việc thành công, nhưng ít người biết được thời điểm đó cũng rất căng thẳng. Bởi vì những ý tưởng, chủ trương này phải giữ bí mật. Anh Phan được cử đi thực thi nhiệm vụ mở quan hệ với một nước đế quốc vừa gây chiến tranh xâm lược nước ta, thì bị mọi người và nhất là cấp trên trực tiếp gán cho tội "thỏa hiệp, đầu hàng địch". Vì cấp trên trực tiếp của anh không được phổ biến, quán triệt. Khi tôi bị xuất huyết não (năm 1997) nằm cấp cứu tại Viện Quân y 108, anh Phan vào thăm tôi, thấy tôi nằm bất động, anh khóc: "Thủ trưởng ơi, hãy sống lại đi. Chỉ có Thủ trưởng sống lại thì mới minh oan cho tôi!...".
Khi tôi khỏe trở lại, công việc đã thành công, tôi đã đề nghị khôi phục mọi quyền lợi chính trị cho anh Nguyễn Huy Phan và anh được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Sau bước mở đầu thành công bằng con đường khoa học, bước tiếp theo là ta tiến hành việc tạo thuận lợi cho phía Mỹ trở lại Việt Nam tìm người Mỹ mất tích và hài cốt lính Mỹ chết trong chiến tranh. Tôi thấy rằng phía Mỹ đặc biệt quan tâm đến vấn đề người Mỹ mất tích trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương nên ngay từ những năm cuối thập niên 1970, sau khi cuộc chiến tranh vừa kết thúc, sang thập niên 1980, họ đã lần lượt cử người sang Việt Nam để đặt vấn đề và đối thoại với ta nhằm giải quyết vấn đề này. Từ đầu năm 1987, có nhiều chuyến thăm Việt Nam của các đoàn Mỹ. Từ tháng 8-1987, năm cuối nhiệm kỳ của Tổng thống Reagan (Rigân) và những năm đầu nhiệm kỳ của Tổng thống Bush (Busơ cha) đã bắt đầu cử đoàn cao cấp - Đặc phái viên của Tổng thống Mỹ do tướng (về hưu) Vessey, nguyên Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ dẫn đầu đã lần lượt đến Việt Nam.
Các cuộc trao đổi, tiếp xúc Việt - Mỹ ở giai đoạn này thực chất là tiếp xúc ngoại giao song phương giữa Việt Nam và Mỹ. Có thể nói ở tất cả các cuộc tiếp xúc giai đoạn đầu, phía Mỹ cứ muốn áp đặt việc giải quyết hai vấn đề lớn: Một là, vấn đề chính trị ở Campuchia. Hai là, vấn đề tìm kiếm người Mỹ mất tích và hài cốt lính Mỹ chết trong chiến tranh (gọi tắt là POW/MIA). Họ coi đây là hai vấn đề tiên quyết để xóa bao vây cấm vận và bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ.
Về vấn đề Campuchia, ở đây có hai yếu tố, thứ nhất là, nhân dân Campuchia đã thoát khỏi họa diệt chủng và việc của Campuchia do chính quyền Campuchia giải quyết. Thứ hai là, nền kinh tế - xã hội của Campuchia đã thực sự hồi sinh, hệ thống chính trị của bạn đã vững. Việt Nam đã rút hết quân tình nguyện và đoàn chuyên gia về nước. Bởi vậy, đến giai đoạn sau thì phía Mỹ đã đồng ý và tự giác gạt bỏ "vấn đề Campuchia" ra khỏi "điều kiện tiên quyết" của việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Về vấn đề POW/MIA, mặc dầu lúc đầu phía Mỹ khăng khăng xem đây là điều kiện tiên quyết để bình thường hóa quan hệ; nhưng trước sau như một, ta vẫn khẳng định đây là vấn đề nhân đạo, thuần túy nhân đạo không gắn với chính trị.
Khi Tổng thống Mỹ đưa ra "bản lộ trình" (ngày 9-4-1991) gắn các bước bình thường hóa quan hệ với Việt Nam với việc đạt được tiến bộ trong vấn đề POW/MIA và vấn đề Campuchia, thì dịp này, một số phần tử xấu ở Mỹ tung ra bức ảnh giả về cái gọi là "ba phi công Mỹ còn sống đang bị giam cầm tại Việt Nam". Bức ảnh đã kích động mạnh dư luận về vấn đề POW/MIA tại Mỹ. Ngày 2-8-1991, Thượng viện Mỹ thông qua dự luật (S.Res.82) thành lập ủy ban đặc biệt về vấn đề POW/MIA để làm sáng tỏ vấn đề còn tù binh Mỹ sống và bị giam cầm ở Việt Nam không (gọi tắt là vấn đề POW) và ở Việt Nam, Lào còn kho hài cốt lính Mỹ không. Ngày 20-4-1992, ủy ban này cử phái đoàn đầu tiên sang Việt Nam, đưa ra đề nghị năm điểm. Từ ngày 16 đến 21-11-1992, Ủy ban này lại cử tiếp đoàn thứ hai do Thượng nghị sĩ John Kerry (Giôn Keri) dẫn đầu sang Việt Nam.
Ngày 18 tháng 11, với cương vị Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tôi đã tiếp đoàn. Tôi khẳng định một lần nữa chính sách nhất quán của Việt Nam coi vấn đề POW/MIA là vấn đề thuần túy nhân đạo. Việt Nam đã và sẽ tiếp tục hợp tác với Hoa Kỳ thực hiện các thỏa thuận giữa hai chính phủ và mong hai bên tích cực hợp tác giải quyết sớm vấn đề này. Trong buổi tiếp, Thượng nghị sĩ John Kerry đã trao cho tôi bức thư của Tổng thống Mỹ George Bush, trong thư đánh giá cao sự hợp tác của Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong thời gian qua, bày tỏ mong muốn đẩy mạnh sự hợp tác giữa hai bên trong thời gian tới và khẳng định cam kết của Chính phủ Mỹ thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Ông John Kerry bày tỏ mong muốn được vào thăm Thành cổ Hà Nội và công trình ngầm dưới lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tôi đã chấp thuận và dẫn ông đi. Khi trở về Mỹ, ông ta đã khẳng định nguồn tin có ba phi công Mỹ còn sống đang bị giam giữ và kho hài cốt lính Mỹ chỉ là chuyện bịa đặt với dụng ý xấu làm lung lạc dư luận Mỹ và phá hoại, ngăn cản tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Sau đó, phía Mỹ đã tự giác bỏ vấn đề "POW" (tù binh) trong các cuộc tiếp xúc và các văn bản trao đổi song phương. Đồng thời, Mỹ mở văn phòng tại Hà Nội liên quan đến vấn đề MIA, thành lập Lực lượng đặc nhiệm tìm kiếm hỗn hợp về MIA.
Ngày 3-2-1994, Tổng thống Mỹ Bia Clinton (Bin Clintơn) tuyên bố: không ngăn cản Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) cho Việt Nam vay tiền để đầu tư phát triển kinh tế và tuyên bố chấm dứt lệnh cấm vận thương mại kéo dài 19 năm đối với Việt Nam.
Ngày 12-7-1995, hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao và mở văn phòng liên lạc tại Washington và Hà Nội. Tháng 11 cùng năm thì lập Tổng lãnh sự quán của hai nước tại thành phố San Francisco và Thành phố Hồ Chí Minh.
Như vậy, trong nhiệm kỳ Đại hội lần thứ VII của Đảng ta, ở năm đầu nhiệm kỳ (năm 1991) ta đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, đến nửa cuối nhiệm kỳ (năm 1995), ta đã thiết lập quan hệ với Mỹ. Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN. Đồng thời, Việt Nam có quan hệ với hầu hết các nước trên thế giới và hầu hết các nước đều thực hiện quan hệ hợp tác hai bên cùng có lợi với Việt Nam.
Được sự nhất trí của Bộ Chính trị, với tư cách Chủ tịch nước, tôi tiếp xúc, hội đàm với một số nguyên thủ quốc gia khi đến thăm Việt Nam; đồng thời, cũng thực hiện nhiều chuyến thăm hữu nghị một số nước. Tôi đã thông báo những kết quả ban đầu về đổi mới kinh tế của Việt Nam những năm đầu thập niên 1990.
Tôi còn nhở, trong bài diễn văn của mình tại Hội nghị cấp cao lần thứ 11 Phong trào Không liên kết ngày 19-10-1995 tại Colombo (Côlômbô), tôi đã nhấn mạnh:
Hội nghị cấp cao lần thứ 11 của Phong trào Không liên kết chúng ta họp vào thời điểm trọng đại của lịch sử. Năm nay toàn thế giới kỷ niệm lần thứ 50 ngày kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, với lòng biết ơn sâu sắc đối với các dân tộc, các lực lượng đã chiến thắng chủ nghĩa phát xít và mở ra kỷ nguyên mới của nhân loại. Nửa thế kỷ qua, trên 100 nước đã giành được độc lập và thế giới đã trải qua những thay đổi hết sức sâu rộng. Để đưa các dân tộc chúng ta vượt qua nghèo nàn lạc hậu, theo chúng tôi, trước hết và quan trọng nhất, phải nêu cao ý chí độc lập, tự cường và phát huy hơn nữa tinh thần đoàn kết hợp tác của chính chúng ta để có hoà bình và ổn định bền vững. Tôi khẩn thiết kêu gọi Phong trào Không liên kết hãy làm hết sức mình để giúp đỡ các dân tộc anh em sớm chấm dứt chiến tranh, giữ vững độc lập, khôi phục hòa bình, phát triển đất nước...
Nhận lời mời của Tổng thống Pháp F. Mitterrand (Ph. Míttơrăng), từ ngày 7 đến 12-5-1995, tôi sang Cộng hòa Pháp dự lễ kỷ niệm 50 năm Ngày chiến thắng phát xít. Đúng 9 giờ 45 phút ngày 8-5-1995, tôi cùng với trên 50 vị nguyên thủ quốc gia, thủ tướng và trưởng đoàn của 80 nước tham dự lễ kỷ niệm tại quảng trường Khải hoàn môn. Chúng tôi thật xúc động khi chứng kiến, tại Khải hoàn môn, quốc kỳ Việt Nam được trang trọng kéo lên phấp phới tung bay rực rỡ cùng với quốc kỳ của các nước.
Trong lời phát biểu tại cuộc gặp với Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, tôi nhấn mạnh: Hai Đảng chúng ta có mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết truyền thống. Mối quan hệ đó được các đồng chí: Hồ Chí Minh, Pon Vayang Cutuyarie (Pôn Vayăng Cutuyriê), Marcel Cachin (Mácxen Casanh), Maurice Thorez (Môrítxơ Tôrê) và nhiều đồng chí lão thành cách mạng khác của hai Đảng dày công vun đắp ngay từ những ngày đầu khi Đảng Cộng sản Pháp và Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập. Những người cộng sản và nhân dân Việt Nam khâm phục tinh thần bất khuất kiên cường, sự hy sinh to lớn của những người cộng sản Pháp trong cuộc chiến đấu chống sự chiếm đóng của quân đội phát xít, góp phần to lớn vào việc giải phóng nước Pháp và đánh bại chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chúng tôi mãi mãi ghi nhớ sự ủng hộ to lớn, nhiệt tình của Đảng Cộng sản và nhân dân lao động Pháp đối với nhân dân Việt Nằm trong cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ vì độc lập, tự do, thống nhất đất nước và xây dựng Tổ quốc của nhân dân Việt Nam trong suốt nửa thế kỷ qua. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, cùng với việc phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, chúng tôi hết sức tranh thủ những kinh nghiệm lý luận và thực tiễn của các nước, của các đảng trên thế giới, trong đó có kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Pháp...
Tại bữa cơm thân mật do Chủ tịch Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện Cộng hòa Pháp mời riêng Chủ tịch nước Việt Nam và phu nhân, khi ông Chủ tịch Thượng viện hỏi chân tình là Việt Nam có cần gì không, thì tôi trả lời: "Chúng tôi cần tình hữu nghị!".
Đồng chí R. Hue, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Pháp phát biểu, đã ca ngợi những thành tựu to lớn về các mặt của nhân dân ta; khẳng định Đảng Cộng sản Pháp sẽ làm hết sức mình để tăng cường quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa hai Đảng, mong muốn hai Đảng đẩy mạnh quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực như kinh tế, khoa học kỹ thuật, trao đổi kinh nghiệm, đồng thời thúc đẩy Chính phủ Pháp mở rộng hợp tác với Việt Nam.
Từ ngày 22 đến 24-10-1995, với tư cách là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tôi tham dự lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Liên hợp quốc tại trụ sở của Liên hợp quốc ở New York (Niu Oóc), Mỹ.
Tổ chức Liên hợp quốc lúc đó có 185 nước và Liên hợp quốc là cộng đồng đông dân cư nhất. Ở trụ sở có 185 phái đoàn và các đại sứ đứng đầu mỗi đoàn. Ta có quan hệ với 167 nước.
Tôi vinh dự trở thành nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Việt Nam tham dự một hội nghị đa phương mang tính toàn cầu. Đoàn Chủ tịch của Việt Nam tham dự Lễ kỷ niệm với vị thế quốc tế mới được nâng cao do giành được độc lập và chính sách đối nội, đối ngoại hợp tình hợp lý của ta, mà thành tựu nổi bật nhất gần đây là việc Trung Quốc và Mỹ bình thườnghóa quan hệ với ta, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN và ta vừa ký Hiệp định khung về hợp tác với Liên minh châu Âu (EU). Điều đó đã thể hiện trước toàn thế giới chính sách nhất quán của ta: Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước, các dân tộc và nỗ lực đóng góp vào các vấn đề quốc tế chung của Liên hợp quốc.
Trong bài diễn văn của mình đọc trước Đại hội đồng Liên hợp quốc sáng 23-10-1995, tôi còn nhớ:
Mùa thu này, cùng với kỷ niệm 50 năm thành lập Liên hợp quốc, các dân tộc trên thế giới đồng thời trọng thể kỷ niệm 50 năm chiến thắng chủ nghĩa phát xít... Từ những kinh nghiệm mất mát của hai cuộc chiến tranh thế giới, các quốc gia Liên hợp quốc chúng ta đã long trọng cam kết "Quyết tâm cứu vãn các thế hệ tương lai khỏi các thảm họa chiến tranh". Hiến chương khẳng định mục tiêu của Liên hợp quốc là duy trì hòa bình an ninh quốc tế và phát triển quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc bình đẳng, chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia...
Lần đầu tiên trong lịch sử Liên hợp quốc, các quốc gia thành viên của đại gia đình Liên hợp quốc đã họp mặt ở cấp đại diện cao nhất. Tại dịp kỷ niệm trọng thể này, chúng ta cùng nhau thông qua một Cương lĩnh hành động của Liên hợp quốc để đoàn kết phấn đấu vì một thế giới tốt đẹp hơn. Tôi mong rằng, trên thế giới xây dựng một tương lai không còn hận thù mà chỉ còn hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc và các quốc gia. Vì một thế giới tốt đẹp hơn và một Liên hợp quốc xứng đáng với sự trông đợi của nhân dân thế giới, chúng ta một lần nữa khẳng định các nguyên tắc tiến bộ của Hiến chương về hòa bình, độc lập chủ quyền, bình đẳng giữa các dân tộc và thúc đẩy các quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các quốc gia. Đó là kim chỉ nam cho hành động của tổ chức chúng ta trong kỷ nguyên mới.
Tôi thay mặt Nhà nước và nhân dân Việt Nam trao tặng Liên hợp quốc phiên bản Trống đồng Đông Sơn và họ đã đặt ở vị trí trang trọng tại trụ sở của Liên hợp quốc. Trống đồng Việt Nam, biểu tượng của văn hóa Việt Nam có mặt tại trụ sở Liên hợp quốc có ý nghĩa đặc biệt. Trong tôi bỗng trào dâng niềm xúc động với ý thức lớn lao rằng: Biết bao mồ hôi, xương máu của đồng bào và chiến sĩ đã đổ ra suốt những năm chiến tranh giải phóng đất nước, vượt qua biết bao gian nan, thử thách ở chặng đường đầu tiên của sự nghiệp đổi mới đất nước vừa qua mới có được ngày hôm nay. Dân tộc Việt Nam từ bùn đen nô lệ, từ chỗ không có tên trên bản đồ thế giới, nay đã sánh ngang hàng với các quốc gia và dân tộc trên thế giới.
Trong các cuộc hội đàm, các nước rất quan tâm đến những thông tin mà tôi đã thông báo về những kết quả quan trọng mà Việt Nam đã đạt được trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước tính đến năm 1996, như: trong sáu năm liên tiếp kể từ năm 1991, GDP tăng với mức trung bình hằng năm là 8,5%, riêng năm 1996 tăng 9,46%. Từ nước thiếu lương thực, được nhân dân thế giới viện trợ nhân đạo, nay ta đã đủ ăn và có gạo hàng hóa xuất khẩu. Lạm phát từ 774% năm 1986 giảm xuống còn 4,5% năm 1996. Nền kinh tế thị trường nhiều thành phần hình thành và đang phát huy hiệu quả. Tổng kim ngạch xuất nhập nhẩu tăng từ 5,1 tỷ USD năm 1990 lên 18 tỷ USD năm 1996 (năm 1996, xuất khẩu tăng 32%). Từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài (năm 1987) tới nay, Việt Nam đã thu hút được trên 28 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài. Tháng 10-1996, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi, bổ sung nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư. Bộ máy quản lý nhà nước hoạt động có hiệu quả, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy; sự nghiệp giáo dục, y tế có nhiều tiến bộ; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; an ninh - quốc phòng và ổn định chính trị được giữ vững là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế. Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và có những điều kiện cần thiết để bước vào thời kỳ phát triển mới - thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là kết quả của đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự nỗ lực to lớn và sáng tạo của nhân dân Việt Nam.
Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 164 nước, trong đó có tất cả các nước lớn và trung tâm chính trị, kinh tế hàng đầu của thế giới; có quan hệ thương mại với hơn 100 nước và vùng lãnh thổ; quan hệ đầu tư trực tiếp với hơn 50 nước và vùng lãnh thổ. Việt Nam đang tích cực tham gia Khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA), chuẩn bị tham gia Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC) và chuẩn bị cho việc tham gia Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Có thể nói nhiệm kỳ 1991-1997 là giai đoạn Việt Nam triển khai toàn diện công cuộc đổi mới đất nước với một nỗ lực rất cao của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, riêng về công tác đối ngoại, chúng ta đã thực hiện và triển khai một cách vừa thận trọng, nghiêm túc, vừa tích cực chính sách đối ngoại rộng mở đa phương hóa, đa dạng hóa. Những hoạt động đối ngoại nói trên đã thu được những kết quả rất quan trọng. Ta đã làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn đất nước và con người Việt Nam, hiểu rõ và ghi nhận chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào nội bộ của nhau và cùng có lợi. Kết quả hoạt động tích cực của công tác đối ngoại cùng với những thành tựu quan trọng của công cuộc đổi mới ở giai đoạn này đã thực sự nâng tầm vị trí của nước ta trên trường quốc tế. Và từ đó, ta đã tranh thủ sự giúp đỡ, khai thác được thế mạnh của từng quốc gia, từng tổ chức quốc tế vào công cuộc tái thiết và xây dựng đất nước. Câu khẩu hiệu, đồng thời cũng là chủ trương của Đảng ta: "Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước và các dân tộc trên thế giới" đã trở thành hiện thực. Trước đây, Đảng ta đã từng huy động sức mạnh đoàn kết quốc tế kết hợp chặt chẽ với phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn để chiến thắng kẻ thù xâm lược, giải phóng đất nước, thì ngày nay, với đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng, chúng ta cũng đã và đang phát huy sự kết hợp một cách khoa học giữa nội lực của toàn Đảng, toàn dân với việc phát triển tình hữu nghị và hợp tác quốc tế, tạo nên sức mạnh mới cho sự nghiệp cách mạng xây dựng và phát triển đất nước ở giai đoạn mới.
Chúng ta mãi mãi nhớ ơn nhân dân thế giới, bầu bạn xa gần đã và đang ủng hộ nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta mãi mãi là người bạn chân thành của cộng đồng các dân tộc sống trên hành tinh tươi đẹp này. Sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nhất định thắng lợi vẻ vang.
Từ năm 1998, tôi cùng với hai đồng chí Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng. Với trách nhiệm của mình, tôi cùng các đồng chí cố vấn tích cực tham gia góp ý kiến với Đảng và Ban Chấp hành Trung ương Đảng những vấn đề quan trọng về sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội IX, khi bàn về xây dựng đảng cũng có nhiều ý kiến khác nhau, tôi đề nghị Điều lệ Đảng và bản chất của Đảng thì giữ nguyên như trước đây Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc". Tôi tin tưởng Đảng ta luôn nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước; bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất liền, vùng trời, vùng biển Tổ quốc.
Nghỉ việc nước, về với cuộc sống đời thường, tôi rất vui khi thấy đất nước ngày một đổi thay trên con đường đổi mới, hội nhập và phát triển. Đời sống nhân dân ngày càng ổn định, mức sống được nâng lên.
Cơ sở quan trọng để tôi dành tâm sức, trí tuệ cho sự nghiệp cách mạng là hậu phương gia đình ổn định; quê hương, dòng họ tiên tổ là gốc rễ; công lao cha mẹ sinh thành, anh em ruột thịt hòa thuận, đó là niềm tự hào, chắp cánh cho mọi quyết tâm, hoài bão trong tôi.
Về gia đình nhỏ của tôi, vợ trước là Phạm Thị Anh, sinh năm 1923, quê ở An Tây, Bến Cát, Bình Dương; là Thường vụ Hội Phụ nữ Khu Đông - Nam Bộ. Sau giải phóng miền Nam, Phạm Thị Anh làm cán bộ tổ chức tại Trường Cán bộ phụ nữ của Trung ương Hội mang tên Trường Lê Thị Riêng. Phạm Thị Anh có hơn 60 năm tuổi đảng, đã từ trần. Tình yêu đến với chúng tôi trong hoạt động cách mạng, đấu tranh chống thực dân Pháp trên chiến trường miền Đông Nam Bộ. Chúng tôi sinh được hai con gái. Con gái đầu sinh thiếu tháng, vừa sinh xong phải chạy giặc càn nên được hai ngày thì qua đời. Con gái thứ hai là Lê Xuân Hồng (Hồng chị) sinh năm 1951, là Tiến sĩ tâm lý học, nguyên là Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Sư phạm mẫu giáo Trung ương 3 (nay là Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương Thành phố Hồ Chí Minh), nay đã nghỉ hưu.
Vợ sau là Võ Thị Lê, sinh năm 1927, quê ở Quế Phong, Quế Sơn, Quảng Nam. Thời kháng chiến chống thực dân Pháp, vợ tôi ở trong Ban Chấp hành Hội Phụ nữ tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Gia Lai. Sau hòa bình, vợ tôi tập kết ra Bắc, được đi học và trở thành bác sĩ y khoa, công tác tại Bệnh viện Việt Xô Hà Nội, nay đã nghỉ hưu, 68 năm tuổi đảng (năm 2015). Với người chồng trước, vợ tôi có một con gái là Huỳnh Thị Lệ Hạnh, sinh năm 1950, là kỹ sư thông tin, cán bộ hàng không, nay đã nghỉ hưu. Chúng tôi sinh được hai con. Con trai đầu là Lê Mạnh Hà, sinh năm 1957, Tiến sĩ ngành thông tin viễn thông tại Liên Xô (trước đây) và là Thạc sĩ quản lý nhà nước chuyên về kinh tế vĩ mô học tại Đại học Harvard (Havớt), Mỹ; hiện nay làm Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ. Con gái Lê Xuân Hồng (Hồng em) sinh năm 1959, Cử nhân kinh tế, nguyên là cán bộ ngành hải quan Thành phố Hồ Chí Minh, nay đã nghỉ hưu. Các con tôi đã lập gia đình và nuôi dạy các cháu trưởng thành. Chúng tôi có sáu cháu và bốn chắt. Như vậy, gia đình tôi có đủ bốn thế hệ, như các cụ xưa từng nói là "tứ đại đồng đường" - quả là hạnh phúc.
Các con tôi đều là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi rất vui khi thấy các con cháu sống xứng đáng với truyền thống gia đình, đang bước tiếp con đường cách mạng của Đảng, của Bác Hồ mà ông, cha của chúng đã chọn.
Đại tướng Lê Đức Anh (1920-2019) là một trong những vị tướng lĩnh tài năng, nhà lãnh đạo quốc gia dày dạn kinh nghiệm, tầm cỡ, có nhiều cống hiến quan trọng cho sự nghiệp cách mạng dân tộc.
Sinh ra và lớn lên trên quê hương giàu truyền thống yêu nước (Thừa Thiên-Huế), đồng chí Lê Đức Anh sớm giác ngộ và tham gia đấu tranh cách mạng từ năm 1937, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1938. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đồng chí lần lượt giữ nhiều chức vụ chỉ huy quan trọng trên chiến trường miền Nam (chính trị viên tiểu đoàn, trung đoàn, Tham mưu trưởng các khu 7, 8 và Đặc khu Sài Gòn - Gia Định)...
Sau Hiệp định Geneve (7-1954), đồng chí Lê Đức Anh (lúc đó đang là Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ) tập kết ra miền Bắc. Trước khi lên đường, thực hiện sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Bộ lường định về cuộc chiến tranh có thể nổ ra, đồng chí Lê Đức Anh trực tiếp chỉ đạo các đơn vị thực hiện chôn giấu một số loại vũ khí tốt cùng máy móc công binh xưởng. Những vũ khí, máy móc này về sau trở thành những trang bị đầu tiên rất có giá trị của Quân giải phóng.
Thời gian đầu ra miền Bắc (1954-1964), đồng chí Lê Đức Anh được Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy (sau gọi là Quân ủy Trung ương) phong quân hàm Đại tá (1958), bổ nhiệm giữ lần lượt các chức vụ khác nhau: Sư đoàn trưởng Sư đoàn Bộ binh 330, Cục phó Cục Tác chiến, Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Dù trên cương vị nào, đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần xây dựng quân đội ngày càng vững mạnh. Đặc biệt, đồng chí Lê Đức Anh trực tiếp tham gia chỉ đạo việc tuyển chọn lực lượng đầu tiên làm nhiệm vụ mở tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh trên bộ, trên biển từ Bắc vào Nam, đồng thời cùng cơ quan Bộ Tổng Tham mưu tổ chức cho cán bộ, chiến sĩ (chủ yếu là con em miền Nam tập kết) tích cực huấn luyện, rèn luyện, chuẩn bị sẵn sàng về Nam chiến đấu.
Đầu năm 1964, khi chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ đang đạt đỉnh cao, trước yêu cầu tăng cường công tác chỉ huy trong tình hình mới, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương ra quyết định điều động đồng chí Lê Đức Anh vào chiến trường miền Nam, giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Miền (Quân giải phóng miền Nam). Đây được xem là cơ quan tiền phương của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh ở chiến trường trọng điểm Nam Bộ (B2); chịu sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh và sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Cục miền Nam; có nhiệm vụ chỉ đạo hoạt động quân sự, các lực lượng vũ trang trên các chiến trường Khu 6, 7, 8, 9 và Sài Gòn - Gia Định.
Trên cương vị công tác mới, do thấm nhuần đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng, cùng với kinh nghiệm thực tiễn nhiều năm gắn bó với chiến trường miền Nam, đồng chí Lê Đức Anh chủ động đề xuất với Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền một số chủ trương, biện pháp quan trọng: Một là, mở rộng vùng giải phóng miền Đông Nam Bộ ra phía Đông (khu vực Bà Rịa - Vũng Tàu) nhằm tận dụng khai thác nhân lực, vật lực, tiếp nhận sự chi viện vật chất bằng đường Hồ Chí Minh trên biển từ miền Bắc; hai là, tập trung xây dựng lực lượng tại chỗ, cả bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, lực lượng vũ trang nội đô (biệt động thành), đẩy mạnh tác chiến hỗ trợ tích cực phong trào đấu tranh chính trị đô thị; ba là, tăng cường huấn luyện cho bộ đội, nhất là các chiến thuật phục kích, tập kích, đánh địch cả trong và ngoài công sự, tập trung lực lượng sẵn sàng chủ động mở những chiến dịch tiến công có hiệu suất tiêu diệt cao.
Những đề xuất trên được cơ quan chỉ đạo chiến lược thông qua, ra nghị quyết thực hiện. Trên cơ sở đó, mùa khô 1964-1965, Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền đã lãnh đạo quân dân Nam Bộ mở đợt hoạt động tiến công rộng lớn, trong đó có những chiến dịch giành thắng lợi lớn, như: Chiến dịch Bình Giã (2/12/1964 - 3/1/1965), Chiến dịch Đồng Xoài (10/5 - 22/7/1965), góp phần cùng toàn miền đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.
Đầu năm 1965, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh, quân một số nước đồng minh cùng nhiều loại phương tiện, trang bị vũ khí hiện đại vào trực tiếp tham chiến tại miền Nam, đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ra miền Bắc Việt Nam, chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Quân viễn chinh Mỹ có mặt tại miền Nam không ngừng tăng lên: 81.000 (1965), 376.000 (1966), 480.000 (1967) và đạt 543.000 (1968). Dựa vào ưu thế về quân đông, hỏa lực mạnh, sức cơ động nhanh, Mỹ - chính quyền Sài Gòn liên tiếp mở những cuộc phản công chiến lược trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 trên khắp chiến trường miền Nam, trọng điểm vào miền Đông Nam Bộ, nhằm “chụp bắt” các cơ quan chỉ đạo chiến lược cách mạng.
Ngay từ những ngày đầu quân Mỹ vào miền Nam, đồng chí Lê Đức Anh cùng Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền đã họp và sớm nhận định: Địch sẽ tổ chức các cuộc hành quân “tìm diệt” quy mô lớn để tiêu diệt cơ quan đầu não và chủ lực Quân giải phóng. Do vậy, ta cần phải di chuyển cơ quan và chủ động lập kế hoạch đối phó. Theo đó, bộ đội chủ lực sẽ bố trí ở vòng ngoài, khi xuất hiện thời cơ thì tổ chức đánh tập kích. Lực lượng tại chỗ sẽ phối hợp đánh địch bằng một phương thức mới là “bám trụ và bung ra đánh”. Trong hoàn cảnh trên địa bàn tác chiến thưa dân (hoặc không có dân) thì lấy cán bộ, nhân viên ở các cơ quan tổ chức thành nhiều đội du kích xã, ấp để chiến đấu. Bộ Chỉ huy Miền giao đồng chí Lê Đức Anh trực tiếp chỉ huy đánh địch tại chỗ. Sau khi rà soát lực lượng, nghiên cứu địa bàn, nắm bắt ý đồ chiến lược của phía Mỹ, đồng chí Lê Đức Anh trực tiếp giao nhiệm vụ cho các cán bộ đầu ngành của các cơ quan Bộ Chỉ huy Miền và Trung ương Cục. Mỗi ngành tổ chức thành một “huyện đội" (hành chính) do đồng chí chủ nhiệm ngành làm “huyện đội trưởng”, triển khai đứng chân và xây dựng trận địa chiến đấu trong một địa bàn huyện với các “xã chiến đấu”, “ấp chiến đấu” có chiều sâu và chiều rộng phòng ngự liên hoàn.
Nhờ triển khai thế trận đó, ta đã lần lượt đánh bại những cuộc hành quân tìm diệt quy mô lớn của địch, trong đó lớn nhất là cuộc hành quân Junction City đầu năm 1967 có 45.000 quân tham gia. Đây chính là một nét độc đáo về nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, được đồng chí Lê Đức Anh tổ chức thực hiện rất thành công, sau được áp dụng rộng rãi trên các chiến trường.
Cuối năm 1967, đầu năm 1968, cục diện chiến tranh có sự chuyển biến nhanh chóng theo hướng ngày càng có lợi cho ta, bất lợi cho Mỹ, Trung ương Đảng quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên khắp chiến trường miền Nam, trọng điểm nhằm vào các đô thị nhằm buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán rút quân về nước, tạo bước ngoặt mới cho cuộc kháng chiến. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy bắt đầu diễn ra vào dịp Tết Mậu Thân 1968, chia làm 3 đợt (30/1-25/2; 4/5-18/6; 17/8-23/9). Quân và dân miền Nam bất ngờ, đồng loạt tiến công, nổi dậy ở 4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm quận lị, thị trấn; tập trung đánh vào nội thành và các cơ quan đầu não địch (Dinh Độc Lập, tòa đại sứ Mỹ, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân, Tổng nha Cảnh sát, Đài phát thanh Sài Gòn...), các căn cứ hậu cần, sân bay, bến cảng lớn, nhiều sở chỉ huy cấp quân khu, quân đoàn, sư đoàn của địch. Chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng đề ra, đồng chí Lê Đức Anh vừa cùng Bộ Chỉ huy Miền xây dựng kế hoạch, chỉ đạo chiến trường, vừa trực tiếp chỉ huy bộ đội ở hướng Tây Sài Gòn, từ Long An đánh vào Tổng nha Cảnh sát và Cảnh sát đô thành, có mũi đánh thọc sâu vào áp sát quận 6, gần tới Phú Lâm, phối hợp chặt chẽ với các hướng tiến công khác trên toàn miền.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã đánh sập ý chí xâm lược, buộc phía Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Paris. Đó là bước ngoặt lớn của chiến tranh. Tuy nhiên, do mắc một số sai lầm, khuyết điểm (chủ quan đánh giá tình hình địch-ta; tư tưởng chỉ đạo nóng vội; chậm nắm bắt diễn biến, chỉ đạo thiếu kiên quyết, chưa kịp thời,...), nên cách mạng miền Nam cũng chịu tổn thất to lớn. Địch tổ chức nhiều cuộc phản công, càn quét đánh phá dữ dội. Quân giải phóng dần bị đẩy lùi ra khỏi thành phố và ven đô. Nhiều vùng nông thôn của ta trước đây bị địch chiếm lại.
Từ năm 1969, Mỹ chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, chủ trương rút dần quân viễn chinh về nước, đồng thời phát triển lực lượng quân đội Sài Gòn để gánh vác chiến tranh, thực chất là thực hiện chính sách “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam”. Biện pháp cơ bản của địch là: Thỏa hiệp với một số nước lớn xã hội chủ nghĩa nhằm cô lập cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam; tiến công đánh phá tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn của ta; đẩy mạnh chương trình “bình định” nhằm chiếm đất, giành dân với cách mạng, trọng điểm là địa bàn Quân khu 9 (Tây Nam Bộ).
Đầu năm 1969, đồng chí Lê Đức Anh được điều động giữ chức Tư lệnh Quân khu 9. Đây thực sự là một thử thách rất to lớn, bởi lúc này, địch đã bình định, lấn chiếm gần hết vùng giải phóng, chỉ còn lại căn cứ U Minh và Cà Mau. Lực lượng chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương tổn thất nặng, mất sức chiến đấu. Chính trong hoàn cảnh lịch sử ngặt nghèo đó, đồng chí Lê Đức Anh cùng Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu tổ chức nhiều cuộc họp tìm cách tháo gỡ, cuối cùng đi đến thống nhất: Sử dụng tất cả lực lượng hiện có kiên trì bám trụ, tiêu hao, tiêu diệt quân địch, ngăn chặn từng bước và đánh bại âm mưu bình định lấn chiếm của chúng, kiên quyết bảo vệ vùng giải phóng còn lại; trên cơ sở đó tạo điều kiện để khôi phục vùng địch mới lấn chiếm; chuẩn bị những điều kiện cơ bản để giành lại địa bàn đông dân nhiều của ở phía trước.
Thực hiện chủ trương mới đề ra, Bộ Tư lệnh Quân khu yêu cầu: Các lực lượng vũ trang phải tích cực bám dân, sống trong dân, làm chỗ dựa cho dân, cùng với dân hình thành lực lượng tổng hợp đánh địch. Bộ đội chủ lực phối hợp chặt chẽ bộ đội địa phương và dân quân du kích khắc phục khó khăn, thường xuyên tổ chức tiến công địch; xây dựng, phát triển lực lượng, nhất là củng cố xây dựng bộ đội chủ lực tạo điều kiện thực hành phản công, phá thế tiến công của địch. Nhờ những chủ trương, biện pháp đúng đắn đó, quân dân Khu 9 liên tiếp đánh bại nhiều cuộc hành quân càn quét bình định quy mô lớn của địch, giữ vững căn cứ U Minh, Cà Mau (1969-1970), từng bước đưa phong trào cách mạng trên địa bàn Quân khu lên bước phát triển mới trong những năm 1971-1972.
Do chịu thất bại liên tiếp trên khắp các chiến trường, đồng thời phong trào phản đối chiến tranh của nhân dân trong nước và thế giới dâng cao mạnh mẽ, ngày 27-1-1973, chính phủ Mỹ buộc phải ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút hết quân viễn chinh về nước. Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, Mỹ vẫn viện trợ kinh tế, quân sự cho chính quyền, quân đội Sài Gòn hòng tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh tại miền Nam. Chúng huy động hầu như toàn bộ lực lượng mở những chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, bình định lấn chiếm vùng giải phóng.
Về phía ta, trong thời gian đầu, do nhấn mạnh đến hòa bình, hòa hợp; chưa thấy hết âm mưu và hành động của địch; buông tư tưởng chiến lược tiến công nên một số địa phương ta mất đất, mất dân. Riêng tại Quân khu 9, do đánh giá đúng âm mưu, hành động của địch, đồng thời bám sát yêu cầu thực tiễn chiến trường, đồng chí Lê Đức Anh cùng Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu chủ trương: Giữ vững tư tưởng cách mạng tiến công, kiên quyết đánh bại kế hoạch bình định, buộc địch phải thực hiện Hiệp định Paris. Phương châm trước mắt cần thực hiện là “đấu tranh quân sự và chính trị kết hợp với pháp lý của Hiệp định”, tư tưởng chỉ đạo cơ bản vẫn là “tiến công địch để giành dân, giành quyền làm chủ; giành dân, giành quyền làm chủ để tiến công địch”.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh chủ trương, biện pháp của Quân khu 9 là hoàn toàn đúng đắn. Chiến thắng tiêu biểu nhất là ta đã đánh bại cuộc hành quân bình định lấn chiếm của 75 lượt tiểu đoàn địch tại khu vực Chương Thiện (Hậu Giang) trong năm 1973. Với chiến thắng Chương Thiện, ta đã giữ vững địa bàn trọng điểm, tạo được thế và lực mới, xây dựng và củng cố lực lượng về mọi mặt, rút ra những bài học kinh nghiệm tốt cho các chiến trường bạn, đồng thời làm cơ sở lý luận và thực tiễn để Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21 (7-1973) khẳng định: Bất kể trong tình huống nào, con đường giành thắng lợi cơ bản của cách mạng Việt Nam cũng là con đường bạo lực, do đó phải nắm vững chiến lược tiến công, kiên quyết đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, nhằm tiến lên thực hành phản công để giành toàn thắng.
Sang năm 1974, cục diện chiến trường miền Nam có sự chuyển biến nhanh chóng, cách mạng phát huy quyền chủ động mở những đợt hoạt động rộng khắp, đẩy quân đội Sài Gòn ngày càng lún sâu vào thế bị động. Đồng chí Lê Đức Anh được Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương điều động về giữ chức Phó Tư lệnh Bộ Chỉ huy Miền, phụ trách công tác lập kế hoạch tác chiến và được phong quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng. Theo đề xuất của đồng chí Lê Đức Anh, các đơn vị chủ lực của Miền cần huấn luyện theo hướng mới, tập trung vào khả năng đánh công kiên, lấy chi khu quân sự Đồng Xoài của địch làm mục tiêu, đối tượng để luyện tập theo cả ba cấp: Đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn. Nhờ luyện tập thuần thục chiến thuật này (trong vòng 3 tháng), nên trong chiến dịch Đường 14 - Phước Long (13/12/1974 - 6/1/1975), ta đã nhanh chóng đánh chiếm các chi khu Bù Đăng, Bù Đốp, Đồng Xoài... giành thắng lợi. Đây là đòn trinh sát có ý nghĩa chiến lược, vừa cho thấy sự suy yếu của quân đội Sài Gòn, khả năng can thiệp rất hạn chế của Mỹ, đồng thời tạo thêm cơ sở để Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Đầu năm 1975, chớp thời cơ chiến lược, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, mở đầu bằng Chiến dịch Tây Nguyên (4/3-3/4/1975), tiếp theo là Chiến dịch Trị Thiên - Huế (5-26/3/1975), Chiến dịch Đà Nẵng (26-29/3/1975) và kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (26-30/4/1975). Trong đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng, đồng chí Lê Đức Anh được cử giữ chức Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, kiêm Tư lệnh cánh quân Tây - Tây Nam, Chỉ huy Đoàn 232 (tương đương cấp quân đoàn) tiến công vào Sài Gòn.
Vào hồi 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc lập, cũng chính là thời khắc báo hiệu sự toàn thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài 21 năm, đồng thời kết thúc vẻ vang chặng đường 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc (1945-1975). Sau năm 1975, đồng chí Lê Đức Anh tiếp tục giữ nhiều cương vị, trọng trách khác nhau trong Quân đội, được phong quân hàm Thượng tướng (1980), Đại tướng (1984) và trở thành lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Nhiều thập kỷ đã trôi qua, song những đóng góp của Đại tướng Lê Đức Anh đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) sẽ mãi được lịch sử ghi nhận. Dù trên cương vị chỉ huy nào, Đại tướng cũng thể hiện được tầm nhìn sâu rộng, tư duy sắc sảo, thể hiện bản lĩnh quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm, xứng đáng được vinh danh là một trong những vị tướng tài ba của Quân đội nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Đến hôm nay, với tấm lòng tri ân sâu sắc, tất cả chúng ta đều khẳng định: Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng tài ba, thao lược của Quân đội nhân dân Việt Nam; một nhà lãnh đạo tài năng của Đảng và Nhà nước ta. Ở bất cứ cương vị công tác nào, đồng chí cũng luôn thể hiện là một cán bộ năng động, sáng tạo luôn bám sát chiến trường, bám sát thực tiễn, có những chủ trương, biện pháp phù hợp với tình hình, nhiệm vụ của cách mạng.
Đặc biệt, những năm 1969-1973, trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, đồng chí cùng tập thể Khu ủy lãnh đạo, chỉ huy quân và dân miền Tây Nam Bộ vượt qua giai đoạn khó khăn, ác liệt nhất. Đồng chí để lại trong lòng quân và dân miền Tây Nam Bộ hình ảnh một chỉ huy quân sự tài ba, với bản lĩnh chính trị vững vàng; tinh thần cách mạng tiến công; gắn bó với dân, với cán bộ, chiến sĩ; khả năng tổng hợp phân tích tình hình sắc sảo, quyết đoán, kịp thời đề xuất những chủ trương sáng tạo, đúng đắn, đưa phong trào cách mạng của quân và dân nơi đây vượt qua khó khăn, phát triển có tính bước ngoặt.
Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của ta, địch tập trung lực lượng phản kích quyết liệt, đẩy lực lượng ta ra khỏi thành phố, thị xã. Chúng đẩy mạnh các chương trình bình định, lấn chiếm nhanh chóng các vùng nông thôn rộng lớn. Trong vòng một năm, ở nhiều địa phương, cán bộ, LLVT cơ sở không bám được địa bàn; quần chúng né tránh bom đạn, chạy ra vùng địch kiểm soát… Quân và dân miền Tây Nam Bộ bước vào thời kỳ khó khăn nhất, tưởng chừng như không vượt qua được.
Trước tình hình Khu 9 đang gặp nhiều khó khăn, tháng 7-1969, Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền giao nhiệm vụ cho đồng chí Lê Đức Anh về làm Tư lệnh Quân khu 9. Sau đó, đồng chí Võ Văn Kiệt được điều về làm Bí thư Khu ủy-Chính ủy quân khu. Là một cán bộ quân sự năng động, luôn bám sát chiến trường, dám nhìn thẳng vào sự thật, nên khi về đến Khu 9, đồng chí cùng tập thể Thường vụ Khu ủy nghiêm túc đánh giá lại tình hình địch-ta từ sau Tết Mậu Thân; phân tích những thuận lợi cơ bản của chiến trường để chỉ đạo, chỉ huy LLVT đánh địch.
Thực hiện chủ trương này, dưới sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của đồng chí Lê Đức Anh, trên tinh thần tích cực tiến công và phản công bằng những phương thức thích hợp, quân và dân miền Tây Nam Bộ đã phá thế kìm kẹp của địch ở nhiều nơi, mở được một số vùng giải phóng, phát triển thế làm chủ của nhân dân. Từ đó, ta vượt qua được những thử thách ác liệt của thời kỳ khó khăn nhất (năm 1969-1971), tạo ra những điều kiện thuận lợi để cùng toàn Miền thực hiện cuộc tiến công chiến lược trong năm 1972.Chỉ trong thời gian ngắn, trên cơ sở thống nhất chủ trương trong Thường vụ Khu ủy, đồng chí Lê Đức Anh với vai trò Tư lệnh quân khu đã đưa ra những quyết định quan trọng về mặt quân sự: Phòng ngự bám trụ chiến đấu theo hình thức phòng ngự linh hoạt, kết hợp phản công đánh vào một số cứ điểm. Phòng ngự bám trụ tiêu hao địch, giữ vững trận địa. Địch chốt ở đâu thì vây lại, đánh liên tục bằng nhiều hình thức, làm cho địch phải co lại… Nắm vững thời cơ kiên quyết phản công địch. Phải xây dựng và phát triển lực lượng, nhất là củng cố, xây dựng bộ đội chủ lực mới tạo được điều kiện để phản công và mới phá được thế tiến công của địch.
Đặc biệt, khi đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (tháng 1-1973), nhiều chiến trường ngừng bắn nên địch tranh thủ đẩy mạnh các hoạt động lấn chiếm. Riêng ở Quân khu 9, bản lĩnh người chỉ huy của đồng chí Lê Đức Anh lại càng bộc lộ rõ nét: Đồng chí đã đánh giá đúng bản chất kẻ thù, sớm xác định hành động phá hoại hiệp định của địch nên kịp thời đề xuất với Thường vụ Khu ủy, chủ trương: Bố trí 4 trung đoàn chủ lực của quân khu ở địa bàn trọng điểm; đồng thời, chỉ thị cho các LLVT: Đứng vững trên địa bàn quân khu quy định, nếu địch bung ra lấn chiếm thì kiên quyết trừng trị; giữ vững quyền làm chủ hiện có, vận động binh sĩ địch bỏ ngũ; sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt các đơn vị địch xâm phạm vùng giải phóng;…
Nhờ chủ trương đúng đắn, sáng tạo, kịp thời của Thường vụ Khu ủy Khu 9, trong đó có vai trò của đồng chí Lê Đức Anh-Tư lệnh quân khu trong đánh địch bình định lấn chiếm sau Hiệp định Paris giành được thắng lợi, ta đã đánh bại kế hoạch bình định lấn chiếm Chương Thiện của địch, giữ được địa bàn then chốt, tiếp tục củng cố và mở rộng vùng giải phóng. Tại đây, ta đã đánh bại 75 lượt tiểu đoàn địch, tạo điều kiện hỗ trợ các địa phương chống bình định lấn chiếm giành thắng lợi. Sự nhạy bén, sáng tạo của đồng chí Lê Đức Anh cùng tập thể Thường vụ Khu ủy Khu 9 chẳng những không đi chệch đường lối của Đảng mà việc làm đó còn giúp cho Trung ương thấy được thực tế tình hình, kịp thời đưa ra Nghị quyết 21 (tháng 8-1973) có chủ trương, sách lược đúng đắn trong điều kiện có Hiệp định Paris.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Quân khu 8 và Quân khu 9 sáp nhập thành Quân khu 9. Năm 1976, đồng chí Lê Đức Anh lại được điều về làm Tư lệnh Quân khu 9. Thời kỳ này, ở miền Tây Nam Bộ còn nhiều khó khăn và vô cùng phức tạp. Tuy nhiên, với vai trò Tư lệnh quân khu, kinh qua hai cuộc kháng chiến, nhất là từng có thời gian công tác ở địa bàn này, nên đồng chí chỉ đạo thành công những công việc lớn, như: Sắp xếp lại tổ chức LLVT quân khu, vừa tham gia xây dựng kinh tế, vừa giữ được lực lượng tại ngũ. Chủ trương thực hiện việc đào tạo nguồn cán bộ cơ sở, làm nền tảng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp sau này. Nhất là khi ta có chủ trương cho ra quân với số lượng nhiều sau khi hòa bình, nhiều địa phương cho chiến sĩ xuất ngũ, thì riêng ở Quân khu 9 lúc bấy giờ đồng chí đã giữ lại 3 trung đoàn và chọn trung đoàn mạnh của Quân khu 8 và Quân khu 9 (cũ) thành lập Sư đoàn 330. Do đó, khi chiến tranh biên giới Tây Nam xảy ra, Quân khu 9 có sẵn lực lượng chủ động đánh địch.
Có thể nói: Những năm tháng chiến đấu ở chiến trường miền Tây Nam Bộ dù thời gian trực tiếp công tác trên địa bàn không lâu so với suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí, nhưng đức độ, tài năng, phong cách của Đại tướng Lê Đức Anh mãi mãi là niềm tự hào và là tấm gương sáng cho Đảng bộ, quân và dân miền Tây Nam Bộ, trong đó có LLVT Quân khu 9 học tập, noi theo. Những cống hiến to lớn của Đại tướng Lê Đức Anh để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về giữ vững quan điểm, nguyên tắc của Đảng; đồng thời linh hoạt, nhạy bén, sâu sát tình hình, sáng tạo trong vận dụng đường lối quân sự của Đảng phù hợp với thực tiễn chiến trường đặt ra, chủ động nắm bắt thời cơ để lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy LLVT làm nên những chiến thắng có ý nghĩa quyết định trên chiến trường.
Thời gian lùi xa, nhưng trong tâm trí các thế hệ quân và dân miền Tây Nam Bộ vẫn mãi in đậm hình ảnh vị Tư lệnh Lê Đức Anh - bác Sáu Nam, một trong những người con ưu tú của cách mạng Việt Nam đã từng sống, chiến đấu ở vùng đất cực Nam Tổ quốc!
Thiếu tướng HUỲNH CHIẾN THẮNG, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 9
Sinh ra và lớn lên ở Huế, nhưng địa bàn hoạt động cách mạng đầu tiên của đồng chí Lê Đức Anh lại ở miền Đông Nam Bộ. Tại đây, đồng chí Lê Đức Anh lần lượt trải qua các chức vụ: Chính trị viên Chi đội Vệ quốc đoàn Thủ Dầu Một, Tham mưu trưởng Khu Sài Gòn-Chợ Lớn, Tham mưu trưởng Khu 7, Phó tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Nam Bộ, Tham mưu trưởng Phân liên khu Miền Đông, Tham mưu trưởng rồi Phó tư lệnh Miền. Sau ngày miền Nam giải phóng, khi cuộc chiến tranh biên giới xảy ra, đồng chí về lại miền Đông Nam Bộ giữ chức vụ Tư lệnh Quân khu 7.
Tháng 5-1978, Trung tướng Lê Đức Anh được Trung ương Đảng điều động về giữ chức vụ Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7. Bộ tư lệnh Quân khu 7 lúc này ngoài Trung tướng Lê Đức Anh, có Thiếu tướng Dương Cự Tẩm (Phó chính ủy) và các Phó tư lệnh: Thiếu tướng Đồng Văn Cống, Thiếu tướng Nguyễn Hồng Lâm, Đại tá Lương Văn Nho, Đại tá Nguyễn Thới Bưng. Thiếu tướng Nguyễn Minh Châu đang trực tiếp phụ trách Sở chỉ huy tiền phương của Quân khu 7 tại mặt trận biên giới.Quân khu 7 có đường biên giới trên đất liền với Campuchia dài hơn 600km, thuộc phạm vi 3 tỉnh Long An, Tây Ninh, Sông Bé (nay là tỉnh Bình Phước), đối diện với 5 tỉnh Prey Veng, Svay Rieng, Kampong Cham (nay là tỉnh Tbong Khmum), Kratie và Mondulkiri. Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, cùng với lực lượng vũ trang (LLVT) cả nước, LLVT Quân khu 7 bước vào thời kỳ cách mạng mới: Sắp xếp lại lực lượng, khắc phục hậu quả chiến tranh, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ công cuộc lao động xây dựng đất nước của nhân dân ta trong hòa bình, thống nhất và độc lập dân tộc. Tuy nhiên, tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary đã ngang nhiên phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới Tây Nam. Thực hiện quyền tự vệ chính đáng, LLVT Quân khu 7 khẩn trương điều chỉnh lực lượng, hành quân lên biên giới chiến đấu, từng bước đánh lui quân xâm lược, giành lại thế chủ động chiến trường.
Thời điểm Trung tướng Lê Đức Anh về giữ chức vụ Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, phía bên kia biên giới, tập đoàn Khmer Đỏ ráo riết xây dựng thêm nhiều đơn vị mới để bổ sung vào số bị thương vong và đào ngũ. Trên tuyến biên giới Quân khu Đông và Kratie, chúng bố trí tới 12 sư đoàn (phiên hiệu 920, 260, 280, 450, 174, 310, 215, 221, 703, 340, 1, 460) trong tổng số 23 sư đoàn (chiếm 63% tổng lực lượng). Cũng trong tháng 5-1978, Pol Pot tiến hành cuộc thanh trừng đẫm máu tại Quân khu Tây Nam, Quân khu Bắc, đặc biệt tại Quân khu 203. Nhiều sĩ quan, binh lính yêu nước trong quân đội Khmer Đỏ buộc phải chạy vào rừng, thành lập đơn vị ly khai, xây dựng căn cứ kháng chiến hoặc tìm cách chạy sang Việt Nam.
Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, Trung tướng Lê Đức Anh cùng với Đảng ủy quân khu chỉ đạo tổ chức đợt sinh hoạt chính trị quán triệt Nghị quyết 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV về “Tình hình nhiệm vụ mới”. Nội dung chính của nghị quyết là xác định dứt khoát tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary là kẻ thù, chỉ rõ mặt mạnh yếu của địch, từ đó đề ra đường lối quân sự, phương châm chỉ đạo tác chiến của Quân đội ta trong điều kiện mới. Căn cứ nghị quyết của Trung ương Đảng, Đảng ủy Quân khu 7 ban hành nghị quyết về thực hiện nhiệm vụ trong 6 tháng cuối năm 1978. Nội dung nghị quyết yêu cầu cán bộ, chiến sĩ “nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, tư tưởng tác chiến hợp dồng, tư tưởng đánh tiêu diệt gọn, tiêu diệt lớn, quyết tâm giành thắng lợi trọn vẹn cả quân sự, chính trị… Tích cực bắt liên lạc và hỗ trợ cho các lực lượng cách mạng Campuchia xây dựng và phát triển; xây dựng căn cứ, tạo địa bàn cho bạn hoạt động tốt bên trong Campuchia, chú trọng giữ dân và đưa dân về vùng giải phóng cho bạn...”.
Từ chủ trương trên, đồng chí Lê Đức Anh cùng Bộ tư lệnh quân khu chỉ đạo các đơn vị, địa phương tập trung xây dựng LLVT và thực hiện nhiệm vụ quân sự quốc phòng, chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch tại địa bàn nội địa; đồng thời kiên quyết đánh địch tập kích, thực hành phản công, kết hợp với tổ chức đón nhận, ổn định đời sống cho số nhân dân Campuchia chạy sang Việt Nam tị nạn và giúp bạn xây dựng, phát triển LLVT cách mạng.
Tháng 6-1978, LLVT Quân khu 7 tổ chức chiến dịch phản công dọc theo Đường 7 sang bên kia biên giới, kết hợp tiến công quân sự, tiến công chính trị với binh vận nhằm tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng sinh lực địch, hỗ trợ cho các lực lượng nổi dậy của Campuchia, đồng thời tạo điều kiện cho các địa phương nhanh chóng hoàn thành xây dựng tuyến phòng thủ biên giới. Sau khi tổ chức đánh địch, mở đường tạo bàn đạp áp sát mục tiêu, các đơn vị vũ trang Quân khu 7 (gồm Sư đoàn 5, Sư đoàn 302, cùng một số trung đoàn, đơn vị binh chủng) phối hợp với LLVT của cấp trên đồng loạt tiến công, đẩy địch lùi xa cách biên giới từ 15km đến 20km, lần lượt đánh chiếm các mục tiêu: Ka Chay, Me Mot, Lăng Cà Bơ; tiếp đó phát triển tiến công đánh chiếm Snuon, mở rộng vùng giải phóng, đánh thông Đường 13A nối liền Đường 7 từ Snuon đến Me Mot qua tây Tà Âm. Sau Chiến dịch Đường 7, Tư lệnh Lê Đức Anh đề nghị Bộ Tổng Tham mưu cho thành lập Sư đoàn 303 (gồm các trung đoàn 33, 55, 316) để tăng cường lực lượng giữ vững địa bàn Me Mot; đồng thời chỉ đạo bố trí lại lực lượng, chuyển sang giữ vững địa bàn Snuon, chuẩn bị cho hoạt động mùa khô năm 1978-1979.
Trong quá trình diễn ra chiến dịch (từ ngày 10-6 đến 30-7-1978), Tư lệnh Lê Đức Anh thường xuyên có mặt tại Sở chỉ huy tiền phương quân khu, trực tiếp chỉ đạo xử lý các tình huống nảy sinh. Theo Thiếu tướng Đặng Quang Long, nguyên Phó tư lệnh về chính trị Bộ tư lệnh tiền phương quân khu thì, Tư lệnh Lê Đức Anh thức gần như suốt đêm tại Sở chỉ huy, trực tiếp chỉ đạo một số đơn vị thuộc Sư đoàn 302 chuyển hướng tác chiến khi gặp khó khăn đánh mở đường áp sát mục tiêu ở hướng vu hồi và phối hợp của chiến dịch. Tư lệnh yêu cầu các đơn vị phải chú ý nghiên cứu từ thực tế để có cách đánh hiệu quả nhất, luôn phát huy thế chủ động, liên tục tiến công bằng mọi lực lượng, tiêu diệt, tiêu hao địch, kiên quyết giữ vững địa bàn và tranh thủ mọi thời cơ thuận lợi mở rộng thế đứng chân có lợi cho ta; đồng thời nhắc nhở cơ quan chính trị hướng dẫn bộ đội tôn trọng phong tục tập quán nơi đứng chân, thực hiện nghiêm quy định “10 điều kỷ luật”, phát huy bản chất Bộ đội Cụ Hồ khi tiếp xúc, quan hệ với nhân dân nước bạn, chú ý giải quyết tốt chính sách thương binh, tử sĩ trong quá trình phản công.
Cùng với việc chỉ huy chiến dịch phản công đuổi địch ra xa biên giới trên hướng Đường 7, Tư lệnh Lê Đức Anh còn trực tiếp chỉ đạo việc tiếp đón nhân dân Campuchia chạy sang lánh nạn và móc nối, xây dựng LLVT yêu nước Campuchia. Ngày 5-6-1978, Tư lệnh Lê Đức Anh ký Thông báo số 136/TB gửi các đơn vị trong LLVT quân khu yêu cầu các đơn vị xác định “đây là thời cơ thuận lợi cho việc thực hiện kế hoạch tấn công mở rộng bàn đạp và giúp cách mạng K”.
Theo Đại tá Nguyễn Ngọc Lân, nguyên Trưởng phòng Quân báo Quân khu 7, tổng cộng Phòng Quân báo tổ chức 4 đợt thực hiện móc nối. Đợt 1 gồm một đội đi trinh sát thử nghiệm, mật danh “Chim Én” (do Miahun-người Campuchia làm đội trưởng; Nhữ Xuân Xây làm chính trị viên; Triệu Xuân Hòa làm đội phó), hoạt động tại khu vực đông tây đường cụt Krabao-bắc Me Mot. Đợt 2 có 3 đội trinh sát đặc nhiệm: Đội “Chim Én” (do Sơ Riêng-người Campuchia làm đội trưởng; Nhữ Xuân Xây làm chính trị viên; đồng chí Đẹp và Dương làm đội phó), hoạt động tại khu vực đông và nam Krabao-bắc Me Mot; Đội “Bồ Câu” (do một người Campuchia làm đội trưởng; đồng chí Huyền làm chính trị viên; đồng chí Tương làm đội phó), hoạt động tại khu vực tây Krabao đến nam Popenh; Đội “Chim Ưng” (do đồng chí Triệu Xuân Hòa làm đội trưởng; Phan Hùng làm chính trị viên, Paoyên-người Campuchia làm đội phó), hoạt động tại khu vực từ Phumlu đến Tac Tum. Đợt 3 có 2 đội trinh sát đặc nhiệm: Đội I (do đồng chí Ngọc làm đội trưởng, đồng chí Huyền làm chính trị viên, Triệu Xuân Hòa làm đội phó), hoạt động tại khu vực nam Đầm Be; Đội II (do Nhữ Xuân Xây làm đội trưởng, Dương làm đội phó), hoạt động tại khu vực từ bắc Phlu đến nam sông Chlong. Đội đã bắt liên lạc được với một đơn vị ly khai thuộc Vùng 21-Quân khu Đông quân đội Pol Pot. Đợt 4 có 2 đội trinh sát, một đội bắt liên lạc với cánh ly khai Vùng 22 tại Koncheimeas do ông Chea Sim chỉ huy và một đội bắt liên lạc với cánh ly khai Quân khu Đông tại tây Me Mot do ông Heng Samrin chỉ huy.
Đến tháng 11-1978, số cán bộ, chiến sĩ quân đội Khmer Đỏ ly khai cùng với nam nữ thanh niên trong số dân Campuchia lánh nạn sang Việt Nam tình nguyện tham gia LLVT có gần 9.370 người, được tổ chức thành 15 tiểu đoàn, 75 đội công tác và 1 đội văn công. Họ là LLVT yêu nước Campuchia đầu tiên được thành lập sau ngày đất nước bị tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary thực hiện chính sách diệt chủng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm móc nối, Tư lệnh Lê Đức Anh thường xuyên yêu cầu Phòng Quân báo báo cáo tình hình. Tư lệnh đặc biệt ưu tiên cung cấp đầy đủ yêu cầu của các đội trinh sát đặc nhiệm, tổ chức tiếp đón và làm việc với cán bộ quân đội Khmer Đỏ ly khai với tinh thần hợp tác và trọng thị. Tư lệnh yêu cầu cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ tiếp xúc với bạn phải nắm vững đường lối, quan điểm quốc tế của Đảng, luôn đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng nhưng phải biết tin vào bạn, kiên trì giải thích để bạn hiểu rõ bản chất, âm mưu của tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary và tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân và quân đội hai nước Việt Nam-Campuchia.
Để thống nhất chỉ huy các LLVT đang chiến đấu tại mặt trận biên giới Tây Nam, ngày 19-7-1978, Quân ủy Trung ương ban hành Quyết định số 69/QĐ-QUTW về việc thành lập Cơ quan tiền phương Bộ Quốc phòng tại phía Nam, trụ sở đặt trong khu vực sân bay Tân Sơn Nhất. Tư lệnh Quân khu 7 Lê Đức Anh được chỉ định kiêm Chỉ huy trưởng Cơ quan tiền phương Bộ Quốc phòng. Thực hiện Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác Việt Nam-Campuchia (ngày 18-2-1979), ngày 18-5-1981, Quân ủy Trung ương ban hành Nghị quyết số 36/QUTW về việc tổ chức Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia và thành lập Bộ tư lệnh Quân tình nguyện (phiên hiệu Bộ tư lệnh 719) do đồng chí Lê Đức Anh làm Tư lệnh.
Đồng chí Lê Đức Anh giữ cương vị Tư lệnh và Chính ủy Quân khu 7 chỉ trong quãng thời gian không dài, nhưng là quãng thời gian có nhiều ý nghĩa khi mà LLVT quân khu đang tập trung nỗ lực vừa chiến đấu, vừa tìm hiểu đánh giá chính xác kẻ thù, từng bước giành lại thế chủ động chiến trường, phản công đuổi địch ra xa biên giới; đồng thời giúp nhân dân Campuchia xây dựng lực lượng cách mạng, chuẩn bị mọi điều kiện tiến tới phối hợp tổng tiến công và nổi dậy đánh đổ chế độ diệt chủng Pol Pot-Ieng Sary, kết thúc giai đoạn chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới Tây Nam.
Đại tá, PGS, TS HỒ SƠN ĐÀI
Việc giảm quân số thường trực và điều chỉnh thế bố trí chiến lược là một trong những sự kiện lớn nhất trong lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam những năm 1987-1990, thời kỳ Đại tướng Lê Đức Anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Việc này cũng góp phần tạo ra một thế trận phòng thủ quốc gia mới, phù hợp với tư duy nghệ thuật quân sự hiện đại và xu thế phát triển về kinh tế - xã hội, đối ngoại của đất nước, đặt tiền đề cho tiến trình phá bỏ thế cấm vận, hội nhập và phát triển thập niên 90 của thế kỷ trước!
Cuộc giảm quân phi thường chưa có tiền lệ
Đất nước hòa bình thống nhất, sau khi từ nhiệm chức Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Đại tướng Lê Đức Anh làm Tổng Tham mưu trưởng, rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Với tư chất đặc biệt thông minh, lối tư duy sắc bén, biện chứng, hệ thống, mẫn cảm về chính trị và bản lĩnh chỉ huy quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, Đại tướng luôn có tầm nhìn chiến lược trước mọi diễn biến của thời cuộc và khả năng tổ chức thành công các nhiệm vụ khó khăn trong thực tiễn. Trong thời kỳ giữ trách nhiệm Tổng Tham mưu trưởng (từ tháng 12-1986) và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (từ tháng 2-1987), Đại tướng có nhiều đề xuất quan trọng và được Bộ Chính trị phân công trực tiếp chỉ đạo thực hiện, trong đó có vấn đề giảm quân và điều chỉnh thế bố trí chiến lược quốc phòng. Những nội dung đến nay vẫn còn tính thời sự.
Đại tướng Lê Đức Anh nhận nhiệm vụ Tổng Tham mưu trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong bối cảnh đất nước bị bao vây cấm vận, nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng, lạm phát lên 744%. Quân đội thường trực lúc cao nhất đến 1,6 triệu người, vượt quá xa khả năng bảo đảm của hậu cần quân đội, trong lúc vừa thực hiện nhiệm vụ thường xuyên trong nước, vừa thực hiện nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia và đương đầu với hoạt động gây hấn thường xuyên của quân địch ở phía Bắc.
Do đóng chốt trên dọc tuyến biên giới địa hình chia cắt phức tạp, đời sống của bộ đội gặp rất nhiều khó khăn. Ngân sách quốc phòng chiếm tới 25% tổng thu nhập quốc dân nhưng vẫn không đủ trang trải các nhu cầu tối thiểu về ăn ở, trang bị, huấn luyện và chiến đấu của bộ đội.
Vì thế, giảm quân số là phù hợp với tiến trình điều chỉnh thế bố trí chiến lược theo tư duy mới, tập trung ngân sách cho việc xây dựng và huấn luyện chiến đấu của lực lượng vũ trang. Giảm quân số còn để giảm gánh nặng quốc phòng, chuyển một bộ phận lớn sức lao động đang ở độ tuổi sung sức tham gia vào hoạt động sản xuất, trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Sau khi nghiên cứu, đề đạt ý kiến và được Bộ Chính trị đồng ý chủ trương giảm quân, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo cơ quan Bộ Tổng tham mưu xây dựng kế hoạch giảm trên 60% quân số thường trực, xác định các đối tượng giảm và lộ trình giảm trong 3 năm. Theo đó, các đơn vị được cắt giảm gồm trung đoàn, tiểu đoàn thứ tư của các sư đoàn; rút gọn biên chế đối với tất cả các sư đoàn bộ binh, trung đoàn binh chủng, khung huấn luyện, trường lớp của các quân khu, các quân chủng, binh chủng, cơ quan, cơ sở phía sau. Cùng đó là chuyển bớt một số cơ sở xây dựng kinh tế ra nhà nước quản lý; kiện toàn cơ quan quân sự tỉnh, huyện. Đến năm 1988, theo quy hoạch giảm 44 vạn quân so với năm 1986, đến năm 1990, toàn quân còn 70 vạn (trong đó có 5 vạn quân xây dựng kinh tế). Đó là cuộc giảm quân phi thường, chưa từng có trong tiền lệ quân đội Việt Nam và cả ở nước ngoài!
Lần đầu bộ đội ra nước ngoài lao động
Việc giảm quân số tạo ra nhiều hệ lụy. Không ít người không đồng ý hoặc do nhận thức sự việc hoặc vì ảnh hưởng đến quyền lợi cá nhân. Vấn đề đặt ra trước tiên là phải giải quyết chính sách chế độ cho cán bộ, sĩ quan. Trong số những cán bộ từng trải qua cuộc kháng chiến chống Mỹ, tuổi tương đối lớn, nay ở địa phương không có nhà, đất và nếu có đất cũng không có tiền để xây nhà. Đại tướng Lê Đức Anh đã đề nghị và được Bộ Chính trị cho phép trích một phần quỹ đất quốc phòng ở doanh trại còn bỏ hoang để chia nhỏ và cấp cho bộ đội tự xây nhà ở, đơn vị lo phần cơ sở hạ tầng như đường sá, điện, nước... cho cả khu hộ gia đình. Trong đó, ưu tiên cho số cán bộ được giải quyết ra quân (như về hưu, nghỉ mất sức), cán bộ diện chính sách (như thương binh, con gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng). Số cán bộ không có gia đình ở đô thị, trở về sinh sống ở nông thôn thì cấp một khoản tiền cùng với doanh cụ, vật liệu xây dựng để họ có thể xây dựng được căn nhà cấp 4.
Mặt khác, đối với số cán bộ, chiến sĩ thuộc diện giảm quân số, nhưng tuổi còn trẻ, có sức khỏe tốt, Đại tướng đề nghị các bộ, ban ngành có liên quan ưu tiên bộ đội xuất ngũ được đi hợp tác lao động ở nước ngoài. Đề nghị được Trung ương nhất trí, các bộ, ban ngành ủng hộ. Lần đầu tiên trong lịch sử quân đội, bộ đội ra quân được tổ chức thành “đoàn”, “đội” có tổ chức nền nếp, chặt chẽ ra nước ngoài lao động. Tính từ năm 1987 đến 1990, quân đội đã tổ chức cho 37.338 người đi lao động xuất khẩu. Trừ một số rất ít ở lại nước sở tại, còn hầu hết đều về nước sau khi được đào tạo nghề và có một khoản thu nhập làm vốn đầu tư sản xuất ổn định kinh tế gia đình, góp phần giải quyết khó khăn chung cho đất nước.
Với bộ đội tại ngũ, do quân số được giảm mạnh, ngân sách quốc phòng ưu tiên cho hoạt động mua sắm trang bị, huấn luyện, chiến đấu, được dành một phần đáng kể để nâng cao đời sống cả vật chất lẫn tinh thần. Tiền lương của sĩ quan và những người hưởng lương trong quân đội được nâng lên gấp 1,5 lần so với trước năm 1986. Hậu phương ổn định, thu nhập cao hơn, người đã lập gia đình riêng có nhà ở, cán bộ, chiến sĩ toàn tâm toàn ý chiến đấu và công tác. Chất lượng xây dựng đơn vị và hoạt động huấn luyện, chiến đấu và công tác được nâng dần lên.
Việc giảm quân số gắn liền với tiến trình bố trí lại lực lượng sao cho phù hợp với xu thế đổi mới vừa được Đại hội Đảng khóa 6 khởi xướng, khắc phục được những khó khăn vừa nêu mà vẫn giữ vững và tăng cường được khả năng phòng thủ đất nước. Đó là con đường đổi mới trong xây dựng quân đội nhân dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ quốc phòng với phát triển kinh tế. Sau đợt khảo sát thực tế, Đại tướng Lê Đức Anh báo cáo và được Bộ Chính trị đồng ý về chủ trương và giao trực tiếp chỉ đạo thực hiện. Đại tướng cùng Tổng Tham mưu trưởng Đoàn Khuê chỉ đạo các cơ quan tác chiến và quân lực triển khai nghiên cứu, biên soạn và tổ chức thực hiện việc điều chỉnh lực lượng và thế bố trí chiến lược trên phạm vi toàn quốc.
Theo Đại tướng Lê Đức Anh, “Đây không phải là sự bố trí cơ học thuần túy vị trí đứng chân của từng đơn vị, mà phải dựa trên nền tảng tư duy mới, gắn với việc xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), để vừa chống được bạo loạn lật đổ trong nội địa, vừa chống được chiến tranh xâm lược từ ngoài vào”. Đại tướng luôn nhấn mạnh, việc bố trí thế chiến lược nói trên phải do cấp ủy Đảng trực tiếp lãnh đạo, điều hành. Bí thư Tỉnh ủy đồng thời là Bí thư Đảng ủy quân sự tỉnh (thành phố), trực tiếp chỉ đạo tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang và khu vực phòng thủ của địa phương đủ sức giữ vững trật tự an ninh chính trị, xã hội vừa sẵn sàng ứng phó trước mọi tình huống. Đại tướng còn cùng cơ quan Bộ Tổng tham mưu trực tiếp chỉ đạo từng việc cụ thể về bố trí từng đơn vị, điều chuyển từng cơ quan của bộ, của các quân khu, quân chủng, nhất là lực lượng phòng không quốc gia và lực lượng hải quân, phòng thủ bờ biển, hải đảo và thềm lục địa.
Đại tá, PGS-TS HỒ SƠN ĐÀI- Nguyên Trưởng phòng Khoa học quân sự Quân khu 7
Tôi có thời gian cùng công tác và là cấp dưới của đồng chí Lê Đức Anh từ giữa năm 1976 đến tháng 5-1978. Thời kỳ đó, đồng chí Lê Đức Anh là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 9, tôi là Phó chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị quân khu.
Đồng chí Lê Đức Anh có mặt ở hầu hết các chiến trường gian khổ, ác liệt nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đồng chí vào miền Nam trên tuyến đường của Đoàn tàu không số, từng được giao làm Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Miền. Nhiều chiến dịch lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí đều tham gia và trực tiếp chỉ huy. Cuối năm 1974, đồng chí Lê Đức Anh được điều động trở lại làm Phó tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam và được thăng quân hàm vượt cấp từ đại tá lên trung tướng. Năm 1975, đồng chí là Phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam-một trong 5 cánh quân tiến vào giải phóng Sài Gòn.Với tôi, Đại tướng Lê Đức Anh thuộc thế hệ đàn anh. Đồng chí tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1937, được kết nạp Đảng năm 1938 (khi tròn 18 tuổi) và từ năm 1945 tham gia Việt Nam Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam. Hơn 45 năm liên tục phục vụ trong quân đội, đồng chí trải qua hầu hết các chức vụ, từ cán bộ trung đội đến Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Dù ở cương vị nào, đồng chí cũng thể hiện rõ tài năng, trí tuệ, là người chỉ huy, vị tướng có tài cầm quân. Đồng chí từng được phong quân hàm vượt cấp từ đại tá lên trung tướng và là một trong 3 sĩ quan cao cấp của Quân đội ta (cùng các đồng chí Phùng Thế Tài và Đào Văn Trường), khi mang quân hàm đại tá được bổ nhiệm chức vụ Phó tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam.
Ngày 30-4-1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, nhưng ngay sau đó, bè lũ phản động Pol Pot-Ieng Sary liên tiếp gây ra các vụ tấn công vào lãnh thổ nước ta trên tuyến biên giới Tây Nam, tàn sát dã man đồng bào ta. Tháng 7-1978, Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 69/QĐ-QUTW về tổ chức Tiền phương Bộ Quốc phòng, có nhiệm vụ chỉ huy, thống nhất mọi hoạt động tác chiến của các quân khu, quân đoàn, lực lượng của các quân chủng, binh chủng ở phía Nam thực hiện nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam. Thời gian này, Trung tướng Lê Đức Anh đảm nhiệm cương vị Tư lệnh Quân khu 7 kiêm Chỉ huy trưởng Tiền phương Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam (Chiến trường K).
Đáp lời kêu gọi giúp đỡ của Mặt trận Đoàn kết cứu nước Campuchia, ngày 7-1-1979, bộ đội ta phối hợp với các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiến hành giải phóng thủ đô Phnom Penh và toàn bộ đất nước Campuchia, giúp nhân dân nước bạn thoát khỏi họa diệt chủng. Để tăng cường giúp bạn Campuchia sau giải phóng, tháng 8-1979, đồng chí Lê Duẩn ký Quyết định số 19 thành lập Ban Phụ trách công tác K (Campuchia), do đồng chí Lê Đức Thọ làm Trưởng ban; đồng chí Lê Đức Anh làm Phó ban thứ nhất. Đồng chí Lê Đức Anh đã nắm chắc và báo cáo chính xác với Trung ương tình hình địch, ta trên chiến trường, âm mưu, thủ đoạn của chúng; đồng thời cùng các đồng chí trong Ban Phụ trách công tác Campuchia bàn các giải pháp giúp bạn bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng, ổn định đời sống nhân dân, phát triển sản xuất. Tháng 2-1980, đồng chí Lê Đức Anh được Bộ Chính trị cử làm Trưởng ban Phụ trách công tác Campuchia.
Tháng 5-1981, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 36 về tổ chức Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia và thành lập Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia (Bộ tư lệnh 719), trực thuộc Bộ Quốc phòng, trực tiếp chỉ huy Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam giúp bạn Campuchia. Giai đoạn đó, chúng ta vừa giúp bạn Campuchia, vừa phải chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc; đồng thời toàn quân thực hiện cơ chế mới theo Nghị quyết 07 “Về việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với QĐND Việt Nam, sự nghiệp quốc phòng và thực hiện chế độ một người chỉ huy trong quân đội”, tức là bỏ chế độ đảng ủy, bỏ chức vụ chính ủy, chính trị viên, thiết lập cơ chế “một người chỉ huy” và “hội đồng công tác chính trị”. Lúc này tôi đang là Phó chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị Mặt trận 719.
Sau đó, Bộ Chính trị, dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Trung ương Đảng, tổ chức họp tại TP Hồ Chí Minh và triệu tập đồng chí Lê Đức Anh về dự. Tại hội nghị, Thượng tướng Lê Đức Anh đã bàn bạc với tôi đề xuất trước hội nghị: Riêng ở chiến trường Campuchia vì bộ đội ta đang thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, giúp bạn truy quét tàn quân Pol Pot, củng cố chính quyền cách mạng, do vậy đề nghị cho phép Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Campuchia vẫn duy trì chế độ đảng ủy. Sau này, trong hồi ký, Đại tướng Lê Đức Anh cũng nhắc lại quan điểm của chúng tôi vào thời điểm đó: “Chúng ta phải nhất quán rằng, một chủ trương quân sự, một hoạt động quân sự không bao giờ là quân sự đơn thuần, mà hoạt động quân sự là hoạt động chính trị, phục vụ mục đích chính trị. Người chỉ huy quân sự là làm chính trị, phục vụ chính trị, phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của tổ chức đảng. Dứt khoát cái đó!”.
Và thực tế, đồng chí chủ trì hội nghị Bộ Chính trị hôm đó đã kết luận, đồng ý với ý kiến của đồng chí Lê Đức Anh, bởi đây là một đề xuất đúng đắn, phù hợp với thực tế nhiệm vụ của ta vào thời điểm đó ở Mặt trận 719. Qua đây, thể hiện bản lĩnh, tính quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân của đồng chí Lê Đức Anh.
Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà lãnh đạo rất nhạy bén, nhạy cảm trước tình hình mới, có tính quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Ngay sau giải phóng miền Nam, khi đồng chí Lê Đức Anh đảm nhận cương vị Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 9, thời gian này, Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng có chủ trương giảm biên chế đối với quân đội, giải quyết cho đi lao động xuất khẩu, chuyển ngành, phục viên… số lượng lớn cán bộ, chiến sĩ. Nhiều đơn vị trong toàn quân, nhất là ở khu vực phía Nam đã thực hiện chủ trương của trên. Riêng đồng chí Lê Đức Anh rất thận trọng, bởi đồng chí nhận thấy tình hình biên giới Campuchia diễn biến phức tạp, căng thẳng. Đồng chí bàn bạc trong Đảng ủy, Bộ tư lệnh và thống nhất tạm thời chưa thực hiện chủ trương của trên, đồng thời quyết định giữ lại nhiều hạ sĩ quan, chiến sĩ đã qua chiến đấu, có tinh thần dũng cảm, gan dạ, ý thức tổ chức kỷ luật tốt, cùng nhiều cán bộ có năng lực, trình độ, khả năng chỉ huy, đã trải qua chiến đấu. Đặc biệt, đồng chí cho giữ lại những đơn vị có truyền thống đánh giặc, lập công, có nền nếp chính quy tốt và đề nghị thành lập Sư đoàn 330. Và hiệu quả rõ rệt là, khi thực hiện chiến dịch giúp bạn Campuchia đánh đổ lực lượng phản động Pol Pot-Ieng Sari, thì Sư đoàn 330 là một trong những đơn vị chủ lực, thiện chiến, có sức chiến đấu mạnh mẽ, trừng trị thích đáng tội ác của bè lũ phản động Pol Pot, góp phần giúp bạn giải phóng nhiều địa bàn quan trọng. Sau này, cũng từ Sư đoàn 330, nhiều cán bộ đã qua chiến đấu, có kinh nghiệm chiến trường đã được cử đi đào tạo, trở thành những cán bộ cốt cán của địa phương và quân đội; nhiều đồng chí phát triển lên cán bộ cấp tướng, đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo, chỉ huy cao cấp của quân đội…
Quá trình công tác, dù ở cương vị nào, đồng chí Lê Đức Anh cũng rất sâu sát, tận tụy trong công việc. Đồng chí đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong lúc tình hình biên giới phía Bắc vẫn còn xảy ra xung đột, đời sống nhân dân và bộ đội hết sức khó khăn, tư tưởng có những diễn biến phức tạp. Đồng chí đã trực tiếp đến thăm, kiểm tra nhiều đơn vị cơ sở. Thấy đời sống của bộ đội còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, thậm chí có biểu hiện phát sinh tư tưởng tiêu cực, đồng chí đã chỉ đạo cấp ủy, chỉ huy các đơn vị tập trung mọi nguồn lực chăm lo đời sống bộ đội, trước hết để anh em có sức khỏe, ổn định tư tưởng, xác định quyết tâm bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc. Cùng với đó, đồng chí dành nhiều thời gian đi thăm hỏi, động viên bộ đội đang làm nhiệm vụ ở Trường Sa, các vùng biển, đảo... nắm chắc tư tưởng cán bộ, chiến sĩ, động viên bộ đội vững vàng tay súng, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Đất nước hòa bình, nhưng Đại tướng Lê Đức Anh luôn trăn trở về đời sống của cán bộ, chiến sĩ quân đội, nhất là các đồng chí từng vào sinh ra tử phục vụ cách mạng, kháng chiến, từng trải qua chiến đấu nhiều hy sinh gian khổ, nhưng cuộc sống vẫn rất khó khăn, nơi ăn chốn ở không ổn định. Trước tình hình đó, đồng chí Lê Đức Anh chủ trương dành một phần đất doanh trại chưa sử dụng, giải quyết nhà ở, đất ở cho cán bộ quân đội, giúp anh em yên tâm công tác, gắn bó, xây dựng đơn vị. Đồng chí cũng trăn trở trước những mất mát, hy sinh to lớn của nhân dân trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là những người mẹ có con trai duy nhất, có nhiều con hy sinh vì cách mạng. Khi trên cương vị Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh đã định hướng cho Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, phối hợp với Bộ Quốc phòng rà soát, xây dựng kế hoạch, đề xuất chủ trương phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước "Bà mẹ Việt Nam anh hùng", nhằm tôn vinh, ghi công sự cống hiến của các bà mẹ cho độc lập, tự do của Tổ quốc và giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau.
Đồng chí Lê Đức Anh là nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng, nhà chỉ huy quân sự tài ba. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và trong hơn 10 năm cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia, đồng chí luôn nắm chắc tình hình trong và ngoài nước, tình hình quân đội, nên giải quyết công việc rất quyết đoán, chắc chắn, có lập trường giai cấp rất vững vàng. Trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, đồng chí góp phần quan trọng thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa quan hệ quốc tế, trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, cùng có lợi, đưa Việt Nam từng bước hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ với các nước, nhất là bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ, không ngừng nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng chí Lê Đức Anh có nhiều đóng góp, cống hiến cho cách mạng, cả trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng, phát triển đất nước và mở rộng quan hệ ngoại giao của Việt Nam với các nước. Đồng chí luôn có các quyết định đúng đắn, sáng tạo trong những thời điểm và hoàn cảnh hết sức khó khăn, thể hiện tầm nhìn sâu rộng trong những vấn đề chiến lược của đất nước, của quân đội. Đồng chí luôn sống giản dị, thanh bạch, gần gũi với đồng chí, đồng bào. Đại tướng, Chủ tịch nước Lê Đức Anh là tấm gương mẫu mực về đạo đức, lối sống, về năng lực tư duy, năng lực hành động... để các thế hệ cán bộ, đảng viên học tập, noi theo.
Nguyên Tổng bí thư LÊ KHẢ PHIÊU
Đại tướng Lê Đức Anh là một chiến sĩ cách mạng kiên cường, một vị tướng tài ba, người đã được tôi luyện, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế, giải phóng nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi thảm họa diệt chủng.
Là một vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước xuất sắc, Đồng chí luôn đổi mới, quyết đoán, nhanh nhạy, bám sát thực tiễn, dám chịu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành và cũng rất giản dị, sâu sắc, nhân văn trong cuộc sống, được đồng chí, đồng đội và nhân dân yêu mến, bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Đồng chí Lê Đức Anh sinh ngày 1-12-1920 trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng, quê quán tại xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Ông nội của Đồng chí là một sĩ phu tham gia Phong trào Cần Vương chống Pháp. Trên mảnh đất quê hương giàu truyền thống yêu nước và hiếu học, thấu hiểu sự nghèo đói, lam lũ của người dân lao động cùng khổ dưới ách thống trị của thực dân, đế quốc, người thiếu niên Lê Đức Anh đã sớm giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1937, khi mới 17 tuổi, Đồng chí tham gia phong trào dân chủ ở Phú Vang, Thừa Thiên-Huế; tháng 5-1938, Đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong thời kỳ 1939-1944, Đồng chí hoạt động trong các hội Ái hữu tại Hội An, Đà Lạt, Lộc Ninh, Thủ Dầu Một và các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh, Quảng Lợi, Xa Can, Xa Cát.
Là chiến sĩ cộng sản kiên trung, mang trong mình ý chí tất cả vì độc lập, tự do, vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, đầu năm 1945, Đồng chí được giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng trung kiên trong các nghiệp đoàn, chuẩn bị đấu tranh võ trang. Tháng 8-1945, Đồng chí được phân công phụ trách chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền ở các đồn điền cao su và hai huyện Hớn Quản, Bù Đốp, tỉnh Bình Phước. Thời gian này, Đồng chí tham gia Quân đội, chỉ huy giành chính quyền ở Lộc Ninh, tham gia tỉnh ủy lâm thời, phụ trách quân sự phía Bắc tỉnh Thủ Dầu Một; giữ các chức vụ Chính trị viên Chi đội 1 (sau là Trung đoàn 301), Trung đoàn ủy viên, Tỉnh ủy viên Thủ Dầu Một. Từ năm 1948 đến năm 1954, Đồng chí đảm đương nhiều chức vụ quan trọng, như: Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8, Quân khu Sài Gòn-Chợ Lớn, Quân khu ủy viên, Tham mưu phó Bộ tư lệnh Nam Bộ.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ về lập lại hòa bình ở Đông Dương năm 1954, Đồng chí tập kết ra Bắc; từ năm 1955 đến năm 1963 là Phó cục trưởng Cục Tác chiến, rồi Cục phó, Cục trưởng Cục Quân lực-Bộ Tổng Tham mưu và trở thành Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ đầu năm 1964, Đại tá Lê Đức Anh trở lại chiến trường miền Nam, đảm nhiệm các chức vụ Tham mưu trưởng, rồi Phó tư lệnh Bộ tư lệnh miền Nam, Ủy viên Quân ủy Miền; Tư lệnh Khu 9, Phó bí thư Khu ủy; Phó tư lệnh Bộ tư lệnh miền Nam, Ủy viên Quân ủy Miền. Đồng chí là một trong hai sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được phong hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng vào tháng 4-1974. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, Đồng chí được giao trọng trách Phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh Cánh quân Tây Nam, đóng góp quan trọng cho thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Thực hiện nhiệm vụ được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng giao, từ năm 1976 đến năm 1986, Đồng chí là Tư lệnh Quân khu 9, Bí thư Quân Khu ủy, rồi Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, Đồng chí là một trong những tướng lĩnh trực tiếp chỉ huy chiến trường và giành nhiều thắng lợi quan trọng, bảo vệ biên giới thiêng liêng của Tổ quốc và giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Năm 1981, đồng chí được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia.
Năm 1986, Đại tướng Lê Đức Anh là Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, từ năm 1987 là Bộ trưởng Quốc phòng, Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. Đồng chí là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 1992-1997. Đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng khóa VII; Ủy viên Bộ Chính trị khóa V, VI, VII, VIII; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ năm 1997 đến tháng 4-2001; Đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII, IX.
Về quân sự, Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng trận mạc, một nhà chỉ huy xuất sắc, có tầm nhìn chiến lược, có chiến thuật tài tình và linh hoạt xử lý các tình huống phức tạp. Cuộc đời binh nghiệp của Đại tướng gắn với nhiều chiến trường vào Nam ra Bắc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả trên chiến trường nước bạn. Đồng chí từng chỉ huy bộ đội tham gia những trận đánh quan trọng, những sự kiện mang tính bước ngoặt của chiến tranh, như: Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, cuộc chiến đấu chống lấn chiếm vùng giải phóng năm 1973, Chiến dịch Phước Long năm 1974, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, Chiến dịch giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng năm 1979. Đồng chí là người trực tiếp thị sát, chỉ đạo và đóng góp quan trọng trong xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Đồng chí đảm trách chỉ huy và lãnh đạo trực tiếp cánh quân tiến công trên hướng Tây-Tây Nam Sài Gòn (Đoàn 232), một trong 5 cánh quân của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Đây là nơi có địa hình khó tiến công vì là đồng bằng, sông ngòi, sình lầy chằng chịt, nhưng là một hướng tiến công rất quan trọng để nhanh chóng chia cắt quân địch trên tuyến quốc lộ số 4, không để chúng co cụm về cố thủ ở Cần Thơ. Đoàn 232 do Đồng chí chỉ huy đã thực hiện thành công các nhiệm vụ chính là: Chia cắt các lực lượng Sài Gòn và miền Đông với lực lượng vùng Đồng bằng sông Cửu Long; tấn công Biệt khu Thủ đô và Tổng nha Cảnh sát, sau đó hợp điểm cùng các cánh quân khác tại Dinh Độc Lập vào trưa ngày 30 tháng Tư lịch sử.
Đại tướng Lê Đức Anh là người luôn coi trọng nhân, nghĩa, ngay cả đối với kẻ thù; và là người lãnh đạo, chỉ huy luôn thương yêu, tìm mọi cách giảm thiểu hy sinh xương máu của cán bộ, chiến sĩ và khó khăn, mất mát của người dân. Trong hồi ký, Đại tướng Lê Đức Anh viết: Thắng lợi trọn vẹn của chúng ta có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân to lớn nhất, cơ bản nhất, gốc rễ nhất là tư tưởng “nhân ái”. Tư tưởng “nhân nghĩa” của thời đại Hồ Chí Minh là bắt nguồn từ truyền thống chí nhân, chí nghĩa của dân tộc, như Nguyễn Trãi từng viết trong Đại Cáo Bình Ngô: “Lấy chính nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”. Khi xe tăng, thiết giáp của ta vượt qua sông Vàm Cỏ thì trời đổ mưa, đoạn thuộc huyện Đức Huệ (Long An) sình lầy, xe không đi được; nhân dân vác những bó cây và dỡ nhà mình ra lót đường cho xe tăng và pháo ta vượt qua. Đồng chí đã chỉ đạo anh em chiến sĩ giúp dân làm lại nhà, dù người dân không hề đòi hỏi.
Sau này, trên cương vị Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng-An ninh, thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, với tình cảm sâu nặng và ý thức trách nhiệm lớn lao, Đại tướng Lê Đức Anh thường xuyên đến thăm, kiểm tra công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị quân đội, công an. Đồng chí chỉ đạo quyết liệt vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng và là một trong những người đưa ra ý tưởng xây dựng khu vực phòng thủ, các khu kinh tế-quốc phòng trên địa bàn chiến lược mà chúng ta đã và đang triển khai thực hiện. Đồng thời, Đại tướng cũng hết sức chú trọng đến tình hình bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị của quân đội và đời sống của cán bộ, chiến sĩ. Trước thực trạng các doanh trại quân đội dột nát, Đồng chí đã yêu cầu tăng kinh phí xây dựng, sửa chữa doanh trại và có các biện pháp cụ thể, thiết thực bảo đảm đời sống cho cán bộ, chiến sĩ.
Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh cũng rất quan tâm công tác chính sách hậu phương quân đội, giải quyết tồn đọng về chính sách sau chiến tranh. Ngày 10-9-1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” để tặng hoặc truy tặng những Mẹ đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; đồng thời cũng là để giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng cho các thế hệ mai sau.
Là Chủ tịch nước, rồi Cố vấn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và kể cả khi đã nghỉ công tác, đồng chí Lê Đức Anh vẫn thường xuyên quan tâm đến lực lượng vũ trang, nghiên cứu và đề xuất nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc, có tầm chiến lược sâu rộng về công tác quân sự, quốc phòng cho Đảng và Nhà nước ta.
Trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao, thực hiện nhiệm vụ Bộ Chính trị giao, Đồng chí đã nghiên cứu sâu sắc về cách thức, phương pháp, bước đi để thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ với một số nước, đối tác, góp phần đặt nền móng cho chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Đảng, Nhà nước ta. Khi trên cương vị Chủ tịch nước, là Nguyên thủ quốc gia, đồng chí Lê Đức Anh đã nhiều lần dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến thăm các nước, các tổ chức quốc tế và ký kết nhiều hiệp định, điều ước quốc tế, để lại những dấu ấn quan trọng và tình cảm tốt đẹp với các quốc gia, cộng đồng quốc tế.
Đối với đồng chí, đồng đội, đồng chí Lê Đức Anh không phân biệt cấp bậc, chức vụ, sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi, luôn quan tâm, chăm lo đến cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ và cuộc sống hằng ngày. Là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, khi đến thăm đơn vị quân đội, Đồng chí vẫn nói chuyện như không có khoảng cách với các chiến sĩ trẻ; động viên các cựu chiến binh khắc phục khó khăn; quan tâm chỉ đạo giải quyết chế độ chính sách.
Đại tướng Lê Đức Anh sống giản dị, gần gũi, chân tình, sâu sắc và nặng tình nghĩa với quê hương. Tham gia hoạt động cách mạng từ thời niên thiếu, nhưng Đồng chí luôn nhớ về quê hương với một tình cảm rất sâu đậm. Mỗi lần về quê, Đồng chí thường đi thăm bà con lối xóm, ân cần thăm hỏi cuộc sống, tình hình lao động sản xuất; động viên bà con, họ hàng, con cháu quê nhà luôn chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật Nhà nước; phát huy tinh thần thi đua yêu nước, tích cực lao động sản xuất để phát triển quê hương ngày càng giàu đẹp.
Trong gia đình, Đồng chí là người chồng, người cha, người ông, người cụ mẫu mực, đức độ và giàu lòng nhân ái. Đồng chí luôn chú trọng giáo dục, nhắc nhở con cháu, người thân nỗ lực học tập, rèn luyện, tự mình phấn đấu, trưởng thành, là người tốt, sống có lý tưởng và có ích cho xã hội.
Với 99 tuổi đời, hơn 80 năm tuổi Đảng, đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh đã trọn đời phấn đấu, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân ta. Đồng chí đã được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao Vàng; Huân chương Quân công hạng Nhất; Huân chương Chiến công hạng Nhất; Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.
Có thể nói, cuộc đời hoạt động cách mạng hơn 80 năm của Đại tướng Lê Đức Anh là dành cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, vì sự trưởng thành lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, vì hạnh phúc của người dân. Khi ốm nặng và trong quá trình điều trị, mỗi lần đồng chí, đồng đội, đồng bào đến thăm, Đại tướng Lê Đức Anh kính mến đều hỏi về tình hình đất nước, về cuộc sống của người dân với tình cảm ân cần, cảm động. Mới đây, trong dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2019, tôi cùng một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến thăm tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh nhìn chúng tôi với ánh mắt trìu mến, tin tưởng và gửi gắm tình cảm tốt đẹp.
Cuộc đời của Đại tướng Lê Đức Anh gắn liền với những chiến thắng, những bước thăng trầm của lịch sử nước nhà. Đồng chí đã có đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh. Chúng ta mãi mãi nhớ về Đại tướng Lê Đức Anh-anh Sáu Nam kính mến, người đồng chí thân thiết, chí tình, một vị tướng tài ba, một nhà lãnh đạo xuất sắc, một nhân cách đức độ, giản dị, gần gũi. Noi gương Đồng chí, chúng ta nguyện nỗ lực phấn đấu, ra sức hành động, thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, tạo môi trường hòa bình ổn định cho phát triển, xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
NGUYỄN XUÂN PHÚC (Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ)
Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam, nguyên Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là một vị tướng trận mạc, nhà lãnh đạo đức độ, tài năng, một trong những học trò ưu tú, xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã có nhiều cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và sự trưởng thành của quân đội.
Tham gia cách mạng từ năm 17 tuổi (năm 1937), cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí gắn liền với nhiều mốc son lịch sử dân tộc. Đồng chí đã mang hết sức lực, trí tuệ và phẩm chất của người cộng sản để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng đầy gian khổ, hy sinh với những thử thách vô cùng cam go, nghiệt ngã, nhưng rất đỗi vẻ vang, tự hào.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, phải chứng kiến hình ảnh người dân sống cơ cực dưới gót giày thực dân, phong kiến đã hun đúc trong đồng chí lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc và tinh thần đấu tranh cách mạng triệt để. Ngay từ lúc còn trẻ, đồng chí đã tích cực tham gia hoạt động trong Mặt trận Dân chủ ở các huyện: Phú Vang, Phú Lộc (tỉnh Thừa Thiên-Huế); tổ chức và phụ trách các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh; tham gia đấu tranh giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám 1945; tham gia kháng chiến ở miền Đông Nam Bộ… với lòng nhiệt huyết cách mạng cao cả, tình yêu nước, thương dân sâu sắc. Đồng chí đã tham gia quân đội và gắn bó với cuộc đời binh nghiệp đầy gian khổ và oanh liệt. Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược và chống đế quốc Mỹ, cứu nước, đồng chí đã tích cực phấn đấu, rèn luyện ý chí, tài năng, không ngừng trưởng thành và có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, sự trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng chí đã trực tiếp tham gia chỉ huy nhiều chiến dịch lớn, như: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tháng 4-1975; chỉ huy xây dựng lực lượng vũ trang ở Đồng bằng sông Cửu Long và chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam; làm nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Khmer Đỏ, giúp bạn xây dựng lại đất nước...
Trong những năm giữ cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, với kinh nghiệm thực tiễn phong phú, đồng chí cùng tập thể Thường vụ, Đảng ủy Quân sự Trung ương, thủ trưởng Bộ Quốc phòng đoàn kết, thống nhất, thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới; lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân; xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.Hơn 80 năm hoạt động cách mạng, đồng chí đã đảm nhiệm nhiều cương vị công tác quan trọng, như: Tư lệnh Quân khu 9; Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7 kiêm Chỉ huy trưởng Cơ quan tiền phương của Bộ Quốc phòng ở Mặt trận Tây Nam; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sau này là Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trên các cương vị công tác, dù ở bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, đồng chí cũng luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng của người đảng viên cộng sản; luôn tận tụy, cương nghị, bản lĩnh và dám làm, dám chịu trách nhiệm, đem hết tài năng, trí tuệ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà lãnh đạo khi đứng trước những tình thế khó khăn, buộc phải ra quyết định đã luôn phát huy tố chất của một người có “tầm nhìn sâu và rộng trong những vấn đề chiến lược của đất nước”. Với năng lực tư duy sáng tạo và hành động quyết liệt, tấm lòng vì nước, vì dân, đồng chí không quản ngại khó khăn, không sợ trách nhiệm mà luôn quyết đoán chính xác các tình huống, tìm được cách giải quyết đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với xu thế của thời cuộc và yêu cầu thực tiễn đặt ra. Đồng chí đã in dấu ấn sâu sắc vào nhiều sự kiện trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, vào cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc và phía Tây Nam, làm nghĩa vụ quốc tế vẻ vang ở Campuchia, vào công cuộc đổi mới đất nước cũng như tham gia hoạch định chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng, Nhà nước cả về đối nội và đối ngoại. Sau khi nghỉ công tác, đồng chí vẫn tích cực nghiên cứu và đề xuất nhiều ý kiến tâm huyết, có tầm chiến lược đối với Đảng và Nhà nước ta.
Dấu ấn nổi bật trong thời gian giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là đồng chí đã đề xuất kế hoạch xây dựng quân đội tinh, gọn, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao và cắt giảm lực lượng vũ trang để tập trung cho phát triển đất nước trong thời điểm nhất định; điều chỉnh chiến lược phòng thủ đất nước trong tình hình mới, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế lúc bấy giờ mà vẫn bảo đảm sức mạnh để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Khi kế hoạch đó được Bộ Chính trị thông qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương, thủ trưởng Bộ Quốc phòng, trực tiếp là đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, thế trận phòng thủ đất nước được bố trí lại phù hợp, hiệu quả hơn; thế trận chiến tranh nhân dân và sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân được phát huy cao độ, nhất là ở các vùng biên giới, hải đảo, địa bàn chiến lược; đường biên giới hữu nghị với các nước được xây dựng, củng cố; lực lượng phòng thủ trên biển, đảo được tăng cường. Quân số thường trực giảm nhưng chất lượng được nâng cao. Điều đó đã giảm được chi phí quốc phòng trong điều kiện đất nước còn rất nhiều khó khăn, khi vừa phải tập trung mọi nguồn lực khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa phải đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế theo đường lối đổi mới để sớm thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội. Đồng thời, đồng chí hết sức quan tâm đến trang bị cho quân đội, xây dựng công nghiệp quốc phòng, chăm lo cải thiện đời sống của cán bộ, chiến sĩ...
Trước những vấn đề phức tạp cần phải hoàn thành, đồng chí luôn trăn trở, tìm tòi, nghiên cứu, xác định phương án giải quyết tối ưu, hiệu quả. Đồng chí đã đề xuất nhiều giải pháp quan trọng, mở ra bước đột phá trong việc bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ với chiến dịch “Phẫu thuật nụ cười” và “Tìm kiếm người Mỹ mất tích-MIA”. Với những bước phát triển lịch sử trong quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ ngày nay, góp phần vào sự phát triển thịnh vượng của mỗi nước và hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới đã chứng minh tầm nhìn của đồng chí là đúng đắn, nắm bắt được xu thế thời cuộc. Ngoài ra, đồng chí còn là người khởi xướng và đề xuất với Đảng, Nhà nước ta phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng để tri ân những tấm gương phụ nữ cao quý, có chồng, con hy sinh trong các cuộc chiến tranh chống thực dân, đế quốc, bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc.
Trên cương vị Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam, đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh luôn sát cánh cùng đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười, tập thể Bộ Chính trị và các nhà lãnh đạo khác khởi xướng, đề xuất nhiều quyết sách quan trọng để chỉ đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước ta dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế trầm trọng và sự bao vây, cấm vận. Đồng chí đã dành nhiều thời gian cùng Trung ương Đảng, Quốc hội xây dựng hệ thống luật pháp, bổ sung, sửa đổi Hiến pháp cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ mới của cách mạng, bảo đảm cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng; đồng thời tích cực đẩy mạnh hợp tác với một số nước trên thế giới để tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế đối với Việt Nam cả về lĩnh vực chính trị và kinh tế. Trong xử lý, giải quyết các mối quan hệ quốc tế, đồng chí luôn đứng trên lập trường độc lập và đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết, đúng như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Vì vậy, mặc dù trong thời gian đồng chí là Chủ tịch nước, đứng trước những khó khăn, thử thách hết sức gay gắt, lạm phát ở mức cao, bao vây, cấm vận chưa được gỡ bỏ… nhưng đất nước đã có sự chuyển mình trên con đường đổi mới, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, quan hệ quốc tế được mở rộng, độc lập dân tộc được giữ vững, vị thế của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
Là cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, quân đội, đồng chí luôn là một đảng viên mẫu mực, có phẩm chất cách mạng trong sáng, sống trung thực, đoàn kết, khiêm tốn, giản dị, chí công vô tư. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, đồng chí luôn một lòng trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, giữ vững khí tiết của người đảng viên cộng sản, tư tưởng tiến công, ý chí tự lực, tự cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó. Đánh giá về đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh, đồng chí Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư đã nhận định: “Đồng chí Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta. Vốn là cán bộ chỉ huy quân đội, đã trải qua thực tế chiến đấu gian khổ của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp nước bạn ở Campuchia, nên ở anh, quan điểm giai cấp rất vững vàng và rõ ràng. Sinh hoạt và lối sống giản dị, mẫu mực”. Còn đồng chí Thủ tướng Võ Văn Kiệt thì cho rằng, đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh là một trong những người lãnh đạo quốc gia tầm cỡ trong thời kỳ đổi mới đất nước, “cán bộ tham mưu tầm cỡ, một vị tướng chỉ huy cương nghị, bản lĩnh và dám chịu trách nhiệm”.
Ngày nay, sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển mới, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Yêu cầu về chấn chỉnh lực lượng quân đội phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước đang đặt ra những vấn đề mới cần quan tâm giải quyết. Quán triệt tư tưởng, quan điểm của đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam nguyện trau dồi bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; tinh thần cách mạng tiến công; không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện, trình độ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi tình huống. Đồng thời tích cực chấn chỉnh tổ chức, lực lượng theo hướng tinh, gọn, mạnh, bảo đảm nâng cao sức mạnh chiến đấu, phù hợp với yêu cầu của nghệ thuật tác chiến hiện nay. Tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ, “thế trận lòng dân” vững chắc. Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng; ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến. Đẩy mạnh chống “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Với tinh thần đó, toàn quân tiếp tục học tập, noi gương đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh, nêu cao truyền thống, bản chất tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ-bộ đội của dân, đoàn kết, thống nhất, chủ động, sáng tạo, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng là lực lượng nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Đại tướng NGÔ XUÂN LỊCH, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Đại tướng Lê Đức Anh - nguyên Chủ tịch nước, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, giờ đã đi xa, nhưng ông là một con người hết lòng vì sự nghiệp cách mạng, một vị chỉ huy tài ba mưu lược được nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ngưỡng mộ. Ông sinh năm 1920 trên quê hương Thừa Thiên - Huế và tham gia cách mạng năm 1937, gia nhập Đảng năm 1938. Gần trọn cuộc đời gắn bó với sự nghiệp cách mạng, với Đảng, với quân đội, Đại tướng Lê Đức Anh đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc với bạn bè và nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ, nhân dân cả nước.
Nói đến ông là nói tới một con người có ý chí cao, giàu nghị lực và bản lĩnh. Sinh ra và lớn lên trên quê hương giàu truyền thống đấu tranh cách mạng, ông sớm thấu hiểu nỗi đau nô lệ, nỗi nhục mất nước của nhân dân ta dưới ách thống trị thực dân phong kiến và giác ngộ tham gia cách mạng từ rất sớm, năm 17 tuổi. Từ tháng 8-1945 đến 1948, ông gia nhập quân đội, giữ các chức vụ từ trung đội trưởng đến chính trị viên tiểu đoàn, Chi đội 1 và Trung đoàn 301. Trên cương vị là một cán bộ chỉ huy, ông luôn thể hiện bản lĩnh, sự năng động và linh hoạt của tuổi trẻ, đã cùng với tập thể ban chỉ huy vạch ra phương hướng hoạt động cho đơn vị sát đúng, kịp thời trong bối cảnh tình thế đất nước ta “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong, giặc ngoài. Phía bắc có quân Tưởng chống phá, phía nam có quân Pháp với sự giúp sức của thực dân Anh quyết tâm xâm lược nước ta một lần nữa. Sau Ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, thực dân Pháp tiến quân lên Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não và đè bẹp ý chí kháng chiến của quân và dân ta…
Với tài năng quân sự thiên bẩm của mình, từ tháng 10-1948 đến năm 1950, ông lần lượt được giao đảm trách cương vị Tham mưu trưởng các Khu 7, Khu 8 và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn là những chiến trường chống thực dân Pháp cam go quyết liệt nhất ngay từ những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến. Trên cương vị, chức trách là Tham mưu trưởng, ông chủ động tham mưu và trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch, trận đánh mang lại hiệu suất cao, góp phần căng kéo, phân tán, tiêu hao, tiêu diệt một khối binh lực lớn quân đội viễn chinh Pháp trên chiến trường ba nước Đông Dương. Tài năng quân sự của ông ngày càng sáng tỏ theo thời gian và được thực tế chiến trường kiểm nghiệm. Từ năm 1951 đến 1954, ông được đề bạt giữ cương vị và trọng trách cao hơn Tham mưu phó, rồi quyền Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Chiến trường Nam Bộ những năm 1951 - 1954 dưới sự chỉ huy của ông và tập thể Bộ Tư lệnh đã thật sự trở thành một chiến trường đầy sôi động, chia lửa đắc lực cho chiến trường chính Bắc Bộ với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi lẫy lừng năm châu chấn động địa cầu, góp phần đưa sự nghiệp chống thực dân Pháp của quân và dân ta toàn thắng.
Sau ngày Hiệp định Genève, ông tập kết ra bắc, với kinh nghiệm trận mạc và kiến thức sâu rộng về tổ chức lực lượng vũ trang, từ tháng 5-1955 đến năm 1963, ông được bổ nhiệm giữ chức Cục phó Cục Tác chiến, rồi Cục trưởng Cục Quân lực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ tháng 8-1963 đến đầu năm 1964, ông được bổ nhiệm làm Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trên các cương vị mới này, ông tận tâm, tận lực với công việc mới mẻ và có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang theo hướng chính quy hiện đại những năm miền bắc hòa bình (1954 - 1964). Từ kết quả một quân đội tương đối chính quy, gồm nhiều quân binh chủng, sư đoàn, trung đoàn được trang bị thống nhất hiện đại vào cuối năm 1964 đặt trong bối cảnh năm 1954, đất nước vừa ra khỏi 9 năm trường kỳ chống Pháp, quân đội chỉ đơn thuần là bộ binh, vũ khí trang bị lại thiếu thốn và lạc hậu mới thấy hết một phần công lao đóng góp của các thế hệ cán bộ giai đoạn 1954 - 1964, trong đó có đồng chí Lê Đức Anh làm công tác tổ chức lực lượng, tác chiến ở Bộ Tổng Tham mưu.
Đầu năm 1964 đến năm 1968, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn quyết liệt nhất, là người giàu kinh nghiệm trên chiến trường miền nam, ông được Đảng cử quay lại chiến trường lãnh đạo, chỉ đạo phong trào đấu tranh với bí danh Sáu Nam, giữ chức Tham mưu trưởng, rồi Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Miền Nam. Ở cương vị mới, ông cùng với các đồng chí trong Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền lãnh đạo, chỉ huy quân và dân miền nam xây dựng, củng cố vững chắc niềm tin dám đánh, dám thắng Mỹ; góp phần vào đánh bại các cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966, 1966-1967 và đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 giành thắng lợi bước ngoặt, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền bắc, ngồi vào bàn đàm phán, từng bước rút quân.
Tuy nhiên, sau năm 1968, chiến trường miền nam trở nên khốc liệt hơn trước sự đánh phá ác liệt của Mỹ - Thiệu, lực lượng vũ trang và cơ sở cách mạng ta bị tổn thất lớn, trước yêu cầu khôi phục, củng cố và phát triển phong trào cách mạng Tây Nam Bộ, ông được Đảng điều về làm Tư lệnh Quân khu 9 từ năm 1969 đến năm 1974. Dưới sự chỉ huy của ông và tập thể Bộ Tư lệnh, thực lực cách mạng Tây Nam Bộ từng bước được khôi phục và phát triển, hệ thống căn cứ địa được củng cố; lực lượng vũ trang quân khu phối hợp chặt chẽ với các lực lượng khác kiên cường trụ bám địa bàn, đánh địch chia lửa chiến trường cùng quân và dân cả nước. Một tiêu biểu nổi trội về tài năng, bản lĩnh của ông đã được lịch sử ghi nhận là trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9 dám hạ quyết tâm chỉ đạo quân và dân quân khu kiên quyết giáng trả kịp thời các hành động nống, lấn của địch sau Hiệp nghị Paris giành thắng lợi trong bối cảnh chiến trường toàn miền ngưng chiến, củng cố vững chắc cho quyết tâm, phương pháp bạo lực cách mạng của Đảng tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 21 khóa III. Chính bởi thành tích này, ông được phong vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng.
Cuối năm 1974 đến năm 1975, trước yêu cầu của sự nghiệp giải phóng miền nam, với tài năng quân sự của mình, ông được Đảng điều trở lại làm Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam (Đoàn 232) đánh vào Sài Gòn. Miền nam được giải phóng hoàn toàn, Sài Gòn giữ được gần như nguyên vẹn, sự nghiệp chống Mỹ của dân tộc ta giành toàn thắng đã phần nào ghi nhận những công lao của mỗi người Việt Nam yêu nước, trong đó có tên tuổi của ông.
Sau ngày Tổ quốc thống nhất, từ tháng 5-1976 đến năm 1985, trước yêu cầu ổn định, củng cố, phát triển các quân khu Nam Bộ và ứng phó với hoạt động chống phá của các lực lượng phản động Pôn Pốt, ông lại được Đảng lần lượt cử giữ chức Tư lệnh Quân khu 9, rồi Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Chỉ huy trưởng Cơ quan tiền phương Bộ Quốc phòng tại Mặt trận Tây Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh quân tình nguyện, Phó Trưởng ban, rồi Trưởng ban lãnh đạo chuyên gia Việt Nam tại Campuchia. Trên những cương vị mới, ông cùng với tập thể lãnh đạo, chỉ huy ổn định vững chắc tình hình các quân khu 7, 9; tổ chức sử dụng lực lượng hợp lý, chỉ huy kiên quyết giáng trả những hành động gây chiến của bọn phản động Pôn Pốt, tiến lên phối hợp chặt chẽ với các lực lượng của Bộ, của bạn đánh đổ hoàn toàn chế độ độc tài Pôn Pốt bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.
Từ tháng 12-1986 đến năm 1991, ông được cử giữ chức Tổng Tham mưu trưởng, sau đó là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ở cương vị mới này, ông đã có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng - an ninh của quốc gia những năm đầu đất nước bước vào sự nghiệp đổi mới đầy những khó khăn thách thức. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia được bảo đảm, quốc phòng - an ninh được củng cố tương đối vững chắc, thành tựu đổi mới của đất nước đạt được những thành tựu quan trọng đã khẳng định công lao, đóng góp to lớn của các thế hệ lãnh đạo tiền bối giai đoạn này đối với dân tộc trong đó không thể không nhắc và kể tới ông.
Năm 1992, ông được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam bầu vào chức vụ Chủ tịch nước. Ông từng là Ủy viên T.Ư khóa IV đến khóa VIII, Ủy viên Bộ Chính trị từ khóa V đến khóa VIII.
Bởi nỗ lực và những đóng góp của ông trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt về quân sự của dân tộc, đồng chí Lê Đức Anh được phong hàm Đại tá năm 1958, quân hàm Trung tướng năm 1974, hàm Thượng tướng năm 1980, Đại tướng năm 1984 và đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều huân huy chương, phần thưởng cao quý. Trải qua 82 năm, từ buổi đầu tiên tham gia cách mạng đến khi về cõi vĩnh hằng, Đại tướng Lê Đức Anh đã kinh qua nhiều cương vị công tác, nhưng dù ở đâu và trong bất cứ hoàn cảnh nào ông luôn thể hiện đức hy sinh, lòng dũng cảm, trí thông minh; luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc và quân đội lên trên hết; toàn tâm cống hiến cho Đảng, cho dân tộc; giữ trọn danh hiệu cao quý của người Cộng sản, luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Đại tướng Lê Đức Anh mãi mãi xứng đáng là người cộng sản kiên cường, nhà quân sự xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam.
TS. NGUYỄN VĂN QUYỀN
Tướng sát chiến trường, thương vong của người lính sẽ đỡ đi. Nhiều chỉ đạo của ông đã giúp bộ đội ta thực hiện tốt. Chỗ nào khó khăn nhất, chiến trường ác liệt nhất là ông được đưa đến đó. Ông là vị tướng có tài, có tầm nhìn. Trong thời bình, ông là nhà lãnh đạo nhìn xa trông rộng - Đó là những nhận xét trong niềm tiếc thương vô hạn của Đại tướng, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phạm Văn Trà trước sự ra đi của Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh.
Luôn sát cánh trong đời binh nghiệp, khi trở về cuộc sống đời thường, Đại tướng, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phạm Văn Trà và Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, lại ở cùng Khu nhà số 5A Hoàng Diệu (Hà Nội).
Trong ký ức của Đại tướng Phạm Văn Trà, Đại tướng Lê Đức Anh luôn thể hiện tâm thế của người chiến sĩ đứng vững trên thế tiến công, chủ động tấn công trong suy nghĩ và hành động, lăn lộn với thực tế chiến trường để tìm ra những cách đánh hiệu quả, giảm hy sinh xương máu của chiến sĩ, đồng bào, mà vẫn chiến thắng kẻ thù. Trong 3 cuộc chiến tranh, Đại tướng Lê Đức Anh đều ở chiến trường, bám sát chiến trường: Trong chống Pháp, ông ở Đông Nam Bộ; trong chống Mỹ, ông ở Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Chiến tranh biên giới Tây Nam, ông là Tư lệnh Bộ đội tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.
Nhớ lại thời điểm Tướng Lê Đức Anh về làm Tư lệnh Quân khu 9, ông Phạm Văn Trà kể, trong chiến tranh, mục tiêu chính trị là hàng đầu. Mậu Thân 1968, thắng lợi về quân sự là rất lớn, tổn thất cũng quá lớn, nhưng mục tiêu chính trị đã đạt được, đã thay đổi được cục diện chiến tranh, buộc Mỹ phải ngồi vào đàm phán Hiệp định Paris. Trong bối cảnh như vậy, Quân khu 9 chỉ có 1 trung đoàn. Mậu Thân 1968, vào đánh Cần Thơ 3 lần, cuối cùng năm 1969, từ trên 3000 quân chỉ còn trên 700. Trong lúc tổn thất như vậy, địch tràn vào đánh tất cả các vùng giải phóng của mình, kể cả những vùng giải phòng từ thời kháng chiến chống Pháp. Mình không còn quân nên chúng chiếm những vùng căn cứ của mình như U Minh Thượng, U Minh Hạ.
Đúng lúc khó khăn đó, Trung đoàn của ông Trà nhận được lệnh giải tán trung đoàn. Cả Trung đoàn định chấp hành “về với dân, bám sát với dân và dân nuôi thôi, bởi chả có lương bổng gì, gạo dân cho, thực phẩm thì xuống sông mò thôi”. Nhưng cũng đúng lúc đó, Trung đoàn nhận được thông báo là Tư lệnh và Chính ủy, Bí thư Quân khu được đưa đi và Quân khu 9 có Tư lệnh mới, Chính ủy mới.
“Thời điểm ông Lê Đức Anh về làm Tư lệnh, Mỹ ngụy đánh U Minh ác liệt lắm. Ngay khi về, ông ấy điện cho Trung đoàn nói không giải tán Trung đoàn mà sau này còn bổ sung cho Trung đoàn 2000 quân của miền Bắc vào. Chúng tôi thấy rất phấn khởi bởi không những không phải giải tán Trung đoàn, mà còn được tăng cường thêm. Ông ấy hay là thế. Trong lúc khó khăn nhất, ông ấy đến và thay đổi được cục diện chiến trường”, Đại tướng Phạm Văn Trà nhớ lại.
“Sau Hiệp định Paris 1973, ngừng bắn hết. Riêng Quân khu 9 không ngừng bắn mà đánh suốt. Đến tháng 10, Quân khu 9 đánh thẳng vào thị xã Phước Long. Ý đồ của Quân khu 9 là đánh để thăm dò xem Mỹ có quay trở lại không. Đó là sự sáng tạo của Quân khu 9 mà người Chỉ huy chỉ đạo chính là đồng chí Lê Đức Anh”, Đại tướng Phạm Văn Trà kể.
Hồi nhớ về thời điểm sau hòa bình, Bộ Quốc phòng cho giảm quân số rất nhiều, nhưng riêng Tướng Lê Đức Anh ở Quân khu 9 lại thành lập Sư đoàn 30 và chọn trung đoàn đánh tốt trong thời kỳ chống Mỹ để giữ lại. Ông Phạm Văn Trà nói, việc giữ lực lượng này đã giúp ta giữ được chất chiến đấu. Khi quân Pol Pot đánh sang, Sư đoàn 30 chiến đấu rất hiệu quả. Điều đó chứng tỏ ông Lê Đức Anh đã nắm trước được tình hình nên đã chuẩn bị trước mấy năm. Quân khu 9 bị Pol Pot đánh nhưng không bị động, đánh lại được ngay và giữ được biên giới.
“Ông Lê Đức Anh có tầm nhìn rất sâu về chiến lược, bao giờ cũng dự đoán trước tình hình, khi tình hình đến không bị động, mà chủ động ứng phó được ngay và đều có kết quả tốt. Khi ông là Tư lệnh Bộ đội tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, tôi là Sư trưởng Sư 30 của Quân khu 9. Khi giúp bạn giải phóng tuyến biên giới Campuchia -Thái Lan, ông chỉ đạo chặn tuyến biên giới, không cho Pol Pot tràn sang. Nhờ đó, biên giới Campuchia - Thái Lan dần êm, Pol Pot tan dã dần. Khi bạn đứng vững, biên giới ổn định", Đại tướng Phạm Văn Trà kể lại.
Cũng theo Đại tướng Phan Văn Trà, năm 1990-1991, thời điểm Liên Xô sụp đổ, Đại tướng Lê Đức Anh đã gọi Tư lệnh các Quân khu lên. Lúc đó, ông Trà là Tư lệnh Quân khu 3. Tướng Lê Đức Anh chỉ nói ngắn gọn: Phải hết sức theo dõi tình hình Liên Xô, nếu Liên Xô đổ, thế giới sẽ có biến động rất lớn, các nước Xã hội chủ nghĩa có thể mất. Việt Nam phải hết sức chú ý. Ông ấy chỉ đạo, nếu Liên Xô đổ, tất cả Quân đội phải giữ nghiêm kỷ luật, có lệnh của Bộ Quốc phòng mới được hành động. Vì thế, khi Liên Xô sụp đổ, Quân đội không bị hẫng vì đã được ông báo trước 6 tháng. Quân đội Việt Nam lúc đó rất vững vàng, giữ vững lòng trung thành với Đảng, với đất nước để giữ vững chế độ, nhờ đó Việt Nam không bị xáo trộn. Nếu lúc đó, Quân đội không vững vàng, rối ren, sẽ làm phức tạp thêm tình hình.
“Đại tướng Lê Đức Anh đã cống hiến trọn đời cho đất nước, cho Đảng. Năm 1992, ông được Quốc hội bầu làm Chủ tịch nước và là người đề xuất phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Nhiều năm gắn bó với đồng chí, tôi nhận thấy, trong cuộc sống gia đình, ông không bao giờ can dự vào vị trí công việc của các con mà để con tự phát triển theo năng lực của bản thân. Đồng chí là một tướng lĩnh giỏi, có bản lĩnh, có tầm nhìn sâu rộng, luôn đoán được trước tình hình, là một người mẫu mực, khiêm tốn, không bao giờ tư lợi cho riêng mình”, Đại tướng Phạm Văn Trà xúc động nói.
Hạnh Quỳnh (TTXVN)
Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã vĩnh biệt chúng ta để về với đất mẹ. Lần giở lại lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, những trang viết về Đại tướng Lê Đức Anh hết sức sâu đậm. Đặc biệt, là những đóng góp to lớn của đồng chí trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước 44 năm về trước.
Tuy sinh ra và lớn lên ở Thừa Thiên - Huế, nhưng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, địa bàn hoạt động cách mạng đầu tiên của đồng chí Lê Đức Anh lại ở miền Đông Nam Bộ. Ngày 14-6-1948, Trung đoàn đầu tiên của Nam Bộ ra đời - Trung đoàn 301, do đồng chí Huỳnh Kim Trương làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Lê Đức Anh làm Chính trị viên. Đến cuối năm 1948, đồng chí Lê Đức Anh được điều về làm Tham mưu trưởng Khu 7. Từ đây, đồng chí Lê Đức Anh chuyển từ vai trò là một cán bộ chính trị sang làm cán bộ tham mưu quân sự, chuyên lo xây dựng lực lượng, tổ chức trận đánh, phát triển chiến thuật cho bộ đội chủ lực và các lực lượng vũ trang địa phương.
Cuối năm 1949, đầu năm 1950, quân Pháp liên tục mở nhiều cuộc hành quân càn quét, uy hiếp vùng giải phóng phía Đông và Đông Bắc Sài Gòn - Gia Định. Trước tình hình đó, đồng chí Lê Đức Anh đề xuất mở chiến dịch tiến công trên địa bàn Bến Cát và được cử làm Tham mưu trưởng chiến dịch. Sau một tháng chuẩn bị, chiến dịch Bến Cát được tổ chức từ ngày 25 đến ngày 27-1-1950, là một trong những chiến dịch tiến công đầu tiên của các lực lượng vũ trang Nam Bộ, đánh dấu cục diện chiến trường chuyển sang giai đoạn mới, từ chỗ ta bị động đối phó sang chủ động tổ chức những trận tiến công có quy mô chiến dịch, tạo bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống Pháp của đồng bào Nam Bộ.
Điểm cần nhấn mạnh là, từ trong chiến dịch Bến Cát, chiến thuật đặc công đã ra đời. Cuối năm 1952, đầu năm 1953, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ đã chỉ thị cho đồng chí Lê Đức Anh tổ chức đoàn cán bộ ra Chiến khu Việt Bắc để báo cáo với Bác Hồ và Bộ Tổng Tham mưu kinh nghiệm đánh đồn theo kiểu đặc công.
Sau Hiệp định Giơnevơ, đồng chí Lê Đức Anh tập kết ra Bắc, làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 330, sau đó được điều động về làm Phó Cục trưởng Cục Tác chiến và nhận nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng công trình phòng thủ bờ biển từ Quảng Ninh đến Quảng Bình. Tháng 9-1963, đồng chí Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây cũng là lúc đồng chí cùng cơ quan Bộ Tổng Tham mưu tổ chức cho cán bộ miền Nam tập kết tập huấn và bí mật rèn luyện để chuẩn bị vào Nam chiến đấu chống giặc Mỹ xâm lược.
Trước yêu cầu của chiến trường miền Nam, cuối tháng 12-1963, đồng chí Lê Đức Anh được điều trở lại Nam Bộ, làm Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Miền; được giao xây dựng kế hoạch xây dựng lực lượng tại chỗ. Đến cuối năm 1964, việc xây dựng lực lượng cơ bản hoàn thành. Nhiều vùng trắng trước đây đã phát triển cơ sở và lực lượng vũ trang cách mạng.
Khi đồng chí Lê Đức Anh từ miền Bắc vào tới Bộ chỉ huy Miền cũng là lúc bắt đầu chuẩn bị mở Chiến dịch Bình Giã. Đồng chí Lê Đức Anh một mặt cùng cơ quan Bộ Tham mưu triển khai kế hoạch xây dựng và phát triển lực lượng, mặt khác chuẩn bị cho chiến dịch, trọng tâm là công tác tham mưu. Với sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, Chiến dịch Bình Giã đã giành thắng lợi to lớn. Từ thắng lợi này, lực lượng vũ trang càng phát triển mạnh mẽ, là cơ sở vững chắc để sau đó hình thành Sư đoàn 5 (chủ lực cơ động) và Đoàn 10 (đặc công nước, sau này gọi là Đặc công Rừng Sác) hoạt động và đánh địch trên sông Lòng Tàu...
Trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, khi đang làm Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Miền, đồng chí Lê Đức Anh được phân công tham gia sở chỉ huy "Tiền phương 2" do đồng chí Võ Văn Kiệt phụ trách - gồm các đơn vị từ Long An và toàn bộ lực lượng biệt động và quần chúng vũ trang nội thành từ quận 1 đến quận 8 đảm trách tiến công vào nội đô Sài Gòn từ hướng Nam và Tây Nam...
Dấu mốc quan trọng thể hiện tài cầm quân của tướng Lê Đức Anh là trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Ngày 8-4-1975, trong cuộc họp đông đủ Trung ương Cục, Quân ủy Miền và Bộ Tư lệnh Miền, đồng chí Lê Đức Thọ đã phổ biến quyết định của Bộ Chính trị về việc thành lập Bộ chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định, gồm: Đại tướng Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng làm Chính ủy, Thượng tướng Trần Văn Trà và Trung tướng Lê Đức Anh làm Phó Tư lệnh. Riêng đồng chí Lê Đức Anh còn được cử kiêm chỉ huy cánh quân phía Tây - Tây Nam Sài Gòn.
Ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Trung tướng Lê Đức Anh, các đơn vị hướng Tây - Tây Nam như Sư đoàn 3, 5, 9 và các trung đoàn độc lập... bắt đầu tiến công, rồi cùng các cánh quân khác nhanh chóng tiến về Sài Gòn. Đến ngày 30-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Sau khi miền Nam giải phóng, cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, ở biên giới Tây Nam Tổ quốc, quân Pôl Pốt đã gây hấn và mở cuộc chiến tranh xâm lược đối với Việt Nam. Trước tình hình đó, tháng 6-1978, Trung tướng Lê Đức Anh, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Chỉ huy trưởng cơ quan tiền phương Bộ Quốc phòng ở Mặt trận Tây Nam, đã góp phần đặc biệt quan trọng trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng.
Năm 1981, khi đang giữ chức Tư lệnh Quân khu 7, đồng chí được phân công kiêm chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Phó Trưởng ban rồi Trưởng ban lãnh đạo chuyên gia Việt Nam tại Campuchia. Năm 1984, đồng chí được phong hàm Đại tướng. Cuối năm 1986, đồng chí được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (nay là Chủ tịch nước) bổ nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Việc đầu tiên trên cương vị mới của đồng chí là đi thị sát dọc vùng biên giới 6 tỉnh phía Bắc.
Về sự kiện này, Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm, nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam kể lại: "Vị Tổng Tham mưu trưởng đã ra quyết định rút toàn bộ đội hình Quân đoàn 29 lùi xuống phía sau để phòng ngự, không áp sát biên giới.
Đại tướng có nói, nếu ta áp sát biên giới, phía đối phương cũng áp sát biên giới, lúc nào hai bên cũng căng thẳng. Nay, chúng ta cứ rút quân xuống trước. Tôi bảo đảm với các anh đây là chủ trương đúng, tôi sẽ về báo cáo Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng". Trên thực tế, sau khi Quân đoàn 29 lùi xuống phía sau, tình hình biên giới dần dịu xuống không còn căng thẳng như trước. Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm nhấn mạnh: "Mãi sau này chúng tôi mới thấy, việc cho bộ đội chủ lực lùi lại như quyết định của Đại tướng Lê Đức Anh cũng là cơ hội để quân đội chỉnh đốn lại lực lượng".
Tháng 5-1988, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đi thị sát quần đảo Trường Sa, dự Lễ kỷ niệm 33 năm Ngày truyền thống Quân chủng Hải quân. Phát biểu tại Lễ kỷ niệm, Đại tướng Lê Đức Anh nhấn mạnh: "Xin thề trước hương hồn của tổ tiên ta, trước hương hồn của cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau "Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta".
Điểm lại quá trình hoạt động và cống hiến của Đại tướng Lê Đức Anh với Quân đội nhân dân Việt Nam có thể thấy, đồng chí là một vị tướng tài ba. Trải qua nhiều chiến trường, nhiều cương vị công tác đã giúp đồng chí có nhiều kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ huy quân đội. Chính những quyết định sáng suốt của đồng chí đã giúp quân đội ta có bước phát triển vững chắc. Sau này, dù được Đảng, Nhà nước tin tưởng giao những trọng trách lớn hơn nhưng đồng chí vẫn mãi là một vị tướng tài ba của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng!
ĐẠI TÁ, PGS.TS NGUYỄN VĂN SÁU
Đại tướng Lê Đức Anh là người góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc, giải phóng miền Nam vào ngày 30/4/1975.
Với cuộc đời hoạt động cách mạng đa dạng, phong phú, đứng ở nhiều vị trí đương đầu với khó khăn, thử thách khắc nghiệt trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao. Đáng chú ý, đồng chí Lê Đức Anh đã để lại dấu ấn sâu đậm trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Lúc này, ông là Trung tướng, Phó Tư lệnh Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh Cánh quân Tây Nam. Đại tướng Lê Đức Anh là người góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc, giải phóng miền Nam vào ngày 30/4/1975.
Trung tướng Nguyễn Đức Hải, Nguyên Viện trưởng viện chiến lược Quốc phòng Việt Nam khẳng định: "Những nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự của Đại tướng Lê Đức Anh là về chọn thời cơ và chớp thời cơ. Trong cuốn hồi ký ông có nói rằng bài học lịch sử để lại dấu ấn trong ông đó là cách mạng Tháng 8 thành công, đó là sự lựa chọn đánh giá chọn và chớp thời cơ hết sức tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh và chính bài học này ông đã vận dụng trong suốt cuộc đời chỉ huy của ông trên tất cả các chiến trường và có thể nói việc đánh giá lựa chọn thời cơ chớp thời cơ là một trong những yếu tố quyết định đến thắng lợi."Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh. Bộ tư lệnh chiến dịch ngày ấy gồm 8 người, trong đó có Trung tướng, Phó tư lệnh Lê Đức Anh. Lực lượng trực tiếp tham gia chiến dịch của ta gồm 5 quân đoàn có trên dưới 15 sư đoàn. Các quân đoàn 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232 có đủ các binh chủng hợp thành, cùng các lực lượng bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ và lực lượng nổi dậy của quần chúng ở nông thôn cũng như thành thị. Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh xác định phải đánh nhanh, quyết liệt, không cho địch co cụm về Sài Gòn; ngược lại, không để cho quân địch ở Sài Gòn chạy về miền Tây. Các cánh quân phải tổ chức các mũi thọc sâu, mũi đánh vòng ngoài kết hợp giữa chủ lực với bộ đội địa phương và kết hợp giữa bộ đội với quần chúng nhân dân, đột phá liên tục, dồn dập cho đến toàn thắng.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh còn được giao đảm trách chỉ huy và lãnh đạo cánh quân tiến công trên hướng Tây - Tây Nam Sài Gòn, một trong năm cánh quân của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Thời điểm đó, Bộ Chỉ huy miền (B2) nhận định hướng Tây - Tây Nam là nơi khó nhất vì sình lầy, nhưng đây là một hướng tiến công rất quan trọng vì nhất định ta phải nhanh chóng chia cắt quân địch trên tuyến quốc lộ số 4 để quân địch ở Sài Gòn không thể co cụm xuống cố thủ ở Tây Đô (Cần Thơ). Trong tình huống nếu địch co cụm được về đó thì phức tạp, và “trận đánh cuối cùng” của ta sẽ không “thuận buồm xuôi gió”.
Ngược lại, nếu ta chia cắt được lộ số 4 thì Quân đoàn 4 và quân địch ở vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ không thể kéo về ứng cứu cho Sài Gòn. Đại tướng Phạm Văn Trà, Nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kể lại: Ở trong chiến trường Khu 9 với đặc điểm sông nước nhiều, vườn dừa nước rất rậm rạp, càng đánh bom sậy càng lên mạnh cho nên từ bờ sông ra mép vườn rất thuận lợi cho mình quân ít có thể áp sát đồn địch. Chúng tôi đóng quân ở đấy tối dùng chiến thuật du kích, những lúc khó khăn nhất anh Võ Văn Kiệt và anh Lê Đức Anh mặc dù chiến trận ác liệt, nguy hiểm nhưng vẫn có mặt để kịp thời động viên anh em.
Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhấn mạnh: Nhắc đến đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh là nhắc tới một vị tướng trận mạc mà cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí gắn chặt với nhiều mốc son lịch sử của dân tộc. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã từng nhận định đồng chí Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta, để lại nhiều bài học quý báu cho thế hệ hôm nay.Theo các nhà sử học và tướng lĩnh nghiên cứu quân sự, Đại tướng Lê Đức Anh thực sự là một tướng trận, một nhà cầm quân đại tài. Đại tướng cũng là một trong số ít người đã trải qua các cuộc chiến tranh và xung đột từ năm 1945 - 1989. Ông luôn có mặt ở những điểm nóng nhất và cũng luôn trở về trong từng chiến thắng, từng chiến dịch được giao phó và đảm nhiệm.
Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng định: "Riêng trong lĩnh vực quân sự quốc phòng, theo tôi đồng chí để lại 3 bài học lớn thể hiện tầm nhìn xa trông rộng sự linh hoạt sáng tạo trong chỉ đạo chỉ huy và những tham mưu đề xuất hiệu quả trong xây dựng quân đội nhân dân xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Bài học thứ 1 là thường xuyên nghiên cứu nắm vững, đánh giá đúng tình hình về địch sớm có chủ trương, chiến lược phù hợp xây dựng ý chí quyết tâm chính xác.
Bài học thứ 2 là phát huy sức mạnh tại chỗ nhất là lực lượng chính trị quần chúng tạo điều kiện cho mũi tiền công chủ lực cơ động giành thắng lợi. Bài học thứ 3 là xây dựng quân đội tinh gọn hiện đại sẵn sáng chiến đầu cao."
Chiến dịch Hồ Chí Minh trong mùa đại thắng 1975 đã giải phóng Sài Gòn, kết thúc trọn vẹn cuộc chiến tranh, thống nhất Đất nước, non sông thu về một mối. Cứ đến ngày 30/4 mỗi năm, cả đất nước ta lại long trọng kỷ niệm ngày đất nước thống nhất. Đây là dịp để chúng ta cùng tưởng nhớ, trân trọng những nhân vật lịch sử, qua những con người cụ thể, nhân vật cụ thể, trong đó có Đại tướng Lê Đức Anh, người đã cùng viết nên bài học vẻ vang của lịch sử dân tộc./.
Thời kỳ Đại tướng Lê Đức Anh giữ cương vị Chủ tịch nước (tháng 9-1992), đất nước gặp nhiều khó khăn: Tình hình kinh tế, xã hội diễn biến phức tạp; lạm phát còn ở mức cao; sản xuất nông nghiệp chưa ổn định, hiệu quả thấp; tích lũy của nền kinh tế còn nhỏ; số người không có việc làm nhiều, đời sống của bộ đội và nhân dân lao động khó khăn. Đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội, toàn quân và toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới...
Cũng trong giai đoạn này, với sự tan vỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, các hiệp định về hợp tác, hỗ trợ kinh tế giữa Việt Nam và các nước trong khối xã hội chủ nghĩa không còn hiệu lực, gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam.
Mặt khác, cục diện ở Campuchia lúc này đã đặt Việt Nam trước những vấn đề mới. Trong khi đó, Chính phủ Mỹ vẫn duy trì chính sách cấm vận, các thế lực phản động ra sức chống phá cách mạng Việt Nam...
Trước bối cảnh tình hình khó khăn mọi bề đó, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã cùng Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ họp bàn, tìm cách giải quyết; cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta triển khai công cuộc đổi mới một cách toàn diện, trọng tâm là đổi mới nền kinh tế, như hình thành kinh tế nhiều thành phần, đưa kinh tế quốc doanh ra hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tìm cách mở cửa với bên ngoài...
Trong công tác lập pháp, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã cùng Quốc hội xây dựng hệ thống luật pháp, đặc biệt là đã bổ sung, sửa đổi Hiến pháp 1992 phù hợp với tình hình, nhiệm vụ mới của cách mạng, qua đó góp phần đưa đất nước phát triển ổn định, vững chắc.
Nét nổi bật trong giai đoạn này là mặc dù điều kiện đời sống nói chung còn khó khăn, nhưng Trung ương, Bộ Chính trị đã có nhiều chủ trương, chính sách quan tâm đến người có công, nhất là các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng còn sống cô đơn, nghèo khó.
Ngày 10-9-1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh số 36L/CTN, công bố Pháp lệnh Quy định danh hiệu vinh dự nhà nước Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người tham gia hoạt động kháng chiến, người có công với cách mạng.
Ngày 1-12-1994, Đảng và Nhà nước long trọng tổ chức lễ phong tặng danh hiệu vinh dự nhà nước "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng" đợt 1. Ngày 29-12-1994, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, hàng trăm Bà mẹ Việt Nam Anh hùng ở tuổi ngoài 70 đã cùng Chủ tịch nước Lê Đức Anh duyệt hàng quân danh dự trong khuôn viên của Phủ Chủ tịch.
Về đối ngoại, bước vào những năm đầu đổi mới, đặc biệt trong thập niên 90 thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước Việt Nam đưa ra chủ trương muốn là bạn của tất cả các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, cùng phấn đấu vì hòa bình độc lập, hữu nghị và phát triển, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi.
Trên tinh thần đó, Việt Nam và Trung Quốc đã ký hiệp định chính thức quan hệ bình thường (11-1991), đồng thời xúc tiến việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Với sự đóng góp to lớn của Chủ tịch nước Lê Đức Anh cùng sự thiện chí của Việt Nam, ngày 3-2-1994, Tổng thống Mỹ Bill Clinton tuyên bố: Không ngăn cản Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới cho Việt Nam vay tiền để đầu tư phát triển kinh tế và tuyên bố chấm dứt lệnh cấm vận thương mại kéo dài 19 năm đối với Việt Nam. Đến ngày 12-7-1995, hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao và mở văn phòng liên lạc tại Washington và Hà Nội.
Đối với Pháp, ngày 8-5-1995, nhận lời mời của Tổng thống Pháp F.Mitterrand, từ ngày 7 đến 12-5-1995, Chủ tịch nước Lê Đức Anh sang Cộng hòa Pháp dự lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Chiến thắng phát xít. Tiếp đó, từ ngày 22 đến 24-10-1995, Chủ tịch nước Lê Đức Anh tham dự lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Liên hợp quốc tại trụ sở của Liên hợp quốc ở New York...
Trong nhiệm kỳ giữ cương vị cao nhất của Nhà nước, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã thay mặt Nhà nước và nhân dân Việt Nam dự nhiều hội nghị quốc tế quan trọng. Đây là dịp tốt để các nhà lãnh đạo gặp gỡ, trao đổi ý kiến trực tiếp, từ đó hiểu rõ và tăng cường hơn nữa mối quan hệ song phương và đa phương giữa các quốc gia.
Đặc biệt, theo đề nghị của Chính phủ, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký phê chuẩn 1 hiến chương, 26 công ước, 5 hiệp ước và 35 hiệp định, 3 nghị định thư giữa Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế; trình Quốc hội phê chuẩn 1 công ước theo quy định của Hiến pháp (Công ước quốc tế về Luật Biển) và đã ủy quyền đàm phán và ký kết nhiều điều ước quốc tế khác.
Từ năm 1998, Đại tướng Lê Đức Anh được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng. Với trách nhiệm của mình, Đại tướng Lê Đức Anh đã có nhiều ý kiến đóng góp quý báu đối với quá trình xây dựng, phát triển đất nước thời kỳ mới, qua đó góp phần đưa Việt Nam từng bước vượt qua khó khăn, có những bước phát triển vững chắc trên con đường đổi mới và hội nhập.
Nhận xét về đồng chí Lê Đức Anh, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười nhấn mạnh: "Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng, một nhà lãnh đạo tài năng, một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã có nhiều cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Cuộc đời của đồng chí Lê Đức Anh gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và quân đội".
Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ra đi, nhưng tên tuổi của ông sẽ còn mãi. Nhiệm vụ của chúng ta là phải học tập tấm gương đạo đức cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh, cùng nhau nỗ lực, cố gắng, phấn đấu xây dựng đất nước mạnh giàu, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh!
Trên cương vị Chủ tịch nước từ năm 1992 đến 1997, Đại tướng Lê Đức Anh có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Dù bận rất nhiều công việc, nhưng đồng chí luôn quan tâm, động viên, chăm lo tới đội ngũ công nhân lao động (CNLĐ) và hoạt động công đoàn.
Thực hiện Tháng Công nhân năm 2019, đồng chí Lê Xuân Khôi, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Xi măng Bỉm Sơn (Thanh Hóa) đề nghị công đoàn công ty, cùng với lãnh đạo công ty quan tâm, chăm lo quyền, lợi ích cho công nhân viên chức (CNVC), người lao động (NLĐ), cần làm tốt công tác giáo dục truyền thống của giai cấp công nhân Việt Nam, truyền thống của công ty. Thông qua những hoạt động đó tuyên truyền cho NLĐ về dấu ấn những lần lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến thăm, động viên CNLĐ.
Qua tài liệu lịch sử truyền thống của công ty, chúng tôi được biết, vào cuối tháng 12-1994, khi Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn (nay là Công ty Cổ phần Xi măng Bỉm Sơn) đang đẩy mạnh sản xuất kinh doanh thì nhận được tin, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đến thăm. Chủ tịch nước Lê Đức Anh biểu dương cán bộ, công nhân nhà máy đã vượt qua nhiều khó khăn, yêu thương, đoàn kết, gắn bó, giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ. Chủ tịch nước vui mừng nhận thấy từ phong trào thi đua của công đoàn đã xuất hiện nhiều tấm gương lao động giỏi. Cán bộ, công nhân nhà máy đã sản xuất được nhiều xi măng, đáp ứng yêu cầu kiến thiết đất nước, xây dựng địa phương... Chủ tịch nước Lê Đức Anh mong muốn, cán bộ, công nhân nhà máy phát huy truyền thống của giai cấp công nhân Việt Nam; công đoàn nhà máy phải giữ vững niềm tin, là chỗ dựa vững chắc của NLĐ, chăm lo cho CNLĐ có cuộc sống tốt hơn, ấm no, đầy đủ; công đoàn cùng các tổ chức phấn đấu đưa nhà máy phát triển, đi lên bền vững.
Ngay sau buổi đón Chủ tịch nước Lê Đức Anh về thăm, công đoàn nhà máy đã phát động phong trào thi đua trong CNLĐ với chủ đề: “Nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm”, được công nhân nhà máy hưởng ứng, ủng hộ nhiệt tình. Từ đó đến nay công đoàn Công ty Cổ phần Xi măng Bỉm Sơn luôn phát huy tinh thần đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, có nhiều biện pháp hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ, góp phần giữ vững và phát triển thương hiệu xi măng Bỉm Sơn. Công ty luôn hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước, thu nhập và điều kiện làm việc của NLĐ được cải thiện và nâng cao.
Vào tháng 9-1996, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đến thăm, động viên công nhân đang thi công Nhà máy Thủy điện Yaly (Gia Lai). Thời điểm đó, khí hậu khắc nghiệt, địa hình thi công hiểm trở, sinh hoạt của công nhân khó khăn. Chủ tịch nước Lê Đức Anh xắn quần vượt dốc cao đến tận nơi công nhân thi công. Đồng chí căn dặn cán bộ, công nhân đang làm việc tại công trường cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, phát huy truyền thống của giai cấp công nhân Việt Nam cùng nhau thi đua lao động, sản xuất lập nên những chiến công mới. Thực hiện phong trào lao động giỏi, lao động sáng tạo, cán bộ, công nhân viên Nhà máy Thủy điện Yaly đã tích cực nghiên cứu, rút kinh nghiệm từ thực tế thi công, đưa ra nhiều giải pháp công nghệ, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất để đến tháng 5-2000, nhà máy đã phát điện tổ máy đầu tiên hòa vào lưới điện quốc gia.
Với phong cách giản dị, gần gũi và sâu sát, trên cương vị Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh nhiều lần đi thăm, động viên CNLĐ tại các nhà máy, công ty, xí nghiệp trên địa bàn cả nước, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới. Trong lịch sử truyền thống Công đoàn Việt Nam còn ghi lại những dấu ấn sâu sắc của Chủ tịch nước Lê Đức Anh tới thăm, động viên cán bộ, công nhân, NLĐ tại các nhà máy, xí nhiệp, như: Xí nghiệp Khai thác đá quý Quỳ Châu, Nghệ An (tháng 10-1992); Nhà máy Xi măng Hải Phòng (tháng 2-1994); Xí nghiệp Thủy sản 2, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh (tháng 4-1994)... Khi đến thăm, làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp, công ty, Chủ tịch nước Lê Đức Anh luôn căn dặn tổ chức công đoàn cần hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy NLĐ làm đối tượng vận động, công đoàn phải thực hiện tốt chức năng, vai trò đại diện, bảo vệ NLĐ, xây dựng mối quan hệ lao động tốt đẹp, tiến bộ, bền vững để góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, trong đó có nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, đã góp phần để giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng lớn mạnh; Công đoàn Việt Nam không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động. Công đoàn luôn quan tâm chăm lo lợi ích chính đáng của đoàn viên công đoàn (ĐVCĐ), NLĐ, thực hiện tốt vai trò đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ĐVCĐ, NLĐ; tham gia xây dựng, tổ chức triển khai, kiểm tra, giám sát chế độ, chính sách, bảo đảm tốt quyền lợi cho NLĐ. Công đoàn các cấp tổ chức nhiều phong trào thi đua yêu nước trong CNVC, lao động; tạo sự chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển. Qua thực tiễn triển khai phong trào thi đua “Lao động giỏi”, “Lao động sáng tạo”, các cấp công đoàn có nhiều mô hình tốt, cách làm hiệu quả, động viên NLĐ tích cực phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tham gia nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới, góp phần nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Đội ngũ CNVC, lao động tiếp tục phát triển về số lượng, chuyển dịch về cơ cấu, chất lượng cơ bản được nâng lên, có nhiều đóng góp trực tiếp, to lớn vào sự phát triển của đất nước...
PHẠM THU HẰNG
Năm 1983-1984, tôi được giao nhiệm vụ cùng anh Phạm Lam, anh Nguyễn Bá Chước làm Tổ đại diện Cục Chính sách Tổng cục Chính trị (TCCT) thuộc Cơ quan chính trị Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia (Bộ tư lệnh 719).
Thời kỳ đó, đồng chí Lê Đức Anh vừa là Tư lệnh Bộ tư lệnh (BTL) Quân tình nguyện, vừa là người lãnh đạo, chỉ huy cao nhất về tất cả các mặt chuyên gia giúp bạn. Riêng về công tác chính sách, chúng tôi luôn nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí trên hai lĩnh vực: Một là, nghiên cứu đề nghị ban hành chính sách sát đúng đối với cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam. Hai là, chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc kiểm tra việc tổ chức thực hiện kịp thời, đầy đủ, chu đáo các chính sách đã ban hành, đặc biệt là chính sách đối với thương binh, liệt sĩ trong chiến đấu.
Khi tôi đảm nhiệm chức vụ Cục trưởng Cục Chính sách, TCCT, thì Đại tướng Lê Đức Anh trên cương vị Chủ tịch nước. Với tình cảm sâu nặng và trách nhiệm của mình, Đại tướng Lê Đức Anh thường xuyên quan tâm đến công tác chính sách. Nhiều lần, ông cho thư ký gọi tôi đến báo cáo tình hình công tác chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội (HPQĐ); cũng có khi ông yêu cầu tôi báo cáo về một chuyên đề hoặc một trường hợp chính sách cụ thể. Trong các lần được tiếp kiến với ông, tôi luôn nhận được những lời chỉ đạo sâu sắc, tâm huyết, ân cần, cùng những vấn đề cần quan tâm thực hiện trong công tác chính sách đối với quân đội và HPQĐ. Ông thường nêu lên nhiều câu hỏi, nhiều vấn đề quan tâm: Đời sống bộ đội ở biên giới, hải đảo thế nào, có chế độ gì động viên anh em yên tâm làm nhiệm vụ nơi xa xôi, đầu sóng ngọn gió? Quân nhân mất tin, mất tích trong chiến tranh chống Mỹ đã xác minh kết luận xong chưa? Gia đình anh em đã được hưởng đầy đủ quyền lợi chính sách chưa? Mộ liệt sĩ nơi địa bàn rừng núi và ở nước bạn Lào, Campuchia còn nhiều không, đến bao giờ thì đưa hết anh em về nước; những khó khăn, trở ngại trong việc triển khai? Đời sống các gia đình chính sách ra sao? Việc chính sách HPQĐ ở các địa phương có gì mới, nhất là trong cơ chế kinh tế thị trường? Những cán bộ được quân đội cấp đất làm nhà, chuyển vợ con đến sinh sống, làm việc ở các địa phương, nhất là ở các thành phố, các khu công nghiệp… việc đăng ký hộ khẩu có thuận lợi không, việc học hành của các cháu ra sao? Các đồng chí có thành tích trong chiến đấu, nhất là những cán bộ lăn lộn qua mấy chục năm trên các chiến trường trong chiến tranh, đã được khen thưởng thỏa đáng chưa?
Năm 1994, dưới sự chỉ đạo của TCCT, Cục Chính sách đã nghiên cứu khảo sát, xây dựng nội dung chính sách báo cáo cấp trên. Theo tờ trình của Đảng ủy Quân sự Trung ương-Bộ Quốc phòng, Ban Bí thư đã họp, xem xét quyết nghị và ngày 29-8-1994, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Tiếp đó, ngày 10-9-1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, tặng hoặc truy tặng những bà mẹ có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo về Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.Tôi biết rằng, các câu hỏi đó là những điều trăn trở thường trực trong suy tư, tình cảm của ông-người suốt cả cuộc đời đã hoạt động cách mạng phong phú, sôi nổi, với nhiều trọng trách.
Danh hiệu cao quý “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” góp phần tôn vinh những giá trị thiêng liêng, truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Việc suy tôn, tri ân các Bà mẹ Việt Nam anh hùng là biểu thị lòng thủy chung, sự biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với các bà mẹ đã có những hy sinh thầm lặng, cao cả, đã cống hiến cho Tổ quốc những người con ưu tú. Ngay sau khi Nhà nước ban hành pháp lệnh, các địa phương, các ngành trong cả nước đã trân trọng đón nhận và kịp thời triển khai tổ chức thực hiện.
Ngày 17-12-1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký quyết định tặng và truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” đợt 1 cho 19.879 bà mẹ thuộc các tỉnh, thành phố trong cả nước. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 5 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân, ngày 19-12-1994, Đảng, Nhà nước tổ chức trọng thể Lễ tuyên dương danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng lần thứ nhất tại Phủ Chủ tịch. 59 Bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu của mọi miền đất nước, đại diện cho gần 2 vạn bà mẹ được phong tặng được mời về dự. Lễ đón các mẹ được tổ chức trọng thể tại Phủ Chủ tịch. Chủ tịch nước Lê Đức Anh ra tận xe mời các mẹ bước lên thảm đỏ duyệt Đội Danh dự Quân đội nhân dân Việt Nam và cùng các đồng chí lãnh đạo hướng dẫn các mẹ lên Phòng Đại lễ của Phủ Chủ tịch. Tại buổi lễ, thay mặt Đảng, Nhà nước, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đọc lời tuyên dương công trạng lớn lao của Phụ nữ Việt Nam, của các Bà mẹ Việt Nam anh hùng mà công lao gắn liền với những trang sử vẻ vang của dân tộc, được nhân dân đời đời ghi nhớ. Hình ảnh diễn ra tại Phủ Chủ tịch ngày hôm đó thật cảm động, nghĩa tình, là biểu tượng cao quý, đẹp đẽ của sự hy sinh và lòng thủy chung nhân nghĩa.
Ngày 26-2-1997, Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày truyền thống ngành chính sách quân đội (26-2-1947 / 26-2-1997) được tổ chức trọng thể tại Hà Nội, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã gửi thư chúc mừng, bức thư có đoạn: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và Bác Hồ kính yêu, được sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam “Uống nước nhớ nguồn”, 50 năm qua, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ ngành chính sách quân đội đã đoàn kết chặt chẽ, tận tụy công tác, chủ động sáng tạo vượt qua thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Cùng với toàn dân, toàn quân, các cấp, các ngành tích cực thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và chính sách HPQĐ, góp phần tạo nên sức mạnh to lớn của dân tộc ta đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, làm tròn nghĩa vụ quốc tế vẻ vang. Nhân dịp này, thay mặt Đảng và Nhà nước, tôi nhiệt liệt biểu dương, khen ngợi những công lao, thành tích của ngành chính sách quân đội trong 50 năm qua. Mong các đồng chí tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam, ra sức xây dựng ngành chính sách quân đội vững mạnh, góp phần xây dựng Quân đội ta chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII”.
Thư của Chủ tịch nước Lê Đức Anh vừa là sự ghi nhận đánh giá thành tích của ngành chính sách quân đội đối với sự nghiệp cách mạng; đồng thời, qua đó xác định yêu cầu, nhiệm vụ công tác chính sách trong thời gian tới. Đến nay, dù đã hơn 20 năm, nhưng những nội dung đó vẫn còn nguyên giá trị chỉ đạo.
Với trọng trách và tình cảm sâu nặng của mình, Đại tướng Lê Đức Anh luôn quan tâm sâu sắc đến công tác chính sách đối với quân đội và HPQĐ. Bởi theo ông, chính sách là một mặt công tác quan trọng kết hợp chặt chẽ với công tác tổ chức và công tác tư tưởng, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta.
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đại tướng Lê Đức Anh luôn thể hiện là một vị tướng tài ba, quả cảm. Trong thời bình, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch nước rồi Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ông là nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng, quyết liệt và chí công vô tư.
Vị tướng tài ba, quả cảm
Đại tướng Lê Đức Anh sinh ngày 1/12/1920 ở làng Trường Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Thủa niên thiếu, chàng thiếu niên Lê Đức Anh đã sớm được tiếp xúc với những người yêu nước và cách mạng, đọc báo chí tiến bộ và tìm hiểu về chủ nghĩa cộng sản, về Nguyễn Ái Quốc và tham gia phong trào đấu tranh đòi độc lập cho đất nước, tự do cho dân tộc. Hoạt động cách mạng của ông bắt đầu từ những việc nhỏ nhất như rải truyền đơn, treo cờ đỏ… đến việc tuyên truyền, vận động trong dân chúng, tham gia phong trào bình dân, phụ trách tổ chức các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh.
Năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản, khi đó ông tròn 18 tuổi. Từ đây, ông bắt đầu cuộc đời của một người cộng sản. Trong Cách mạng tháng Tám 1945, ông làm chỉ huy quân đội ở tỉnh Thủ Dầu Một. Sau đó, ông tham gia kháng chiến chống Pháp ở miền Đông Nam Bộ.
Đại tướng Lê Đức Anh đã công tác, chiến đấu trên nhiều mặt trận từ Nam ra Bắc; góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tiến từng bước lên chính quy hiện đại.
Trên cương vị Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, rồi Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh miền Nam, Tư lệnh Quân khu 9, Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh miền Nam, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, ông đã tham gia nhiều sự kiện quan trọng, trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch lớn.
Là Tư lệnh Bộ đội tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, ông có nhiều đóng góp hết sức to lớn giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng của Tập đoàn Pol Pot - Ieng Sary.
Sau khi đất nước Campuchia được giải phóng, năm 1982, ông nhận nhiệm vụ làm Trưởng Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia Việt Nam giúp Campuchia.
Năm 1984, ông được phong quân hàm Đại tướng, sau đó giữ các trọng trách: Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (1986), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (từ tháng 12/1986 đến 1991). Ông được bầu làm Chủ tịch nước nhiệm kỳ 1992-1997.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Đại tướng Lê Đức Anh luôn thể hiện tâm thế của người chiến sĩ đứng vững trên thế tiến công, chủ động tấn công trong suy nghĩ và hành động, lăn lộn với thực tế chiến trường để tìm ra những cách đánh hiệu quả, giảm hy sinh xương máu của chiến sĩ, đồng bào mà vẫn chiến thắng kẻ thù.
Là một nhà lãnh đạo luôn được đặt vào những thời điểm khó khăn, buộc phải ra quyết định trong những hoàn cảnh gian khổ, song Đại tướng Lê Đức Anh đã thể hiện đầy đủ tầm nhìn sâu và rộng trong những vấn đề chiến lược của đất nước. Ông là người bản lĩnh, dám chịu trách nhiệm và khi đã tin là đúng thì quyết làm đến cùng cũng như luôn bình tĩnh trước mọi khó khăn, thách thức.
Trong cuốn Hồi ký “Đại tướng Lê Đức Anh - Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng” (Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2015), ông cho biết: “Nhớ lại những năm tháng đầy thử thách, cam go, khi bị kẻ thù khủng bố, đàn áp gắt gao, những lúc cách mạng gặp khó khăn, thử thách, song nhờ bám thực tế, chủ động sáng tạo, dựa vào dân, bám chắc vào dân nên tôi đã vượt qua khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chính trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất mới thấy hết vai trò to lớn của nhân dân. Nhân dân không chỉ là người giúp đỡ, chở che, mà họ còn là nguồn sáng tạo vô tận để chúng tôi học tập”.
Đồng bào, chiến sĩ Quân khu 9 Đồng bằng sông Cửu Long luôn nhớ hình ảnh vị Tư lệnh bao giờ cũng tin vào dân, lấy lòng dân, sức dân là thành lũy để bộ đội chiến đấu và chiến thắng; một vị Tư lệnh bao giờ cũng đặt Sở chỉ huy tiền phương ngay sát đồn địch, có mặt ở những nơi ác liệt nhất, ở vào những thời điểm quan trọng nhất…
Không chỉ có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh còn có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển đất nước và mở rộng quan hệ ngoại giao của Việt Nam.
Ông đã góp phần đưa công cuộc đổi mới đi vào hiện thực, tạo tiền đề cho sự thành công của công cuộc đổi mới những năm tiếp theo.
Ông cũng là người đề nghị và được Bộ Chính trị chấp nhận việc phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” để tôn vinh và ghi công sự cống hiến của các bà mẹ cho độc lập tự do của Tổ quốc và giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ mai sau.
Đặc biệt, dấu ấn nổi bật của ông phải kể đến là những đóng góp trong lĩnh vực ngoại giao.
Thực hiện đường lối Đổi mới, năm 1986, Việt Nam tiến hành bình thường hóa quan hệ với một số nước, trong đó có hai nước lớn là Trung Quốc và Mỹ. Bộ Chính trị giao cho lãnh đạo Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng lo việc này. Lúc đó, Đại tướng Lê Đức Anh đang giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Thời điểm ấy, giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chưa có một kênh tiếp cận chính thức nào. Chiến tranh đã kết thúc được hơn một thập kỷ nhưng sự hận thù vẫn còn sâu sắc. Sau những trăn trở, tìm tòi, Đại tướng đã tìm ra những bước đi khôn khéo với chiến dịch "Phẫu thuật nụ cười" và "Tìm kiếm người Mỹ mất tích - MIA" - mở ra một cách tiếp cận trong việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ.
Đó là một cách làm đầy sáng tạo và bước mở đầu đó đã góp phần quan trọng trong việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước vào năm 1995. Thực tế cho thấy, trong gần 24 năm qua, những bước phát triển trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, góp phần vào sự phát triển thịnh vượng của mỗi nước và hòa bình ổn định ở khu vực đã chứng minh tầm nhìn của Đại tướng.
Đối với việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, ông cùng Bộ Chính trị đã quyết định bắt đầu công việc bằng hai kênh: Ngoại giao nhân dân và ngoại giao bí mật.
Tháng 7/1991, Đại tướng Lê Đức Anh với tư cách là phái viên của Bộ Chính trị sang thăm nội bộ Trung Quốc để bàn bạc những vấn đề cụ thể việc bình thường hóa quan hệ hai nước. Sau khi Đại tướng Lê Đức Anh đi "tiền trạm" về, tháng 11/1991, nhận lời mời của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân và Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc Lý Bằng, đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt dẫn đầu sang thăm chính thức Trung Quốc. Sau lễ đón và hội đàm, hai bên ra Thông cáo chung và ký Hiệp định chính thức bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Đại tướng Lê Đức Anh từng nói về quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc và với Mỹ: Trong quan hệ với mỗi nước đó ta cần suy nghĩ rất kỹ và dĩ nhiên phải đứng trên lập trường độc lập và lợi ích dân tộc của ta. "Lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia và chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc phải là tối thượng", với Đại tướng Lê Đức Anh, điều đó đơn giản là một lẽ sống, một điểm tựa để ông quyết định phải - trái, đúng - sai và khi đã tin, đã quyết là theo đuổi đến cùng.
Đánh giá về ông, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã viết: "Ngần ấy thời gian biết về anh Sáu Nam - Lê Đức Anh, có lúc cùng chiến trường, có lúc ở cấp lãnh đạo Nhà nước, anh là một cán bộ tham mưu tầm cỡ, một vị Tướng chỉ huy cương nghị, bản lĩnh và dám chịu trách nhiệm. Một Bộ trưởng Quốc phòng trong thời bình xây dựng có nhiều đổi mới trong tổ chức và bố trí lực lượng quân đội, lực lượng vũ trang nhân dân; một trong những nhà lãnh đạo quốc gia tầm cỡ trong thời kỳ đổi mới đất nước... Công bằng mà đánh giá, cũng không có nhiều tướng lĩnh như anh Lê Đức Anh".
Hơn 80 năm hoạt động cách mạng, trải qua nhiều cương vị khác nhau, Đại tướng Lê Đức Anh luôn đem hết tinh thần, nghị lực và tài năng cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của nhân dân ta. Đồng chí là người chỉ huy đức độ, tài năng, có nhiều đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ mạch nguồn truyền thống yêu nước của quê hương và gia đình, năm 17 tuổi, đồng chí Lê Đức Anh đã tham gia hoạt động cách mạng, làm công tác tuyên truyền, xây dựng cơ sở cách mạng ở Thừa Thiên - Huế, rồi hoạt động bí mật, vận động công nhân đấu tranh chống thực dân Pháp ở đồn điền Lộc Ninh. Tháng 8-1945, đồng chí tham gia đấu tranh giành chính quyền cách mạng. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí lần lượt giữ các chức vụ từ trung đội trưởng, chính trị viên tiểu đoàn đến Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8 và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, Tham mưu phó, Quyền Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ.
Đầu năm 1964, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta bước vào giai đoạn quyết liệt, để tăng cường công tác lãnh đạo cách mạng miền nam, đồng chí Lê Đức Anh - Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam được phái vào chiến trường miền nam làm Phó Tư lệnh, kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền nam Việt Nam. Đồng chí trực tiếp thông qua kế hoạch, chỉ đạo lực lượng vũ trang mở chiến dịch Bình Giã (2-12-1964 đến 3-1-1965), tiến công tiêu diệt địch, hỗ trợ cho quần chúng, nhân dân trên địa bàn chiến dịch phá “ấp chiến lược”, mở rộng vùng giải phóng, góp phần thúc đẩy nhanh sự phá sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của địch.
Từ giữa năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Ở miền nam, chúng liên tiếp mở những cuộc hành quân, tiến công hòng “tìm diệt” bộ đội chủ lực và triệt phá các căn cứ kháng chiến của ta. Đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Bộ Chỉ huy Quân Giải phóng miền nam chỉ đạo quân và dân ta vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, tổ chức xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, rộng khắp trên các chiến trường, góp phần đánh bại cuộc phản công mùa khô 1965-1966 của địch.
Đầu năm 1967, quân Mỹ mở cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty vào căn cứ Dương Minh Châu hòng tiêu diệt cơ quan T.Ư Cục miền nam và chủ lực ta. Nắm chắc ý đồ của địch, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền nam sáng suốt tham mưu với T.Ư Cục đánh địch bằng phương thức mới, đó là trụ bám và bung ra đánh địch. Đồng chí trực tiếp chỉ đạo các cơ quan xác định phương châm tác chiến là: tổ chức các ấp, xã chiến đấu, trụ bám đánh địch tại chỗ; nơi địch không đến thì bung ra tìm địch mà đánh, bám địch mà diệt, thực hiện tiêu hao địch rộng rãi; chỉ phân tán một trung đoàn, còn hai trung đoàn ở ngoài phối hợp tác chiến chặt chẽ giữa lực lượng trong và ngoài căn cứ. Nhờ tạo được thế chủ động, sáng tạo trong cách đánh, chỉ huy tập trung, thống nhất, quân và dân ta đã đập tan cuộc tiến công quy mô lớn nhất của quân Mỹ trên địa bàn Đông Nam Bộ, bảo vệ được căn cứ.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, đồng chí Lê Đức Anh được phân công chỉ huy bộ đội ở hướng tây Sài Gòn, từ Long An đánh vào Tổng nha Cảnh sát và Cảnh sát đô thành. Đồng chí chỉ đạo một tiểu đoàn của Long An đánh thọc sâu và kịp thời đưa Trung đoàn 3 vào áp sát quận 6, gần tới Phú Lâm. Các đơn vị hướng tây đã dũng cảm tiến công địch, thọc sâu vào tận quận 5, ở lại một ngày. Trước tình hình địch tập trung lực lượng vây đánh, sau đợt 2, đồng chí đã quyết đoán lệnh cho các đơn vị rút quân ra vùng ven, bảo toàn được lực lượng, tiếp tục chiến đấu.
Sau những nỗ lực của ba đợt Tổng tiến công và nổi dậy trong năm 1968, do địch phản công quyết liệt, cách mạng miền nam đứng trước muôn vàn khó khăn. Đầu năm 1969, đồng chí Lê Đức Anh được cấp trên giao trọng trách Tư lệnh Quân khu 9. Để khôi phục lực lượng và thế trận, đồng chí chỉ đạo lực lượng vũ trang Quân khu kiên quyết “trụ bám đánh địch, bám dân, sống trong dân, làm chỗ dựa cho dân, cùng với dân hình thành lực lượng tổng hợp tiến công địch”. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, quân và dân ta đã đánh bại hai cuộc tiến công của địch vào căn cứ U Minh; chủ động tiến công, tiêu diệt nhiều đồn bốt của địch, từng bước khôi phục thế trận đánh địch.
Sau ngày Hiệp định Pa-ri (tháng 1-1973) được ký, chính quyền Sài Gòn công khai tuyên bố “ngừng chiến, không ngừng bắn”, ráo riết thực hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” hòng xóa bỏ thế trận chiến tranh nhân dân, đẩy lực lượng ta ra khỏi vùng đồng bằng... Trong khi nhiều chiến trường ngừng bắn và bị địch o ép, ở Quân khu 9, đồng chí Lê Đức Anh và Khu ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu đã họp đánh giá tình hình, xác định kiên quyết đánh địch vi phạm Hiệp định; quyết không để mất đất, mất dân. Nhờ nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, đánh giá đúng âm mưu, thủ đoạn của địch, đưa ra quyết định đúng đắn, Quân khu 9 đã chặn đứng nhiều đợt tiến công lấn chiếm của địch vào U Minh Thượng, Chương Thiện, bảo vệ được thành quả cách mạng, không bị lâm vào tình cảnh khó khăn như những nơi ngừng bắn. Thực tế đã chứng minh, chủ trương của đồng chí Lê Đức Anh và Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 là đúng đắn, kịp thời.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Đức Anh được giao làm Phó Tư lệnh Chiến dịch, kiêm Tư lệnh cánh quân Tây - Tây Nam (Đoàn 232) đánh vào Sài Gòn. Đây là hướng phải băng qua rất nhiều cánh đồng sình lầy, chỉ có quốc lộ 4 là con đường giao thông huyết mạch. Nhiệm vụ của hướng này là hình thành thế trận chia cắt quân địch trên tuyến quốc lộ 4, khiến cho địch ở Sài Gòn không thể co cụm xuống cố thủ ở miền Tây Nam Bộ, đồng thời ngăn chặn quân địch ở Quân đoàn 4, Quân khu 4 không thể kéo về ứng cứu cho Sài Gòn, tạo điều kiện cho các cánh quân nhanh chóng giải phóng Sài Gòn.
Ngày 26-4-1975, năm cánh quân ta đồng loạt tiến công vào sào huyệt của địch. Nhờ bố trí lực lượng hợp lý, xây dựng thế trận tiến công chặt chẽ, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ huy các đơn vị Đoàn 232 vượt qua mọi khó khăn, thực hiện thành công nhiệm vụ chia cắt hoàn toàn Sài Gòn với các tỉnh miền tây, khiến toàn bộ Quân đoàn 4 của quân đội Sài Gòn vốn đang còn nguyên vẹn đã không thể nào ứng cứu được Sài Gòn và địch ở Sài Gòn cũng không thể chạy về miền Tây Nam Bộ tiếp tục chiến đấu như dự định của chúng.
Từ ngày 29 đến 30-4-1975, cánh quân Tây - Tây Nam liên tục tiến công, lần lượt đánh chiếm các mục tiêu Bộ Tư lệnh Biệt khu thủ đô, Bộ Tư lệnh Cảnh sát quốc gia, Bộ Tư lệnh hải quân và một số mục tiêu khác, rồi hợp điểm tại Dinh Độc Lập đúng kế hoạch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần vào thắng lợi của trận quyết chiến, chiến lược.
Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, toàn quân thực hiện giảm biên chế, giải thể nhiều đơn vị. Đồng chí Lê Đức Anh và Bộ Tư lệnh Quân khu 9 đã có quyết định đúng đắn là không giải thể mà giữ nguyên ba sư đoàn (330, 8 và 4), trong đó hai sư đoàn 8 và 4 chuyển sang nhiệm vụ làm kinh tế và sẵn sàng chiến đấu. Vì thế, khi quân Pôn Pốt đánh sang toàn tuyến biên giới tây nam, Quân khu 9 không rơi vào tình trạng bỏ trống địa bàn, kịp thời ngăn chặn địch xâm nhập sâu vào nội địa, rồi chuyển sang tiến công, phản công, đập tan các cuộc tiến công xâm lược của địch.
Từ năm 1980, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ Trưởng ban phụ trách công tác Cam-pu-chia, rồi Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam. Suốt hơn bảy năm (1980-1986) thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Cam-pu-chia, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ huy Quân tình nguyện Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, hy sinh, cùng quân và dân Cam-pu-chia từng bước đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động nhằm khôi phục chế độ diệt chủng; giúp nhân dân bạn vượt qua nạn đói, bệnh dịch, từng bước khôi phục sản xuất, ổn định đời sống, hồi sinh đất nước; đồng thời, giúp Đảng Nhân dân Cam-pu-chia xây dựng lực lượng vũ trang, chính quyền cách mạng và các tổ chức đoàn thể đủ sức tự đảm đương nhiệm vụ quản lý, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Từ năm 1987 đến 1991, với cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự T.Ư, Bộ trưởng Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã nghiên cứu, tham mưu với Bộ Chính trị nhiều chủ trương, giải pháp đúng đắn về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ đất nước trong tình hình mới; chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân tinh, gọn, mạnh, góp phần đấu tranh, phòng chống, làm thất bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Trước những diễn biến phức tạp ở Biển Đông, đồng chí đã cùng tham gia và trực tiếp chỉ đạo lực lượng hải quân gấp rút tăng cường lực lượng, phương tiện, xây dựng hệ thống phòng thủ, kiên quyết chiến đấu bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Đại tướng Lê Đức Anh là người chỉ huy luôn nắm vững và vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật quân sự của Đảng vào thực tiễn chiến trường. Đồng chí là nhà quân sự tài năng, vị tướng có tầm nhìn chiến lược, tư duy phân tích thực tiễn nhạy bén, kịp thời đưa ra quyết định đúng đắn và chính xác ở những thời điểm quan trọng. Trong bất cứ tình huống và nhiệm vụ nào, đồng chí luôn kiên định, nêu cao quyết tâm chiến đấu, biết tìm cách khắc phục khó khăn, nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ Đảng, quân đội và nhân dân giao phó.
Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh nêu một tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức cách mạng, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; về tinh thần tiến công cách mạng, tư duy sáng tạo, quyết đoán của người chiến sĩ cộng sản trước mọi khó khăn, thử thách. Noi gương Đại tướng Lê Đức Anh, mỗi cán bộ, chiến sĩ ra sức học tập, rèn luyện, đem sức lực và trí tuệ cống hiến cho sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thiếu tướng, TS Nguyễn Hoàng Nhiên
Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
Trong cuốn sách “Đại tướng Lê Đức Anh” do Nhà xuất bản QĐND ấn hành năm 2005, tác giả Khuất Biên Hòa đã gặp gỡ nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và ghi lại những nhận xét, đánh giá về sự đóng góp to lớn cho cách mạng Việt Nam của đồng chí Lê Đức Anh. Báo Quân đội nhân dân lược trích một phần cuốn sách nói về sự đóng góp của Đại tướng Lê Đức Anh trong lĩnh vực ngoại giao thời kỳ đồng chí giữ cương vị Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
“… Tôi may mắn được gặp ông Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư, ông cho biết: “Khi anh Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước thì ta thật sự mở rộng cửa quan hệ với nước ngoài. Chính phủ là cơ quan tổ chức thực hiện nên anh Võ Văn Kiệt đi nhiều, anh Lê Đức Anh cũng phải đi, nhưng tính toán kỹ lắm, đi đâu, ký kết cái gì, làm sao có hiệu quả mà lại tiết kiệm nhất. Đồng thời ta cũng mời và đón tiếp nhiều nguyên thủ quốc gia và các đoàn khách quốc tế để họ ủng hộ Việt Nam về chính trị và kinh tế. Còn trong nước phải tính hai cái nữa- Đó là đổi mới về chính trị và đổi mới về quân sự. Về chính trị, ta thay đổi Hiến pháp 1992 để phù hợp với hoàn cảnh đổi mới. Về quân sự, chúng tôi đề nghị với Bộ Chính trị khó gì cũng phải quan tâm đến việc trang bị cho quân đội và công nghiệp quốc phòng.
Quan điểm đường lối, đối nội, đối ngoại trên các lĩnh vực đều vững vàng. Có thể nói thời kỳ này làm được nhiều việc lớn nhưng không có sai sót gì lớn lắm. Quan điểm giai cấp của Đảng và Nhà nước ở anh Lê Đức Anh rất vững vàng và rõ ràng. Anh nắm tình hình trong, ngoài nước và tình hình quân đội rất chắc nên xử lý rất đúng, chỉ đạo vừa sát sao vừa sắc sảo, quyết đoán...".
Bước tiếp theo là phái đoàn Thượng nghị sĩ Mỹ sang Việt Nam, nói với ta hợp tác về POW/MIA, tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh. Trong đó có một lần vào ngày 18-11-1992, khi tiếp đoàn do Thượng nghị sĩ John Kerry dẫn đầu, Chủ tịch Lê Đức Anh khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam coi việc tìm kiếm người Mỹ mất tích là vấn đề thuần túy nhân đạo, không hề gắn với chính trị; đã và sẽ tiếp tục hợp tác với Mỹ thực hiện thỏa thuận giữa hai Chính phủ để giải quyết xong sớm vấn đề này. Chủ tịch cho rằng việc sớm bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ là phù hợp với lợi ích của nhân dân hai nước, với hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Tại buổi tiếp, ông Kerry đã trao cho Chủ tịch bức thư của Tổng thống Bush (Bush bố) gửi cho Chủ tịch, đánh giá cao sự hợp tác của phía Việt Nam trong thời gian qua, bày tỏ mong muốn đẩy mạnh hợp tác trong thời gian tới và khẳng định cam kết của Chính phủ Mỹ thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.Về việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ, ông Lê Đức Anh cho biết: "… Tôi xin nói là tất cả những "việc lớn" của giai đoạn này, từ việc giảm quân số, giảm ngân sách quốc phòng, nâng cao đời sống quân đội, việc giải quyết về tiền và hàng để chống lạm phát, đến việc bình thường hóa với Mỹ và gia nhập ASEAN đều là sự chỉ đạo thống nhất của Bộ Chính trị, nên khi triển khai cũng thuận lợi. Bây giờ ta mở đầu việc xúc tiến bình thường hóa quan hệ với Mỹ bằng cách nào? Tôi cho rằng ta dùng ngành khoa học thì dễ thành công. Lúc này nếu ta chọn kinh tế làm mũi đột kích để quan hệ thì không được vì Mỹ là nước mạnh nhất, giàu nhất, còn ta thì đang quá nghèo; chọn chính trị thì càng khó, vậy chỉ có thể chọn con đường tiếp cận từ khoa học. Cân nhắc tính toán cuối cùng chọn anh Nguyễn Huy Phan, là giáo sư đầu ngành về y học phẫu thuật chỉnh hình làm "khâu đột phá". Anh Phan khi đi dự hội nghị quốc tế đã trình bày công trình "Phẫu thuật chỉnh hình" của mình được các nhà khoa học đánh giá rất cao, trong đó các nhà khoa học Mỹ có lời mời giáo sư Phan sang thăm Mỹ. Trước khi đi, tôi dặn anh Phan sang đó cứ làm về khoa học, đừng nói gì đến chính trị cả, vì anh làm tốt việc này là phục vụ nhân dân, phục vụ chính trị rồi, cứ đi mà làm. Sang đó, khi nghe được tin này, bà con Việt kiều, nhất là số trí thức họ cũng thấy vui và tự hào. Khi trao đổi, các nhà khoa học phẫu thuật Mỹ hỏi ta, ta mời họ sang làm phẫu thuật nhân đạo, trước hết là chữa cho trẻ em bị khuyết môi hở hàm ếch, họ đồng ý và cử đoàn bác sĩ "Phẫu thuật nụ cười" sang ta. Sau đó đưa anh Phan làm Chủ tịch Hội hữu nghị Việt-Mỹ để làm "cầu nối" liên lạc. Tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị lúc đó là trong tiếp xúc quan hệ, ta làm sao không để họ tự ái là nước lớn mà thua ta, mà ta vẫn giữ được tinh thần độc lập dân tộc của ta...".
Đến tháng 7 năm 1993, Tổng thống Mỹ Clinton mở đường cho các tổ chức tài chính quốc tế bao gồm IMF và World Bank cung cấp tín dụng cho Việt Nam.
Ngày 3 tháng 2 năm 1994, Tổng thống Clinton tuyên bố chấm dứt lệnh cấm vận thương mại kéo dài 19 năm đối với Việt Nam.
Ngày 8 tháng 5 năm 1995, nhận lời mời của Tổng thống Pháp F.Mitơrrand, Chủ tịch Lê Đức Anh sang Cộng hòa Pháp dự "Lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng phát xít". Tổng thống Pháp chiêu đãi các nguyên thủ quốc gia tại điện Elysée. Tại bữa cơm thân mật do Chủ tịch Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện Cộng hòa Pháp mời riêng Chủ tịch Lê Đức Anh, khi ông Chủ tịch Thượng viện hỏi chân tình là Việt Nam có cần gì không, thì Chủ tịch trả lời “Chúng tôi cần tình hữu nghị!”.
Ngày 12 tháng 7 năm 1995, Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao và mở Văn phòng liên lạc tại Wasington và Hà Nội.
Từ ngày 22 đến 24 tháng 10 năm 1995, Chủ tịch Lê Đức Anh trở thành Nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Việt Nam đặt chân tới đất Mỹ. Ông sang New York dự Lễ kỷ niệm 50 năm Liên hợp quốc. Trong bài phát biểu của mình, ông nói rõ "... Làm sao để trên thế giới xây dựng một tương lai không còn hận thù mà chỉ còn hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc và các quốc gia”. Ông bảo, tuy mình là nước thắng trận, nhưng sang đó mình chào hỏi, tiếp xúc với thái độ khiêm tốn và đàng hoàng thì người ta quý. Phong cách và bài phát biểu của ông thật sự đã gây được mối thiện cảm và tiếng vang rất tốt tại Đại hội đồng Liên hợp quốc. Khi ông thay mặt Nhà nước và nhân dân Việt Nam tặng Liên hợp quốc phiên bản Trống đồng Đông Sơn thì họ đã để ở vị trí trang trọng. Sau đó, Tổng thống Mỹ Clinton đã mời cơm thân mật các nguyên thủ quốc gia. Tại đại tiệc, nguyên thủ các nước đã đến chúc rượu Chủ tịch Lê Đức Anh với thái độ chân tình và trọng thị. Trong ông bỗng trào dâng niềm xúc động với một ý thức lớn lao là biết bao mồ hôi xương máu của đồng bào và chiến sĩ đã đổ ra suốt ba mươi năm chiến tranh giải phóng đất nước, vượt qua biết bao gian nan thử thách ở chặng đường đầu tiên của sự nghiệp đổi mới đất nước vừa qua, thì mới có được ngày hôm nay. Dân tộc Việt Nam từ bùn đen nô lệ, từ chỗ không có tên trên bản đồ thế giới, nay đã sánh ngang hàng với các quốc gia và dân tộc trên thế giới, trong sự nể phục của bạn bè khắp năm châu...
Những tháng năm này ông đã cùng Bộ Chính trị chỉ đạo sát sao các Bộ, ngành để mở rộng quan hệ với các nước. Sau khi Mỹ xóa cấm vận và lập lại quan hệ bình thường với Việt Nam thì hàng loạt các quốc gia cũng đến với Việt Nam để tìm hiểu và hợp tác, đầu tư kinh tế và khoa học công nghệ. Có thể nói đây là nhiệm kỳ công tác đối ngoại của ta rất sôi nổi và phong phú.
Trong nhiệm kỳ làm Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh đã thay mặt Nhà nước và nhân dân ta đi dự một số hội nghị quốc tế quan trọng, như: Lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng chủ nghĩa phát xít tổ chức tại thủ đô Paris của Cộng hòa Pháp; Hội nghị cấp cao các nước Không liên kết lần thứ 11 tổ chức tại Cô-lôm-bô; Lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Liên hợp quốc ở thành phố New York, Hoa Kỳ. Đây là những dịp tốt để gặp gỡ, trao đổi ý kiến trực tiếp với các nhà lãnh đạo của nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế nhằm tăng cường mối quan hệ song phương và đa phương của Đảng và Nhà nước ta. Chủ tịch Lê Đức Anh đã đi thăm hữu nghị chính thức và làm việc tại 13 nước trên thế giới; Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình đã đi thăm và làm việc tại 11 nước. Chủ tịch đã đón tiếp 26 nguyên thủ quốc gia thăm hữu nghị chính thức nước ta, nhiều đoàn khách quốc tế tới thăm Việt Nam; tiếp nhận 90 Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài tại Việt Nam và cử 57 Đại sứ của Việt Nam tại các nước có quan hệ ngoại giao với nước ta. Theo đề nghị của Chính phủ, Chủ tịch đã ký quyết định phê chuẩn 1 Hiến chương, 26 Công ước, 5 Hiệp ước, 35 Hiệp định, 3 Nghị định thư giữa Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế; đã trình Quốc hội phê chuẩn 1 Công ước theo quy định của Hiến pháp (Công ước quốc tế về Luật biển) và đã ủy quyền đàm phán và ký kết một số điều ước quốc tế khác.
Khi người viết được tiếp cận các tập hồ sơ lưu trữ về các cuộc viếng thăm ngoại giao của Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã cảm nhận rõ một điều là mỗi cuộc đi đã được tổ chức hết sức chặt chẽ; là Nguyên thủ quốc gia nhưng ông đã tính toán rất sát sao; tiết kiệm từng giờ, từng đồng và từng người là thành viên trong đoàn; ông chỉ đi khi thấy thật sự cần thiết, và hiệu quả của chuyến đi đã thể hiện khá rõ ngay trên văn bản của hồ sơ lưu trữ. Những ngày tháng đó, mọi người dân Việt Nam rất phấn khởi và chăm chú theo dõi trên màn ảnh nhỏ chương trình thời sự với vị Chủ tịch nước của mình vóc dáng cao to chững chạc và nhân hậu trong các nghi lễ chính thức tại Phủ Chủ tịch. Hiệu quả của các văn bản ký kết và sự nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong lao động và tổ chức xã hội đã đưa nền kinh tế nước ta thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng và bắt đầu khởi sắc. Việt Nam đã và đang là bạn của các nước, các dân tộc trên thế giới. Và Đảng ta hoàn toàn yên tâm và tự tin khi hạ bút đặt trong nghị quyết về đường lối của mình dòng chữ “Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phấn đấu cho mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Khi bàn về gia nhập ASEAN, cũng có đồng chí băn khoăn là vào ASEAN liệu xem có lợi hay có hại, ta có bị họ lôi kéo không? Ông Lê Đức Anh nói: "Độc lập tự chủ của ta không phải nói suông mà là kết quả của quá trình đấu tranh gian khổ và hy sinh mới có được. Ta có thế mạnh về chính trị, nay ta vào với thiện chí tốt, đàng hoàng, thái độ thẳng thắn chân tình thì mình nói nhất định họ nghe. Khi Việt Nam đã vào, chắc chắn vị thế của ASEAN sẽ được nâng lên. Trong quan hệ, các nước lớn sẽ phải đối xử với ASEAN một cách nghiêm túc hơn..”. Chủ trương này Bộ Chính trị đã đồng ý. Sau những chuyến thăm các nước ASEAN của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã thực hiện cuộc đi thăm chính thức In-đô-nê-xi-a. Cuộc đi thăm đã đạt kết quả tốt đẹp, bạn In-đô-nê-xi-a rất ủng hộ Việt Nam. Tại đây ông đã gặp gỡ ngài Thư ký của Hiệp hội ASEAN; khi trao đổi, ông này cũng có ý mời Việt Nam vào. Chủ tịch Lê Đức Anh đã tỏ lời cảm ơn ngài Thư ký và nói rằng, chúng tôi về bàn bạc và sẽ vào ASEAN...".
KHUẤT BIÊN HÒA
Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã để lại nhiều dấu ấn trong các thành tựu đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đầu đổi mới, với chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế... Những dấu ấn này được truyền thông và bạn bè quốc tế đề cập nhiều trong thời gian gần đây để bày tỏ sự kính trọng đối với nhà lãnh đạo của Việt Nam.
Hầu hết các hãng truyền thông quốc tế khi đưa tin về sự kiện nguyên Chủ tịch nước Việt Nam Lê Đức Anh từ trần, đều khẳng định vai trò quan trọng của ông trong thành tựu đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đầu đổi mới. Một trong số đó là việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Theo bài viết trên báo Straitstimes của Singapore, trong nhiệm kỳ của Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào năm 1995.Trong tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ, không thể không nhắc tới những tiến bộ trong hợp tác giữa hai bên về vấn đề tìm kiếm người Mỹ mất tích và hài cốt lính Mỹ trong chiến tranh (gọi tắt là POW/MIA). Khi đó, Mỹ coi đây là hai vấn đề tiên quyết để xóa bao vây cấm vận và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Trong cuộc tiếp phái đoàn do Thượng nghị sĩ Mỹ John Kerry dẫn đầu thăm Việt Nam tháng 11-1992, Chủ tịch nước Lê Đức Anh khẳng định Việt Nam đã và sẽ tiếp tục hợp tác với Mỹ thực hiện các thỏa thuận giữa hai chính phủ và mong hai bên tích cực hợp tác giải quyết sớm vấn đề này. Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã đồng ý đề nghị được đi thăm một số địa điểm ở Việt Nam của Thượng nghị sĩ Mỹ John Kerry và đích thân dẫn ông đi. Chuyến thăm của Thượng nghị sĩ John Kerry tới Việt Nam đã góp phần đập tan một số thông tin bịa đặt về vấn đề POW/MIA hòng phá hoại tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ, góp phần mở ra hợp tác giữa hai bên trong lĩnh vực này.
Tiếp theo đó là những tiến triển trong quan hệ hai nước, cụ thể vào năm 1994, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố không ngăn cản Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) cho Việt Nam vay tiền để đầu tư phát triển kinh tế. Tổng thống Bill Clinton cũng tuyên bố chấm dứt lệnh cấm vận thương mại kéo dài 19 năm đối với Việt Nam, cùng một loạt bước đi ngoại giao cải thiện quan hệ hai nước sau đó, đã góp phần thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ hai nước đi đến đích thành công.
Đề cập đến những dấu ấn trong lĩnh vực đối ngoại của Chủ tịch nước Lê Đức Anh, báo Straitstimes cũng cho biết, Chủ tịch nước Lê Đức Anh là nguyên thủ đầu tiên của Việt Nam đặt chân lên đất Mỹ sau chiến tranh, khi tham dự Lễ kỷ niệm lần thứ 50 thành lập Liên hợp quốc (LHQ) tại trụ sở của LHQ ở New York (Mỹ) vào năm 1995.
Được biết vào thời điểm đó, Chủ tịch nước Lê Đức Anh cũng chính là nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Việt Nam tham dự một hội nghị đa phương mang tính toàn cầu. Trong hồi ký của mình, Chủ tịch Lê Đức Anh đã bày tỏ vinh dự khi Đoàn Chủ tịch Việt Nam tham dự sự kiện đa phương toàn cầu với một vị thế quốc tế mới được nâng cao của một quốc gia độc lập. Việt Nam cũng đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN và vừa ký Hiệp định khung về hợp tác với Liên minh châu Âu (EU). Chủ tịch nước Lê Đức Anh còn có bài diễn văn đọc trước Đại hội đồng LHQ, góp phần thể hiện trước toàn thế giới chính sách nhất quán của Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước, các dân tộc và nỗ lực đóng góp vào các vấn đề chung của LHQ.
Nhân sự kiện này, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã thay mặt Nhà nước và nhân dân Việt Nam trao tặng LHQ phiên bản trống đồng Đông Sơn, biểu tượng của văn hóa Việt Nam được đặt ở vị trí trang trọng tại trụ sở LHQ. Trong những ghi chép của mình sau này, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã chia sẻ cảm xúc khi đó rằng: “Biết bao mồ hôi, xương máu của đồng bào và chiến sĩ đã đổ ra suốt những năm chiến tranh giải phóng đất nước, vượt qua biết bao gian nan, thử thách ở chặng đường đầu tiên của sự nghiệp đổi mới đất nước vừa qua mới có được ngày hôm nay. Dân tộc Việt Nam từ bùn đen nô lệ, từ chỗ không có tên trên bản đồ thế giới, nay đã sánh ngang hàng với các quốc gia và dân tộc trên thế giới”.
Bài viết trên báo Straitstimes còn nhấn mạnh trong nhiệm kỳ từ 1992 đến 1997, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã bảo vệ tính ưu việt tiếp nối của Đảng Cộng sản khi Việt Nam bắt tay vào cải cách thị trường sâu rộng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vượt trội.
MỸ HẠNH
Bác Lê Đức Anh kính mến! .
Kể từ ngày gặp nhau lần đầu tiên tại Bệnh viện Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh vào đầu năm 1978 cho tới sau này, cá nhân Bác cùng với quân đội và nhân dân Việt Nam đã giúp đỡ nhân dân Campuchia rất nhiều. Lực lượng vũ trang đoàn kết cứu nước Campuchia được thành lập với sự giúp đỡ trực tiếp của Bác, khi đó là Tư lệnh Quân khu 7, Quân đội nhân dân Việt Nam. Việc giải phóng nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot, việc ngăn chặn chế độ diệt chủng quay trở lại, công cuộc xây đựng đất nước Campuchia... đều có công đóng góp của Bác.
Trong quá trình làm nhiệm vụ tại Campuchia, thay mặt Đảng, Chính phủ và Quân tình nguyện Việt Nam, Bác đã thực hiện trọn vẹn chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền của Campuchia, tôn trọng sự lựa chọn của nhân dân Campuchia về hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội của Campuchia.
Trong quá trình thực hiện chức năng là Chủ tịch nước Việt Nam, Bác là một trong những người đã cùng với Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân Việt Nam thúc đẩy quan hệ trên mọi lĩnh vực giữa hai nước Campuchia - Việt Nam phát triển nhanh chóng.
Kể từ khi gặp nhau đến lúc chia tay, Bác luôn quan tâm tới tôi, phu nhân và các con tôi, không khác gì cha với con, ông với cháu. Tôi còn nhớ rằng, trong lúc tôi gặp nhiều khó khăn nhất trong việc xây dựng quân đội đầu tiên, Bác đã giúp đỡ bằng mọi cách để quân đội Campuchia trưởng thành nhanh chóng. Bác không hút thuốc, nhưng Bác không quên gửi thuốc lá cho tôi, vì Bác biết tôi là ngựời hút thuốc rất nhiều. Bác còn luôn căn dặn tôi phải giữ gìn sức khỏe.
Với tư cách là một nhà chính trị và là Tư lệnh Quân đội, tôi luôn coi Bác là nhà chiến lược thiên tài về quân sự và chính trị mà tôi chưa từng gặp người nào như vậy ở các nước khác.
Xin vĩnh biệt và tiễn đưa Bác về nơi yên nghỉ cuối cùng với lòng tiếc thương vô hạn.
Samdech Techo Hun Sen Thủ tướng Vương quốc Campuchia
Anh Lê Đức Anh là thủ trưởng của tôi, chúng tôi gắn bó với nhau suốt thời kháng chiến đầy gian khổ cho đến tận những năm tháng sau này. Bởi vậy chúng tôi có quá nhiều kỷ niệm. Sự ra đi của anh là một tổn thất lớn của đất nước và Quân đội ta. Trong niềm xúc động, tiếc thương anh vô hạn, tôi nhớ lại một vài dấu ấn trong những kỷ niệm nhiều không thể kể hết về anh…
Vị tướng sâu sát, quyết đoán, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm
Cuối năm 1969, khi chiến trường Quân khu 9 bước vào giai đoạn ác liệt nhất, quân ta rơi vào thế khó khăn, anh Lê Đức Anh được cấp trên giao nhiệm vụ làm Tư lệnh Quân khu 9, biệt danh “Chín Hòa”, còn anh Võ Văn Kiệt với biệt danh “Tám Thuận” giữ cương vị Bí thư khu ủy. Ngẫu nhiên hai bí danh này ghép lại với nhau thành từ “thuận hòa”. Cặp đôi này luôn ăn ý trong tác chiến.
Tôi rất ấn tượng với anh Lê Đức Anh. Anh thường xuyên vào vùng địch để nắm tình hình, sát thực tế, sát cơ sở. Vì vậy, anh Lê Đức Anh đã chỉ cho chúng tôi biết cách đánh địch như thế nào, vận dụng cách đánh nào cho phù hợp trong tình hình ta bị thiếu quân, vũ khí đơn sơ, lương thực thiếu. Anh chỉ đạo chúng tôi phải luôn cơ động, không được ở một chỗ, phải luôn bám vào dân, dựa vào dân. Lúc nào chúng tôi khó khăn nhất thì anh lại có mặt dù anh ở xa hay ở gần. Anh Lê Đức Anh luôn bám sát chiến trường, chỉ đạo sát thực tế, nhờ đó đã góp phần thay đổi được cục diện chiến trường, vận động được nhân dân, gây dựng được tinh thần và khí thế cho bộ đội.
Cái đáng nhớ nữa về anh Lê Đức Anh là một người quyết đoán, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, không tranh công, đổ lỗi. Sau Hiệp định Paris, nhiều chiến trường thực hiện lệnh ngừng bắn. Tuy nhiên, khi chúng ta nghiêm túc thực hiện thì phía địch lại tranh thủ đánh chiếm lại các mục tiêu đã bị mất. Riêng ở Quân khu 9, nhờ có quyết định của anh Lê Đức Anh mà căn cứ được giữ vững, thậm chí là được mở rộng.
Tầm nhìn chiến lược, luôn đi trước một bước
Anh Lê Đức Anh có một tầm nhìn rất sâu, một tầm nhìn chiến lược, bao giờ cũng đi trước một bước nên thường không bị động trong các tình huống.
Sau giải phóng miền Nam, anh Lê Đức Anh tiếp tục về làm Tư lệnh Quân khu 9. Trong khi nhiều quân khu cho bộ đội về phục viên thì anh Lê Đức Anh lại đề nghị thành lập Sư đoàn 330 để phòng khi “có biến”. Sư đoàn 330 được biên chế 3 trung đoàn mạnh nhất, gồm Trung đoàn 1 của Quân khu 8, Trung đoàn 3 và Trung đoàn 1 U Minh của Quân khu 9. Tôi lúc đó là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 U Minh.
Chúng ta không thể ngờ rằng từ năm 1975 đến 1977, quân Pol Pot nhiều lần tấn công vào biên giới Việt Nam, từ quy mô nhỏ lẻ đến cấp sư đoàn. Trong khi một số khu vực khác của Việt Nam bị quân Pol Pot tấn công gây tổn thất lớn, Bộ Quốc phòng phải điều Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) về trấn thủ Tây Ninh để đánh chặn thì riêng trên địa bàn Quân khu 9, lực lượng tinh nhuệ Sư đoàn 330 đã đánh chặn được địch và giữ được đất đai. Việc giữ lại quân chủ lực tinh nhuệ thành lập Sư đoàn 330 thể hiện tầm nhìn chiến lược của anh. Sau thời điểm này, anh Lê Đức Anh được điều động về làm Tư lệnh Quân khu 7 và làm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu ở Campuchia. Lúc ấy, ai cũng biết đội quân Pol Pot có lực lượng rất mạnh, lại được sự hậu thuẫn của một số nước lớn. Nhiều người can anh Lê Đức Anh rằng nếu cho bộ đội tấn công sẽ tạo ra trận chiến rất ác liệt nhưng anh vẫn kiên quyết đánh quân Pol Pot đến tận sào huyệt cuối cùng.
Không chỉ là vị tướng giỏi chỉ huy tiến công, anh cũng là người rất sâu sắc trong chỉ đạo công tác Đảng, công tác chính trị, công tác đối ngoại quốc phòng. Khi cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc nổ ra, anh Lê Đức Anh là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã lên tận nơi nắm tình hình. Sau khi thị sát, tìm hiểu thông tin, anh đề nghị in một số truyền đơn nói về tình hữu nghị giữa Việt Nam-Trung Quốc, giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc và sự giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc đối với Việt Nam trong các cuộc kháng chiến trước đây. Nhân dân Việt Nam rất cảm ơn về điều đó. Khi quân Trung Quốc bắn đạn pháo sang thì thay vì bắn đạn trở lại, ta đã bắn lại bằng những tờ truyền đơn đó. Sau một tuần, đạn pháo phía Trung Quốc bắn sang ta giảm hẳn, anh Lê Đức Anh cho quân ta rút dần. Lúc đó, cũng có một số ý kiến của cán bộ tham mưu không đồng tình, sợ khi ta rút quân, quân địch sẽ tràn sang đuổi theo. Thế nhưng việc rút quân đã thắng lợi. Đó cũng là một quyết định táo bạo và khó khăn của anh Lê Đức Anh.
Một tầm nhìn xa, một quyết định táo bạo nữa của Đại tướng Lê Đức Anh là khi anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, anh đã đề xuất cắt giảm quân số để tập trung nguồn lực cho phát triển đất nước, hiện đại hóa quân đội. Ở thời điểm này, gần một vạn quân số sĩ quan đã được cắt giảm. Trên cơ sở đó, lực lượng và tổ chức phòng thủ trên các hướng, các địa bàn chiến lược quan trọng, vùng biển đảo và biên giới đất liền, các trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế đã được bố trí lại, bảo đảm khả năng phòng thủ của từng địa phương và cả nước vững chắc trong mọi tình huống. Khi cắt giảm quân số, anh Lê Đức Anh đã đề xuất các chế độ, chính sách cho anh em rất phù hợp, cấp đất làm nhà, cho đi học ngoại ngữ để đi xuất khẩu lao động. Anh bảo: Anh em chiến đấu gian khổ rồi, bây giờ họ về phải lo cho họ ổn định.
Lúc anh Lê Đức Anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thì tôi đang là Tư lệnh Quân khu 3. Ở thời điểm năm 1991, đất nước ta đang trong những năm đầu của công cuộc đổi mới, khó khăn chồng chất. Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, anh Lê Đức Anh đã chỉ đạo, yêu cầu tư lệnh các quân khu, quân đoàn phải nắm chắc quân đội, sâu sát đơn vị, giữ ổn định chính trị để phòng trường hợp Liên Xô sụp đổ, sẽ không gây tác động đến ta. Đúng như anh dự liệu, sau đó, dù có nhiều biến động lớn nhưng Việt Nam vẫn giữ được sự ổn định. Điều đó chứng tỏ anh Lê Đức Anh đã trù liệu và có tầm nhìn rất sâu.
Giữ vững, đề cao nguyên tắc lãnh đạo của Đảng
Trong mọi hoạt động, anh Lê Đức Anh luôn biết lắng nghe. Ngay bản thân tôi cũng đã đôi lần tranh luận và một số ý kiến được anh chấp thuận, nhưng anh luôn giữ nguyên tắc tính Đảng trong các quyết sách của mình. Tôi nhớ vào năm 1972, khi ấy đang chuẩn bị vào chiến dịch, B-52 của địch đánh phá mạnh, quân ta hy sinh lớn, thậm chí có đơn vị tổn thất rất cao. Anh Lê Đức Anh lúc đó vẫn quyết thực hiện chiến dịch. Nhưng chúng tôi nói không đánh được, vì lực lượng không củng cố được. Sau hồi tranh luận, anh đưa ra bàn bạc và cuối cùng anh quyết cho lùi lại mấy ngày.
Anh Lê Đức Anh cho rằng, Đảng giữ được nguyên tắc thì mới tạo được sức mạnh. Nếu không giữ nguyên tắc Đảng thì Đảng sẽ tan rã. Sai phạm trong Đảng phải được đấu tranh đến cùng. Còn nhớ, có một thời kỳ chúng ta cũng học Liên Xô xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương, của các đảng ủy quân khu, quân đoàn, thành lập Hội đồng quân sự, Hội đồng chính trị tại các đơn vị. Lúc đó, anh Lê Đức Anh là Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia không đồng tình với Nghị quyết số 07. Anh nói: Ở chiến trường đánh nhau cần có Đảng lãnh đạo, nếu không thì không thể đánh nhau được. Mình cần sáng tạo, không nên rập khuôn, máy móc. Sau này khi tổng kết rút kinh nghiệm, Đảng ta cũng nhận rõ vai trò của Đảng trong lãnh đạo quân đội. Nhờ tư tưởng đó, Nghị quyết 27 rồi sau này là Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị ra đời là các bước tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng trong quân đội, để không ngừng giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng đối với quân đội, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị.
Khi anh Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước, anh đã có nhiều đóng góp lớn cho đất nước, là một kiến trúc sư quan trọng tham gia vào tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ, Việt Nam-Trung Quốc. Trong các quyết sách về đối nội và đối ngoại, anh luôn đặt lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia, chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc lên hàng đầu, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân. Chính anh là một trong những người đi đầu khởi xướng, đề xuất với Đảng và Nhà nước phong danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng tặng những người phụ nữ đã hy sinh chồng, con cho đất nước. Anh bảo, những người lính chúng ta hy sinh gian khổ chưa là gì so với nỗi đau của những bà mẹ mất con, có mẹ mất ba, bốn, năm, sáu đứa con. Suy nghĩ đó không chỉ thể hiện tầm nhìn của một nhà lãnh đạo mà còn thể hiện anh là một người có tấm lòng nhân hậu, luôn biết trân trọng sự hy sinh cao quý của đồng chí, đồng đội, của đồng bào, chiến sĩ đã cống hiến, hy sinh vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc.
Anh dặn chúng tôi, làm cán bộ phải luôn chú trọng các mối quan hệ, phải gần gũi, gắn bó với nhân dân, với chiến sĩ, phải luôn chăm lo cải thiện đời sống cho bộ đội, quan tâm xem anh em chiến sĩ ăn uống, ngủ nghỉ như thế nào, phải xây dựng tốt mối quan hệ với nhân dân, xây dựng thế trận lòng dân, quan hệ cán-binh. Chính anh Lê Đức Anh đã yêu cầu cán bộ từ cấp tiểu đoàn trở xuống phải ăn chung với bộ đội, tạo mối quan hệ gắn bó giữa cán bộ và chiến sĩ. Nhưng đặc biệt trong huấn luyện thì phải huấn luyện thực sự, sát với thực tế chiến đấu. Nếu trong huấn luyện mà cứ nới lỏng cho anh em thì xương máu sẽ đổ nhiều hơn. Quân đội muốn mạnh phải có kỷ luật và đoàn kết.
Sau này khi đã nghỉ hưu, anh Lê Đức Anh vẫn luôn quan tâm đến quân đội. Anh luôn nhắc nhở, dặn dò tôi mỗi khi tôi đến thăm, nói chuyện, là dù làm gì cũng phải giữ được truyền thống, phẩm chất quý giá của người quân nhân, đặc biệt khi đi nước ngoài thì hình ảnh, tác phong Bộ đội Cụ Hồ luôn phải giữ gìn, để bạn bè hiểu được mình. Người Việt Nam có tấm lòng nhân hậu, rộng mở, luôn đề cao tình nghĩa. Tôi nhớ lần đầu tôi sang thăm Mỹ, anh Lê Đức Anh đã dặn tôi hết sức chú ý vấn đề này. Anh dặn tôi nếu họ đặt vấn đề về tù binh Mỹ trong chiến tranh thì quan điểm của Việt Nam là luôn coi trọng vấn đề nhân đạo lên hàng đầu. Việt Nam không lấy vấn đề tù binh làm chính trị. Anh dặn trong quan hệ ngoại giao phải kiên định mục tiêu độc lập, chủ quyền, vì mất độc lập, chủ quyền là mất hết. Đối ngoại quốc phòng chính là phòng thủ từ xa. Đối ngoại dựa trên tinh thần hòa hảo, hữu nghị, tôn trọng, hợp tác cùng phát triển nhưng đặc biệt là phải giữ vững được độc lập, chủ quyền. Đó chính là cơ sở để xây dựng mọi giá trị khác.
Trong đời sống với anh em đồng chí, anh là người tình cảm, giản dị, không tư lợi. Đối với con cái, anh luôn tôn trọng các lựa chọn và quyết định của con. Dù giữ nhiều cương vị quan trọng nhưng anh luôn quan niệm khả năng của các con đến đâu sẽ phát triển đến đó. Địa phương, đơn vị phân công về đâu thì làm việc ở đó chứ không can thiệp, không tham gia bảo các con phải làm gì.
Với tôi, anh luôn là người anh, người thủ trưởng gần gũi, tình cảm, giản dị nhưng cũng vô cùng nghiêm khắc. Tôi không thể kể hết những kỷ niệm về anh.
Đại tướng PHẠM VĂN TRÀ
Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Tháng 10-1995, nhân kỷ niệm 35 năm thành lập (12-10-1960 / 12-10-1995), Viện Kỹ thuật quân sự (KTQS) tổ chức hội nghị khoa học và lễ kỷ niệm. Thật vinh dự đối với lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ nghiên cứu của viện được đón Chủ tịch nước Lê Đức Anh đến dự và nói chuyện với hội nghị.
Chủ tịch nước đã khái quát trách nhiệm của Viện KTQS đối với sự nghiệp xây dựng quân đội từng bước hiện đại; căn dặn những công việc thiết thực cần nghiên cứu phục vụ trước mắt nhu cầu của quân đội và đất nước. Là người được Ban giám đốc viện phân công giới thiệu với Chủ tịch nước tham quan các kết quả nghiên cứu của Viện KTQS, tôi thật ấn tượng với cách quan sát, quan tâm về các hiện vật và nhận xét của Chủ tịch nước Lê Đức Anh.
Thật khó quên thời điểm tôi giới thiệu với Chủ tịch nước về sản phẩm thiết bị lọc nước biển. Đây là sản phẩm nghiên cứu của nhóm cán bộ Viện Kỹ thuật vũ khí (Viện Tên lửa ngày nay), nhằm phục vụ kịp thời nhu cầu cấp bách về nước cho bộ đội Trường Sa. Hôm đưa ra trưng bày, sản phẩm mới vào giai đoạn thử nghiệm, chưa trải qua phân tích lý hóa cuối cùng và nước thành phẩm, dù trước đó anh em trong đề tài đã thử uống nhiều lần. Sau khi nghe trình bày, Chủ tịch nước Lê Đức Anh hỏi “Có uống ngay được chưa?”. Đồng chí Nguyễn Văn Đệ, Anh hùng LLVT nhân dân, chuyên viên của viện trả lời: “Dạ được ạ!”. Chủ tịch nước Lê Đức Anh đề nghị: “Vậy ta cùng thử nhé!”. Ba cốc nước từ vòi lọc thiết bị được Chủ tịch nước Lê Đức Anh cùng anh hùng Nguyễn Văn Đệ và tôi uống tại chỗ trong tình cảm chân thành, gần gũi. Sau này nghĩ lại, tôi thấy khi ấy không nên để Chủ tịch nước uống nước tại chỗ như vậy, song lại nghĩ “Chủ tịch nước cũng đã từng là lính chiến dài lâu mà”. Một năm sau đó, cùng một số kết quả nhiệm vụ khác như truyền hình từ xa, điện thoại… máy lọc nước biển đã được đem ra Trường Sa phục vụ thử nghiệm. Mùa hè năm 1996, đoàn cán bộ của viện gồm có tôi-Phó viện trưởng, cùng lãnh đạo, chỉ huy một số cơ quan, đơn vị của viện trực tiếp ra Trường Sa mang theo các sản phẩm của viện. Chuyến công tác đó mang lại nhiều ý nghĩa cho tư duy nghiên cứu khoa học và công nghệ quân sự.
Đại tướng Lê Đức Anh với lãnh đạo, chỉ huy và các nhà khoa học Viện Kỹ thuật quân sự. Ảnh do tác giả cung cấp.
Đại tướng Lê Đức Anh trên các cương vị công tác, tuy công việc rất bận, song rất quan tâm đến công tác nghiên cứu khoa học KTQS và Viện KTQS. Khi làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng đã quan tâm chỉ đạo tăng cường công tác nghiên cứu khoa học-kỹ thuật (KHKT) quân sự. Năm 1987, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ra Quyết định 388, điều chuyển nguyên trạng Viện KTQS từ Tổng cục Kỹ thuật về trực thuộc Bộ Quốc phòng. Sự quan tâm của Nhà nước và thủ trưởng Bộ Quốc phòng đã tạo điều kiện để viện giữ vững và phát triển trở thành cơ sở nghiên cứu khoa học hàng đầu của quân đội và đất nước.
Sau này, trên cương vị công tác của mình, tôi đã không ít lần được xin ý kiến trực tiếp Đại tướng Lê Đức Anh, thậm chí còn được đàm đạo những nội dung có giá trị đối với đổi mới tư duy của viện trong việc nghiên cứu và chỉ đạo, điều hành lĩnh vực nghiên cứu khoa học và KTQS. Còn nhớ có một lần xin ý kiến Đại tướng tại nhà công vụ số 5 Hoàng Diệu, Đại tướng nhắc lại: “Năm 1988, khi tôi xuống thăm viện thấy các đồng chí đông người mà việc lại không nhiều, tôi đã góp ý cùng các đồng chí...”. Bằng sự quan tâm và trách nhiệm của mình, Đại tướng Lê Đức Anh đã cho ý kiến chỉ đạo các cơ quan chức năng tạo điều kiện để Viện KTQS nghiên cứu phát triển và ứng dụng các kết quả nghiên cứu KHKT quân sự. Nhờ đó, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập 3 Liên hiệp Khoa học sản xuất 1, 2, 3 thuộc Bộ Quốc phòng để tạo điều kiện huy động lực lượng cán bộ khoa học KTQS tham gia vào phát triển KHKT quốc gia. Ngày 10-9-1999, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập Trung tâm KHKT và Công nghệ quân sự trực thuộc Bộ Quốc phòng, trên cơ sở sắp xếp và tổ chức lại Viện KTQS và các viện kỹ thuật, trung tâm nghiên cứu khác thuộc các đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng. Đến năm 2008, Trung tâm KHKT và Công nghệ quân sự đổi tên thành Viện Khoa học và Công nghệ quân sự trực thuộc Bộ Quốc phòng. Các Liên hiệp Khoa học sản xuất 1, 2, 3 đều đã đổi tên hoặc sáp nhập nhiệm vụ vào các viện nghiên cứu của Trung tâm KHKT và Công nghệ quân sự.
Gần 1/4 thế kỷ kể từ những ngày đầu được tiếp cận và nghe chỉ đạo, đặt nhiệm vụ, động viên trong lĩnh vực khoa học-công nghệ quân sự của Đại tướng Lê Đức Anh, đã để lại cho bản thân tôi không chỉ ấn tượng về phong cách, mà còn trong cả phép tư duy toàn diện, sâu rộng của đồng chí.
Nhớ năm 2000, tôi thay mặt Ban giám đốc Trung tâm KHKT và Công nghệ quân sự (nay là Viện Khoa học và Công nghệ quân sự) chúc thọ Đại tướng Lê Đức Anh bằng lẵng hoa 80 bông hồng đỏ với lời chúc Đại tướng "bách niên hoa đỏ”! Bây giờ, Đại tướng đã về với cõi vĩnh hằng. Kính chúc Đại tướng thanh thản ngàn thu.
Thiếu tướng, Tiến sĩ ĐÀO TUẤN
Vào những năm 1969 - 1971 (sau năm Mậu Thân 1968), Chính quyền Sài Gòn tuyên bố đã kiểm soát hơn 90% lãnh thổ (miền nam Việt Nam). Khi đó ở miền Tây Nam Bộ, vùng giải phóng rộng lớn nhất của chúng ta tập trung phần lớn ở một số ấp và xã ven rừng U Minh Hạ và U Minh Thượng (còn cơ sở cách mạng của ta trong vùng kiểm soát của địch thì thôn, ấp nào cũng có).
Trong bối cảnh đó, phán đoán cơ quan đầu não của Việt cộng ở khu 9 tại vùng U Minh Thượng, nên tháng 8 năm 1971, địch tổ chức một cuộc càn lớn mang tên “Nhổ cỏ U Minh”. Chúng huy động hai trung đoàn có máy bay và pháo binh yểm trợ, chia làm hai mũi đánh vào U Minh Thượng. Mũi thứ nhất xuất phát từ Vị Thanh, dọc theo kênh Xáng Chắc Băng đi vào Vĩnh Thuận, rồi từ đó đánh vào phía Nam Đông Nam rừng U Minh Thượng. Mũi thứ hai, xuất phát từ Rạch Sỏi đi theo kênh Xáng Xẻo Rô rồi vào sông Trẹm - con sông chia cắt giữa U Minh Hạ và U Minh Thượng. Cả hai mũi trên hình thành thế gọng kìm với tham vọng “nghiền nát cơ quan đầu não của Việt cộng” ở khu 9.
Quyết tâm đập tan ý đồ thâm độc của địch, bảo vệ và mở rộng vùng giải phóng, sau khi cân nhắc kỹ tình hình và tương quan lực lượng, Quân khu giao cho Trung đoàn 2 và Trung đoàn 20 có nhiệm vụ tăng cường hỏa lực của quân khu, chặn đánh cánh quân của địch từ Rạch Sỏi theo kênh Xáng Xẻo Rô đi vào.
Ngày thứ hai của cuộc hành quân càn quét, cánh quân thứ hai của địch đã vào đến thứ 11 - thuộc xã Đông Hưng (huyện An Biên). Nơi chúng co cụm lại gần chi khu Hiếu Nghĩa.
Rạng sáng ngày 25 tháng 8, các đơn vị của ta đã đồng loạt nổ súng. Cả một vùng thứ 11 rực sáng bởi pháo sáng từ mặt đất bắn lên và những ánh chớp của đạn nổ.
Bị đánh bất ngờ, quân địch chống trả rất yếu ớt. Sau 40 phút nổ súng, quân ta hoàn toàn làm chủ trận địa. Các mũi báo về Sở chỉ huy Trung đoàn là đã bắn cháy chín tàu, bắt 12 tù binh, thu nhiều quân trang, quân dụng của địch, xóa sổ một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ của chúng.
Hồi đó tôi là phóng viên của Báo Quân giải phóng Tây Nam Bộ, được tòa soạn cử xuống Trung đoàn 2 để viết bài. Trận đánh này, tôi ở sở chỉ huy trung đoàn, nên nắm rất kỹ diễn biến chiến sự. Và ngay trong đêm, tôi đã viết xong một bản tin chi tiết (gần như một bài tường thuật) về trận tập kích này. Trời gần sáng, tôi báo cáo với các đồng chí trong Ban chỉ huy về tòa soạn để kịp chuyển bài viết cho Đài phát thanh giải phóng.
Rời trận địa chừng 500 m, đang leo lên một bờ liếp cây cỏ rậm rạp thì tôi bị một chiến sĩ áp sát và bắt tôi theo anh ta đến một cái lán - nơi có một người đàn ông trên dưới 50 tuổi, dáng to cao, đang chăm chú vào chiếc bản đồ trải trên nền đất. Cạnh ông là một chiến sĩ thông tin đang làm việc với chiếc máy bộ đàm PRC 25 trước mặt.
Ông nhìn tôi từ đầu đến chân rồi hỏi:
- Cậu ở đơn vị nào? Từ trận địa về đây à?
- Dạ thưa, cháu ở Báo quân khu, đang trên đường về tòa soạn để đưa tin về chiến thắng này cho Đài phát thanh giải phóng.
Cậu định viết thế nào? Ông hỏi tôi.
- Dạ thưa, cháu đã viết xong bản tin rồi. Đây, mời bác xem.
Nói rồi, tôi lấy từ trong túi mìn rơ-mo bản thảo đưa cho ông và nói:
- Cháu viết vội nên hơi khó đọc ạ!
- Thôi, cậu đọc cho tôi nghe.
Ông chăm chú nghe tôi đọc, đôi lúc ông bảo dừng lại để ông góp ý sửa một vài từ nào đó. Rồi ông bảo tôi:
- Bài viết tốt lắm, nhưng để lại đây cho tôi xem lại. Cậu về nghỉ ngơi đi. Nếu Hai Hên có hỏi thì cậu nói là bài báo ông Sáu đang cầm nghe!
Vào thời điểm đó, đồng chí Hai Hên là Chủ nhiệm Chính trị quân khu. Vậy mà ông này lại bảo là: “về nói với Hai Hên”, có nghĩa là ông có chức vị cao hơn thủ trưởng của tôi.
Về tới tòa soạn, anh em xúm lại hỏi thăm tình hình về trận đánh, về thương vong... Đang vui câu chuyện thì anh Ba Thu - Phó phòng Tuyên huấn bảo tôi:
- Đức nghỉ ngơi đi, chiều viết bài sớm đưa cho tôi, để tôi đưa cho bộ phận minh ngữ chuyển về đài trung ương. Đây là chiến thắng mang ý nghĩa rất lớn, phải nhanh chóng đưa tin, góp phần kịp thời cổ vũ, động viên quân và dân cả nước thi đua giết giặc lập công.
Tôi nói lại với anh Ba Thu câu chuyện về bài báo mà ông Sáu đang cầm.
Anh Ba Thu gắt lên với tôi:
- Tôi không biết ông Sáu nào hết. Nội nhật ngày nay, anh phải có bài cho tôi. Nếu không tôi sẽ kỷ luật anh. Tòa soạn cử anh xuống đơn vị trong trận đánh này là để viết bài, chứ không phải đi xem bộ đội chiến đấu!
Không chịu nổi cách nói của anh Ba Thu, tôi lại bến, chống chiếc xuồng be bảy lại, mời anh ta xuống xuồng rồi đưa đến chỗ ông Sáu.
Xuồng ghé bến, anh Ba bước lên đưa hai tay kính cẩn bắt tay ông Sáu:
- Dạ, báo cáo anh Sáu, có phải cậu phóng viên...
Anh Ba chưa nói dứt lời, ông Sáu xua tay bảo:
- Biết rồi, các cậu đến đây vì bài báo chứ gì. Ngồi xuống uống nước đã.
Ông Sáu bình thản nói với chúng tôi.
Sau đó ông vào chuyện ngay:
- Trận đánh của E2 và E20 đêm qua là rất gọn. Ta thắng lớn. Lần đầu tiên kể từ Mậu Thân năm 1968 đến giờ, ở Quân khu 9, ta đánh địch với quy mô cấp trung đoàn. Thắng giòn giã! Địch bị thua đau, chắc chắn sẽ có phản kích rất mạnh. Cơ quan tham mưu của chúng sẽ tìm mọi cách tìm kiếm xem cơ quan đầu não của Việt cộng tại đồng bằng sông Cửu Long ở đâu. Về phía ta, vừa đánh trận xong, cơ quan tuyên truyền của ta đã đưa tin ngay. Kẻ địch sẽ phán đoán cơ quan tuyên truyền của Việt cộng ở rất gần mặt trận. Và như thế, Bộ tư lệnh của Việt cộng cũng sẽ ở gần trận địa. Vậy nó đổ xuống đây một trung đoàn càn quét vùng này thì chúng ta đi đâu, khi mà vùng giải phóng chỉ còn vài ấp ven rừng U Minh như thế này?
- Vì vậy, báo chí các cậu phải hy sinh cho quân sự làm việc. Các cậu cứ yên tâm, 3 ngày nữa báo chí trung ương sẽ phát tin này.
Anh Ba Thu hết nhìn ông Sáu, lại nhìn tôi, có vẻ như ân hận về cách ứng xử với tôi trước đó.
Riêng tôi, tôi vô cùng ấn tượng và khâm phục về tầm nhìn chiến lược của ông Sáu.
Sau đợt đó, tôi mới biết đó là vị Tư lệnh Quân khu 9 - Lê Đức Anh.
Sau ngày miền nam hoàn toàn giải phóng cho đến những năm sau này, khi ông là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, rồi là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tôi vinh dự được gặp và phỏng vấn ông đôi lần. Và lần nào cũng vậy, ông hỏi thăm tôi cũng như cuộc sống của gia đình tôi. Ông luôn nhắc nhở phải tu dưỡng và rèn luyện giữ vững phẩm chất của người đảng viên, người lính Cụ Hồ.
Tôi viết lại kỷ niệm này, như là một nén tâm nhang kính viếng một con người cả cuộc đời đã hy sinh cho đất nước và dân tộc.
Bút ký của Bùi Anh Đức
“Anh Sáu Nam” là cách gọi thân mật, gần gũi của cán bộ Khu 9 (Quân khu 9 hiện nay) dành cho Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước, nguyên Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, từ khi đồng chí còn giữ cương vị Tư lệnh Quân khu 9 (giai đoạn 1969-1973 và 1976-1978).
Câu chuyện dưới đây được chúng tôi lược ghi theo lời kể của Thiếu tướng Lê Xã Hội, nguyên Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu 9.
Tầm nhìn chiến lược và sáng tạo
Mở đầu câu chuyện với chúng tôi, Thiếu tướng Lê Xã Hội chia sẻ: Về tầm nhìn chiến lược và sáng tạo của anh Sáu Nam trong chỉ huy chiến trường ở Quân khu 9, nhiều người đã nói, đã viết rồi, tôi không nhắc lại. Với tư cách là người lính, người em, được rèn luyện trưởng thành từ cán bộ tiểu đoàn cho đến cấp quân khu, dưới sự chỉ huy của anh Sáu, tôi chỉ nêu lên vài suy nghĩ nhỏ…
Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, tình hình Khu 9 rất khó khăn. Địch tập trung điên cuồng đánh phá, lực lượng ta chịu nhiều tổn thất, nhiều vùng nông thôn bị mất… Trong bối cảnh đó, anh Sáu Nam được Trung ương Cục miền Nam và Bộ tư lệnh miền điều về làm Tư lệnh quân khu; anh Sáu Dân (tức đồng chí Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ tướng Chính phủ) làm Bí thư Khu ủy.
Nhanh chóng nắm chắc địa bàn, nhận định rõ tình hình địch-ta, anh Sáu Nam đưa ra một quyết định táo bạo, đột phá: Để giành lại thế chủ động chiến trường, nhất định ta phải có cho được nhiều lực lượng tập trung! Anh đề xuất với cấp trên và được chấp thuận, nhờ đó Khu 9 đã củng cố, xây dựng và được tăng cường nhiều đơn vị chủ lực cấp trung đoàn; trong đó nổi bật có các đơn vị: Trung đoàn 1 (U Minh), Trung đoàn 3 (Cửu Long), Trung đoàn 20 (Hương Giang), Trung đoàn 10, Trung đoàn 2 (Lộc Ninh)… Lúc bấy giờ, trong nội bộ Khu ủy và Bộ tư lệnh Khu 9 cũng có một số ý kiến không tán thành với lập luận Đồng bằng sông Cửu Long không phù hợp cho việc xây dựng lực lượng tập trung cấp trung đoàn. Thực tế diễn ra sau đó cho thấy, quyết định của anh Sáu Nam hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt. Ta đã từng bước giành được thế chủ động, giữ được đất, mở rộng vùng giải phóng.
Cũng với tầm nhìn chiến lược, anh Sáu Nam đã sớm nhận ra ý đồ “dục hoãn cầu mưu” của địch trong Hiệp định Paris 1973. Từ đó ta đã chủ động tấn công, làm thất bại kế hoạch bình định, lấn chiếm của địch trên chiến trường Tây Nam Bộ, mà đỉnh điểm là chiến thắng 75 lượt tiểu đoàn địch ở Chương Thiện (nay thuộc tỉnh Hậu Giang) trong năm 1973.
Thiếu tướng Lê Xã Hội cho biết thêm: Không chỉ là vị tướng tài ba, có tầm nhìn chiến lược, anh Sáu Nam còn rất giỏi về chiến thuật, sáng tạo nên nhiều cách đánh hiệu quả. Một trong những chiến thuật mà anh Sáu Nam chỉ đạo áp dụng rất thành công ở chiến trường Tây Nam Bộ giai đoạn 1969-1973 là “đặc công hóa” cách đánh cho bộ đội. Nghĩa là ngay cả lực lượng bộ binh cũng được huấn luyện theo lối đánh đặc công, phát triển từ đánh nhỏ lẻ lên đánh lớn, chuyển từ đánh ban đêm sang đánh ban ngày, kết hợp hỏa lực hỗ trợ. “Đặc công hóa là chỉ đạo rất hay, mới mẻ, thể hiện đậm nét dấu ấn của anh Sáu Nam. Đến năm 1972, cục diện chiến trường có bước chuyển biến thấy rõ, nhiều đơn vị cấp trung đoàn của ta đã đánh chiếm, tiêu diệt đến cấp chi khu của địch”, Thiếu tướng Lê Xã Hội tâm đắc.
Nghiêm khắc nhưng hết sức tình cảm
Nhắc lại những kỷ niệm với Đại tướng Lê Đức Anh, nhất là ở giai đoạn 1969-1973, Thiếu tướng Lê Xã Hội xúc động nói: “Với anh em chúng tôi hồi đó, anh Sáu Nam là người chỉ huy nghiêm khắc nhưng hết sức tình cảm”.
Thiếu tướng Lê Xã Hội kể: Đầu năm 1972, đơn vị tôi (Trung đoàn 3) được Khu ủy và Bộ tư lệnh Khu 9 giao nhiệm vụ nghiên cứu, đánh tiêu diệt chi khu Vũng Liêm (tỉnh Vĩnh Long). Đây là chi khu mạnh, bố trí vững chắc, đơn vị nhiều lần tổ chức điều nghiên, xâm nhập thực địa nhưng không thành công. Sau đó, chúng tôi chuyển mục tiêu khác là yếu khu Thầy Phó (huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long). Đây cũng là căn cứ quan trọng của địch, có vị trí chiến lược ở chiến trường Vĩnh-Trà (hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh). Chúng tôi nắm chắc phần thắng vì đã nghiên cứu kỹ và xây dựng phương án tác chiến phù hợp. Khi báo cáo lên trên, Bộ chỉ huy tiền phương đồng ý cho đánh, nhưng Bộ tư lệnh Khu 9 chưa thông qua. Không để mất thời cơ, Ban chỉ huy trung đoàn quyết định đánh, tôi lúc ấy là trung đoàn phó, tham mưu trưởng cùng Ban chỉ huy trung đoàn chịu trách nhiệm chính. Trận đánh diễn ra đúng như dự kiến, hiệu suất chiến đấu cao (theo các tài liệu, tối ngày 6-4-1972, Trung đoàn 3 nổ súng đánh chiếm yếu khu Thầy Phó, diệt hơn 360 tên địch, thu hơn 200 khẩu súng các loại, phá hủy 2 khẩu pháo 105mm của địch).
“Thắng lợi rất lớn, tập thể và một cá nhân của đơn vị được Bộ tư lệnh Khu 9 khen thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba nhưng đồng thời chúng tôi cũng bị phê bình vì chấp hành mệnh lệnh chưa nghiêm, chưa có sự phê duyệt, đồng ý của quân khu đã tiến hành nổ súng”, Thiếu tướng Lê Xã Hội nhớ lại.
Theo Thiếu tướng Lê Xã Hội, tuy nghiêm khắc là thế, nhưng Đại tướng Lê Đức Anh luôn hiểu và tin yêu cấp dưới. Ông sẵn sàng đón nhận, lắng nghe cả những ý kiến “nghịch nhĩ”, đôi khi… ngỗ ngược của cán bộ thuộc quyền, bởi ông hiểu rõ đức tính và năng lực của từng người. Nhiều cán bộ có khí chất thời đó đều được ông tạo điều kiện kinh qua thử thách, sau này đều phát triển tốt và được giao giữ nhiều trọng trách ở Quân khu 9.
Đầu những năm 1990, ở cương vị Chủ tịch nước, nhưng Đại tướng Lê Đức Anh vẫn không quên ghé thăm những cán bộ dưới quyền một thời của mình mỗi khi có dịp thuận lợi, trong đó có không ít các đồng chí đã rời quân ngũ, trở về với cuộc sống đời thường. “Mấy đứa này hết mình với Tổ quốc - đó là câu mà Đại tướng Lê Đức Anh thường bảo khi gặp lại chúng tôi”, Thiếu tướng Lê Xã Hội nói với chúng tôi như vậy.
Bài và ảnh: HỒNG HIẾU
Đối với Đại tá Khuất Biên Hòa, thì Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh (còn gọi là Sáu Nam) là người có tầm nhìn chiến lược, thông minh, sắc sảo, cẩn trọng, nhưng cũng giàu lòng nhân ái, giản dị và rất đời thường.
“Đại tướng Lê Đức Anh có nhiều đóng góp rất lớn và hiệu quả, cùng với các đồng chí Bộ Chính trị (khóa VI, khóa VII và khóa VIII) đưa đất nước vượt qua những khó khăn nghiệt ngã và phát triển đi lên, nhưng lối sống, phẩm chất của Đại tướng luôn đậm chất Bộ đội Cụ Hồ. Cuộc sống từ bé cho đến khi vào quân ngũ, trở thành người đứng đầu Nhà nước, bác Sáu Nam vẫn rất giản dị và tiết kiệm, không phải tiết kiệm cho bản thân ông mà cho nhân dân, đất nước”, Đại tá Khuất Biên Hòa bắt đầu câu chuyện về nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh.
Nhớ về những năm tháng làm việc cùng bác Sáu Nam, ông Hòa xúc động kể: “Phong cách của Đại tướng rất giản dị. Ông hay mặc bộ quần áo Tô Châu màu rêu đã sờn cũ, mùa Đông thì thêm chiếc áo len bên trong, khoác chiếc áo bông của quân đội phát. Khi có ngày lễ quan trọng, hoặc có đồng chí cán bộ của Trung ương sang làm việc hay thăm hỏi, trước đó 15 phút ông nói công vụ lên lấy bộ comple để ông mặc. Sau đó, ông ngồi đón khách trước giờ hẹn 5 phút”.
Căn nhà công vụ N8 (số 5, Hoàng Diệu, Ba Đình, Hà Nội) - nơi Đại tướng và Phu nhân ở từ mùa Đông năm 1986 đến nay, cũng như trong nhà riêng của Đại tướng ở TPHCM, từ bàn ghế, giường tủ đến các vật dụng khác đều cũ kỹ và đơn sơ.
Mỗi khi hè đến, những lúc ngồi ăn cơm, bác Anh đầm đìa mồ hôi. Trong khi đó chiếc máy lạnh của phòng ăn là loại máy cũ, mỗi lần khởi động phải sau 15 phút mới có hơi lạnh. Thấy vậy, ông Hòa nói với chị Nga (người phụ bếp) bật máy lạnh trước bữa ăn 15 phút để khi Đại tướng và Phu nhân dùng bữa sẽ không bị nóng. Nhưng chị Nga chỉ thực hiện được 2 lần. Khi bác Anh biết được việc này đã không cho bật máy sớm, ông bảo làm như vậy là tốn điện của Nhà nước.
Trong những năm tháng làm trợ lý giúp việc cho Đại tướng, có khá nhiều cuộc “vi hành” đường dài bằng xe hơi, những chuyến đi mà đối với ông Hòa là “không thể nào quên”.
Đại tướng là nguyên thủ quốc gia, tuổi cao, đã trải qua 2 lần tai biến, vậy mà Đại tướng bảo: “Không gọi xe cảnh sát có còi ủ dẫn đường. Không thông báo cho các đơn vị quân đội và các cơ quan, chính quyền địa phương trên dọc tuyến đường đi”. Những chuyến vi hành như thế, ông thường dặn trợ lý và cận vệ mang theo sữa, cam tươi, bánh mì, cơm nắm, nước suối. Tới giờ nghỉ trưa thì dạt xe vào tán cây bên đường chừng 30 phút để dùng “bữa ăn khô”, chứ không muốn phiền các đơn vị.
Ông Hòa kể: “Có lần bác Sáu Nam chia sẻ: Các tỉnh nằm trên đường mà ta chỉ đi qua chứ không có nội dung làm việc, nhưng lâu ngày thấy bác tới, các đơn vị quý thì đón tiếp. Nhưng tục lệ ở ta, cứ bí thư tỉnh tiếp thì cũng phải có phó bí thư, rồi chủ tịch và phó chủ tịch, chánh-phó văn phòng, đủ các ban bệ. Trong khi chỉ có bác cháu ta mà tốn kém 4-5 mâm cơm thì mang tiếng, mà tiền đó cũng do nhân dân đóng góp mà có. Như vậy thì không nên”.
Theo ông Khuất Biên Hòa, phong cách sống của Đại tướng Lê Đức Anh rất giản dị. Ông không thích nghi thức, mà cần những gì thiết thực để giải quyết công việc một cách hiệu quả. Mỗi khi đi công tác ở các địa phương, ông thường tranh thủ gặp gỡ, hỏi han người dân và cán bộ cơ sở để biết rõ tình hình xã hội và cuộc sống của đồng bào một cách thực chất và đúng đắn nhất.
Một lần vào Kiên Giang và Cần Thơ, Đại tướng phát hiện ở đây có nhiều người dân mất hết ruộng đất canh tác. Ông đã gặp người dân thì được biết, một số cán bộ có tiền muốn mua ruộng, đúng lúc gia cảnh gặp khó khăn nên người dân phải bán, thế là mất ruộng. Mà người nông dân cả đời gắn với ruộng đất, nay ruộng không còn thì lập tức rơi vào khốn khó.
Lúc đó, ông nói với cán bộ lãnh đạo tỉnh rằng, chúng ta làm cách mạng để giành chính quyền cho dân, chính quyền của dân, do dân, vì dân. Vấn đề cốt lõi trong đường lối cách mạng dân tộc dân chủ của Đảng ta là ruộng đất cho dân cày. Bây giờ giải phóng rồi, người nông dân lại phải cầm cố ruộng đất, cuối cùng bị mất ruộng vì không có tiền chuộc, lại trở thành người làm thuê trên mảnh ruộng đó của mình. Như vậy, mục tiêu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ bị phá, bị xóa bỏ.
Là cán bộ đảng viên, nhưng từ chỗ không nhận thức rõ vấn đề cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ, trong đạo đức lối sống lại không chịu gột rửa tư tưởng tiểu nông, thì khi có quyền trong tay, hoặc là anh sẽ trở thành địa chủ, hoặc anh sẽ vô cảm, thấy nông dân mất ruộng là chuyện bình thường.
Hôm đó ông Tám Quýt, Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang nói: “Tôi sống sát với dân mà không hiểu dân!”. Ngay sau chuyến đi đó, Đại tướng về báo cáo đề xuất với Bộ Chính trị, được Bộ Chính trị chấp thuận, Chính phủ đã trích một khoản ngân sách để hỗ trợ cho các gia đình nông dân miền Tây Nam Bộ chuộc lại ruộng đất.
Dành thời gian đi thăm nhiều nơi, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh phát hiện ra một tình trạng khá phổ biến, đó là nhiều bà mẹ có con đi chiến đấu và hy sinh, bản thân mẹ thì nghèo đói. Ông hỏi cán bộ địa phương thì nhận được câu trả lời vì trên không có chủ trương nên địa phương không biết làm cách nào. Đại tướng đã đến tận phường, xã hỏi có bao nhiêu người vợ, người mẹ liệt sĩ thiếu đói. Ông tới thăm các bà mẹ thì thấy rằng, những người vợ, người mẹ có chồng, con hy sinh cho Tổ quốc nhưng lâu nay không ai chăm sóc.
Từ những cuộc gặp gỡ, thăm hỏi ấy đã cho ông một cảm nhận là: Tuy đời sống vật chất có thiếu thốn nhưng các mẹ vẫn chịu được, dù sao vẫn không khổ bằng những năm chiến tranh, nhưng nỗi tủi cực về tinh thần, sự cô đơn giữa cộng đồng thì không ai chịu nổi.
Khi trở về Thủ đô, họp Bộ Chính trị, ông đã đề xuất việc phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”. Ông cho rằng, đối với sự chịu đựng và hy sinh của các bà mẹ cho Tổ quốc thì việc làm này là quá muộn, nhiều bà mẹ đã không còn nữa, nhưng muộn còn hơn không.
Được Bộ Chính trị đồng ý, ngày 10/9/1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh (số 36L/CTN)-công bố Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng.
Ngày 1/12/1994, Đảng, Nhà nước ta long trọng tổ chức lễ phong tặng danh hiệu Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng đợt 1 tại Hà Nội.
Chủ tịch nước Lê Đức Anh cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã trực tiếp đón và cùng các mẹ duyệt hàng quân danh dự trong khuôn viên Phủ Chủ tịch. Trong khung cảnh đó, nhiều mẹ đã xúc động nghẹn ngào. Đi bên các mẹ, một lần nữa người đứng đầu Nhà nước khi đó không giấu nổi tình cảm của mình, nước mắt ông chảy dài trên má.
Sau các đợt phong tặng Bà Mẹ Việt Nam anh hùng, cả nước dấy lên phong trào nuôi dưỡng suốt đời các mẹ còn sống. Từ việc nuôi dưỡng các mẹ, sau đó phong trào phát triển lên, nhiều nhà hảo tâm đã xây nhà tình nghĩa, giúp đỡ, tài trợ những gia đình chính sách, thương binh, bệnh binh, người hoạt động cách mạng…
“Đại tướng chính là người đã thiết kế, xây dựng nên một không khí, một nếp sống hết sức nhân văn của xã hội, của cộng đồng người Việt Nam. Điều đó cũng xuất phát từ đức tính giản dị, giàu lòng nhân ái và vô cùng trong sáng của con người Đại tướng”, ông Khuất Biên Hòa tự hào khẳng định.
|
Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh và người trợ lý - Đại tá Khuất Biên Hòa. Ảnh: VOV |
Không nâng đỡ người thân
Trong câu chuyện về nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta, Đại tá Khuất Biên Hòa luôn nhắc về ông với cụm từ một con người sống tình cảm và đáng tin cậy. Tình cảm của Chủ tịch nước Lê Đức Anh dành cho gia đình, cho các con và cho đất nước không có sự cách biệt, và trong mọi ứng xử ông luôn đặt lợi ích của đất nước lên trên hết.
"Ông có 1 người con trai, 2 người con gái và 6 cháu nội-ngoại, nhưng Đại tướng không bao giờ tận dụng cương vị và các mối quan hệ xã hội của mình để nâng đỡ con, cháu. Đại tướng nói với các con phải tự mình rèn luyện, phấn đấu, cố gắng làm việc theo luật pháp, theo phẩm chất, nỗ lực của bản thân. Nếu bản thân làm tốt, có phẩm chất tốt thì các cơ quan Đảng, Nhà nước sẽ dung nạp, chứ không có chuyện xin xỏ, gọi điện, thư tay này kia…”, Đại tá Khuất Biên Hòa kể.
Có lần ông Lê Hữu Độ, anh ruột của Đại tướng Lê Đức Anh lặn lội từ Thừa Thiên-Huế ra Hà Nội thăm và có lời nhờ vả người em trai lúc đó đang là Chủ tịch nước: “Chừ thằng con đầu của tôi đã tốt nghiệp đại học, có bằng kỹ sư; má vợ nó bên Gia Lâm lại cho vợ chồng nó một miếng đất cất nhà và định cư. Nay nhờ chú kiếm cho cháu một chỗ làm ở quanh Hà Nội cho tiện đi về và chăm sóc vợ con”.
Đại tướng Lê Đức Anh liền nói: “Em mừng cho anh chị, mừng cho cháu! Còn nơi làm việc thì anh nhủ cháu cứ rèn luyện và phấn đấu cho tốt, khắc có cơ quan, xí nghiệp thu nạp”. Nghe xong, ông Độ giận dỗi và lập tức bỏ về quê. Mãi sau người em gái út mới biết chuyện và khuyên ông Độ: “Anh lạ gì tính của ảnh nữa, ngay con ruột của mình, cả 3 đứa đều tự thân vận động đó mà. Thôi anh ơi! Nhà mình 9 anh chị em, nay còn có 4, càng thương nhau thì càng phải thông cảm cho anh ấy đi anh!”. Và sau buổi đó, ông Độ mới hết giận người em trai.
Năm 2003-2004, báo chí công bố quy hoạch “Khu chính trị Ba Đình”, cùng lúc Bộ Quốc phòng bàn giao Khu di tích Điện Kính Thiên-Cửa Bắc-Lầu Công chúa cho Sở Văn hoá Hà Nội, đồng thời xây dựng cơ quan Bộ ở bên đường Nguyễn Tri Phương. Lúc đó, Cục Hậu cần của Bộ tổng Tham mưu cũng xây cất hai ngôi nhà 4 tầng bên bờ Hồ Tây để phòng khi phải bàn giao khu nhà khách T66, nơi có căn N8, thì sẽ mời đồng chí Lê Đức Anh và Bộ trưởng Phạm Văn Trà di chuyển ra đây ở.
Nhưng khi biết chuyện, bác Anh nói: “Từ lâu nay quân đội đã có quy định mỗi cán bộ chỉ hưởng một suất nhà-đất. Tôi đã được cấp nhà từ sau giải phóng miền Nam. Tôi không thể nhận thêm cái thứ hai. Khi nào Hà Nội thu nhà công vụ này thì tôi vào nhà tôi trong TPHCM”.
Theo người trợ lý, nhiều người cho rằng bác Lê Đức Anh nghiêm khắc, khó gần, nhưng thực ra, ông sống rất tình cảm và mọi ứng xử rất nhân văn. Đại tướng là người thận trọng, kiệm lời, chứ không vồ vập. Mỗi khi trao đổi với ai, ông thường thu thập thông tin nhiều chiều, phân tích, tổng hợp, sau đó trao đổi với họ rất thận trọng.
“Khi tôi làm trợ lý kiêm thư ký phục vụ bác Sáu Nam, bác nói: Chú dặn bảo vệ tiếp cận và các cháu cảnh vệ, riêng cửa số 5B Hoàng Diệu luôn luôn mở rộng để đón mọi người, từ người lao động bình thường như ông đạp xích lô hay cán bộ các ngành, các địa phương, không phân biệt đẳng cấp. Tôi không quan cách, phân biệt ai cả”, Đại tá Khuất Biên Hòa nói và nhấn mạnh, con người Đại tướng là như vậy, đối với cấp dưới, đối với nhân dân, ông luôn đối xử bằng thứ tình cảm yêu thương, trân trọng và gần gũi nhất, đó là tình cảm giữa con người với nhau, không phân biệt giai cấp, sang hèn.
Đồng chí Lê Đức Anh - Tư lệnh Quân khu 9 thăm và động viên các chiến sĩ của Tiểu đoàn tăng - thiết giáp, Quân khu 9, tháng 5/1976. Ảnh tư liệu
Nhắc tới Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, bao kỷ niệm ùa về trong tâm trí của Đại tướng, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà về những ngày tham gia cách mạng.
Đại tướng Phạm Văn Trà kể năm 1969, ông Lê Đức Anh được cấp trên giao nhiệm vụ làm Tư lệnh Quân khu 9 trong lúc chiến trường diễn biến ác liệt và khó khăn nhất. Ông Võ Văn Kiệt được điều làm Bí thư Khu uỷ.
Ông Lê Đức Anh lấy bí danh là “Chín Hoà”, ông Kiệt là “Tám Thuận”. Khi ráp tên 2 người thành cặp "Hòa Thuận", một sự trùng hợp ngẫu nhiên như có lương duyên trong suốt quá trình công tác với nhau. Đặc biệt, cặp “Hoà Thuận” đi đến đâu thì chỉ mấy năm cả vùng đó đã thay đổi và phát triển tốt hơn.
Khi địch đánh mạnh, Khu uỷ di chuyển về Năm Căn (mũi Cà Mau), nhưng ông Lê Đức Anh vẫn ở lại bám chiến trường để nắm bắt tình hình về người dân, bộ đội và có những chỉ đạo sát hơn.
Ông Phạm Văn Trà nhớ lại khi thảo luận về một trận đánh hay một chiến dịch, ông Lê Đức Anh đều cho mọi người phát biểu, có gì bất đồng thì có thể “cãi” đến cùng, ban đầu ông kiên quyết nhưng sau cũng nghe.
“Có 2 trận đánh, tôi cãi ông (ông Trà cười). Lúc đầu cũng ngại, tưởng ông không nghe, nhưng cuối cùng ông cũng nghe.
Trong đó, lần cãi gay gắt nhất vào đầu năm 1978 tại trận đánh của Sư đoàn 330 diệt Pol Pot ở núi Phú Cường (An Giang). Lúc đầu, cách đánh, bao vây hay tiến công của ông khác. Nhưng chúng tôi ở đó quen rồi, bảo làm như thế thì khó, anh em không đánh được.
Ban đầu ông không chịu, cãi mãi ông bảo không đánh thì thôi. Lúc đó tôi bảo đánh là do anh, quyết thì chúng tôi làm. Cuối cùng ông nghe phương án của chúng tôi. Nhờ đánh trận ấy, Sư 330 chúng tôi đi đến đâu là Pol Pot đều bỏ chạy.
Lần tranh luận gay gắt khác là trong cuộc chiến chống Mỹ vào năm 1972, trước khi bước vào một chiến dịch, đơn vị của ta bị B52 quần cả 1 ngày. Một tiểu đoàn hy sinh hơn 660 người, gần như hết lực lượng. Đến hôm sau vào chiến dịch buộc phải đánh điểm đó, ông vẫn quyết đánh nhưng chúng tôi bảo là không đánh được, vì lực lượng không được củng cố. Cuối cùng ông Lê Đức Anh quyết lùi lại mấy ngày, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà chia sẻ.
Theo Đại tướng Phạm Văn Trà, ông Lê Đức Anh là người dám quyết, dám chịu trách nhiệm. Sau khi Mỹ ký Hiệp định Paris năm 1973, qua theo dõi các động thái, ta càng thấy rõ âm mưu phá hoại Hiệp định của địch. Chính vì vậy, khi các nơi không đánh nên bị địch o ép, bị lấn chiếm gây ra tình cảnh khó khăn thì Quân khu 9 vẫn đánh, mà càng đánh thì vùng căn cứ càng mở rộng hơn.
“Điều này khiến tôi nghĩ chắc là anh Lê Đức Anh nắm được ý của Tổng Bí thư Lê Duẩn. Chúng tôi thấy đánh là đúng, chính đánh để thăm dò Mỹ xem có trở lại hay không”, ông Trà nói.
Ông Lê Đức Anh là người chỉ huy dự đoán được sớm, nắm chắc được tình hình, trong lúc khó khăn nhất, ông luôn vững vàng.
Hoà bình lập lại, cấp trên có lệnh giải trừ quân bị, đưa anh em về. Riêng ông Lê Đức Anh, ở Quân khu 9 giữ lại 3 trung đoàn và ít cho ai về, nhất là sĩ quan. Ông chọn toàn bộ trung đoàn mạnh của Quân khu 8 và 9 thành lập Sư đoàn 330, trong khi các địa phương khác gần như cho về hết. Khi Pol Pot đánh Việt Nam, chỉ có Quân khu 9 đánh còn Quân khu 7 lại gặp nhiều khó khăn.
Việc thực hiện giảm quân số năm 1993 cũng thể hiện được sự dám chịu trách nhiệm của Đại tướng Lê Đức Anh. Đó là một quốc sách rất đúng vì giảm quân số sẽ tăng ngân sách cho Nhà nước, giảm khó khăn cho đất nước.
Năm 2001, Đại tướng Lê Đức Anh chính thức nghỉ hưu. Trong cuộc sống gia đình, ông không bao giờ can dự vào vị trí công việc của các con mà để họ tự phát triển theo năng lực của bản thân.
Những lúc rảnh, ông Phạm Văn Trà lại đến thăm và được nguyên Chủ tịch nước nhắc nhở là khi đã về đời thường thì làm sao phải giữ được phẩm chất cho tốt, đặc biệt là gia đình.
Đại tướng Lê Đức Anh cũng nhắc nhở phải luôn quan tâm đến quân đội vì quân đội đã đóng góp to lớn trong cuộc kháng chiến, trong hoà bình cũng cần cố gắng để bộ đội giữ được truyền thống, phẩm chất tốt.
Đại tướng Phạm Văn Trà chia sẻ nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh là một tướng lĩnh giỏi, có bản lĩnh, có tầm nhìn sâu, luôn đoán được trước tình hình, là một người mẫu mực, khiêm tốn, không bao giờ tư lợi cho riêng mình.
Biết tin Đại tướng Lê Đức Anh bệnh nặng, chúng tôi, những cán bộ dưới quyền anh thuở trước, đã chuẩn bị tâm thế cho những gì xấu nhất có thể xảy ra. Vậy mà nghe tin anh từ trần, tôi vẫn thấy bàng hoàng, trống trải. “Anh đi thật rồi sao?”. Bao kỷ niệm cũ ùa về trong tôi vẹn nguyên như mới hôm qua…
Trong những năm chiến tranh, tôi nghe danh Thủ trưởng Lê Đức Anh đã nhiều và cũng không ít lần được gặp anh, cả trong trận mạc và giữa đời thường. Một lần, sau chiến thắng Phước Long, Quân đoàn 4 phải xử lý bao nhiệm vụ đặt ra trong cục diện mới, vừa tham gia chiến đấu vừa xây dựng lực lượng để tạo thế trận tiến công Sài Gòn-Gia Định.
Quân đoàn được bố trí chuẩn bị địa bàn tạo thế trận ở phía đông bắc và tây bắc Sài Gòn. Ngày 4/3/1975, quân dân ta trên các chiến trường đồng loạt nổ súng tiến công địch. Ngụy quyền Sài Gòn hoàn toàn bất ngờ trước quy mô, thời điểm và hướng tiến công cùng lực lượng của quân ta. Bấy giờ, Sư đoàn 7 do tôi chỉ huy, phối hợp cùng một bộ phận LLVT Quân khu 7, Quân khu 6, chuẩn bị đánh chiếm chi khu Định Quán (Đồng Nai), sau đó nhanh chóng chuyển sang hướng đông, chuẩn bị tiến công “cánh cửa thép” Xuân Lộc.
Ngày 5/3/1975, đồng chí Lê Đức Anh, Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam trực tiếp giao nhiệm vụ cho Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 7, tại căn cứ Đồng Xoài. Anh yêu cầu Sư đoàn khẩn trương mở mặt trận mới ở đông bắc Sài Gòn: Đánh chiếm Định Quán, giải phóng đường 20 và tỉnh Lâm Đồng. Thời điểm đó, đội hình Sư đoàn 7 đang bố trí tại thị xã Phước Long đến nam Đồng Xoài. Trước khi chính thức giao nhiệm vụ, anh gặp tôi và hỏi: “Tình hình, khả năng cơ động, chiến đấu của Sư đoàn thế nào? Nếu thay đổi mục tiêu có chắc thắng không?”. Tôi quả quyết: “Anh yên tâm, nhất định chúng tôi sẽ chiến thắng, nhưng đề nghị anh bổ sung phương tiện cơ giới cho chúng tôi mới kịp thời gian hành quân tác chiến”. Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam gật đầu: “Được, tôi tin tưởng ở anh”.
Kiến nghị vậy nhưng tôi nghĩ chưa chắc đã được Phó Tư lệnh giải quyết. Vậy mà trong hội nghị quân chính triển khai nhiệm vụ ngay sau đó, đồng chí Nguyễn Can, Chính ủy Trung đoàn 165 nêu thắc mắc là Trung đoàn hiện ở sát thị xã Phước Long, theo bản đồ tỷ lệ 1/100.000, thì từ Phước Long về Định Quán cách nhau 3 gang tay, làm sao cơ động kịp được. Lập tức, đồng chí Lê Đức Anh quyết định cho Sư đoàn 7 nhận thêm 35 xe ô tô để cơ động lực lượng. Tôi mừng thầm vì số lượng xe như vậy là quá đủ để điều chuyển quân theo đúng ý định. Thực ra, tôi đã dự tính, không cần nhiều xe đến vậy chúng tôi vẫn có thể hoàn thành nhiệm vụ, tuy có thể sẽ vất vả hơn. Đúng như nhận định của nhiều đồng đội, Thủ trưởng Lê Đức Anh khá rộng lượng, quan tâm đến cấp dưới.
Lần khác, cuối năm 1983, tôi nhận lệnh của Bộ Quốc phòng điều về Mặt trận 719 (tiền phương Bộ Quốc phòng) ở Campuchia. Trước đây, tôi đã tham gia chiến tranh biên giới Tây Nam. Sau gần 5 năm kể từ ngày liên quân cách mạng Việt Nam-Campuchia đánh bại bè lũ Pol Pot-Ieng Sary và giải phóng được thủ đô của đất nước Chùa tháp, trong lòng tôi dâng trào nhiều cảm nghĩ và sự xúc động thành kính sâu xa…
Tới Bộ chỉ huy Quân tình nguyện, tôi được gặp đồng chí Lê Đức Anh là Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam và các đồng chí trong Bộ Tư lệnh. Vừa thấy tôi, Tư lệnh Lê Đức Anh đứng dậy, tươi cười: “Cậu trở lại đây thì khác gì về nhà”. Tôi đáp: "Báo cáo anh, mọi thứ ở đây đổi thay nhiều quá, chẳng biết mình có theo kịp không”. Ngồi xuống ghế trò chuyện, Tư lệnh nhắc tôi: “Bây giờ không như thời chống Mỹ, mình làm nhiệm vụ quốc tế cao cả nên phải xử lý rất khéo trong mọi mối quan hệ; xây dựng tình đoàn kết láng giềng bền vững. Tôi tin ở kinh nghiệm và sự năng động của đồng chí. Nhất định chúng ta sẽ lập công nhiều hơn nữa!”. Lời nhắc nhở và niềm tin của anh không những cổ vũ tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ mà còn theo suốt đời quân ngũ của mình.
Suốt thời gian cùng anh công tác trên đất bạn, tôi được anh chỉ bảo nhiều điều. Tài thao lược, sự quyết đoán và tình cảm của Thủ trưởng Lê Đức Anh luôn là mẫu hình lý tưởng mà tôi học tập.
Mùa đông năm 1987, tôi được Bộ Quốc phòng điều về giao nhiệm vụ làm Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 2. Trong 3 năm đầu tiên làm Hiệu trưởng, tôi được đón Đại tướng Lê Đức Anh đến thăm Trường. Trong lúc dẫn Bộ trưởng đi thăm khuôn viên, cơ sở vật chất, doanh trại các đơn vị, anh bảo tôi, cậu làm thầy giáo cũng được đấy, nền nếp ra trò! Trong lần gặp mặt đó, Đại tướng Lê Đức Anh ân cần thăm hỏi cán bộ, học viên nhà trường như người thân lâu ngày gặp lại. Hình ảnh vị Bộ trưởng bắt tay thân mật, tươi cười bên những sĩ quan tương lai đã khắc sâu trong tâm trí lớp lớp thế hệ học viên nhà trường đến tận bây giờ…
Kỷ niệm và ký ức vẫn vẹn nguyên còn đó, vậy mà anh đã ra đi. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vẫn hướng về anh với lòng ngưỡng mộ. Dẫu không muốn tin và không dám tin nhưng sự thật xót xa vẫn đang hiện hữu. Chúng tôi đã mất đi người Thủ trưởng, người Anh tài năng, đáng kính.
Một nén tâm nhang, kính cẩn nghiêng mình tiễn Anh về với thế giới người hiền!
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đại tướng Lê Đức Anh luôn thể hiện là một vị tướng tài ba, quả cảm. Trong thời bình, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch nước rồi Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ông là nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng, quyết liệt và chí công vô tư.
Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh (Thừa Thiên - Huế) và Đại tướng, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phạm Văn Trà (Bắc Ninh) luôn sát cánh trong đời binh nghiệp. Khi trở về cuộc sống đời thường, hai vị Đại tướng ở cùng khu nhà số 5A Hoàng Diệu (Hà Nội). Trong niềm thương tiếc Đại tướng Lê Đức Anh, Đại tướng Phạm Văn Trà đã chia sẻ những cảm xúc của mình.
I
Đại tướng Lê Đức Anh đã công tác, chiến đấu trên nhiều mặt trận từ Nam ra Bắc; góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tiến từng bước lên chính quy hiện đại. Trên cương vị Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, rồi Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh miền Nam, Tư lệnh Quân khu 9, Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh miền Nam, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, ông đã tham gia nhiều sự kiện quan trọng, trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch lớn.
Là Tư lệnh Bộ đội tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, ông có nhiều đóng góp hết sức to lớn giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng của Tập đoàn Pol Pot - Ieng Sary. Sau khi đất nước Campuchia được giải phóng, năm 1982, ông nhận nhiệm vụ làm Trưởng Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia Việt Nam giúp Campuchia. Năm 1984, ông được phong quân hàm Đại tướng, sau đó giữ các trọng trách: Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (1986), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (từ tháng 12-1986 đến 1991). Ông được bầu làm Chủ tịch nước nhiệm kỳ 1992-1997.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Đại tướng Lê Đức Anh luôn thể hiện tâm thế của người chiến sĩ đứng vững trên thế tiến công, chủ động tấn công trong suy nghĩ và hành động, lăn lộn với thực tế chiến trường để tìm ra những cách đánh hiệu quả, giảm hy sinh xương máu của chiến sĩ, đồng bào mà vẫn chiến thắng kẻ thù. Trong 3 cuộc chiến tranh, đồng chí Lê Đức Anh đều ở chiến trường: trong chống Pháp thì ở Đông Nam bộ, trong chống Mỹ thì ở Đông Nam bộ và Tây Nam bộ; chiến tranh biên giới Tây Nam đồng chí là Tư lệnh Bộ đội tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.
Dấu ấn lớn nhất của đồng chí Lê Đức Anh là có tầm nhìn rất sâu về chiến lược, bao giờ cũng dự đoán trước tình hình, nên khi tình hình đến thì không bị động, mà chủ động ứng phó được ngay và đều có kết quả tốt. Đó là tầm cỡ của Tướng Lê Đức Anh.
Thời điểm 30-4-1977, chiến trường Tây Nam phức tạp, đồng chí về làm Tư lệnh Quân khu 9. Sau hòa bình, Bộ Quốc phòng cho giảm quân số rất nhiều, nhưng riêng đồng chí về quân khu 9 thì lại thành lập sư 30 và chọn trung đoàn đánh tốt trong thời kỳ chống Mỹ để giữ lại, kể cả anh em miền Bắc đồng chí cũng giữ lại không cho ra quân, nên giữ được chất chiến đấu. Khi quân Pol Pot đánh sang thì sư 30 chiến đấu rất hiệu quả. Điều đó chứng tỏ đồng chí đã nắm trước được tính hình nên đã chuẩn bị trước mấy năm, khi quân khu 9 bị Pol Pot đánh thì không bị động, đánh lại được ngay và giữ được biên giới.
Một cái hay nữa là đồng chí đi sát chiến trường lắm, biên giới ác liệt nhưng ở đâu đồng chí cũng đến, kể cả chiến trường sát Thái Lan, đồng chí đều đến và hướng dẫn, chỉ đạo xử lý tình huống cụ thể. Tướng sát chiến trường thì thương vong của người lính đỡ đi. Nhiều chỉ đạo của đồng chí đã giúp bộ đội ta thực hiện tốt.
Khi đồng chí là Tư lệnh Bộ đội tình nguyện Việt Nam tại Campuchia thì tôi là Sư trưởng Sư 30 của quân khu 9. Khi giải phóng tuyến biên giới Camphuchia - Thái Lan thì đồng chí chỉ đạo chặn tuyến biên giới, không cho Pol Pot tràn sang, khóa được biên giới từ năm 1980-1987, nhờ đó biên giới Camphuchia - Thái Lan dần êm, Pol Pot tan rã dần. Khi bạn đứng vững thì biên giới ổn định. Điều đó thể hiện tầm nhìn rất sâu của đồng chí.
II
Năm 1990-1991, thời điểm Liên Xô sụp đổ, đồng chí đã gọi Tư lệnh các quân khu lên, lúc đó tôi là Tư lệnh Quân khu 3. Anh ấy chỉ nói một câu: phải hết sức theo dõi tình hình Liên Xô, nếu Liên Xô đổ thì thế giới sẽ có biến động rất lớn, các nước XHCN có thể mất, nên Việt Nam phải hết sức chú ý. Anh chỉ đạo, nếu Liên Xô đổ thì tất cả quân đội phải giữ nghiêm kỷ luật, có lệnh của Bộ Quốc phòng thì mới được hành động.
Vì thế, khi Liên Xô sụp đổ thì chúng tôi không bị hẫng nữa, vì đã được anh báo trước 6 tháng. Quân đội Việt Nam lúc đó rất vững vàng, giữ vững lòng trung thành với Đảng, với đất nước để giữ vững chế độ, nhờ đó Việt Nam không bị xáo trộn. Nếu lúc đó quân đội không vững vàng, rối ren thì sẽ làm phức tạp thêm tình hình. Nhất là trong TPHCM, Tư lệnh Quân khu 7 đã nắm chắc tình hình từ anh Lê Đức Anh, nên khi bọn xấu treo cờ ba sọc chạy khắp TPHCM nói Liên Xô đổ thì Việt Nam sẽ đổ... thì đã được Quân khu 7 xử lý, tình hình ổn định trở lại. Chúng ta đều thấy, quân đội ổn định, vững vàng thì đất nước sẽ ổn định. Công của anh Lê Đức Anh là rất lớn trong việc bảo đảm an ninh trật tự cho đất nước thời điểm bấy giờ.
Trong chiến tranh biên giới phía Bắc, anh lên Hà Giang nửa tháng, sau khi về thì gọi các Tư lệnh quân khu lên và nói rằng, nếu cứ đánh thế này thì không được, chúng ta bắn 1 phát thì địch bắn 2 phát, cứ thương vong kéo dài, không giải quyết được cục diện. Vì vậy, anh yêu cầu chúng tôi tính lại. Đồng chí nói Trung Quốc là nước lớn, lại có công giúp ta đánh Pháp, đánh Mỹ nên Việt Nam phải xử sự thế nào để ổn định tình hình và đề nghị khi bắn pháo sang thì bắn pháo truyền đơn, nói rõ nhân dân Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã giúp Việt Nam chống Pháp, chống Mỹ, mục đích nhằm làm hòa dịu tình hình.
Quả nhiên một thời gian thì bên kia không bắn pháo sang nữa, tình hình ổn dần, sau đó đồng chí cho rút quân, hai bên hòa hoãn dần, ngồi lại để giải quyết vấn đề biên giới giữa 2 nước. Vì vậy, trong chiến tranh biên giới phía Bắc, công của đồng chí Lê Đức Anh rất lớn.
III
Đại tướng Lê Đức Anh là người luôn có tư tưởng đổi mới. Trong thời bình, đồng chí luôn có quan điểm xây dựng mối quan hệ với nước ngoài cho tốt, xây dựng quan hệ với các nước anh em thật tốt, để làm sao đất nước mãi mãi hòa bình. Khi tôi sang Mỹ, đồng chí cũng dặn: về nguyên tắc mình phải giữ độc lập tự chủ, nhưng cũng có những lúc, mình cũng phải nói thẳng với họ để họ biết rằng, Việt Nam luôn luôn muốn giữ hòa bình với thế giới.
Đồng chí dặn, với tù binh, đây là vấn đề nhân đạo, không phải vấn đề chính trị, Việt Nam sẽ giúp Mỹ tìm được hài cốt lính Mỹ chết ở Việt Nam, đây là tình nhân đạo của Việt Nam, không đặt vấn đề đền bù. Khi tôi nói điều này, người Mỹ họ rất thích.
Đại tướng Lê Đức Anh đã cống hiến trọn đời cho đất nước, cho Đảng. Năm 1992, đồng chí được Quốc hội bầu làm Chủ tịch nước và là người đề xuất phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Nhiều năm gắn bó với đồng chí, tôi nhận thấy, trong cuộc sống gia đình, đồng chí không bao giờ can dự vào vị trí công việc của các con mà để con tự phát triển theo năng lực của bản thân. Đồng chí là một tướng lĩnh giỏi, có bản lĩnh, có tầm nhìn sâu rộng, luôn đoán được trước tình hình, là một người mẫu mực, khiêm tốn, không bao giờ tư lợi cho riêng mình.
PHAN THẢO (Ghi theo lời kể của Đại tướng Phạm Văn Trà)
Làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc (Thừa Thiên - Huế) là quê hương của nguyên Chủ tịch nước, Ðại tướng Lê Ðức Anh. Ðây là nơi chôn nhau cắt rốn, gắn bó tuổi thơ, hun đúc tinh thần yêu nước, đấu tranh cách mạng của chàng thiếu niên Lê Ðức Anh. Những kỷ niệm về quê hương luôn in đậm trong tim, cùng ông vượt qua những chặng đường gian nan trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng.
Tháng tư lịch sử, men theo con đường ven sông Truồi trong xanh, chúng tôi về làng Bàn Môn, quê hương của nguyên Chủ tịch nước, Ðại tướng Lê Ðức Anh. Làng Bàn Môn có truyền thống yêu nước và cách mạng, đình làng chính là nơi thành lập chi bộ Ðảng đầu tiên của tỉnh Thừa Thiên - Huế. Từ những năm đầu thế kỷ 20, nhiều người ở làng Bàn Môn nói riêng và các làng thuộc xã Lộc An nói chung, đã có tinh thần yêu nước, kháng Pháp. Hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân, người dân Lộc An đã tham gia đội cần lao phụ trách chèo thuyền và cõng vua Duy Tân rút khỏi kinh thành Huế về làng Hà Trữ và trú tại làng Hà Trung, huyện Phú Vang.
Trong những người tham gia khởi nghĩa, có cụ Lê Túy, còn gọi là Lê Quang Túy, thân phụ của nguyên Chủ tịch nước, Ðại tướng Lê Ðức Anh.
Sớm được tiếp xúc với những người yêu nước và cách mạng, chàng thiếu niên Lê Ðức Anh đã đọc báo chí tiến bộ và tìm hiểu về chủ nghĩa cộng sản, về Nguyễn Ái Quốc và tham gia phong trào đấu tranh giành độc lập cho đất nước, tự do cho dân tộc. Chàng thiếu niên Lê Ðức Anh bắt đầu thể hiện lòng yêu nước từ những việc nhỏ nhất như rải truyền đơn, treo cờ đỏ…, đến việc tuyên truyền, vận động trong dân chúng. Ký ức tuổi thơ của ông còn in đậm những hình ảnh đói nghèo, bệnh tật của người dân lương thiện chốn làng quê, hình ảnh lam lũ của những phu xe kéo tay, của người nông dân; nạn sưu cao thuế nặng đẩy người dân đến bước khốn cùng. Chứng kiến cảnh áp bức, bóc lột của chế độ thực dân, phong kiến, ông khao khát làm một điều gì đó cùng với người dân lam lũ để thay đổi cuộc sống lầm than, cơ cực. Ông đã được kết nạp Ðảng năm 18 tuổi, vào tháng 5-1938.
Hoạt động cách mạng từ trong một gia đình có truyền thống, đồng chí Lê Ðức Anh đã từng bước trưởng thành và có nhiều thành tích, gắn với vùng quê sông nước xã Lộc An, huyện Phú Lộc và xã Vinh Phú, huyện Phú Vang (Thừa Thiên - Huế). Nhiều thanh niên trong vùng đã noi theo tấm gương đồng chí Lê Ðức Anh tham gia hoạt động cách mạng, gây dựng phong trào ngày càng lớn mạnh, góp phần vào công cuộc giải phóng quê hương.
Trong cuốn Hồi ký Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng, xuất bản năm 2015, Ðại tướng Lê Ðức Anh, viết: "Trường xa nhà, nên buổi sáng đi học tôi thường nhịn đói. Ngày ấy, những đứa học trò nhà quê như chúng tôi không có giày dép, đi đâu cũng chân trần. Trên chặng đường tới trường ở Dưỡng Mong phải qua một trảng cát, những ngày trời nắng, cát bỏng như rang, chúng tôi phải lấy những bẹ nang của cây tre, rồi dùng dây bẹ chuối cột dưới bàn chân để đi qua trảng cát cho đỡ bỏng chân". Cũng chính những gian khó ấy đã rèn luyện và hình thành trong ông đức tính kiên nhẫn, chịu thương chịu khó, sẵn sàng đối mặt mọi khó khăn.
Trở lại xã Lộc An, chúng tôi đến thăm Nhà văn hóa, thư viện Ðại tướng Lê Ðức Anh được đưa vào hoạt động cách đây bảy năm. Nhà văn hóa được xây dựng trong xóm nhỏ, gắn bó với gia đình Ðại tướng. Ðoàn thanh niên, các thế hệ học sinh trên địa bàn xã Lộc An đã chọn đây làm nơi sinh hoạt ngoại khóa, giáo dục lý tưởng, truyền thống cách mạng quê hương. Anh Lê Trung Thành, người trông coi Nhà văn hóa (cũng là một người cháu của Ðại tướng Lê Ðức Anh), cho biết, người dân và chính quyền địa phương mong muốn lập nhà văn hóa để tưởng nhớ công ơn của Ðại tướng. Nhà văn hóa, thư viện Ðại tướng Lê Ðức Anh hằng ngày thu hút rất đông người dân và học sinh, sinh viên đến đọc sách báo, tham quan, tìm hiểu về những kỷ vật gắn bó với cuộc đời, sự nghiệp của Ðại tướng.
Anh Lê Trung Thành chia sẻ thêm: "Về quê lần nào bác cũng bảo chúng tôi đưa bác ra sông Truồi, đoạn Bến Bãi có cái bến ngày xưa bác hay ra chơi. Rồi bác kể cho tôi nghe những câu chuyện thời bé, những buổi trưa đi câu cá, đọc sách, cùng bạn bè đùa nghịch bên dòng sông này; về cuộc sống cơ cực nhưng ấm áp tình cảm gia đình và bà con quê tôi; rồi những ngày bác tham gia cách mạng, đi theo Ðảng... Bác thường dặn chúng tôi phải coi trọng sự học, chăm lo cho con cháu học hành đến nơi đến chốn để sau này sống có ích cho xã hội; sống chan hòa, gắn bó với bà con xóm giềng, giúp đỡ những người gặp khó khăn". Cụ Trần Ðình Hàng (85 tuổi), ở gần Nhà văn hóa, thư viện Ðại tướng Lê Ðức Anh, bùi ngùi kể: "Ðại tướng Lê Ðức Anh đã nhiều lần về thăm quê hương và bà con làng xóm. Vào năm 2012, khi Ðại tướng và gia đình về quê dự lễ khánh thành nhà văn hóa, thư viện, tôi có dịp trò chuyện với ông. Ðại tướng luôn gần gũi, không quên thăm hỏi về tình hình cuộc sống, công việc làm của bà con".
Cùng chung tâm sự, Bí thư Ðảng ủy xã Lộc An Nguyễn Bùi nhớ lại, trong một lần về thăm quê hương vào giữa năm 2014, Ðại tướng Lê Ðức Anh ghé thăm UBND xã. Ðại tướng dặn dò các cán bộ xã rằng, quê hương Lộc An còn nghèo, nhân dân còn khó khăn, cho nên cán bộ xã phải nỗ lực trong công việc, đi đầu trong các phong trào, phải biết gần dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của dân thì mới hiểu và giúp người dân được…
Chủ tịch UBND xã Lộc An Hồ Ðắc Sự nhớ lại: Cứ mỗi lần về thăm quê, Ðại tướng Lê Ðức Anh luôn thăm hỏi lãnh đạo địa phương về tình hình kinh tế và nhắc nhở phải biết tận dụng những thế mạnh để tập trung phát triển. Năm 2012, trong buổi gặp gỡ cán bộ toàn xã, ông nói, làm lãnh đạo là phải gần dân, giúp dân và lấy sự phát triển của địa phương làm mục tiêu. Dù quá trình phát triển, công việc có gặp khó khăn, nhưng chỉ cần toàn thể cán bộ đoàn kết sẽ có cách để vượt qua.
Từ một xã nghèo, song với tinh thần đoàn kết, dám nghĩ, dám làm, đến nay, thu nhập bình quân của người dân xã Lộc An đã đạt hơn 45 triệu đồng/người/năm. Xã có 3.078 hộ dân, hơn 14.000 nhân khẩu, chủ yếu phát triển kinh tế theo hướng thương mại, dịch vụ, nông lâm ngư nghiệp. Năm 2018 vừa qua, xã đã quy hoạch nhiều cánh đồng mẫu lớn đưa vào sản xuất lúa, với tổng diện tích 1.466 ha, năng suất bình quân đạt 6,3 tấn/ha, sản lượng lương thực đạt hơn 9.400 tấn. Ngoài ra, người dân Lộc An còn trồng 175 ha rừng, tận dụng 72 ha diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy sản đem lại hiệu quả kinh tế cao. Kinh tế phát triển đã giúp con em trong xã được ăn học đến nơi đến chốn, mỗi năm xã có từ 50 đến 60 cháu thi đỗ vào các trường đại học.
Khắc ghi lời căn dặn của Ðại tướng, nhiều năm qua, Ðảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Lộc An đã nỗ lực thi đua lao động, phát triển kinh tế, đóng góp sức người, sức của xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Ðáng chú ý, tháng 9-2018, xã Lộc An được UBND tỉnh công nhận là xã đạt chuẩn nông thôn mới. Ðây là động lực để cán bộ, nhân dân xã nhà tiếp tục nỗ lực vươn lên trong phát triển kinh tế và quan tâm chăm sóc, phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, gia đình chính sách, người có công với cách mạng. Quê hương Lộc An và huyện Phú Lộc ngày nay đã khác xưa, ngày càng phát triển, xứng đáng là quê hương anh hùng.
Ðồng chí Nguyễn Văn Mễ, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh, Chủ tịch HÐND tỉnh, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thừa Thiên - Huế kể: Ðại tướng Lê Ðức Anh luôn dành tình cảm tốt đẹp cho các lãnh đạo tỉnh và bà con cô bác ở quê hương. Mỗi lần gặp, Ðại tướng luôn hỏi thăm cặn kẽ về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; những khó khăn, vướng mắc mà địa phương đang cần tháo gỡ. Những đề xuất hợp lý của chúng tôi đều được đồng chí giao cho trợ lý ghi chép đầy đủ và thường trực tiếp có ý kiến yêu cầu các cơ quan liên quan của Ðảng và Nhà nước xem xét giải quyết kịp thời. Các chương trình, dự án trọng điểm như: Dự án xây dựng cảng nước sâu và Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô; dự án hồ Tả Trạch, đập Thảo Long; chương trình khắc phục hậu quả trận lũ lụt lịch sử năm 1999 đã được đưa vào kế hoạch và triển khai có kết quả là nhờ sự quan tâm của lãnh đạo Ðảng và Nhà nước.
"Mỗi khi trao đổi, trò chuyện, Ðại tướng Lê Ðức Anh đều nhắc nhở chúng tôi luôn quan tâm đến công tác dân vận và thực hiện tốt chính sách hòa hợp dân tộc. Phải tìm hiểu để cảm thông sâu sắc với đời sống vật chất, tinh thần của mỗi nhà, mỗi người; nắm vững tâm tư, nguyện vọng của họ, nhằm chủ động giúp họ vượt qua khó khăn cụ thể để hòa nhập tốt với cộng đồng xã hội" - đồng chí Nguyễn Văn Mễ nhớ lại.
NGUYỄN CÔNG HẬU
Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vị tướng dạn dày trận mạc. 99 tuổi đời, gần 80 năm tuổi Đảng, cuộc đời binh nghiệp của Đại tướng Lê Đức Anh trải dài suốt các cuộc kháng chiến của dân tộc trong thế kỷ 20, từ chống Pháp, chống Mỹ, đến chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc… Ông được người dân Nam bộ yêu mến gọi bằng cái tên Sáu Nam thân mật.
Ông Nguyễn Văn Tiêu, nguyên chiến sỹ quân báo Miền (còn gọi là R), năm nay 79 tuổi nhớ lại: vào khoảng năm 1965, khi ấy ông là chiến sỹ thông tin của Sư đoàn 9 đã được gặp vị chỉ huy Lê Đức Anh, Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Miền Nam trong một đợt hành quân tại địa bàn huyện Bù Đốp, tỉnh Phước Long (cũ), nay là tỉnh Bình Phước.
Trung úy quân báo Nguyễn Văn Tiêu hồi tưởng: "Thời ấy bộ đội ta khá vất vả, anh em ai cũng ốm nhom do phải hành quân nhiều, nhưng tình cảm giữa chỉ huy và bộ đội, giữa chiến sỹ và sỹ quan rất keo sơn, gắn bó. Tôi biết Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng tài. Ông ấy là người chỉ huy rất cương quyết. Đánh và giữ từng tấc đất ở miền Tây là Đại tướng. Tính cách cương quyết của một thủ trưởng như Đại tướng là biểu hiện một tinh thần chiến đấu kiên cường. Đại tướng đã hạ lệnh là đánh liền. Chính ý chí của người lãnh đạo rất kiên cường ấy mà những người lính chúng tôi rất khâm phục”.Ông Tiêu ấn tượng về một vị chỉ huy có giọng nói trầm ấm, truyền cảm và phong cách rất gần gũi, chân tình với chiến sĩ. Thời gian này, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Miền Nam Lê Đức Anh, đơn vị ông tham gia đánh các trận như: Bình Giã, Đồng Xoài, Bù Đốp… Anh em cán bộ, chiến sỹ Sư đoàn 9 cũng như các đơn vị khác trên mặt trận đều rất tin tưởng và thực hiện tuyệt đối mệnh lệnh của Bộ chỉ huy Miền.
Đại tá Cao Văn Quý, năm nay 74 tuổi thì nhớ nhất những kỷ niệm về Đại tướng Lê Đức Anh khi ông là Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia - hay còn gọi là Tư lệnh Mặt trận Bốn Bẩy Chín (479).
Vào khoảng giữa năm 1979, ông Quý là Tham mưu phó Trung đoàn 177, Quân khu 7, chiến đấu trên đất bạn nhằm đánh đuổi chế độ diệt chủng Pon Pot – Ieng Sary. Là người chỉ huy cao nhất của Mặt trận 479 trên đất bạn Campuchia, nhưng ông Cao Văn Quý nhận thấy ở vị Tư lệnh ấy một phong cách chỉ huy rất sát sao thực tế. Tư lệnh Lê Đức Anh điều nghiên cứu rất kỹ những thông tin trinh sát, thông tin tình báo trên chiến trường. Tư lệnh triển khai các phương án tác chiến rất cụ thể, truyền đạt mệnh lệnh đến các cấp chỉ huy rất rõ ràng... nên đó là động lực để Trung đoàn 177 hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Đại tá Cao Văn Quý, nguyên Trưởng phòng Đặc công, Quân khu 7 và nhiều anh em cựu chiến binh còn rất nhớ những tình cảm mà vị chỉ huy trên chiến trường dành cho chiến sỹ của mình cũng như nhân dân nơi đóng quân.
Đại úy Nguyễn Trọng Hưng, nguyên chiến sỹ Sư đoàn 302, Quân khu 7 cũng từng chiến đấu tại Mặt trận 479, hiện ông là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Phường 3, quận Bình Thạnh, TPHCM. Mặc dù chưa từng được gặp mặt vị tướng của mình, nhưng qua những câu chuyện của đồng đội, của các chỉ huy khác, ông bộc bạch: “Theo tôi được biết, mỗi khi đi chiến dịch, Đại tướng đều xuống tận nơi kiểm tra tận nơi trước khi vào các trận đánh. Đại tướng cũng thăm hỏi cán bộ, chiến sỹ để có những quyết định thao lược chắc thắng. Đại tướng khi giải phóng đất nước xong được điều lên làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, rồi làm Chủ tịch nước thì điều đó cũng thể hiện sự tin tưởng của Đảng, của nhân dân đối với Đại tướng”.“Đại tướng Lê Đức Anh đã dành nhiều tình cảm đối với anh em binh lính. Anh em rất thương mến Đại tướng. Đại tướng đối với nhân dân cũng rất tốt, trong đó có dân Campuchia, Đại tướng cũng coi như dân của mình. Đại tướng gắn bó với nhân dân, xây dựng chính quyền địa phương nhiều hơn. Đại tướng chỉ đạo rất sát sao, phong cách chỉ đạo, lãnh đạo, chỉ huy, rồi công tác quần chúng… của Đại tướng Lê Đức Anh được thực hiện rất chu đáo, rất tốt”- Đại tá Cao Văn Quý nói.
Những cựu chiến binh từng chiến đấu dưới sự chỉ huy của Đại tướng Lê Đức Anh mà chúng tôi gặp đều khẳng định, ông là vị tướng tài, thận trọng, khi đã hội đủ điều kiện thì quyết đánh và quyết thắng. Không chỉ là vị tướng tài nơi trận mạc, Đại tướng Lê Đức Anh còn là người nhân hậu, luôn quan tâm chăm lo cho anh em cán bộ, chiến sỹ cũng như nhân dân; luôn quan tâm bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ trong quân đội./.
Ở miền châu thổ Cửu Long, người ta gọi ông với cái tên thật gần gũi “Bác Sáu Nam”. Bởi suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, dù ở cương vị nào ông cũng luôn giản dị, chân thành, để lại nhiều dấu ấn trong phong cách lãnh đạo, chỉ huy và đôi lúc giống như một người cha, người chú, người anh em, người con của nhân dân.
Vậy nên khi biết tin ông mất, người dân miền sông nước ai cũng đau xót, tiếc thương cho một trí tuệ và nhân cách cao đẹp từng có thời gian dài gắn bó máu thịt với Đồng bằng sông Cửu Long.
Trong lần công tác gần đây tại huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang, chúng tôi may mắn được gặp bà Trần Thị Mầm, 85 tuổi ở xã Đông Hưng A, người có nhiều kỷ niệm với Đại tướng Lê Đức Anh. Trong câu chuyện kể của bà thì lần cuối cùng về thăm, tặng quà gia đình người có công tại xã Đông Hưng A và Vân Khánh Đông (nơi Đại tướng Lê Đức Anh từng sống và chiến đấu nhiều năm liền) năm 2014, dù đã bước sang tuổi 94 nhưng Đại tướng Lê Đức Anh vẫn còn mạnh khỏe và minh mẫn.
Cầm tấm ảnh chụp chung với Đại tướng Lê Đức Anh trên tay, bà Mầm nghẹn ngào kể cho chúng tôi nghe: “Hồi đó khi được địa phương thông báo ra UBND xã đón đồng chí ở Trung ương về làm việc, tôi vui lắm. Mặc dù phải ngồi xe lăn nhưng tôi vẫn bảo con cháu đưa ra. Thật bất ngờ khi người đó là Bác Sáu Nam. Bác nhận ra tôi ngay và không ngừng hỏi thăm tôi cũng như bà con lối xóm trước đây đùm bọc, chở che cho bộ đội trong những năm tháng kháng chiến. Thấm thoắt mới có mấy năm mà Bác Sáu đã đi rồi”. Bà Mầm cho biết thêm, hồi còn chiến tranh, Bác Sáu Nam hay ra nhà bà chơi, thường xuyên động viên bà con cố gắng sản xuất, tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, đoàn kết một lòng chống giặc, cứu nước. Bác gần gũi, sống giản dị nên ai cũng quý.
Cũng như bà Mầm, cựu chiến binh Võ Văn Thêm vẫn chưa hết bàng hoàng khi hay tin Bác Sáu Nam mất. Nhớ lại buổi về thăm Vân Khánh Đông của Đại tướng Lê Đức Anh năm ấy, ông Thêm cho biết, lúc đó, Đại tướng Lê Đức Anh rất xúc động khi đến thăm nơi ở, nơi làm việc của mình thời kháng chiến. Gặp ai, ông cũng ân cần, động viên, thăm hỏi. Cùng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân ôn lại những kỷ niệm và không quên nhắc nhở mọi người phải luôn ghi nhớ công ơn của các anh hùng liệt sĩ, người có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Từ đó cùng chung tay xây dựng quê hương, đất nước thêm giàu mạnh, sớm đưa xã nhà hoàn thành các tiêu chí trong xây dựng nông thôn mới, để người dân có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc hơn. Ông Thêm kể tiếp: “Thời chiến đấu đâu biết Bác Sáu Nam giữ chức vụ gì, chỉ biết ông được tăng cường cho Quân khu 9. Nhưng nếu nhìn bên ngoài thì không ai nghĩ ông là cán bộ cấp cao. Bởi cách ăn mặc, lời nói, cử chỉ rất bình dị”.
Đi tới đâu, chúng tôi cũng được nghe những câu chuyện về Bác Sáu Nam, gần gũi mà thân thương như một người con của quê hương Nam Bộ. Tiếp chúng tôi tại nhà riêng ở xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang, Thiếu tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Lê Thanh Sơn, nguyên Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Cần Thơ đang cầm trên tay cuốn sách “Quân và dân Khu 9-40 năm chiến thắng 75 lượt tiểu đoàn địch vi phạm hiệp định Paris 1973”. Trong đó có bài viết “Tôi phải đánh đã” của Đại tướng Lê Đức Anh. Với ông, đồng chí Lê Đức Anh là một vị tướng giỏi, người chỉ huy bản lĩnh, dám quyết, dám chịu trách nhiệm.
Và một trong những quyết định của Đại tướng Lê Đức Anh khiến ông đặc biệt ấn tượng là sau khi Mỹ ký Hiệp định Paris (năm 1973), nhiều chiến trường ngừng bắn nên bị địch o ép, gây ra tình cảnh khó khăn, nhưng ở Quân khu 9, đồng chí Lê Đức Anh vẫn lệnh cho quân đánh địch. “Chúng tôi thấy đánh là đúng, đánh như vậy để thăm dò Mỹ xem có trở lại hay không”, ông Sơn nói.
Đồng chí Lê Đức Anh còn là người chỉ huy dự đoán được sớm, nắm chắc được tình hình và trong lúc khó khăn nhất ông luôn vững vàng. Ông Sơn nhớ lại, vào giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mỹ-ngụy cam go, ác liệt nhất, đồng chí Lê Đức Anh quyết định đặt sở chỉ huy tại xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang, bất chấp nguy hiểm để gần với chiến trường, dễ sâu sát và kịp thời trong chỉ đạo đấu tranh.
“Cái tài của người chỉ huy được thể hiện ở sự mưu trí, dũng cảm và biết dựa vào sự đùm bọc, chở che của nhân dân. Nhờ vậy, trong suốt thời gian hoạt động, dù ở sát địch nhưng chúng vẫn không nhận ra ta. Đồng thời, dễ dàng nắm bắt tình hình chiến trường một cách nhanh chóng và chính xác để có biện pháp đấu tranh phù hợp. Không chỉ là người chỉ huy giỏi mà đồng chí Lê Đức Anh còn là người mẫu mực, khiêm tốn, sống hòa hợp với anh em cán bộ và quần chúng nhân dân. Dù là người chỉ huy, nhưng đồng chí vẫn trực tiếp tham gia lao động với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Đó là một người chỉ huy, người anh mà tôi luôn học hỏi”, Thiếu tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Lê Thanh Sơn nhấn mạnh.
THÚY AN
Việt Nam giúp Campuchia trong sáng, nghĩa tình quốc tế cao cả và thời kỳ đó đồng chí Lê Đức Anh là người lãnh đạo cao nhất, tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.
Nhiều dấu ấn với Campuchia
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đại tướng Lê Đức Anh làm Tư lệnh Quân khu 9 rồi Tư lệnh Quân khu 7, Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam, trưởng đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia trong thời kỳ Việt Nam thực hiện nghĩa vụ quốc tế tại đất nước chùa Tháp. Đại tướng Lê Đức Anh đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc nhìn nhận, đánh giá bản chất của Pol Pot trong lúc bấy giờ - khi chúng ta còn lúng túng trong việc xác định là bạn hay thù. Ông đã đánh giá đúng tính chất cuộc giao tranh ở Campuchia sau ngày 7-1-1979 để từ đó chỉ đạo, chỉ huy quân tình nguyện và các đoàn chuyên gia quân sự phương thức, phương châm tiến hành cuộc đấu tranh nhằm truy quét tàn quân Khmer đỏ, giúp Đảng, Chính phủ và nhân dân Campuchia phục hồi cuộc sống, khắc phục chế độ của chế độ diệt chủng và xây dựng đất nước Campuchia cho đến khi chúng ta hoàn thành nghĩa vụ quốc tế, toàn bộ các đơn vị quân tình nguyện và đoàn chuyên gia quân sự về nước vào năm 1989.
Chia sẻ những kỷ niệm “ấn tượng rất sâu sắc”, mãi không quên, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Vũ Mão nói, nguyên Chủ tịch nước - Đại tướng Lê Đức Anh là người mộc mạc, giản dị, tâm huyết, tận tâm, chân thành, tác phong không quan cách mà gần gũi, thân tình với mọi người... Khi đồng chí Lê Đức Anh là Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, ông Vũ Mão là Bí thư Thứ nhất của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. “Thời kỳ đó, quân đội ta giúp nước bạn và các chiến sĩ đều trẻ tuổi nên tôi thường xuyên sang thăm, động viên, cũng như góp sức giải quyết những khó khăn để các chiến sĩ bộ đội phấn khởi, có tinh thần vui, thoải mái, lạc quan, yêu đời dù trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Khi sang Campuchia, tôi thường gặp Tư lệnh Lê Đức Anh để nghe đánh giá về thanh niên của ta ở trên đất bạn làm nghĩa vụ quốc tế”, ông Vũ Mão hồi tưởng.
Theo ông Vũ Mão, chúng ta giúp Campuchia trên tinh thần quốc tế trong sáng, nghĩa tình cao cả và thời kỳ đó đồng chí Lê Đức Anh là người lãnh đạo cao nhất, tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, đồng chí chỉ đạo sâu sát đối với các đơn vị địa phương để ta giúp Campuchia có hiệu quả nhất. Chiến trường Campuchia gian khổ, khó khăn, quân đội, các chiến sĩ trẻ gian nan nhưng tình cảm, cũng như sự sâu sát đồng chí Lê Đức Anh đã, động viên các chiến sĩ chúng ta, gỡ khó khăn trên chiến trường.
“Có dịp tiếp xúc với Đại tướng Lê Đức Anh, tôi thấy ông là con người sắc sảo, nắm chắc tình hình, là người nhìn xa trông rộng. Trong công tác thanh niên ở mặt trận Campuchia, ông với tôi có những đêm ngồi cùng nhau tâm tình, trao đổi. Ông là con người giàu tình cảm, tin cậy lớp trẻ, thanh niên”, ông Vũ Mão kể. Đặc biệt, Đại tướng cũng rất quan tâm xây dựng lực lượng trẻ ở Campuchia. Khi đó chúng ta yêu cầu làm sao tập hợp thanh niên Campuchia vào tổ chức rộng rãi là Hội Thanh niên cứu nước Campuchia, bước nữa là tập hợp thanh niên ưu tú vào trong Đoàn Thanh niên cách mạng Campuchia. Với Campuchia lúc đó, những vấn đề này còn xa vời, ngỡ ngàng. Cho nên trong phối hợp hai bên đã cử đồng chí Hunsen là Chủ tịch Thanh niên cứu nước Campuchia để xây dựng lực lượng thanh niên Campuchia.
Đại tá Khuất Biên Hòa, nguyên thư ký giúp việc cho Đại tướng giai đoạn 2000 - 2007 và là người thực hiện cuốn hồi ký “Đại tướng Lê Đức Anh - Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng” cho rằng, có thể nói, sự lớn mạnh, vững vàng ngày nay của Campuchia có sự giúp đỡ tận tình, hiệu quả, chí tình, chí nghĩa của quân tình nguyện Việt Nam. Những năm tháng làm nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia đã cho thấy phẩm chất tuyệt vời của quân đội, nhân dân, dân tộc Việt Nam với người đứng đầu được Đảng, Nhà nước giao trọng trách chỉ huy, lãnh đạo là Đại tướng Lê Đức Anh.
Trung thực với lịch sử
Một ấn tượng sâu sắc khác được ông Vũ Mão nhắc đến về nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, đó là sinh thời, dù đã nghỉ hưu nhưng Đại tướng vẫn rất quan tâm đến tình hình đất nước và thường xuyên có những góp ý chân thành, thẳng thắn. Vụ cưỡng chế đất sai luật của chính quyền huyện Tiên Lãng, TP Hải Phòng đối với gia đình ông Đoàn Văn Vươn vào năm 2012, biết chính quyền sai, ông đã kịp thời lên tiếng trên báo chí, sau đó chính quyền Hải Phòng đã nhận ra cái sai của huyện Tiên Lãng để điều chỉnh và xử lý cán bộ. Một người lãnh đạo cấp cao, dù đã nghỉ hưu mà vẫn quan tâm đến số phận, hoàn cảnh của một gia đình người nông dân là vô cùng quý giá và rất đáng trân trọng.
Nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Vũ Mão còn nhắc đến một kỷ niệm sâu đậm giữa ông với Đại tướng Lê Đức Anh, thông qua một bài thơ và một bức thư hồi đáp. Ông Vũ Mão kể, vào năm 2000, khi Đại tướng Lê Đức Anh tròn 80 tuổi, ông có tặng Đại tướng một bài thơ có 8 khổ nói lên đóng góp của vị tướng này với đất nước, cách mạng và sự hy sinh “nằm gai nếm mật, tinh thần đồng đội rất cao”. “Ít ngày sau, rất bất ngờ, tôi nhận được thư trả lời của nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Bức thư viết: Thân gửi đồng chí Vũ Mão. Tôi đã nhận được bài thơ của đồng chí mừng 80 tuổi đời, lời thơ thân thiết và chân tình. Tôi rất cảm ơn và giữ mãi làm kỷ niệm. Chúc đồng chí và gia đình vui khỏe, hạnh phúc”, ông Vũ Mão chia sẻ và cho biết, đây không phải lần đầu tiên ông có bài thơ, bài viết ca ngợi người này, người khác, nhưng không ngờ, Đại tướng Lê Đức Anh lại viết thư hồi đáp, cám ơn, cho thấy Đại tướng Lê Đức Anh là người rất chu đáo, khiến ông vô cùng xúc động.
Đại tá, PGS-TS Hồ Sơn Đài - nguyên Trưởng phòng Khoa học quân sự Quân khu 7, người chấp bút cuốn hồi ký thứ 2 của Đại tướng Lê Đức Anh - chia sẻ, Đại tướng đã để lại những dấu ấn trong toàn bộ cuộc đời hoạt động của mình. Tất cả những điều mà Đại tướng đã trải qua, ông có ý nguyện viết lại, và viết thật trung thực. “Ông luôn dặn và nói với tôi rất nhiều lần rằng thà không viết, để đó sau này người khác viết, còn đã viết ra thì phải viết đúng, như những gì đã xảy ra, diễn ra. Đó không chỉ là cái tâm của người viết sử không chỉ là trình độ, kỹ năng của người viết sử, mà còn là ý thức của người viết sử với hiện tại và cả tương lai”, Đại tá, PGS-TS Hồ Sơn Đài cho biết. Cuộc đời Đại tướng đã và sẽ thể hiện qua 2 cuốn sách: cuốn “Hồi ký Lê Đức Anh - Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng” do Khuất Biên Hòa và Nguyễn Trọng Dinh viết (đã xuất bản); còn cuốn thứ 2 do PGS-TS Hồ Sơn Đài viết thì hiện đang trong giai đoạn hoàn thành.
LÂM NGUYÊN
Trong quá trình làm báo, tôi may mắn có cơ hội gặp gỡ Đại tướng Lê Đức Anh; được lắng nghe về những năm tháng trận mạc của Đại tướng và cuộc sống thời bình sau chiến tranh, dù chỉ trong khoảng 2 giờ đồng hồ ngắn ngủi, nhưng để lại những kỷ niệm sâu sắc, không thể quên...
Vẫn biết rằng “sinh - lão - bệnh - tử” là quy luật của đời người và không ai có thể tránh khỏi nhưng hay tin Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước, từ trần, nhân dân cả nước không khỏi xúc động, tiếc thương. Trong quá trình làm báo, tôi may mắn có cơ hội gặp gỡ Đại tướng Lê Đức Anh; được lắng nghe về những năm tháng trận mạc của Đại tướng và cuộc sống thời bình sau chiến tranh, dù chỉ trong khoảng 2 giờ đồng hồ ngắn ngủi, nhưng để lại những kỷ niệm sâu sắc, không thể quên...
Bí mật vào Nam trên tàu không số
Đó là một buổi sáng trung tuần tháng 4 cách đây tròn 10 năm, sáng 17-4-2009, nhóm phóng viên Báo SGGP may mắn được Đại tướng Lê Đức Anh tiếp riêng tại nhà công vụ (số 5A phố Hoàng Diệu, quận Ba Đình). Trên căn phòng khách tầng 2 của ngôi nhà, Đại tướng đang ngồi đọc sách, khi chúng tôi vào, tặng ông các ấn phẩm Báo SGGP, ông vui vẻ nhận và liền nói: “Báo SGGP là báo hay lắm. Vậy là cũng sắp tới 30-4 rồi đó. Từ ngày giải phóng, thống nhất đất nước tới giờ, tôi vẫn thường đọc báo của các bạn...”.
Bắt tay Đại tướng và ngồi hầu chuyện với ông, tôi mới có dịp quan sát căn phòng khách của Đại tướng - người từng là nguyên thủ quốc gia - lại vô cùng giản dị. Căn phòng không quá rộng, ngoài hai bộ bàn ghế, dãy tủ sách thì trên tường, ở vị trí trang trọng nhất là bức tranh sơn mài Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở một vị trí khác là tấm hình đen trắng, ghi lại kỷ niệm của “anh Sáu Nam” - Đại tướng Lê Đức Anh - cùng các đồng chí của mình tại mặt trận Nam bộ, trước thời điểm bắt đầu Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 1975. Một chữ “Tâm” được đặt ngay ngắn ngay phía sau chiếc bàn làm việc của ông.
Câu chuyện của chúng tôi với Đại tướng Lê Đức Anh bắt đầu bằng ký ức của ông về cuộc chiến tranh chống Mỹ. Đó là những năm tháng vô cùng gian khổ, ác liệt mà ông không thể nào quên. Thời gian như dừng lại, ông trầm ngâm một lúc để nhớ lại những ký ức về cuộc chiến, rồi kể lại cho chúng tôi về những ngày đầu khi ông từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Đó là một đêm mùa đông giá rét cuối tháng 12-1963, khi đó ông bí mật bước lên con tàu không số xuất phát từ Đồ Sơn (Hải Phòng).
Theo hồi ức của ông, lúc đó, đồng chí Tâm (quê ở Long Mỹ, Cần Thơ) là một cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc đã đưa ông lên con tàu không số. Là người từng chinh chiến nhiều trận mạc từ thời kháng chiến chống Pháp, nhưng lần này theo Đại tướng Lê Đức Anh, nhiệm vụ Đảng và quân đội giao cho ông là rất nặng nề.
Chiếc tàu ông đi đêm đông năm đó chở vũ khí cho chiến trường miền Nam và 2 tấn thuốc nổ. Chia sẻ với chúng tôi, ông cho biết, lúc đó, tàu chở theo thuốc nổ để nếu không may bị rơi vào vòng vây địch sẽ cho nổ, cả người và vũ khí đều tan chìm xuống biển, quyết không để lọt vào tay kẻ thù. Nếu đi trót lọt, sẽ có vũ khí, đạn dược cung cấp cho bộ đội ta ở chiến trường miền Nam...
Sau nhiều ngày đêm lênh đênh trên biển, con tàu bí mật đưa ông tới Đất Mũi Cà Mau. Từ đó, ông đi bộ lên biên giới Campuchia, rồi về Tây Ninh, chính thức nhận nhiệm vụ quan trọng: Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam.
Cũng từ đó, khi thì ở chiến trường Đông Nam bộ, khi thì về miền Tây với nhiều vị trí chỉ huy quan trọng, Đại tướng lăn lộn cùng bộ đội, cùng đồng chí, đồng bào trải qua rất nhiều trận chiến đấu ác liệt, cho đến 8 giờ 30 ngày 30-4-1975 lịch sử, ông đã đặt chân lên đường phố Sài Gòn - thời khắc của Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Nhắc lại những năm tháng chiến đấu trên chiến trường miền Nam, Đại tướng Lê Đức Anh chia sẻ: “Sau Hiệp định Paris, khi địch không thi hành hiệp định với chủ trương “tràn ngập lãnh thổ”, đánh ác liệt nhưng quân ta rất anh dũng chiến đấu, quyết giữ từng tấc đất vùng giải phóng, mở rộng địa bàn, tạo thế chiến lược cho cuộc chiến cuối cùng giải phóng toàn bộ miền Nam”.
Tầm cao chiến lược của một nhà quân sự
Có lẽ chính sự xét đoán ở tầm cao chiến lược của một nhà quân sự lỗi lạc, sự quyết đoán của một vị tướng chiến trường vô cùng sâu sát trong thời điểm quan trọng đã mở ra thời cơ to lớn cho toàn bộ cục diện.
Mùa khô năm 1974, đó là thời điểm cực kỳ quan trọng đối với chiến trường Nam bộ, khi quân đội ta đã liên tục giành được những thắng lợi quan trọng, trong đó có vai trò then chốt của Tướng Sáu Nam - Lê Đức Anh. Tình thế chiến trường thay đổi, thế cân bằng địch - ta đã nghiêng về lực lượng cách mạng và là lúc Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975 bắt đầu.
Trong chiến dịch lịch sử này, ông là Phó Tư lệnh quân giải phóng, Phó Tư lệnh chiến dịch, Tư lệnh cánh quân Tây Nam đánh vào Sài Gòn. Cùng với toàn bộ chiến trường, cánh quân Tây Nam của Tướng Lê Đức Anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong hoàn cảnh vô cùng ngặt nghèo. Bởi lẽ, khu vực Tây Nam là địa bàn đồng nước, nhiều kênh rạch, sông ngòi chia cắt, mưa xuống, cả vùng mênh mông nước, sình lầy, việc hành quân chiến đấu là cực kỳ gian nan vất vả.
Cánh quân Tây Nam dưới sự chỉ huy của ông cùng một lúc hoàn thành nhiều nhiệm vụ: một mũi quân cắt đường số 4 không cho địch từ Sài Gòn xuống Cần Thơ và cũng không cho địch từ Cần Thơ lên Sài Gòn; một mũi quân khác đánh chiếm thị xã Hậu Nghĩa, Chi khu Đức Hòa, tiến vào Biệt khu Thủ đô; mũi thứ 3 từ Cần Đước, Cần Giuộc đánh vào Tổng nha Cảnh sát… Tất cả nhắm đến mục tiêu tiến vào Sài Gòn, hợp quân ở Dinh Độc Lập.
Chiến thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh ngày 30-4 không chỉ giải phóng miền Nam mà đất nước còn được thống nhất, non sông thu về một mối. Nói về chiến thắng lịch sử này, Đại tướng trải lòng, đó không chỉ là sự gian khổ, ác liệt của cuộc chiến mà còn là những vấn đề mang tầm quốc tế. Là người từng trải qua cả cuộc kháng chiến chống Pháp, ông so sánh, nếu như khi chúng ta đánh Pháp được bè bạn khắp năm châu ủng hộ, nhất là các dân tộc thuộc địa ủng hộ thì khi đánh Mỹ, không phải đã có sự nhất trí ủng hộ hoàn toàn.
“Thế giới ủng hộ ta có mức độ, thậm chí có nước không ủng hộ vì không tin là ta thắng Mỹ. Cũng có người thương ta nhưng không tin là ta sẽ thắng...”, Đại tướng chia sẻ.
Tuy nhiên, theo Đại tướng, khi chúng ta huy động được sức mạnh, trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thì kẻ địch dù mạnh cỡ nào, nhân dân Việt Nam đều đánh thắng, đó chính là ý nghĩa to lớn của chiến thắng 30-4.
Trở lại với cuộc sống thời bình, Đại tướng tâm sự: Chiến tranh đã lùi xa, đất nước đang ngày một phát triển nhưng vết thương chiến tranh vẫn còn dai dẳng.
“Những nạn nhân chiến tranh còn sống, ta phải làm gì cho họ? Bom mìn trên đất nước ta vẫn còn. Không tháng nào, năm nào không có người chết, người bị thương vì bom mìn. Chất độc da cam không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến những người tham gia chiến tranh, mà còn di hại đến các thế hệ sau của họ”, ông trăn trở.
Đại tướng nhắn nhủ, lớp trẻ cần phải cố gắng nỗ lực học hỏi hơn nữa để kế tục sự nghiệp của lớp người trước. Bởi theo Đại tướng, vinh quang không chỉ có được trong chiến tranh mà vinh quang còn là chiến thắng trong vô vàn khó khăn của thời bình. Điều đó đòi hỏi lớp trẻ hôm nay cần vượt qua được những khó khăn đó để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
QUỐC KHÁNH
Trong những năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia, nhất là quãng thời gian từ năm 1980 đến 1985, khi tôi là cán bộ Phòng Chính trị Sư đoàn 8 và Phòng Tuyên huấn Cơ quan Chính trị Mặt trận 979, Quân khu 9, đã có nhiều lần tôi được gặp Đại tướng Lê Đức Anh (Sáu Nam), Tư lệnh Mặt trận 719, Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia.
Đặc biệt, lần được gặp trực tiếp ông trong chiến dịch mùa khô 1985-1986, tại Sở chỉ huy Sư đoàn 330, đang chiến đấu ở tỉnh Battambang (Campuchia) để lại cho tôi ấn tượng khá sâu sắc về một vị tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc, quyết đoán và luôn tỏ rõ ý chí quyết tâm sắt đá khi đối mặt với kẻ thù. Nhưng đối với đồng đội, cán bộ, chiến sĩ dưới quyền thì ông luôn yêu thương, thông cảm, nhất là trong lúc gặp khó khăn, trở ngại, phải chiến đấu hy sinh xương máu.
Tháng 12-1985, giữa chiến dịch mùa khô 1985-1986, tôi được cơ quan chính trị Mặt trận 979 cử lên công tác tại Sư đoàn 330. Thời gian này, sư đoàn đang làm nhiệm vụ vừa chiến đấu đánh bọn địch còn lẩn trốn, cố thủ trong rừng Tà Sanh, Tức Sóc, vừa mở tuyến đường số 10 đi từ thị xã Battambang vào An Đông, để cho ta và lực lượng vũ trang Campuchia vận chuyển người và phương tiện, vật chất vào xây dựng tuyến phòng thủ biên giới Campuchia giáp Thái Lan, ở các điểm cao 503, 504, 271, 445 và Pailin.
Tình hình sức khỏe của bộ đội giảm sút nghiêm trọng khi vào chiến đấu ở khu vực Tà Sanh, Tức Sóc, tỉnh Battambang. Đây là địa bàn được mệnh danh là “cái rốn’ sốt rét ác tính, sốt rét đái huyết cầu tố với tỷ lệ tử vong cao nhất Đông Dương, đã làm cho đơn vị gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, bọn địch lén lút gài mìn và phục kích, tập kích nhỏ lẻ gây nhiều thương vong cho bộ đội. Sở chỉ huy tiền phương của Mặt trận 979 đóng cùng Sở chỉ huy của Sư đoàn 330 ở An Đông đã tiến hành nhiều cuộc họp với Đảng ủy, chỉ huy sư đoàn tìm cách khắc phục nhưng tình hình chưa có nhiều chuyển biến tích cực.
Trong bối cảnh đó, một hôm, được điện thông báo của cơ quan Bộ tư lệnh Mặt trận 979 và 719 là đồng chí Lê Đức Anh (Sáu Nam), Tư lệnh Quân tình nguyện sẽ xuống trực tiếp nghe báo cáo, kiểm tra, chỉ đạo cho Sư đoàn 330 tại An Đông, Battambang, cán bộ sư đoàn tỏ ra lo lắng, không biết phải báo cáo với thủ trưởng cấp trên ra sao. Trong tâm thức của cán bộ các đơn vị thuộc Quân khu 9 lúc bấy giờ, ai cũng nghĩ thủ trưởng Sáu Nam là vị tướng nghiêm khắc nhất.
Trong lúc một số cán bộ sư đoàn làm báo cáo thì Phòng Tham mưu sư đoàn chuẩn bị bãi đáp cho máy bay trực thăng Mi-8 (máy bay của Liên Xô) viện trợ cho Quân đội ta. Cách An Đông khoảng 2km về phía Tà Sanh có một bãi đất trống khoảng 2-3ha gọi là Bãi Tăng (tên có từ lâu, chúng tôi cũng không rõ có ý nghĩa gì). Ta bố trí cho Tiểu đoàn Quân y của Sư đoàn 330 đóng làm bệnh viện dã chiến ở đây, vừa đón chữa trị cho thương binh, bệnh binh, vừa tiện chuyển thương binh về phía sau bằng máy bay trực thăng. Vì tính chất vô cùng quan trọng trong cuộc đón tiếp Tư lệnh ngay tại chiến trường nên công tác an ninh bảo vệ bãi đáp máy bay và nơi làm việc phải thật chu đáo.
Sư đoàn đã chọn một căn nhà sàn nhỏ của người dân bỏ đi, kín đáo ở mép lùm cây, sửa chữa lại làm nơi làm việc và nghỉ trưa cho thủ trưởng. Điều làm tôi nhớ mãi là thời gian này có Thiếu tướng Trần Văn Trân (Ba Trân), người nổi tiếng một thời trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (ông bị địch bắt năm 1971, trao trả năm 1973 nhưng địch không biết ông là sư đoàn trưởng, chỉ biết ông là một y tá). Thiếu tướng Trần Văn Trân (lúc này là Phó tham mưu trưởng Bộ tư lệnh 719) đang ở công tác với Sư đoàn 330; ông sống rất vui vẻ, lạc quan, yêu thương bộ đội. Nghe tin trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cứu nước, Thiếu tướng Trần Văn Trân công tác gần gũi với đồng chí Lê Đức Anh, do vậy, sư đoàn xin ý kiến ông về việc báo cáo với Tư lệnh Lê Đức Anh.
Đồng chí Ba Trân cười rất vui, ông nói vừa nghiêm trọng, vừa thân tình: "Các cậu cứ quan trọng mọi vấn đề lên cho khổ, làm thế nào thì báo cáo vậy, cứ trung thực với Tư lệnh là được. Có báo cáo trung thực những khó khăn, trở ngại thì trên mới biết mà chỉ đạo, giúp đỡ chứ!". Câu nói của Thiếu tướng Trần Văn Trân khiến anh em chỉ huy Sư đoàn 330 như giảm bớt nỗi lo.
Ngày Tư lệnh xuống thăm đơn vị cũng đã đến. Tôi nhớ hôm ấy khoảng 9 giờ, trời mùa khô quang đãng, mây trắng, máy bay Mi-8 hạ cánh an toàn xuống Bãi Tăng-Tà Sanh, tỉnh Battambang. Tư lệnh Lê Đức Anh bước ra cửa máy bay trong bộ quân phục giản dị (không đeo quân hàm), mắt đeo kính màu, vẫy tay chào anh em ra đón. Đi cùng Tư lệnh Lê Đức Anh là Trung tướng Nguyễn Thới Bưng (Út Thới), Tư lệnh Quân khu 9, Thiếu tướng Nguyễn Đệ (Ba Trung), Tư lệnh Mặt trận 979, cùng nhiều cán bộ cơ quan Tham mưu 719, 979, cơ quan tiền phương Mặt trận 979 và Ban chỉ huy Sư đoàn 330, khoảng 15 cán bộ xếp thành một hàng, đối diện là hàng tiêu binh của Sư đoàn 330 đón theo nghi thức điều lệnh quân đội lúc bấy giờ. Thủ trưởng bước đến đầu hàng, những cán bộ ra đón liền khoát tay cho đội tiêu binh lui.
"Các cậu vẽ chuyện, ở phía trước nghi lễ làm gì!". Tư lệnh Lê Đức Anh tươi vui, thân tình nói với mọi người khiến tôi cảm thấy ông rất gần gũi. Cả đoàn (khách và chủ) đều tay bắt mặt mừng đưa thủ trưởng và đoàn lên nhà sàn, vào làm việc ngay. Chỉ có một chiếc ghế dựa dành riêng cho Tư lệnh Lê Đức Anh, còn lại đều ngồi ở hàng ván làm ghế dã chiến, dựa lưng vào lan can nhà sàn.
Đại tá Huỳnh Trọng Phẩm (Năm Sơn), Sư đoàn trưởng thay mặt Ban chỉ huy sư đoàn báo cáo tình hình chiến đấu, sinh hoạt của đơn vị. Các thủ trưởng chú ý lắng nghe, nhưng đến chỗ bộ đội mở đường bị bọn Pol Pot gài mìn, phục kích, tập kích gây thương vong nhiều, lại bị sốt rét, sức chiếc đấu giảm sút, Tư lệnh Lê Đức Anh đứng bật dậy, bước đến trước đồng chí sư đoàn trưởng (được biết, đây là những lúc ông sắp nổi nóng) nhưng ông chỉ nghiêm giọng hỏi: "Các đồng chí chỉ huy, lãnh đạo thế nào mà để bộ đội thương vong nhiều như vậy? Bọn Pol Pot (lại là tàn quân) sao có thể là đối tượng tác chiến ngang với Quân đội ta được".
Cả phòng họp im lặng, đồng chí sư đoàn trưởng cũng không dám thanh minh, giải thích. Bỗng Thiếu tướng Trần Văn Trân đứng dậy lên tiếng: “Thưa anh Sáu! Tôi không có ý thanh minh giùm anh em, nhưng anh Sáu thông cảm, tôi đã chỉ huy đánh Pháp, đánh Mỹ-ngụy, nhưng cái thằng Pol Pot này thường chỉ đi một tốp nhỏ, súng bộ binh gọn nhẹ, từ trong rừng ra bắn lén một loạt vào xe ta rồi mất hút. Tôi trao đổi với anh em sư đoàn phải có cách, tổ chức đóng nhiều chốt nhỏ vừa bảo vệ xe vận tải, vừa kịp thời truy kích bọn địch ra bắn lén. Sau khi mở đường xong thuận lợi thì chốt ở những chỗ thiết yếu như cua chữ V, đường 10A, 10B...”.
Nghe đồng chí Ba Trân nói vậy, Tư lệnh Lê Đức Anh tỏ ra thông cảm. Như đã chuẩn bị sẵn từ trước, ông ra chỉ thị: "Các đồng chí phải tổ chức ngay một cuộc sinh hoạt học tập ngắn cho bộ đội, quán triệt nhiệm vụ chiến đấu đánh địch, mở đường cho bạn vào xây dựng tuyến phòng thủ biên giới là rất quan trọng trong chiến dịch mùa khô 1985-1986 này. Thấy cần thiết thì củng cố lại một số vị trí cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chủ chốt từ sư đoàn đến trung đoàn, tiểu đoàn...".
Bên cạnh việc chỉ thị cho sư đoàn, Tư lệnh còn chỉ thị nhiều việc cho cơ quan 719, 979 tăng cường đưa bác sĩ, đội điều trị xuống giúp sư đoàn cứu chữa cho thương binh, bệnh binh, tăng cường các đơn vị công binh mở đường, bắc cầu qua suối... Chỉ vẻn vẹn khoảng 2 giờ đồng hồ làm việc của Tư lệnh Lê Đức Anh với Sư đoàn 330 đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ. Năm 1985 và 1986, Sư đoàn 330 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp một phần quan trọng vào thành công chung của Mặt trận 979 trong thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia.
Riêng với tôi, đây là kỷ niệm rất sâu sắc về Đại tướng Lê Đức Anh, đồng thời cũng là niềm vinh dự trong 42 năm tại ngũ (1967-2009) của mình khi tôi từng được chứng kiến những sự kiện, những nhân vật mà nay đã đi vào lịch sử của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Sáng 23-4, đến nhà Đại tá Đặng Quang Quý, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Đảng ủy Vùng 3 Hải quân, chúng tôi cảm nhận được nỗi đau buồn lớn trong lòng người cựu chiến binh hải quân.
Ông Quý nghẹn ngào: “Đại tướng Lê Đức Anh về cõi vĩnh hằng khiến chúng tôi tiếc thương vô hạn, bởi bác là một cán bộ lão thành cách mạng kinh qua nhiều gian truân trong các cuộc kháng chiến vệ quốc. Dù ở trên cương vị công tác nào, bác Lê Đức Anh cũng đều thể hiện sự kiên quyết, kiên trung và kiên định, góp phần đáng kể vào thành công của cách mạng”.
Đại tá Đặng Quang Quý kể: “Tôi nhớ năm 1992, Đại tướng Lê Đức Anh trên cương vị Chủ tịch nước đến thăm Vùng 3 Hải quân. Hôm ấy, Chủ tịch nước xuống tận tàu thăm hỏi, động viên cán bộ, chiến sĩ và căn dặn: “Các đồng chí phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, ra sức luyện giỏi, rèn nghiêm, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc!”. Chủ tịch nước Lê Đức Anh thân mật nói chuyện với cán bộ tàu, chụp hình chung với chiến sĩ trẻ... Những lời huấn thị, những tình cảm của Chủ tịch nước Lê Đức Anh hôm ấy khiến những người lính biển chúng tôi cảm động không nói nên lời"...
Trên tay cầm tờ báo cũ có in hình Đại tướng Lê Đức Anh, bà Hồ Thị Hương, nguyên chiến sĩ thanh niên xung phong ở quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng không giấu nổi xúc động: “Theo dõi trên các phương tiện thông tin đại chúng, biết tin Đại tướng Lê Đức Anh từ trần tối 22-4, chúng tôi vô cùng thương tiếc. Cái tâm, cái tầm của bác ấy khiến đồng bào cả nước đều ngưỡng mộ. Tấm lòng của Đại tướng Lê Đức Anh nhân hậu, suốt cả cuộc đời vì dân, vì nước. Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh mãi đi xa là một tổn thất vô cùng to lớn đối với dân tộc ta và nhân dân ta".
Trên dải đất miền Trung-Tây Nguyên, tất cả những người chúng tôi gặp đều tỏ lòng tiếc thương nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Em Phan Thị Hồng Hạnh, học sinh lớp 11/25 Trường THPT Phan Châu Trinh (TP Đà Nẵng), nói với chúng tôi: “Thế hệ chúng cháu được cắp sách đến trường là nhờ công lao và sự hy sinh của bao thế hệ cha anh đi trước, trong đó có công lao của nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Qua lời giảng của thầy cô, qua những trang sách lịch sử, cháu rất hâm mộ tài năng, đức độ của ông đối với đất nước; ông là một vị tướng tài giỏi của dân tộc. Noi gương ông, cháu sẽ cố gắng học tập thật tốt để mai này góp phần dựng xây quê hương ngày càng giàu đẹp”…
Mấy chục năm đã trôi qua, nhưng nhiều bà con ở Tây Nguyên còn nhớ mãi công ơn của đồng chí Lê Đức Anh dành cho đồng bào, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số. Già làng Y Riu Drơng ở buôn Knia, xã Ea Tul, huyện Cư M’gar (Đắc Lắc) chia sẻ với chúng tôi: “Đại tướng Lê Đức Anh là một chiến sĩ cách mạng trung kiên, trải qua nhiều cương vị công tác và có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Khi trên cương vị Chủ tịch nước, đồng chí luôn dành tình cảm, sự quan tâm đặc biệt đến Tây Nguyên; luôn chỉ đạo Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các tỉnh trong khu vực chăm lo xây dựng Tây Nguyên ngày càng no ấm, xứng đáng là địa bàn có vị trí chiến lược... Công ơn của Bác Hồ và các vị lãnh đạo đất nước đối với đồng bào ta nhiều lắm! Lòng dân Tây Nguyên mãi khắc ghi!”.
Nghe tin Đại tướng Lê Đức Anh từ trần, anh Ksor Lúy ở làng Kom Yô (xã Ia Chía, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai) bày tỏ niềm tiếc thương và tâm sự: “Tôi được biết, nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh rất gần gũi với người nông dân và các tầng lớp lao động nghèo. Tôi lớn lên cũng được biết nhiều chính sách ưu tiên trong phát triển nông nghiệp, văn hóa, xã hội vùng Tây Nguyên từ chỉ đạo của bác Lê Đức Anh. Tây Nguyên ngày càng đổi mới, phát triển bền vững là nhờ ơn Đảng, ơn Bác Hồ và những nhà lãnh đạo tâm huyết, hết lòng vì nhân dân như bác Lê Đức Anh”.
Những lời chia sẻ, bày tỏ lòng tôn kính, niềm tiếc thương vô hạn của các tầng lớp nhân dân trước sự ra đi của nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh, khiến chúng tôi không khỏi bùi ngùi, xúc động, nhất là trong những ngày cả nước ta đang hướng tới kỷ niệm 44 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 44 năm trước, có sự đóng góp không nhỏ của đồng chí Lê Đức Anh.
TIẾN DŨNG - BÌNH ĐỊNH
Sáng 23-4, chúng tôi về xã Lộc An (huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên-Huế), quê hương của nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Trời xứ Huế nắng vàng, mây trắng, mà lòng người trĩu nặng. Cán bộ và nhân dân xã Lộc An mặc dù biết nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh tuổi đã cao, lâm bệnh nặng, nhưng ai cũng ngậm ngùi tiếc thương khi người con ưu tú của quê hương xứ Truồi mãi mãi đi xa.
Đã bao đời nay, người dân làng Bàn Môn, xã Lộc An tần tảo một nắng hai sương với đồng ruộng, họ luôn tự hào là một trong những làng quê giàu truyền thống cách mạng và đặc biệt tự hào vì có người con quê hương đã làm rạng danh vùng đất Cố đô Huế là Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Không riêng người dân làng Bàn Môn mà tất cả các tầng lớp nhân dân xã Lộc An, từ các em học sinh đến các cụ già, cựu chiến binh, người nông dân, trí thức… khi chúng tôi gặp và trò chuyện, họ đều dành những tình cảm đặc biệt và bày tỏ sự nuối tiếc, xúc động trước sự ra đi của nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Em Trần Viết Đức, học sinh Lớp 9/1 (Trường THCS xã Lộc An) bộc bạch: “Hằng tuần, chúng em đều đến Nhà văn hóa Đại tướng Lê Đức Anh để đọc sách, báo. Qua những tư liệu tại đây, chúng em được biết Đại tướng Lê Đức Anh là nhà lãnh đạo có nhiều cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, là người con ưu tú của quê hương xứ Truồi. Chúng em nguyện sẽ học tập thật tốt để xứng đáng với truyền thống quê hương của Đại tướng”.Những rặng tre bên con đường bê tông dẫn vào làng Bàn Môn thường ngày tỏa bóng mát, hôm nay như những dòng lệ cùng lòng người tràn đầy nỗi niềm tiếc thương, nhung nhớ khi hay tin nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh từ trần lúc 20 giờ 10 phút ngày 22-4-2019. Trong khuôn viên Nhà lưu niệm Đại tướng Lê Đức Anh tại làng Bàn Môn, không khí đượm buồn. Ông Lê Trung Thành (cháu họ Đại tướng Lê Đức Anh), hiện đang trông coi, bảo vệ nhà lưu niệm chia sẻ: “Chú Lê Đức Anh là người liêm khiết, giản dị, gần gũi với nhân dân, bà con làng xóm. Mỗi lần về thăm quê, chú luôn dặn dò con cháu phải tích cực chăm lo sản xuất, chịu khó học hành; bà con trong dòng họ, xóm làng phải đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ nhau”. Trên đường ra bến sông Truồi-nơi gắn bó với tuổi thơ của Đại tướng Lê Đức Anh, chúng tôi gặp bà Hoàng Thị Sen (74 tuổi, ở làng Bàn Môn). Bà Sen bùi ngùi: “Dẫu biết bác Anh bệnh nặng nhưng nghe tin bác mất, tôi thấy hụt hẫng như mất đi người thân ruột thịt. Mỗi lần bác về quê như không có khoảng cách giữa người lãnh đạo đứng đầu Nhà nước với những người nông dân chân lấm tay bùn. Khi biết địa phương có kế hoạch xây dựng khu nhà lưu niệm, Đại tướng Lê Đức Anh nói không nên xây to, xây lớn, sẽ ảnh hưởng đến vườn tược của người dân xung quanh...”.
Tại trụ sở Huyện ủy, UBND huyện Phú Lộc, chúng tôi nhận thấy không gian làm việc nơi đây cũng lặng lẽ hơn ngày thường. Đồng chí Đặng Ngọc Trân, Bí thư Huyện ủy Phú Lộc bày tỏ: “Sự ra đi của nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh là mất mát lớn với địa phương, chúng tôi như mất một người thân của mình. Trong suốt chặng đường hoạt động cách mạng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh luôn dành cho Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và LLVT huyện Phú Lộc những tình cảm đặc biệt; luôn quan tâm và có những chỉ đạo sáng suốt, tầm nhìn xa trông rộng đối với quê hương; căn dặn, nhắc nhở các thế hệ cán bộ địa phương phải chủ động xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông, phát triển kinh tế, chăm lo đời sống nhân dân; đoàn kết xây dựng đội ngũ cán bộ vì dân"…Suốt chặng đường hoạt động cách mạng của mình, cả khi đương chức hay lúc đã nghỉ công tác, Đại tướng Lê Đức Anh luôn quan tâm đến quê hương, nhắc nhở các thế hệ cán bộ địa phương phải chủ động chăm lo cho nhân dân có đời sống no ấm, con cháu được học hành chu đáo. Đồng chí Nguyễn Văn Thiệp, nguyên Bí thư Đảng ủy xã Lộc An nhớ lại: "Khi còn công tác, mỗi lần về thăm quê hương, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đều căn dặn, nhắc nhở lãnh đạo xã: “Đất nước ta còn nghèo, địa phương phải năng động, tự mình phấn đấu vươn lên. Cán bộ phải quan tâm, chăm lo đời sống, tạo công ăn, việc làm và thu nhập ổn định cho người dân”. Trò chuyện với chúng tôi, đồng chí Hồ Đắc Sự, Chủ tịch UBND xã Lộc An chia sẻ: “Quê hương Lộc An rất tự hào là nơi sinh ra Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Thực hiện lời căn dặn của Đại tướng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Lộc An luôn đồng lòng quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh. Năm 2018, xã Lộc An đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, thu nhập bình quân đầu người đạt 42,6 triệu đồng/năm”.
Được gặp và nghe những lời nói chân thành, những tình cảm ấm áp, những tấm lòng tri ân sâu sắc của cán bộ, nhân dân ở huyện Phú Lộc, chúng tôi thêm hiểu ân đức của cố Chủ tịch nước Lê Đức Anh dành cho bà con quê nhà.
Bài và ảnh: NGUYỄN VĂN CHUNG
Những ngày Tháng tư này, chúng tôi có dịp về lại quê hương Đại tướng Lê Đức Anh - xã Lộc An (Phú Lộc). Nơi đây còn lưu giữ nhiều kỷ niệm về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Đại tướng - nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của đất nước.
Người con của quê hương Thừa Thiên Huế
Trò chuyện với chúng tôi, ông Lê Trung Thành, nhân viên Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Phú Lộc (người trông coi, bảo vệ Nhà Văn hóa và Thư viện Đại tướng Lê Đức Anh tại thôn Nam, làng Bàn Môn, xã Lộc An và cũng là người cháu gọi Đại tướng Lê Đức Anh bằng chú) chia sẻ: “Cố nội tôi (ông Lê Chuân) với ông nội của Đại tướng Lê Đức Anh (ông Lê Thảng) là hai anh em ruột. Nhiệm vụ của tôi không chỉ bảo vệ Nhà Văn hóa và Thư viện Đại tướng mà luôn mở cửa để giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng và quê hương của Đại tướng đến với người dân”.
Qua quyển sổ vàng lưu niệm tại Nhà Văn hóa và Thư viện Đại tướng Lê Đức Anh, chúng tôi vô cùng cảm kích trước những dòng lưu bút, thể hiện sự kính trọng của lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, Quốc hội; của cán bộ, đảng viên, các cháu thiếu niên, nhi đồng về những đóng góp của Đại tướng đối với cách mạng, với quê hương, đất nước.
“Đại tướng Lê Đức Anh đã có nhiều cống hiến xuất sắc cho cách mạng, cho dân tộc. Công lao to lớn của đồng chí, Quân đội, Nhân dân và Đảng ta mãi mãi trân trọng, học tập và phát huy”, nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu bày tỏ như vậy trong một lần về thăm quê hương Đại tướng Lê Đức Anh. Nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương cũng viết: “Các thế hệ trẻ, nhất là ở Phú Lộc nói riêng và cả nước nói chung noi gương người chiến sĩ cách mạng kiên trung, vị tướng lĩnh tài ba, nhà chính trị xuất sắc của Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp cao cả: Bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường”.
Thôn Nam, làng Bàn Môn, xã Lộc An không chỉ có Nhà Văn hóa và Thư viện Đại tướng Lê Đức Anh mà còn có nhà thờ phái, nhà thờ ông bà, bố, mẹ của Đại tướng. “Năm 1985, Đại tướng về thăm quê. Sau khi đi thăm, thắp hương mộ phần bố mẹ mình, Đại tướng đi đến từng nhà, gặp gỡ bà con, người dân để hỏi thăm tình hình, cuộc sống. Mỗi lần về quê, Đại tướng bao giờ cũng tổ chức ăn cơm buổi trưa với bà con và gia đình rồi mới đi. Đại tướng rất thích ăn dâu Truồi, thanh trà và cá đầm Cầu Hai. Về quê nhà, Đại tướng luôn nhắc chúng tôi nấu cho một ấm chè Truồi và ra bến sông Truồi câu cá để nhớ lại tuổi thơ của mình. Năm 2013 là năm cuối cùng Đại tướng về thăm quê Lộc An”, ông Lê Chương (70 tuổi), người gọi Đại tướng Lê Đức Anh bằng bác xúc động kể.
Khắc ghi lời Đại tướng dặn
Phát huy truyền thống cách mạng, theo lời căn dặn của Đại tướng Lê Đức Anh, Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân xã Lộc An nói riêng và huyện Phú Lộc nói chung luôn nỗ lực cố gắng không ngừng. Chủ tịch UBND xã Lộc An Hồ Đắc Sự nhớ lại, cứ mỗi lần vào thăm quê, Đại tướng luôn hỏi về thế mạnh, điều kiện tự nhiên và nhắc nhở cán bộ địa phương phải biết tận dụng những thế mạnh để tập trung phát triển kinh tế.
Trong một buổi gặp gỡ thế hệ lãnh đạo trẻ của xã, Đại tướng nói: “Làm lãnh đạo là phải gần dân, giúp dân và lấy sự phát triển của địa phương làm mục tiêu. Dù quá trình thực hiện có những khó khăn, nhưng chỉ cần toàn thể cán bộ đoàn kết thì sẽ có cách để vượt qua. Những lời dạy đó của Đại tướng, cán bộ của xã luôn khắc nhớ để làm theo.
Ông Hồ Đắc Sự cũng cho hay, kinh tế xã Lộc An đang ngày càng đi lên. Thế mạnh của Lộc An là thương mại - dịch vụ. Thu nhập bình quân đầu người không ngừng tăng lên theo từng năm. Nhiều tuyến đường giao thông nông thôn được đầu tư, nâng cấp đã làm thay đổi diện mạo nông thôn mới. Có được kết quả đó chính là nhờ sự đoàn kết, nhất trí cao của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân...
Mấy ngày nay, nghe tin Đại tướng Lê Đức Anh qua đời, Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân xã Lộc An, huyện Phú Lộc đã và đang chỉnh trang lại Nhà Văn hóa và Thư viện Đại tướng để phục vụ cho cán bộ, đảng viên, Nhân dân đến phúng viếng. Đó cũng là cách để thể hiện sự trân quý, lòng thành kính, biết ơn đối với Đại tướng Lê Đức Anh - người con ưu tú của quê hương Thừa Thiên Huế.
Anh Phong – Đức Quang
Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh từ trần, để lại niềm tiếc thương trong lòng người dân. Tại xã miền núi Quế Phong, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, quê hương bà Võ Thị Lê, phu nhân nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, nhiều người ngậm ngùi nhớ lại những lần ông cùng vợ về thăm quê; Nhớ những cái bắt tay thật chặt, những lời dặn dò thân tình, bữa cơm đạm bạc mà vợ chồng ông dành cho người dân nghèo nơi đây.
Vùng đất xã Quế Phong, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam đất đai cằn cỗi. Nơi đây, những năm tháng kháng chiến với địa hình chủ yếu là núi nên trở thành vùng căn cứ cách mạng.
Gia đình bà Võ Thị Lê - vợ nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh là một cơ sở cách mạng kiên trung. Bà Võ Thị Hồng Sâm- chị cả trong gia đình bà Lê là Bí thư Chi bộ Đảng đầu tiên của xã Quế Phong. Những người chị, người anh trong gia đình bà Lê đều đi theo cách mạng.
Bà Võ Thị Lê ra Bắc, gặp ông Lê Đức Anh lúc đó đã có chức vụ trong quân đội. Hai người kết duyên vợ chồng với những câu chuyện kể đầy lãng mạn, nghĩa tình.
Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh dù bận trăm công nghìn việc vẫn dành thời gian về thăm quê vợ. Lần gần nhất là vào năm 2013, lúc đó, ông không tự đi lại được mà phải ngồi xe lăn.
Ông Trần Hoa, ở thôn Thuận Long, xã Quế Phong nhớ như in, năm ấy đúng vào dịp tộc Võ xây dựng nhà thờ. Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh lặng lẽ đến bên bàn thờ thắp nén nhang tưởng nhớ ông bà, tổ tiên. Sau đó, ông đến nhà ông Hoa ăn bữa cơm đạm bạc.
Mẹ ông Trần Hoa là chị ruột bà Võ Thị Lê. Ông Hoa gọi bà Lê bằng dì ruột, gọi ông Lê Đức Anh bằng dượng. Ông Trần Hoa kể, nhà quê thiếu thốn, chợ búa thì xa nên không biết làm món gì mời vợ chồng dượng.
Lúc đó có người bảo, ông cụ chỉ thích ăn những món dân dã do người nhà quê trồng. Vậy là mọi người đi hái mít non làm món mít trộn, mít luộc; hái ngọn bí, luộc chấm mắm; hái ngọn rau lang xào; người thì đi bẻ quả dứa (thơm) làm món tráng miệng. Bữa cơm hôm đó thật ấm áp nghĩa tình, đến bây giờ ông Hoa vẫn không quên.
“Tất cả chị em trong nhà tập trung lại để lo bữa cơm đạm bạc này. Khi ăn, tất cả con cháu đều ngồi quây quần với ông bà. Một bữa cơm không sắm thịt cá gì cả, tất cả đồ nông sản trong nhà mình, là thơm, chuối, mít… Nguyên Chủ tịch nước, cũng là ông dượng ruột, tình cảm không thể nói hết được” – ông Trần Hoa chia sẻ.
Người dân xã Quế Phong luôn nói với nhau rằng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh rất yêu quý nơi này. Cụ nói với mọi người rằng, cả đời ông cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Vợ ông là người sinh ra và lớn lên trên vùng đất anh hùng. Gia đình giàu truyền thống cách mạng nên phải luôn giữ lấy phẩm chất, đạo đức cách mạng, một lòng trung kiên với Đảng.
Người dân xã Quế Phong rất tự hào có được người con rể là Đại tướng, Chủ tịch nước Lê Đức Anh, một người tài giỏi, quyền cao chức trọng nhưng thật giản dị, gần gũi với mọi người.
Bà Võ Thị Minh, ở thôn 4, xã Quế Phong ngấn nước mắt nhớ lại những năm tháng gian khổ được ông Lê Đức Anh về thăm. Gia đình bà Minh với gia đình vợ ông Lê Đức Anh là bà con thân tộc. Bà Minh gọi ông Lê Đức Anh bằng dượng.
“Hồi đó ăn khoai lang, sắn lát chứ không được như bây giờ. Vợ chồng dượng, lần nào về cũng ghé thăm”- bà Minh cho biết.
Ông Võ Văn Kinh - nguyên Chủ tịch UBND huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam cho biết, những lần được gặp Đại tướng là những lần ông học được nhiều điều.
Ông Kinh kể, những lần nguyên Chủ tịch nước về thăm xã, cảnh sát giao thông tỉnh bố trí xe dẫn đường, nhưng cụ không cho. Về thăm xã Quế Phong, mọi người thường thấy cụ mặc bộ đồ quân đội, ăn bữa cơm đạm bạc với bà con. Ông Võ Văn Kinh cho rằng, chính tác phong gần gũi của nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã nêu gương cho đội ngũ cán bộ ở cơ sở.
“Ông thường hay nhắc nhở các con cố gắng việc gì trong sáng thì làm, việc gì có ích cho dân tộc, cho địa phương thì làm, còn việc gì lợi cho cá nhân thì dừng, không được làm. Cả quá trình chỉ đạo ở Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, cho đến khi làm Chủ tịch nước, ông luôn luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, vì Đảng, vì lợi ích của dân tộc, luôn luôn chiến đấu không ngừng. Ông có nói rằng, dượng về làm rể ở đây cũng gặp dòng máu đỏ. Địa phương các con cũng kiên cường trụ bám, không ai làm hại cho dân tộc, dượng rất vui mừng” – ông Võ Văn Kinh chia sẻ.
Quế Phong ngày nay không còn là xã nghèo. Những căn nhà mái lá dưới chân núi giờ đã được thay bằng mái ngói đỏ tươi. Con đường đất đỏ từ trung tâm huyện về xã được thảm nhựa phẳng lì. Người dân xã Quế Phong, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam mong một ngày được đón vợ chồng nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh về thăm, nhưng ngày ấy mãi không thành hiện thực./.
Trước ngày miền Nam giải phóng, tôi hoàn toàn chưa biết đến tên ông - Lê Đức Anh - nhưng sau ngày giải phóng, qua sách báo tôi mới biết vị danh tướng này trước đó đã làm chính quyền và quân đội Sài Gòn khiếp sợ biết chừng nào!
Trên báo chí Sài Gòn vào những năm 1973-1974, chính quyền Sài Gòn thường lu loa rằng “Việt cộng vi phạm Hiệp định Paris 1973, nhất là ở Chương Thiện, U Minh…”. Đó là chúng muốn nói đến những trận đánh tận sào huyệt kẻ thù của bộ đội Quân khu 9 thuộc quyền chỉ huy của Tư lệnh Sáu Hòa (bí danh của đồng chí Lê Đức Anh lúc ấy) gây cho địch những tổn thất nặng nề.
Những ngày cuối tháng 4/1975, lúc đó tôi được giao tổ chức một bộ phận nổi dậy tại quận 5 Sài Gòn. Tôi thấy quân địch bị dồn ép từ các nơi về Sài Gòn tập trung một số lượng lớn binh lính và xe pháo ở quận 5 nhằm chạy về miền Tây theo quốc lộ 4 (tức là phần quốc lộ 1 từ TP Hồ Chí Minh đi Cà Mau ngày nay) với âm mưu co cụm để “Tử thủ miền Tây”.
Nhưng âm mưu này không thực hiện được do quốc lộ 4 bất ngờ bị một cánh quân của bộ đội ta như lưỡi dao thép chọc ngang tại Long An và khóa chặt, làm cho quân địch không thoát được về miền Tây nên mất ý chí chiến đấu và rã ngũ tại chỗ. Sau này, tôi mới biết cánh quân đó là Đoàn 232 mà người chỉ huy là tướng Lê Đức Anh - một vị tướng chiến trường nổi danh bách chiến bách thắng. Từ đó, tôi tìm hiểu thêm về ông và luôn mong có dịp được gặp vị tướng huyền thoại này.
Mãi đến hơn 10 năm sau ngày giải phóng, tôi mới có dịp được gặp mặt ông lần đầu, nhưng không phải tại Việt Nam mà trên đất bạn Campuchia. Số là cuối quý I/1985, tôi được Tỉnh ủy Phú Khánh phân công tham gia Đoàn Chuyên gia giúp bạn K tại tỉnh Stung Treng, làm chuyên gia nông nghiệp dài hạn thuộc biên chế của Tổng đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia.
Thời ấy, đất nước ta còn khó khăn lắm, mà nước bạn Campuchia đang bắt đầu hồi sinh nên càng khó khăn hơn. Chuyên gia giúp bạn thời ấy chỉ được cấp một ít sinh hoạt phí, ở một tỉnh miền núi như Stung Treng thì thiếu thốn trăm bề, không có phương tiện liên lạc, muốn gửi thư về nhà phải chờ vài tháng có xe của đoàn về nước mới gửi được.
Vật dụng thân thuộc hàng ngày là chiếc radio nhỏ và khẩu súng K59 (do đoàn cấp). Nhiệm vụ của tôi lúc bấy giờ là căn cứ tình hình thực tiễn của bạn, giúp bạn xây dựng bộ máy của Ty Nông lâm nghiệp, xây dựng các giải pháp quản lý ngành nông lâm nghiệp và hướng dẫn về công tác quản lý ngành.
Do vậy, ngoài việc hàng ngày bố trí thời gian đến Ty Nông lâm nghiệp để hướng dẫn bạn giải quyết một số công việc chuyên môn, còn cần tìm hiểu về đội ngũ cán bộ để giúp xây dựng tổ chức Đảng Nhân dân Cách mạng (tức Đảng Nhân dân ngày nay) và hàng tuần tổ chức đi thực tế xuống huyện, xã nắm tình hình, tất nhiên là chỉ đối với các xã đảm bảo an ninh.
Sau mấy tháng ổn định công việc, đến tháng 9/1985, tôi được Tổng Đoàn Chuyên gia triệu tập về Phnôm Pênh để dự một lớp tập huấn về các nội dung và phương pháp giúp bạn K trong giai đoạn mới. Thời đó, đường sá đi lại khó khăn lắm.
Theo đường 13 về Krachê trên đất bạn không đảm bảo an ninh, nên phải đi xe Uaz ngược về cửa khẩu Đức Cơ sang Việt Nam, vòng vào TP Hồ Chí Minh để lên Tây Ninh qua cửa khẩu Mộc Bài để sang đất bạn về Phnôm Pênh. Một chuyến đi như thế mất 3 ngày đường.
Tôi nhớ lúc ấy TP Phnôm Pênh còn hoang vắng lắm, trụ sở của Tổng Đoàn Chuyên gia ở gần đường Mao Trạch Đông, xem như thuộc khu vực gần trung tâm nhưng cũng cảm thấy quạnh hiu, muốn tìm chỗ ăn tô hủ tíu Nam Vang cũng mất nửa giờ đi bộ.
Lớp tập huấn chuyên gia được tổ chức trong thời gian 10 ngày, nội dung khá phong phú: từ việc nghiên cứu khái quát về đất nước và con người, lịch sử, phong tục của nước bạn, đến thực trạng kinh tế, xã hội, thực tế chiến trường K, về những vấn đề quốc tế liên quan nước bạn, phương pháp chuyên gia, một số chủ trương lớn của phía ta và phía bạn…
Báo cáo viên là các đồng chí thành viên Ban lãnh đạo của Tổng Đoàn Chuyên gia, trong đó có 6-7 đồng chí lúc đó đang là Ủy viên Trung ương, còn lại đều là cấp Thứ trưởng. Sáng ngày cuối của chương trình tập huấn, tôi và các học viên được nghe giới thiệu đại tướng Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Tư lệnh Chiến trường K, Trưởng Ban lãnh đạo Tổng Đoàn Chuyên gia sẽ nói chuyện với cả lớp về thực trạng tình hình chiến trường K, phương pháp tổ chức làng (phum) tự chiến đấu và những chủ trương mới của Bộ Chính trị ta liên quan công tác giúp bạn K.
Tôi ngồi ở hàng ghế thứ hai, gần sát bục giảng, chưa kịp ổn định thì thấy bên cánh gà có một đồng chí rất cao lớn bước nhanh vào đứng trên bục giảng, làm rung cả bục giảng. Đó là đại tướng Lê Đức Anh - vị tướng huyền thoại mà tôi ngưỡng mộ và luôn mong có lần được gặp - đang đứng trên bục giảng trước mặt tôi.
Ông cao lớn, chắc cũng hơn 1m85, dáng nhanh nhẹn, khỏe mạnh của một người theo con đường binh nghiệp, mái tóc muối tiêu, mắt nhìn thẳng xuống các học viên (lúc đó chúng tôi đều biết ông hỏng một mắt nên không ai ngạc nhiên khi thấy một phía mắt không linh hoạt, nhưng con mắt còn lại thì rất sáng và có uy).
Bằng chất giọng Huế có hơi pha, ấm áp, ông chào hỏi và động viên các chuyên gia từ các tỉnh, các quân khu vượt mọi khó khăn nguy hiểm để về dự lớp và ông cũng khen ngợi các chuyên gia đã vì nhiệm vụ quốc tế của Đảng phải xa Tổ quốc, xa gia đình, thực hiện lời kêu gọi “giúp bạn là tự giúp mình” của Trung ương.
Sau đó, ông khái quát về tình hình chiến trường K sau chiến thắng tại biên giới KPC - Thái Lan trong mùa khô 1984-1985, kết quả của công trình K8 theo chủ trương chung của phía bạn và ta, về việc chuyển hình thái chiến tranh du kích của phía Pôn Pốt và chủ trương xây dựng làng tự chiến đấu. Ông dặn dò: không phải chỉ chuyên gia quân sự, an ninh mới tham gia xây dựng làng tự chiến đấu mà mọi chuyên gia đều phải tham gia theo góc cạnh chuyên môn của mình, vì nếu ở cơ sở bị Khơ Me đỏ quấy phá không yên ổn, thì công tác chuyên gia giúp bạn sẽ không có tác dụng gì.
Ông cũng phân tích chủ trương mới của Bộ Chính trị là phải sớm hoàn thành công việc giúp bạn, để bạn tự chủ hơn và ta cũng từ đó thoát khỏi việc bị bao vây cấm vận. Muốn vậy, theo ông, phải tập trung chuyển ngay, chuyển dứt khoát từ phương châm “ta giúp, bạn làm” trước nay sang phương châm “bạn làm, ta giúp”, phải tin tưởng bạn và tuyệt đối không can thiệp vào việc quản lý cụ thể của bạn, cái gì mà phía bạn chưa có kinh nghiệm hỏi ta thì chỉ gợi ý cách làm nhưng không bắt buộc.
Thực hiện càng nhanh thành công theo phương châm này thì sau 4-5 năm nữa hoàn toàn có thể yên tâm rút đi, bạn tự lực giải quyết được công việc nước bạn, ta mới có thể xóa đi lý do mà các thế lực thù địch nêu ra nhằm bao vây cấm vận ta.
Ông phân tích các vấn đề một cách đơn giản, dễ hiểu, dẫn từ các chủ trương lớn xuống đến các phương pháp, phương châm cụ thể, khái quát được toàn bộ yêu cầu của cả chương trình tập huấn, đã làm cho chúng tôi hiểu rõ vấn đề hơn.
Trong thời gian giải lao giữa buổi, tôi đang do dự tìm cách nào để được trực tiếp nói chuyện cùng ông vì lúc đó đang có mấy đồng chí thành viên Ban lãnh đạo tổng đoàn vây quanh trao đổi cùng ông, thì chợt ông nhìn sang phía tôi và chủ động bước đến hỏi một cách vui vẻ: “Đồng chí chuyên gia trẻ này đang công tác ở đâu?”. Tôi báo cáo ông: “Thưa bác, cháu đang làm chuyên gia nông nghiệp tại tỉnh Stung Treng”.
Ông hỏi kỹ về tình hình ở Stung Treng, sau đó ân cần hỏi thăm về gia đình tôi và gửi lời thăm đến gia đình, nhất là với ba tôi mà theo như ông nói là thăm “người bạn già hai thời kỳ chiến đấu”, làm tôi rất xúc động. Chắc là thấy tôi quá gầy nên ông dặn tôi phải chú ý chăm lo sức khỏe, để “có sức mà công tác cách mạng lâu dài”. Tình cảm chân tình, thân mật của ông giống như một bậc cha chú đang dặn dò con cháu mình.
Ông nói với tôi: “Stung Treng và các tỉnh Đông Bắc là quê hương đồng chí Bu Thoong và cũng là cái nôi của cách mạng Campuchia, dân có cảm tình với cách mạng Việt Nam. Nhưng do điều kiện địa lý nên sản xuất khó khăn, đời sống nhân dân còn khổ lắm, trình độ dân trí thấp nên sẽ bị Pôn Pốt lừa gạt do đó phải giúp bạn làm tốt công tác tư tưởng và chỉ đạo sản xuất tốt”. Ông còn dặn: “Phải sớm triển khai phương châm “bạn làm, ta giúp”. Muốn vậy phải xây dựng được sớm chi bộ Đảng và nhất thiết không can thiệp vào việc điều hành thường xuyên của bạn, kể cả việc sắp xếp cán bộ…”.
Tôi ghi nhớ lời dặn của ông, sau lớp tập huấn về lại Stung Treng, tôi đổi ngay phương pháp công tác chuyên gia tại Ty Nông lâm nghiệp. Mỗi tuần tôi chỉ đến ty 3 buổi với những bài giảng về chuyên ngành với lãnh đạo ty và phòng có liên quan, không can thiệp vào việc điều hành, nếu bạn có gì không rõ muốn hỏi, thì đến Đoàn Chuyên gia cùng tôi trao đổi một số cách làm và bạn tự giải quyết.
Tôi cũng tập trung giúp theo dõi phát triển đảng viên Nhân dân Cách mạng (lúc tôi mới sang, cả ty chỉ có một đảng viên là trưởng ty), phát triển thêm được 2 đảng viên mới, đến tháng 5/1986 lập được Chi bộ Đảng Nhân dân Cách mạng tại Ty Nông lâm nghiệp. Nhờ đó được Trưởng đoàn (bấy giờ là đồng chí Huỳnh Trúc) biểu dương là hoàn thành nhiệm vụ sớm và đề xuất với Tổng Đoàn Chuyên gia và Tỉnh ủy Phú Khánh cho tôi về sớm trước 1 năm so với thời hạn 3 năm như quyết định lúc giao nhiệm vụ.
Những năm sau này, khi được bầu làm ĐBQH khóa VIII, XIII, làm đại biểu Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, IX, X và tham gia BCH Trung ương khóa X, XI, tôi có nhiều dịp được gặp đồng chí Lê Đức Anh, nhưng ấn tượng lần đầu tiên được gặp ông tại Campuchia vẫn là sâu sắc nhất, nhất là tình cảm ân cần, chân tình của ông dành cho một cán bộ cấp dưới tuổi con cháu như tôi làm tôi mãi mãi không quên.
Tôi kể lại kỷ niệm này với mong muốn được xem như một nén hương thắp lên thành kính vĩnh biệt ông. Dù ông đã ra đi về cõi vĩnh hằng nhưng trong lòng tôi cũng như nhiều thế hệ người Việt Nam thì đại tướng Lê Đức Anh, vị tướng chiến trường bách chiến bách thắng huyền thoại, vị Chủ tịch nước trong giai đoạn đầy khó khăn của đất nước đã sát cánh cùng tập thể lãnh đạo xông pha phá thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, đưa đất nước hội nhập và nâng cao vị thế trên trường quốc tế, sẽ luôn sống mãi cùng non sông, đất nước.
ĐÀO TẤN LỘC
Nguyên Ủy viên BCH Trung ương Đảng
Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên
Đại tá, Nhà văn, Nghệ sĩ ưu tú Chi Phan, nguyên Trưởng ban biên tập Truyền hình Quân đội nhân dân kể lại kỷ niệm tháp tùng nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh thăm hữu nghị một số nước vào những năm 1990, khi Đại tướng giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, như nén tâm nhang gửi tới nguyên Chủ tịch nước.
Những năm 90 của thế kỷ trước, Đại tướng Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, từng dẫn đầu Đoàn Đại biểu Quân sự cấp cao Việt Nam thăm hữu nghị một số nước, trong đó có Liên Xô, Bulgaria (tháng 6/1989) và Cuba (tháng 2/1990).
Hồi đó, tôi là Trưởng ban biên tập Truyền hình Quân đội Nhân dân, được trên cử đi theo Đoàn, lấy tài liệu tuyên truyền trên sóng của Đài Truyền hình Việt Nam; viết tin, bài cho Thông tấn xã Quân sự và báo Quân đội nhân dân.
Thấy tôi một mình làm nhiều việc nên Bộ trưởng Lê Đức Anh nhắc nhở các đồng chí Cục trưởng Đối ngoại Bộ Quốc phòng, phiên dịch và thư ký riêng của ông quan tâm, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành nhiệm vụ.
Ngày đầu thăm Liên Xô, Đại tướng dẫn đầu Đoàn tới viếng Lăng Lenin trên Quảng trường Đỏ, đặt vòng hoa tại Đài liệt sĩ ở giữa thủ đô Moscow. Ông cho chúng tôi hiểu rằng, Việt Nam đi theo con đường của Lenin và của Cách mạng tháng Mười, và nhân dân ta, quân đội ta đã giành được những thắng lợi to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cũng như trong hòa bình xây dựng đất nước.
Đoàn Đại biểu Quân sự Việt Nam còn đến thăm một số Quân binh chủng, học viện, nhà trường và thăm 2 thành phố lịch sử: St. Petersburg và Volgograd. Ở đâu, Đoàn cũng được nhân dân và quân đội đón tiếp nồng nhiệt. Khi chia tay, Đại tướng Lê Đức Anh thân tình nói với Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô, Nguyên soái Dmitry Yazov: “Nhân dân và các lực lượng vũ trang Việt Nam mãi mãi biết ơn sự ủng hộ chí tình, sự giúp đỡ to lớn và quý báu về tinh thần và vật chất mà nhân dân, lực lượng vũ trang Xô Viết đã giành cho Việt Nam trong những năm tháng vô cùng khó khăn, ác liệt của cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và xây dựng đất nước. Chúng tôi hy vọng, mối quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng giữa hai nước, hai quân đội sẽ đi vào chiều sâu, thiết thực và ngày càng có hiệu quả”.
Cũng trong dịp này, tháng 6/1989, Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu Đoàn Đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam thăm hữu nghị chính thức Bulgaria. Sau khi hội đàm với Bộ trưởng Quốc phòng Dobri Dzhurov, Đoàn đi thăm ba thành phố lớn là Sophia, Plovdiv và thành phố cảng Varna.
Đặc biệt, tại Varna, Đoàn đã đến thăm Đại học Hải quân nhân dân mang tên Nikola Vaptsarov, một nhà thơ, nhà cách mạng nổi tiếng, từng học ở đây và anh dũng hy sinh trong cuộc chiến đấu chống phát xít. Nhà trường cho biết: Ở đây từng có nhiều học viên Việt Nam theo học; hầu hết họ đều học giỏi và để lại những kỷ niệm cho trường. Cảm động hơn, có một số sĩ quan Việt Nam sau khi tốt nghiệp về nước, ra chiến đấu bảo vệ quần đảo Hoàng Sa; có người đã anh dũng hy sinh.
Nhà trường còn cho Đoàn trực tiếp gặp một học viên Việt Nam đang học tại đây là anh Nguyễn Đức Lưu, 27 tuổi, quê Hải Dương đang làm nghiên cứu sinh tiến sĩ. Đại tướng Lê Đức Anh vui vẻ bắt tay Nguyễn Đức Lưu và chúc anh thành công...
Đối với Việt Nam, Bộ Quốc phòng Bulgaria đã giúp ta đào tạo được 200 sĩ quan không quân, pháo binh, hải quân, tăng thiết giáp. Đó là tình hữu nghị có tính truyền thống giữa Việt Nam và Bulgaria.
Trước khi chia tay, Đại tướng Lê Đức Anh xiết chặt tay Bộ trưởng D. Dzhurov nói: “Giờ đây, hy vọng rằng quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân và quân đội hai nước tiếp tục được củng cố và phát triển”.
Thời gian thăm và làm việc tuy ngắn nhưng Đoàn đã được bạn bố trí cho đi nhiều nơi, chứng kiến những khó khăn do chính sách “cấm vận” của Mỹ và tinh thần đấu tranh kiên cường để bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng, nhân dân và quân đội Cuba.
Đại tướng Raul Castro, Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Cuba tiếp đoàn. Đồng chí xúc động nói: “Cứ mỗi lần gặp, các đồng chí lại giúp chúng tôi hiểu sâu sắc hơn vấn đề chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân. Trong những tháng năm khó khăn này, kẻ thù o ép, răn đe, gây chiến tranh xâm lược. Các đồng chí đã đến tiếp thêm cho chúng tôi niềm tin và sức mạnh chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc...”
Trước những lời nói chí tình của bạn, Bộ trưởng Lê Đức Anh bày tỏ: “Cuộc đấu tranh của nhân dân Cuba và Việt Nam chống kẻ thù chung đã từ lâu gắn bó hai nước bằng quan hệ mẫu mực. Đó là tình đoàn kết anh em chiến đấu cùng chung chiến hào; khi chiến thắng cũng như lúc gặp khó khăn”.
Trong những ngày ở thăm, bạn bố trí cho Đoàn thăm một số học viện, nhà trường, đơn vị và địa phương... Nơi nào cũng để lại những ấn tượng sâu sắc về tình hữu nghị gắn bó Việt Nam-Cuba.
Ngày cuối cùng thăm Hòn đảo Tự do, Đoàn được tiếp kiến Chủ tịch Fidel Castro. Đồng chí nói: “Giờ đây, Cuba tiếp tục suy nghĩ làm cách mạng và bảo vệ cách mạng. Vì thế, những bài học kinh nghiệm của Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước rất có ích cho Cuba”.
Đại tướng Lê Đức Anh xúc động nói lời chia tay: “Xin thưa Chủ tịch, vì lợi ích của hai nước, hai quân đội; vì lợi ích của hòa bình và chủ nghĩa xã hội, chúng tôi nguyện làm hết sức mình cho cây Việt Nam-Cuba mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững...”
Đại tá, Nhà văn, NSƯT Chi Phan
Với ông Võ Nguyên Quảng, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh khóa IX (1992-1997), mỗi lần nhắc đến nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, bao kỷ niệm lại dâng trào...
Nhiều kỷ niệm
Tôi may mắn được gặp gỡ, làm việc với Đại tướng Lê Đức Anh khi anh là một trong những đại biểu của Đoàn ĐBQH tỉnh Thừa Thiên Huế với biết bao kỷ niệm. Tôi cũng như Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân trong tỉnh không bao giờ quên sự quan tâm to lớn của Đại tướng Lê Đức Anh dành cho quê hương.
Mỗi lần tôi và 2 ĐBQH của tỉnh là anh Nguyễn Đình Ngộ và chị Nguyễn Khoa Kim Bội ra họp ở thủ đô Hà Nội thì đều đến thăm ông. Đại tướng Lê Đức Anh là người tình cảm, giản dị và gần gũi.
Một kỷ niệm không bao giờ tôi quên là lúc Quốc hội bầu Đại tướng Lê Đức Anh vào cương vị Chủ tịch nước. Khi có kết quả, Đại tướng vẫn ngồi ở dưới hội trường. Lúc đó, Tổng Bí thư Đỗ Mười đến, vỗ vào vai Đại tướng rồi nói: “Sao đồng chí không lên trên kia ngồi mà ngồi dưới thế này?". Đại tướng Lê Đức Anh đứng dậy, nói đùa một câu mà tôi nhớ mãi: "Đi lên trên đó ngồi phải xin ý kiến ông Võ Nguyên Quảng, Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Thừa Thiên Huế đã chứ". Tuy chỉ là một lời nói đùa, nhưng đã làm tôi rất cảm động.
Những lần vào tiếp xúc cử tri ở Thừa Thiên Huế, gặp ai, Đại tướng Lê Đức Anh cũng bắt tay chào hỏi thân tình, không có khoảng cách cấp trên cấp dưới. Một lần, Đại tướng vào Huế, cũng là để tiếp xúc cử tri. Lúc đó, nhà khách số 5 Lê Lợi của Tỉnh ủy và UBND tỉnh là nơi sang nhất để tiếp đón các đại biểu của Trung ương và các tỉnh. Lúc này, cũng có một hội nghị cựu chiến binh toàn quốc đang tổ chức tại đây, có rất nhiều tướng lĩnh của cả nước tham dự. Chúng tôi nghĩ, Đại tướng làm việc đã căng thẳng, lại ở đó khách khứa nhiều, nên bàn tính đưa Đại tướng xuống khách sạn Hương Giang để ở cho tiện. Khi tới đây, những phòng sang trọng thì có khách Tây ở, đến trưa họ mới giao phòng, nên tôi và anh Phạm Bá Diễn, Chủ tịch UBND tỉnh đành phải bố trí Đại tướng vào ở trong một căn phòng chưa được ưng ý lắm. Chúng tôi nghĩ, cứ bố trí thế để Đại tướng ở tạm rồi tính tiếp.
Lúc cùng Đại tướng chuẩn bị đi Phú Lộc, anh Phạm Bá Diễn nói: "Quảng ở nhà chuẩn bị phòng, rồi chiều mời Đại tướng lên ở phòng khác đẹp hơn, rộng hơn". Mới ăn sáng xong, nghe chúng tôi trao đổi như vậy, Đại tướng Lê Đức Anh mới hỏi: "Có chuyện chi rứa?". Tôi báo cáo với Đại tướng: "Chừ Đại tướng đi Phú Lộc với anh Diễn, chiều lên xin phép Đại tướng cho chúng em chuyển Đại tướng lên ở phòng khác ". Nghe vậy, Đại tướng nói một câu mà tôi nhớ cả đời: "Hồi tham gia kháng chiến, mình mắc võng ở trên núi mà ngủ ngon, chừ phòng như ri mà nói hẹp nữa? Không đi mô hết, ở đây thôi".
Một kỷ niệm nữa khó quên là khi vào tiếp xúc cử tri, theo kế hoạch, Đại tướng sẽ thăm một số cơ sở ở TP. Huế. Khi đi sẽ có xe công an đi trước và sau để bảo vệ, dẫn đường, nhưng Đại tướng không muốn như vậy. Đại tướng nói riêng với tôi: "Quảng ăn sáng xong rồi lên xe mình qua thăm bà con tiểu thương chợ Đông Ba, nhưng đừng cho ông Bàng biết (Đại tá Nguyễn Hồng Bàng lúc đó là Giám đốc Công an tỉnh)". Rồi Đại tướng nói: "Dân mình nghèo khổ, nhưng tốt, họ không làm chi mô, đừng để công an đi bảo vệ nữa". Nghe Đại tướng nói thế, tôi chấp hành.
Hôm sau, chúng tôi đưa Đại tướng Lê Đức Anh ra Phong Điền, lên vùng giáp ranh xã Phong Xuân để tiếp xúc cử tri và thăm hồ thủy lợi ở trên đó. Sáng ấy, Đại tướng Lê Đức Anh và đoàn công tác của tỉnh ra Phong Điền từ rất sớm, thế nhưng ở Ban Thường vụ Huyện ủy Phong Điền thì chưa có ai. Đến ngã ba An Lỗ, trong lúc chờ đợi Ban Thường vụ Huyện ủy Phong Điền, Đại tướng đã xuống xe vào từng hộ gia đình để hỏi thăm sức khỏe, nói chuyện liên quan đến cuộc sống của người dân.
Quan tâm đến sự phát triển của quê hương
Những năm tháng về với quê hương Thừa Thiên Huế, Đại tướng Lê Đức Anh đều quan tâm, tham gia ý kiến đối với sự phát triển của tỉnh.
Đại tướng luôn căn dặn, tỉnh mình nghèo, hai cuộc chiến tranh tàn phá nặng nề, dân còn khổ, nên lãnh đạo tỉnh phải luôn quan tâm, chăm lo đời sống cho Nhân dân. Trong nông nghiệp phải lo làm sao giải quyết được vấn đề thủy lợi, để tạo điều kiện thuận lợi cho dân canh tác hết diện tích lúa, đưa năng suất, chất lượng cây lúa lên cao. Muốn vậy, phải hướng dẫn cho người dân biết vận dụng các kiến thức về khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất. Đại tướng cũng gợi mở cho tỉnh phải quan tâm, đề ra các giải pháp để đẩy mạnh ngành du lịch của tỉnh thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Chúng tôi cũng không thể quên được công lao của Đại tướng Lê Đức Anh khi nêu quan điểm để xây dựng công trình thủy lợi hồ Truồi.
Trước đó, qua làm việc với các bộ, ban, ngành và cơ quan Trung ương, nhiều đại biểu không đồng tình về chủ trương này. Tuy nhiên, với quyết tâm và trên cơ sở phân tích của Đại tướng Lê Đức Anh, cuối cùng, công trình thủy lợi hồ Truồi cũng được xây dựng. Công trình đã giải quyết được vấn đề thủy lợi cho người nông dân trồng lúa tại các huyện: Phú Vang, Phú Lộc, TX. Hương Thủy và một phần của TP. Huế.
Mấy ngày nay, nghe tin Đại tướng Lê Đức Anh qua đời, tôi rất xúc động. Cá nhân tôi và Đảng bộ, chính quyền, quân và dân trong tỉnh luôn tự hào về một vị tướng tài ba, một lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, của Quân đội, của quê hương Thừa Thiên Huế - Đại tướng Lê Đức Anh.
Anh Phong
(ghi theo lời kể của ông Võ Nguyên Quảng, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh khóa IX)
Trong những năm tháng làm phiên dịch cho lãnh đạo cấp cao của Việt Nam, tôi nhận được sự quan tâm và tình cảm rất gần gũi, ân cần của Đại tướng, Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Tôi rất trân trọng sự giản dị, mộc mạc, nhưng quyết đoán và vị tha của ông trong công việc và cuộc sống.
1. Năm 1994, lần đầu tiên tôi tháp tùng Đại tướng, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đi công tác nước ngoài. Hôm đó, tôi rất bất ngờ và cảm động khi ông cho gọi tôi vào phòng lớn của khách sạn cùng ngồi uống trà và ân cần hỏi thăm về gia đình, về cuộc sống, công tác...
Trong chuyến thăm chính thức Cộng hòa Philippines (tháng 11-1995), Chủ tịch nước Lê Đức Anh tới thăm Cảng Subic (thành phố Subic) trong bối cảnh các nước trong khu vực có xu hướng gắn kết, xích lại gần nhau và mong muốn khẳng định độc lập, chủ quyền của mình. Hôm đó, Chủ tịch nước Lê Đức Anh trao đổi nhiều vấn đề với người đứng đầu chính quyền địa phương và đề nghị bổ sung thêm một chiếc ghế cạnh ông trong bàn tiệc, để tôi vừa làm tốt nhiệm vụ phiên dịch, đồng thời có thể “điểm tâm” một chút cùng các thành viên trong đoàn. Tôi rất áy náy và xin phép không làm như vậy vì có thể gây khó cho bạn, nhưng ông bảo, buổi chiêu đãi không đòi hỏi lễ nghi khắt khe, nên muốn tôi được ngồi ăn cùng các thành viên đoàn Việt Nam và quan chức địa phương nước bạn.
2. Mỗi lần làm nhiệm vụ phiên dịch cho Chủ tịch nước Lê Đức Anh, tôi thấy trong từng lời nói là những ý tứ sâu sắc của ông, thể hiện sự trải nghiệm của một vị tướng dày dạn trận mạc và thực tiễn công tác.
Năm 1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh chỉ đạo và định hướng để các cơ quan, bộ, ngành chức năng phối hợp đề nghị Đảng, Nhà nước tôn vinh danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng có tờ trình và được Ban Bí thư xem xét, quyết nghị. Cuối tháng 8-1994, Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua; tháng 9-1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký lệnh công bố pháp lệnh này. Tôi còn nhớ rõ, đúng dịp kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1944 / 22-12-1994), tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Lê Đức Anh cùng các đồng chí lãnh đạo ân cần đón các mẹ và chủ trì lễ vinh danh trang trọng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu được phong tặng đợt đầu.
Trong lần tiếp Thủ tướng New Zealand sang thăm chính thức Việt Nam (năm 1996), Chủ tịch nước Lê Đức Anh chia sẻ với lãnh đạo nước bạn rằng, nguồn lực dành cho phát triển của Việt Nam rất hạn hẹp vì Việt Nam còn nghèo. Hơn nữa, hằng năm Chính phủ phải dành khoản kinh phí lớn cho phúc lợi xã hội, nhất là quan tâm, tri ân các gia đình và người có công với cách mạng, khắc phục hậu quả chiến tranh… Qua các buổi tiếp lãnh đạo, nguyên thủ các nước, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã chuyển tải cho bạn bè quốc tế một thông điệp rằng, dân tộc Việt Nam rất coi trọng độc lập, tự do, yêu chuộng hòa bình, chỉ cầm vũ khí chiến đấu khi Tổ quốc bị xâm lăng; độc lập, chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc bị xâm phạm. Dân tộc Việt Nam là dân tộc rất ân nghĩa, luôn kính trọng, vinh danh và quan tâm thiết thực những người đã cống hiến, đóng góp cho Tổ quốc. Buổi tiếp Thủ tướng New Zealand hôm đó, tôi thấy ông xúc động, nói từng câu rõ ràng, chậm rãi. Tôi có cảm giác, đó không chỉ là lời của một vị Chủ tịch nước, mà là tiếng nói của lịch sử dân tộc qua các cuộc kháng chiến trường kỳ, với nhiều đau thương, mất mát, hy sinh mà dân tộc Việt Nam phải chịu đựng, vượt qua, với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
3. Với trọng trách của nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Nhà nước trong lĩnh vực đối nội và đối ngoại, trên cương vị của mình, Chủ tịch nước Lê Đức Anh rất quan tâm thực hiện một cách chủ động, sáng tạo các chủ trương, đường lối của Đảng, đặc biệt là thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6-1991), trong đó khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa với phương châm "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế”, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Trên cương vị Chủ tịch nước nhiệm kỳ 1992-1997, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã có nhiều đóng góp quan trọng để Việt Nam đạt được những thành tựu đối ngoại mang tính lịch sử, như bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ, củng cố quan hệ với các nước láng giềng là Lào, Campuchia và các nước Đông Nam Á, gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), khởi động quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tăng cường quan hệ với Cộng đồng châu Âu (EC), thúc đẩy quan hệ với Liên hợp quốc và các thể chế đa phương; tham gia sáng lập Cơ chế hợp tác Á-Âu (ASEM), củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, như Cuba và các nước khác trong Phong trào Không liên kết; chuẩn bị cho Việt Nam lần đầu tiên đăng cai Hội nghị thượng đỉnh cấp cao Pháp ngữ; chuẩn bị cho Việt Nam gia nhập Cấp cao APEC...
Trong chuyến thăm chính thức Cuba (tháng 9-1995), khi được trao tặng Huân chương Hô-xê Mác-ti-huân chương cao quý nhất của Nhà nước Cuba, Chủ tịch nước Lê Đức Anh phát biểu, cảm ơn tình cảm thủy chung, son sắt của nhân dân Cuba và mong muốn được “gửi tặng” phần thưởng cao quý này tới tất cả người dân Việt Nam. Cảm thông, chia sẻ trước tình hình Cuba còn nhiều khó khăn, do phải chịu bao vây cấm vận đã nhiều thập kỷ, đồng thời trao đổi với bạn một số kinh nghiệm của Việt Nam trong thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa hội nhập, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội… Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã nhắc lại câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Theo đó, Việt Nam luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa nhưng sẽ linh hoạt và uyển chuyển về phương thức để đạt mục tiêu đó. Trong chuyến thăm này, quà tặng của Chủ tịch nước tới Chính phủ và nhân dân Cuba, ngoài các máy tính để bàn, còn có cả một số nhu yếu phẩm hằng ngày, thể hiện tình cảm đồng chí, anh em gần gũi thân thiết, đặc biệt thủy chung, sẵn sàng giúp đỡ, chia ngọt sẻ bùi…
4. Lần đầu tiên (vào năm 1997) tôi đến thăm gia đình Chủ tịch nước Lê Đức Anh tại căn nhà công vụ trên phố Hoàng Diệu, Ba Đình, Hà Nội, trong khuôn viên trạm khách của Bộ Quốc phòng. Ngôi nhà được xây dựng từ thời Pháp thuộc, vẫn giữ nguyên nét cổ xưa, nhiều đồ đạc, vật dụng sinh hoạt trong nhà có từ thời bao cấp. Tiếp tôi, ông mặc bộ quân phục đã ngả màu, rất giản dị, mộc mạc. Từng có thời gian phục vụ trong quân ngũ, tôi càng hiểu, cảm nhận phẩm chất đó của một vị tướng gần như suốt cuộc đời gắn bó, phục vụ quân đội. Những năm sau này, khi tôi đến thăm, sức khỏe của ông giảm sút nhiều. Ông không nói rõ được nữa và phải nhờ phu nhân làm “phiên dịch” để chuyển tải những điều ông căn dặn tôi…
Tháng 6-2018, trước khi sang Ấn Độ đảm nhận cương vị Đại sứ, tôi đến thăm nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, khi ông đang điều trị, chăm sóc sức khỏe tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Lúc tôi đến, ông vừa thức giấc. Nhìn ánh mắt, tôi biết ông rất vui khi gặp lại người phiên dịch của mình. Tôi nắm chặt tay ông và hỏi chuyện. Ông chăm chú nhìn tôi và biểu lộ niềm vui qua ánh mắt. Hôm đó đi cùng tôi có một người học trò cũ tên là Toàn Thắng. Ông chăm chú nhìn người khách lạ. Hiểu ý ông, tôi giới thiệu Toàn Thắng đến bên giường chào ông. Khi đó, tôi thấy rõ niềm vui của ông qua ánh mắt. Tôi càng hiểu, ông rất gần gũi và trân trọng tình người.
Đó cũng là lần cuối cùng tôi được gặp Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Xin nghiêng mình kính cẩn vĩnh biệt ông-vị tướng tài ba, nhà lãnh đạo có uy tín và công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc!
PHẠM SANH CHÂU, Đại sứ Việt Nam tại Cộng hòa Ấn Độ kiêm nhiệm Cộng hòa Dân chủ Liên bang Nepal và Vương quốc Bhutan.
Trong Hồi ký Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước, có đoạn viết: “Tôi tuổi đã cao nên quên nhiều... Nhưng, quê hương với những kỷ niệm thời thơ ấu và những ngày tham gia cách mạng, đi theo Đảng, vẫn in đậm trong trí nhớ”.
Men theo con đường ven sông Truồi trong xanh, chúng tôi về thôn Bàn Môn (xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế) - nơi chôn nhau cắt rốn của Đại tướng Lê Đức Anh. Cụ Trần Đình Hàng (85 tuổi, ở gần nhà văn hóa, thư viện Đại tướng Lê Đức Anh ở xã Lộc An) bùi ngùi kể: “Đại tướng Lê Đức Anh đã nhiều lần về thăm quê hương và bà con làng xóm. Vào năm 2012, khi Đại tướng và gia đình về quê dự lễ khánh thành Nhà văn hóa, thư viện được xây dựng tại đây, tôi lại may mắn có dịp trò chuyện với Đại tướng. Và lúc nào cũng vậy, Đại tướng luôn gần gũi, không quên thăm hỏi về tình hình cuộc sống, công việc làm của bà con”. Cụ Trần Đình Hàng cho biết thêm, Đại tướng Lê Đức Anh lúc nhỏ được cha mẹ đặt tên là Lê Văn Giác. Nhưng khi đi học, thầy giáo nói với ba mẹ ông đổi tên thành vần A để ngồi gần bảng nhìn rõ con chữ hơn. Cái tên Lê Đức Anh có từ hồi đó.
Còn theo ông Hoàng Ngọc Yến, nguyên Bí thư Đảng ủy xã Lộc An thời gian 1981 - 1990, ông từng có vinh dự được 3 lần tháp tùng Đại tướng Lê Đức Anh trong những ngày Đại tướng về thăm quê hương. “Mỗi lần về bác chỉ mong được thưởng thức một ấm nước chè Truồi”, ông Yến hồi tưởng.
Đang cùng người dân địa phương gấp rút sửa sang lại nhà thờ Đại tướng Lê Đức Anh để mọi người đến viếng trong những ngày diễn ra tang lễ và về sau, ông Nguyễn Bùi, Bí thư Đảng ủy xã Lộc An, chia sẻ về lần cuối cùng ông vinh dự được Đại tướng Lê Đức Anh căn dặn: “Quê hương mình người dân còn nghèo khó lắm, bác muốn người dân được ấm no, hạnh phúc. Nhưng hiện bác đã về hưu rồi, không còn làm nữa, nhiệm vụ đó đành giao cho các cháu gánh vác, phải làm sao cho quê hương mình sớm trở thành một xã nông thôn mới, giảm số hộ nghèo xuống mức tối thiểu nhất…”.
Khắc ghi lời căn dặn của Đại tướng, nhiều năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Lộc An từng ngày ra sức, nỗ lực thi đua lao động, phát triển kinh tế để đóng góp sức người, sức của xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Đặc biệt, vào tháng 9-2018, xã Lộc An được UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế công nhận là xã đạt chuẩn nông thôn mới. Đây là động lực để cán bộ, nhân dân xã nhà tiếp tục nỗ lực vươn lên trong phát triển kinh tế và quan tâm chăm sóc, phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình chính sách, người có công cách mạng. Đặc biệt, Nhà văn hóa, Thư viện Đại tướng Lê Đức Anh hàng ngày vẫn thu hút rất đông người dân và các cháu học sinh, sinh viên đến đọc sách báo, tham quan, tìm hiểu về những kỷ vật gắn bó với cuộc đời, sự nghiệp của Đại tướng Lê Đức Anh - người chiến sĩ cách mạng kiên trung, vị tướng lĩnh tài ba, nhà chính trị xuất sắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường.
VĂN THẮNG
Chiều cuối tháng Tư, chúng tôi về đến xã Lộc An, huyện Phú Lộc (Thừa Thiên-Huế)-quê hương của Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Dòng sông Truồi lững lờ trôi. Trên sông, những bè cá lồng san sát. Hình bóng Đại tướng Lê Đức Anh-người con xứ Huế còn như ẩn hiện đâu đây...
Nhà Đại tướng Lê Đức Anh ở giữa làng quê yên bình. Anh Lê Hữu Đức, cháu gọi Đại tướng Lê Đức Anh bằng ông trông coi khu nhà thờ họ, thắp hương lên bàn thờ tổ tiên. Khói hương trầm lan tỏa. Anh Lê Hữu Đức sinh ra và lớn lên ở ngoài Bắc; năm 2000, anh chuyển công tác về Huế, làm nhân viên an ninh ở Sân bay quốc tế Phú Bài và được Đại tướng Lê Đức Anh giao trông coi, chăm sóc nhà thờ, phần mộ tổ tiên. Anh Đức tâm sự: “Mỗi lần có dịp gặp chúng tôi, ông thường hỏi thăm về quê nhà Lộc An. Mỗi lần như thế, dường như ông rưng rưng xúc động. Ông luôn trăn trở về quê hương làng xóm còn nghèo, đời sống người dân còn khó khăn…”.
Ông Nguyễn Em, Phó bí thư Đảng bộ xã Lộc An nói với tôi: “Năm 2012, Đại tướng về thăm quê và cắt băng khánh thành Nhà Văn hóa-Thư viện Lê Đức Anh. Đại tướng dặn dò cán bộ, đảng viên trong xã phải nỗ lực, cố gắng chăm lo đời sống nhân dân tốt hơn nữa”. Khuôn viên công trình Nhà Văn hóa-Thư viện Đại tướng Lê Đức Anh nằm đối diện nhà thờ họ Lê và nhà Đại tướng, chỉ bước qua một con đường nhỏ. Cảnh vật hài hòa, tĩnh lặng. Công trình có hệ thống nhà lưu niệm, thư viện, sân vườn, khuôn viên khép kín. Chúng tôi được biết, đây là một công trình nhiều ý nghĩa, được thực hiện theo nguyện vọng của người dân địa phương. Khi chúng tôi đến, có nhiều em học sinh Trường THCS Lộc An đang tổ chức hoạt động ngoại khóa ở đây, đọc sách báo, tìm hiểu lịch sử, truyền thống. Em Trương Công Pháp, học sinh lớp 8/1 tâm sự: “Ở đây có nhiều sách hay. Mỗi tuần cháu thường đến đây khoảng 3-4 lần để đọc sách. Cháu thích đọc sách và rất thích nơi này. Cháu rất tự hào về quê mình, về bác Đại tướng. Bác Lê Đức Anh là tấm gương để chúng cháu noi theo”.
Trong hồi ký của mình, Đại tướng Lê Đức Anh viết: “Quê tôi có núi Truồi và sông Truồi. Sông Truồi bắt nguồn từ vùng rừng núi phía tây của huyện Phú Lộc đổ ra phá Tam Giang. Sông Truồi có nguồn nước dồi dào làm cho làng xóm hai bên bờ trở nên sầm uất và làm cho cánh đồng quê tôi tươi tốt… Nhân dịp kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động (1-5-1938), ông Đỗ Tram và ông Lê Bá Dị, sau đó anh Hồ Nguyên và anh Hoàng Văn Viễn (tức anh Huỳnh Văn Viết) đến nhà tôi. Ông Đỗ Tram nói: Hôm nay Chi bộ đồng ý cho cháu Lê Đức Anh vào Đảng Cộng sản. Anh Huỳnh Văn Viết và anh Hồ Nguyên là hai người giới thiệu. Anh Viết chính là cậu thiếu niên mà tám năm trước (năm 1930) đã giao cho tôi cất giấu lá cờ cách mạng. Và, đêm 30-4, rạng ngày 1-5-1938, tôi đã bí mật trao lá cờ cho anh Viết treo trên ngọn phi lao ở chợ Trường Hà bên phá Tam Giang”.
Chúng tôi tìm đến chợ Trường Hà. Nơi đây, cảnh vật đã đổi thay rất nhiều từ cái đêm 30-4, rạng ngày 1-5-1938. Thật khó nhận biết vị trí cây phi lao mà hai người cộng sản trẻ tuổi đã treo cờ. Và giờ đây, cứ vào mỗi dịp ngày lễ, tết của đất nước, của dân tộc, người dân nơi đây lại treo cờ Tổ quốc. Tôi bất chợt hình dung từ một lá cờ đơn lẻ được bí mật treo trên ngọn cây phi lao năm nào, giờ đây là cả rừng cờ tung bay trong gió, điều đó biểu trưng cho tinh thần cách mạng của con người nơi đây vẫn luôn rực cháy…
Xã Lộc An, quê hương Đại tướng Lê Đức Anh là vùng quê giàu truyền thống cách mạng. Nghĩa trang liệt sĩ của xã dành nơi trang trọng an táng hài cốt các ông: Lê Bá Dị, Bí thư chi bộ đảng trong những năm 30 của thế kỷ 20; Anh hùng LLVT Trần Tiến Lực... và ngôi mộ tập thể 12 liệt sĩ hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ông Lê Bá Dị là cậu của Đại tướng Lê Đức Anh, là người đã hướng dẫn, động viên, khích lệ chàng thanh niên Lê Đức Anh tích cực tham gia cách mạng khi còn ở quê nhà. Cuối năm 1939, thực dân Pháp khủng bố phong trào cách mạng ở Thừa Thiên, nhiều đảng viên bị bắt, cầm tù. Thực hiện chủ trương của tổ chức đảng: “Tất cả đảng viên rút vào hoạt động bí mật, tự thân di tản để bảo toàn lực lượng, khi có thời cơ thì tìm cách bắt liên lạc với tổ chức tiếp tục hoạt động cách mạng”, chàng thanh niên Lê Đức Anh đã bí mật rời khỏi làng, dấn thân vào hiểm nguy.
Tôi hình dung, đêm ấy chàng trai làng Lộc An bước đi trong bóng tối dọc bờ sông Truồi để tìm chỗ vượt qua sông. Đi mà không hẹn ngày trở lại, không biết được điều gì sẽ chờ mình ở quãng đời phía trước. Dòng sông ăm ắp nước về, lặng lờ trôi dịu dàng như mọi dòng sông ở xứ Huế này. Xa xa, bóng núi Truồi in thẫm trên nền trời. 15 năm sau, cuối năm 1953, lúc này đồng chí Lê Đức Anh cùng đoàn cán bộ từ Chiến khu Việt Bắc trở về Nam Bộ, đến Chiến khu Phú Lộc thì tình cờ gặp lại người em gái Lê Thị Xoan. Anh em gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Bà Xoan lúc này mới biết anh trai mình còn sống, sau bao nhiêu năm chiến tranh loạn lạc. Đồng chí Lê Đức Anh trao cho em gái ít tiền công tác phí, bảo mua cho ba má ở nhà tấm vải may quần áo. Ông căn dặn bà Xoan giữ gìn sức khỏe, hoạt động công tác tốt; rồi tiếp tục theo đoàn hành quân vào phía trong. Theo hồi ký của Đại tướng Lê Đức Anh, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bà Xoan làm Bí thư Chi bộ làng Bàn Môn (xã Lộc An), bám trụ hoạt động ở quê nhà. Bà từng bị địch bắt, kết án và giam cầm 3 năm ở nhà lao Thừa Phủ…
Trong căn nhà Đại tướng ở Lộc An, anh Lê Hữu Đức pha nước chè Truồi tiếp khách. Nước chè Truồi, quả dâu Truồi là những sản vật giản dị quê nhà được nhiều người biết đến. Vị nước chè ngọt, thanh, thoảng mùi thơm của đồng đất xứ Huế. Mọi người kể chuyện mỗi lần Đại tướng Lê Đức Anh về thăm quê, việc đầu tiên là xin được uống một bát nước chè Truồi. Chúng tôi nhìn ra phía trước, dòng sông Truồi êm đềm chảy. Sông bồi đắp phù sa cho đồng ruộng, cho vị nước chè Truồi đằm thắm còn lưu mãi trong ký ức một vị Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước. Và chúng tôi biết, những truyền thống lịch sử, văn hóa, tinh thần yêu nước, đấu tranh cách mạng của các vị nhân sĩ, trí thức, các đảng viên 1930 nơi đây đã ươm mầm, gieo hạt trong tâm trí chàng thanh niên Lê Đức Anh từ những năm xưa xa đó, đã thôi thúc anh lựa chọn và suốt đời đi theo, chiến đấu cho lý tưởng độc lập, tự do của Tổ quốc, trở thành một vị Đại tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam, một vị Chủ tịch nước gánh vác trọng trách nặng nề và vinh quang của Tổ quốc, của dân tộc ta.
Chúng tôi viết những dòng này khi Đại tướng đã đi xa. Ngoài kia, sông Truồi vẫn đang mải miết chảy về phía biển nhưng đã lưu lại cho bãi bờ những giọt phù sa khiến ngàn cây tươi tốt. Hình ảnh Đại tướng Lê Đức Anh còn đọng lại mãi với người dân Lộc An nói riêng và nhân dân cả nước nói chung.
TRẦN HOÀI
Hình ảnh nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh gần gũi, giản dị đến từng nhà, hỏi thăm từng người luôn in đậm trong ký ức của người dân quê nhà.
Nguyên Chủ tịch Nước Lê Đức Anh thoát ly gia đình, tham gia hoạt động cách mạng từ nhỏ. Đến khi trở thành người Lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, dù bận trăm công nghìn việc, Đại tướng luôn dành thời gian và tình cảm đặc biệt về thăm quê hương Thừa Thiên - Huế. Hình ảnh vị Đại tướng gần gũi, giản dị đến từng nhà, hỏi thăm từng người luôn in đậm trong ký ức của người dân quê nhà. Nghe tin ông qua đời, ai cũng bùi ngùi xúc động.
Ngôi nhà xưa của gia đình Nguyên Chủ tịch Nước Lê Đức Anh nằm bên dòng sông Truồi, ở thôn Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Mấy hôm nay, bà con hàng xóm lui tới ngôi nhà này hỏi thăm, chia buồn với gia đình. Ông Lê Trung Thành, cháu họ gọi Nguyên Chủ tịch Lê Đức Anh là chú, cũng là cán bộ của Trung tâm Văn hóa huyện Phú Lộc làm nhiệm vụ trông coi ngôi nhà này.
Ông Thành kể, lần nào về thăm quê, chú Lê Đức Anh cũng ra bờ sông đứng thật lâu nhớ lại ký ức tuổi thơ. Ông đi thăm bà con trong làng, sang thăm bà con làng Trường Hà, xã Vinh Phú, huyện Phú Vang nằm bên bờ phá Tam Giang, nơi ông sống thời thơ ấu. Ông Lê Trung Thành nhớ chú Lê Đức Anh thích ăn món canh rau muống và cá kho, uống nước chè xanh xứ Truồi. Lần cuối cùng ông Thành được gặp chú mình là tại Bệnh viện Trung ương 108 - Hà Nội mới đây. Nghe tin ông bị ốm, bà con trong quê ra thăm. Nhìn ông nằm trên giường bệnh ai cũng lo lắng.
Ông Lê Trung Thành nhớ lại: "Mỗi lần chú về rất gần gũi, ngồi với bà con ăn bữa cơm canh rau muống với cá kho, rất đơn giản. Chú là người khiêm tốn và giản dị, rất là liêm khiết. Tháng 6 năm ngoái, tôi có dịp ra Hà Nội thăm chú. Tuy không nói được, tôi nhìn vào ánh mắt chú thì cảm nhận được tình cảm người cháu ở quê hương ra thăm. Tôi nắm tay ông rất lâu. Đó là lần gặp cuối cùng".
Trong ký ức của người dân làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế luôn in đậm hình ảnh dung dị, gần gũi, chân tình của Nguyên Chủ tịch Lê Đức Anh. Mỗi lần về thăm quê, ông đến thăm từng nhà, hỏi thăm từng người, căn dặn con cháu cố gắng học hành, khuyên bà con đoàn kết yêu thương.
Ông Trần Đình Hàng, 85 tuổi là người hàng xóm thân thiết với gia đình Đại tướng nói rằng, ông Lê Đức Anh là người biết lo cho dân. Có lần chính quyền địa phương và bà con mong muốn làm Nhà văn hóa mang tên ông tại quê nhà nhưng ông không đồng ý vì ngại mang tiếng, đụng chạm đến đền bù giải tỏa đất của bà con. Thuyết phục mãi, cuối cùng ông mới đồng ý làm nhưng với qui mô nhỏ hơn. Năm 2012, Nhà văn hóa mang tên Lê Đức Anh được xây dựng.
Bây giờ, Nhà văn hóa này trở thành Nhà lưu niệm, trưng bày giới thiệu hơn 5000 đầu sách, các kỷ vật về cuộc đời sự nghiệp của Nguyên Chủ tịch Nước Lê Đức Anh. Những ngày này, mọi người gấp rút dọn dẹp, sửa chữa các hạng mục hư hỏng, xuống cấp để đón người dân đến dâng hương, tưởng niệm vị tướng tài của quê hương.
Ông Trần Đình Hàng nhớ mãi hình ảnh lần cuối cùng ông Lê Đức Anh về thăm quê cách đây 5 năm: "Tôi có gặp ông về đây 4, 5 lần rồi. Thằng cháu nội tôi được ông ôm bế bồng rồi ông hỏi thằng này con cái nhà ai. Ông quan tâm tình hình quê hương, tình cảm nhiều, người sống có đạo đức, hiền hòa".
Thoát ly gia đình tham gia hoạt động các mạng từ nhỏ, đến khi trở thành người lãnh đạo cao nhất của Đảng, nhà Nước, Nguyên Chủ tịch Nước Lê Đức Anh luôn dành thời gian và tình cảm đặc biệt đối với quê nhà. Nghe tin ông qua đời ai cũng bùi ngùi xúc động.
Ông Võ Nguyên Quảng, Nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh, Trường Đoàn Đại biểu Quốc hội Khóa 9 tỉnh Thừa Thiên - Huế có nhiều kỷ niệm với Nguyên Chủ tịch Lê Đức Anh. Ngày đó, Chủ tịch Nước Lê Đức Anh là Đại biểu Quốc hội tỉnh Thừa Thiên - Huế. Lần đầu gặp Đại tướng, cứ nghĩ ông là một tướng lĩnh nghiêm nghị, khó gần. Nhưng khi làm việc, ông Quảng cảm nhận Chủ tịch Nước là một con người có lối sống giản dị, chân thành, cởi mở và liêm khiết.
Ông Quảng kể, có lần Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh ra Hà Nội chúc mừng sinh nhật ông tại nhà riêng. Nhìn căn nhà công vụ chật chội, anh em trong Đoàn lo lắng việc tiếp khách bất tiện. Nguyên Chủ tịch Nước chỉ cười nói, đất nước còn khó khăn, mình ở như thế này là tốt lắm rồi. Ông Võ Nguyên Quảng bảo rằng: Mỗi lần về thăm quê, nhìn cảnh mùa mưa lụt ngập trắng đồng, mùa hè ruộng khô cháy, mất mùa, ông lưu ý tỉnh đầu tư xây dựng công trình thủy lợi phục sản xuất. Công trình Hồ Truồi tại huyện Phú Lộc mang đậm dấu ấn của Nguyên Chủ tịch nước. Công trình hơn 5 triệu mét khối nước tưới mát đồng ruộng cho nhiều xã ở huyện Phú Lộc và Hương Thủy.
Ông Võ Nguyên Quảng nhớ mãi những lời dặn dò của Nguyên Chủ tịch Nước Lê Đức Anh: "Mỗi lần về đây là anh đi các huyện, luôn hỏi tình hình đời sống của nhân dân, lo lắng căn dặn cán bộ, đảng viên chăm lo đời sống cho nhân dân. Anh nói, trong cuộc kháng chiến, bà con rất khổ, bây giờ có điều kiện phải chăm lo đời sống cho nhân dân. Tình cảm của nhân dân, cán bộ tỉnh Thừa Thiên - Huế đối với đồng chí Nguyên Chủ tịch nước vô cùng sâu sắc"
Đại tướng Lê Đức Anh đã đi xa, nhưng hình ảnh một vị tướng tài ba, nặng lòng với quê hương vẫn sống mãi trong lòng người dân “xứ Huế”./.
Trong cuộc đời binh nghiệp, ông là một vị tướng tài năng, bản lĩnh, dám quyết, dám chịu trách nhiệm, có những quyết định quan trọng vào những thời điểm khó khăn nhất. Có lẽ đến thời điểm hiện nay, ông là vị tướng cuối cùng tham gia tất cả các cuộc chiến tranh từ chống Pháp, chống Mỹ cứu nước và các cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía bắc của Tổ quốc...
Vậy là một trong những vị tướng tài năng, nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, của đất nước đã ra đi. Tối 22/4/2019, thông tin về việc Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh từ trần được thông báo chính thức. Dù đã biết những ngày gần đây, khi tuổi đã cao, sức khỏe của Đại tướng đã kém đi nhiều, nhưng với tình cảm của một người đã nhiều lần được tiếp xúc, làm việc với nguyên Chủ tịch nước, tôi vẫn không khỏi xúc động và nhớ thương. Trong quá trình công tác, tôi may mắn và hạnh phúc đã có đôi lần trực tiếp gặp gỡ và làm việc với ông và những lần đó đều để lại trong tôi những kỷ niệm sâu sắc.
Cách đây gần 20 năm, vào năm 2000, tôi được đến thăm Đại tướng, khi ấy ông đang điều trị tại Quân y viện 108 sau lần bị đột quỵ. Khi đó ít ai nghĩ ông sẽ vượt qua được bạo bệnh để phục hồi và tiếp tục có những đóng góp với Đảng, với đất nước và quân đội từ đó đến nay, để hôm nay ông ra đi ở tuổi 99 trong sự tiếc thương của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.
Giữa những năm 1990, chúng tôi được phân công xây dựng Pháp lệnh Tình báo. Khi đó, Đại tướng Lê Đức Anh đang giữ cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước và phụ trách các vấn đề quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Khi nghe chúng tôi báo cáo, ông đã cho ý kiến chỉ đạo mà sau đó đã được đưa đầy đủ vào dự thảo Pháp lệnh và được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Qua hơn 20 năm thực hiện, thực tiễn đã cho thấy những ý kiến chỉ đạo và quyết định của Chủ tịch nước khi đó là vô cùng xác đáng, có tầm chiến lược, nhìn xa, khoa học và thực tiễn sâu sắc.
Một lần khác, chúng tôi đến chúc mừng sinh nhật Đại tướng, khi nghe chúng tôi báo cáo về tình hình an ninh, trật tự, ông trao đổi với chúng tôi những ý kiến mà đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị. Ông cho rằng công tác an ninh phải rất chủ động, phải nắm tình hình, phải đánh địch từ xa, phải tạo cho được một phòng tuyến liên hoàn, chặt chẽ từ trong ra ngoài. Những căn dặn của Chủ tịch nước thể hiện tầm nhìn, sự bao quát đối với công tác bảo vệ an ninh quốc gia.
Ông đã dành nhiều thời gian thăm, làm việc và chỉ đạo với các lực lượng trong CAND. Một lần đến thăm Đại tướng tại nhà công vụ số 5A Hoàng Diệu, khi đó dù sức khỏe đã yếu, nhưng ông vẫn căn dặn chúng tôi phải thường xuyên phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa Quân đội với Công an. Ông nói, cả Quân đội và Công an đều là lực lượng vũ trang, phải đoàn kết chặt chẽ, thường xuyên.
Trong vấn đề hội nhập quốc tế, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh là người tiếp cận sớm và tầm nhìn mới. Ông là một trong những người có công trong việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ vào thời điểm khó khăn, phức tạp nhất. Ngay khi cho chủ trương về xây dựng Pháp lệnh Tình báo từ năm 1996, ông đã nêu ý kiến phải hợp tác quốc tế về an ninh, tình báo.
Có nhiều những câu chuyện khác về tầm nhìn xa, bao quát của ông khi giải quyết, xử lý các vấn đề quốc phòng, an ninh, đối ngoại cũng như kinh tế, xã hội mà chúng tôi đã được nghe, được hiểu về ông. Đây cũng là nhận xét của nhiều nhà ngoại giao, chính khách quốc tế khi tiếp xúc, làm việc với ông.
Trong cuộc đời binh nghiệp, ông là một vị tướng tài năng, bản lĩnh, dám quyết, dám chịu trách nhiệm, có những quyết định quan trọng vào những thời điểm khó khăn nhất. Có lẽ đến thời điểm hiện nay, ông là vị tướng cuối cùng tham gia tất cả các cuộc chiến tranh từ chống Pháp, chống Mỹ cứu nước và các cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc của Tổ quốc.
Trong cuộc duyệt binh chào mừng chiến thắng, thống nhất đất nước tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội vào ngày 2-9-1975, từ trên lễ đài, tôi được chứng kiến người chỉ huy duyệt binh báo cáo xin nhận lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp tổ chức duyệt binh là một vị tướng uy nghi, quắc thước. Sau đó, tôi mới biết đó chính là Trung tướng Lê Đức Anh, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là một trong những người có công lớn trong chiến dịch Hồ Chí Minh, nhất là việc triển khai hoạt động quân sự sau khi ký Hiệp định Paris năm 1973 ở chiến trường Nam Bộ.
Sau này, khi có điều kiện tìm hiểu, tôi được biết ông là một trong những vị tướng tài năng của Quân đội nhân dân Việt Nam, đã trải qua nhiều mặt trận khốc liệt; ở thời điểm nào ông cũng là vị tướng quyết đoán, dám chịu trách nhiệm và đầy sáng tạo. Khi có điều kiện sang công tác tại Campuchia, các bạn Campuchia luôn dành cho ông sự trân trọng, cảm phục và ngưỡng mộ.
Trong cuộc sống, ông cũng là một người con mẫu mực của quê hương Thừa Thiên – Huế. Tôi có dịp được về quê ông, tôi cảm nhận và chứng kiến tình cảm của bà con quê hương với ông và gia đình. Xã Lộc An, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên – Huế tự hào về một người con, một vị tướng, một nhà lãnh đạo xuất sắc với những đóng góp to lớn cho đất nước cả trong chiến tranh và hòa bình.
Đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, ông là một trong những vị chỉ huy, Bộ trưởng Quốc phòng tài năng có nhiều đóng góp cho sự phát triển vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Vai trò của ông đối với lực lượng vũ trang càng thể hiện rõ khi ông giữ cương vị Chủ tịch nước. Đối với Công an nhân dân, ông cũng là người lãnh đạo gần gũi và có nhiều đóng góp cho sự trưởng thành, phát triển của lực lượng, nhất là đối với lực lượng An ninh và Tình báo. Những chỉ đạo của ông vẫn là những bài học sâu sắc đối với lực lượng Công an nhân dân mà chúng tôi luôn ghi nhớ.
Hôm nay, ngồi viết những dòng này về ông, Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, tôi thực sự xúc động và cảm nhận sâu sắc về tầm nhìn và tình cảm sâu sắc của ông đối với lực lượng vũ trang, đối với Quân đội và Công an. Đó là tầm nhìn của nhà lãnh đạo tài năng, tâm huyết đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia.
Ngày cuối cùng trước khi ra đi, ông muốn về lại căn nhà công vụ đã từng gắn bó với ông qua bao năm tháng. Tôi cảm nhận sâu sắc vì sao ông muốn được ra đi tại đó, nơi gắn bó không chỉ với gia đình, con cháu mà còn là với đồng chí, đồng đội đã từng đến chia sẻ, gắn bó với ông. Với tôi cũng vậy, những lần được đến thăm, gặp ông tại căn phòng đơn sơ, ấm cúng sẽ mãi là những kỷ niệm đẹp, không thể quên được trong cuộc đời.
Xin kính mong Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh yên giấc ngàn thu. Như với bao anh em, đồng chí khác, ông về với đất mẹ, về với những người lính đã chiến đấu cùng ông trên các mặt trận mà ông là người chỉ huy tài năng, quyết đoán và gần gũi.
Thượng tướng Bùi Văn Nam
Ủy viên Trung ương Đảng
Thứ trưởng Bộ Công an
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Lễ tang và gia đình đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh chân thành cảm ơn:
- Đồng bào, đồng chí;
- Các đồng chí cán bộ lão thành cách mạng;
- Các vị nhân sỹ, trí thức, các chức sắc tôn giáo;
- Các cơ quan, đoàn thể, địa phương, đơn vị;
- Các lực lượng vũ trang nhân dân;
- Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Thừa Thiên-Huế.
- Các đoàn ngoại giao, đại diện các tổ chức và bạn bè quốc tế;
Đã gửi điện chia buồn, gửi vòng hoa, đến dự Lễ viếng, Lễ truy điệu, Lễ an táng đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam./.
Chia sẻ niềm đau buồn và tổn thất cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhiều đoàn đại biểu Đảng, Nhà nước, Chính phủ các nước anh em, bè bạn; các đại sứ, đại biện các nước, đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam đã tới viếng nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh.
* Đoàn đại biểu cấp cao Vương quốc Cam-pu-chia do Thủ tướng Xăm-đéc Ạ-kẹ Mô-ha Xê-na Pa-đây Tê-chô Hun Xen làm Trưởng đoàn.
* Đoàn đại biểu cấp cao Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào do Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Trung ương mặt trận Lào xây dựng đất nước Xay-xổm-phon Phôm-vi-hản làm Trưởng đoàn.
* Đoàn đại biểu cấp cao Cu-ba do Bộ trưởng Truyền thông Cu-ba Hoóc-hê Lu-i Pê-đô-mô Ði-len-la làm Trưởng đoàn.
* Đoàn đại biểu cấp cao Nhật Bản do Bộ trưởng Quốc phòng Ta-kê-si I-oa-y-a làm Trưởng đoàn.
* Đoàn Đại sứ, Đại biện, đại diện các tổ chức quốc tế tại Hà Nội do Trưởng đoàn Ngoại giao, Đại sứ Vê-nê-xu-ê-la Hoóc-hê Rôn-đôn U-ca-tê-ghi làm Trưởng đoàn.
* Các đoàn đại biểu nước ngoài, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện của các tổ chức quốc tế tại TP Hồ Chí Minh đã đến viếng và ghi sổ tang nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh tại Hội trường Thống Nhất, TP Hồ Chí Minh.
* Nhận được tin nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh từ trần, lãnh đạo các nước Ấn Độ, Triều Tiên, Các Tiểu vương quốc A-rập thống nhất (UAE), Vương quốc Ô-man, Nhật Bản đã gửi Điện và Thư chia buồn tới lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, nhân dân Việt Nam và gia quyến nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh.
* Tổng thống Ấn Độ Ram Nát Cô-vin đã gửi Thư chia buồn tới Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Nội dung Thư chia buồn có đoạn:
Tôi rất đau buồn được tin nguyên Chủ tịch nước, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Lê Đức Anh đã từ trần vào ngày 22-4-2019. Trong thời khắc đau buồn này, tôi xin gửi tới Chính phủ, nhân dân Việt Nam, cùng gia quyến và người thân của Ngài Lê Đức Anh những lời chia buồn chân thành và sâu sắc nhất. Chủ tịch nước Lê Đức Anh là một nhà lãnh đạo kiệt xuất và là người bạn tốt của Ấn Độ. Ngài Lê Đức Anh mất đi là tổn thất to lớn đối với Chính phủ và nhân dân Việt Nam.
* Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Hội nghị Nhân dân tối cao Triều Tiên Chuê Ri-ông He đã gửi Điện chia buồn tới Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Trong Điện chia buồn, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Hội nghị Nhân dân tối cao Triều Tiên Chuê Ri-ông He bày tỏ lời chia buồn sâu sắc tới Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, tới nhân dân Việt Nam và gia quyến của đồng chí Lê Đức Anh; đánh giá cao những cống hiến quan trọng của đồng chí Lê Đức Anh đối với sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh và phồn vinh.
* Tổng thống Các Tiểu vương quốc A-rập thống nhất Kha-li-pha Bin Da-ét Bin Xun-tan An Na-hi-an; Phó Tổng thống, Thủ tướng UAE kiêm Toàn quyền Đu-bai Mô-ham-mét Bin Ra-sít An Mác-tum; Thái tử A-bu Đa-bi, Phó Tổng Tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang UAE Mô-ham-mét Bin Da-ét An Na-hi-an đã gửi Điện chia buồn tới Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng.
* Quốc vương Ô-man Ca-bút Bin Xa-ít đã gửi Điện chia buồn tới Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng.
* Thủ tướng Nhật Bản Sin-dô A-bê đã gửi Điện chia buồn tới Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc. Trong Điện chia buồn, Thủ tướng Nhật Bản Sin-dô A-bê thay mặt Chính phủ và nhân dân Nhật Bản gửi lời chia buồn sâu sắc tới Chính phủ, nhân dân và gia quyến nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh; bày tỏ lòng kính trọng và đánh giá cao những đóng góp to lớn của nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh đối với sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam.
* Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Nhật Bản Ca-dư-ô Si-i đã gửi Điện chia buồn tới Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Ta-rô Cô-nô, Bộ trưởng Ngoại giao I-ran Mô-ha-mét Gia-vát Da-ríp đã gửi Điện chia buồn tới Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh.
* Theo phóng viên Báo Nhân Dân thường trú tại Cam-pu-chia, Đại sứ quán Việt Nam tại Vương quốc Cam-pu-chia tổ chức trọng thể lễ viếng và mở sổ tang nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh. Sáng 3-5, nhiều đoàn lãnh đạo cấp cao Cam-pu-chia đến viếng nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Đoàn đại biểu Quốc hội (QH) Cam-pu-chia do Xăm-đéc Hêng Xom-rin, Chủ tịch danh dự Đảng Nhân dân Cam-pu-chia, Chủ tịch QH, Chủ tịch Hội đồng Quốc gia Mặt trận Đoàn kết Phát triển Tổ quốc Cam-pu-chia đến viếng nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Trong lời chia buồn ghi sổ tang, Chủ tịch QH Cam-pu-chia nêu rõ: Ngài Lê Đức Anh là người bạn thân thiết của Cam-pu-chia, có đóng góp to lớn trong việc giúp giải phóng nhân dân Cam-pu-chia khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt; giúp khôi phục, xây dựng và phát triển đất nước Cam-pu-chia. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Hoàng cung Cam-pu-chia Xăm-đéc Công Xom On đã đến viếng, đặt vòng hoa và chuyển Thư chia buồn của Quốc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-mô-ni đến Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Đoàn của Đảng Nhân Dân Cam-pu-chia (CPP) cầm quyền do Phó Chủ tịch CPP, Chủ tịch Thượng viện Xăm-đéc Xay Chum dẫn đầu; Đoàn Thượng viện do Chủ tịch Thượng viện Xăm-đéc Xay Chum dẫn đầu; Đoàn Hội đồng Khôi phục Phát triển nông nghiệp và nông thôn do Phó Thủ tướng Im Chay-ly dẫn đầu; cùng đại diện các bộ, ban, ngành khác của Cam-pu-chia đã tới viếng và ghi sổ tang tưởng nhớ Đại tướng Lê Đức Anh.
Đại diện đoàn ngoại giao và các tổ chức quốc tế ở thủ đô Phnôm Pênh của Cam-pu-chia đến viếng nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh. Trong đó có, đại sứ và đại diện Đại sứ quán các nước Cu-ba, Lào, Mỹ, Ô-xtrây-li-a, Xin-ga-po, Trung Quốc, Mi-an-ma, Phi-li-pin, Bru-nây, Nga; Hội Phụ nữ Cam-pu-chia, Hội Liên hiệp Thanh niên Cam-pu-chia…
* Theo phóng viên Báo Nhân Dân thường trú tại Lào, ngày 3-5, tại trụ sở Đại sứ quán Việt Nam ở thủ đô Viêng Chăn, Lào; Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Bun-nhăng Vo-la-chít dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng, Nhà nước CHDCND Lào đến đặt vòng hoa viếng nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Vòng hoa của Đoàn mang dòng chữ: “Ban Chấp hành T.Ư Đảng NDCM Lào, Quốc hội, Chính phủ và T.Ư Mặt trận Lào Xây dựng đất nước vô cùng thương tiếc đồng chí Lê Đức Anh”. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Bun-nhăng Vo-la-chít xúc động ghi sổ tang: “Trong giờ phút đau thương vô hạn này, Ban Chấp hành T.Ư Đảng NDCM Lào, Quốc hội, Chính phủ nước CHDCND Lào, T.Ư Mặt trận Lào Xây dựng đất nước và nhân dân Lào vô cùng thương tiếc và xin được chia sẻ sự mất mát này đến Ban Chấp hành T.Ư Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội, Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, Ủy ban T.Ư Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhân dân Việt Nam anh em cũng như gia đình, thân quyến và bạn bè của đồng chí Lê Đức Anh”.
Cùng ngày, nhiều đoàn đại biểu, đại diện các ban, bộ, ngành, tổ chức đoàn thể, xã hội của Lào, đại diện một số tổ chức quốc tế, đại sứ quán nước ngoài tại Lào đến đặt vòng hoa và viếng nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh.
* Theo phóng viên Báo Nhân Dân thường trú tại Liên bang (LB) Nga, ngày 3-5, ở trụ sở Đại sứ quán Việt Nam tại LB Nga , Đại sứ quán đã tổ chức trọng thể lễ mở sổ tang, viếng Đại tướng Lê Đức Anh. Trong bầu không khí trang nghiêm, xúc động, Đại sứ Việt Nam tại LB Nga Ngô Đức Mạnh đã đọc điếu văn bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn trước sự ra đi của đồng chí Lê Đức Anh. Điểm lại quãng đời hoạt động cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh, Đại sứ khẳng định, đồng chí là một nhà lãnh đạo tài năng, một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh; đồng thời nhấn mạnh những đóng góp to lớn của đồng chí Lê Đức Anh đối với công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc an ninh, chính trị và chủ quyền đất nước, mở rộng quan hệ quốc tế. Đại sứ, các cán bộ, nhân viên Đại sứ quán và các cơ quan bên cạnh cùng các đại biểu dự buổi lễ đã dành một phút mặc niệm, thắp hương tưởng nhớ đồng chí Lê Đức Anh.
* Theo phóng viên Báo Nhân Dân thường trú tại Pháp, Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp đã tổ chức trọng thể lễ viếng đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh. Tham dự lễ viếng có cán bộ và nhân viên Đại sứ quán, các cơ quan đại diện Việt Nam tại Pháp. Đại sứ Việt Nam tại Pháp Nguyễn Thiệp điểm lại hơn 80 năm hoạt động cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh với nhiều đóng góp to lớn đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.
Đại sứ các nước Lào, Cam-pu-chia, Mi-an-ma; đại diện chính quyền Pháp, các đại sứ quán khác và các phái đoàn ngoại giao tại Pháp, các hội đoàn Pháp - Việt Nam và Việt kiều đến viếng nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Trong lời chia buồn ghi vào sổ tang, đại diện các đoàn đến viếng bày tỏ lời chia buồn sâu sắc trước sự ra đi của nguyên Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Lê Đức Anh.
* Theo phóng viên Báo Nhân Dân thường trú tại Thái-lan, ngày 3-5, Đại sứ quán Việt Nam tại Thái-lan tổ chức trang trọng lễ viếng và mở sổ tang Đại tướng Lê Đức Anh. Phó Chủ tịch Thứ nhất Hội đồng Lập pháp quốc gia (Quốc hội) Thái-lan X.Liêng-bun-lét-chai, Bộ trưởng Ngoại giao Đ.Pra-mút-vi-nai, Chủ tịch Nhóm nghị sĩ Hữu nghị Thái-lan - Việt Nam S.Ta-na-bun-chai, đại diện Đoàn ngoại giao, bà con Việt kiều đã đến viếng, đặt vòng hoa và ghi sổ tang đồng chí Lê Đức Anh. Phó Chủ tịch X. Liêng-bun-lét-chai ghi sổ tang: “Thay mặt Quốc hội Vương quốc Thái-lan, tôi bày tỏ lời chia buồn sâu sắc tới nhân dân Việt Nam trước sự ra đi của nguyên Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Lê Đức Anh”.
* Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ đã tổ chức trang trọng lễ viếng và mở sổ tang tưởng nhớ Đại tướng Lê Đức Anh. Trong bầu không khí trang nghiêm, xúc động, toàn thể cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ cùng các cơ quan đại diện Việt Nam tại Niu Đê-li do Đại sứ Phạm Sanh Châu dẫn đầu đã dành một phút mặc niệm và thắp hương tưởng nhớ nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Thượng tọa Thích Hạnh Chánh, Trưởng ban tăng ni sinh cùng các tăng ni sinh Việt Nam đang sinh sống và học tập ở Ấn Độ cũng đến thắp hương và cầu siêu cho nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh.
Cùng ngày, đại diện các phái đoàn ngoại giao tại Ấn Độ như Đại sứ các nước Lào, Cu-ba, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ… cùng các quan chức Ấn Độ và bạn bè nước ngoài cũng đã đến viếng nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Trong sổ tang, bà Vi-giay Tha-cu Xinh, Bí thư (Thứ trưởng phụ trách khu vực) phương Đông, Bộ Ngoại giao Ấn Độ, đã thay mặt nhân dân và Chính phủ CH Ấn Độ bày tỏ lời chia buồn sâu sắc nhất trước sự ra đi của đồng chí Lê Đức Anh. Bà nhấn mạnh, Đại tướng Lê Đức Anh là nhà lãnh đạo xuất sắc, có đóng góp to lớn đối với sự nghiệp phát triển của Việt Nam. Nhân dân Ấn Độ sẽ luôn ghi nhớ vai trò của đồng chí Lê Đức Anh trong việc làm sâu sắc tình hữu nghị Ấn Độ - Việt Nam.
* Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản đã tổ chức lễ viếng và mở sổ tang tưởng niệm nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh. Thay mặt Hội đồng Thúc đẩy Ngoại giao Nhân dân (FEC) của Nhật Bản, ông Ken Ma-chư-da-oa, Chủ tịch FEC, và ông Hi-rô-i-u-ki Y-u-si-ta, nguyên Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam và hiện là Giám đốc Điều hành FEC, gửi lời chia buồn sâu sắc trước sự ra đi của nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh. Đại diện các nước Lào, Mi-an-ma và Ấn Độ tại Nhật Bản đều bày tỏ sự tiếc thương và kính trọng đối với nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh.
* Đại sứ quán Việt Nam tại In-đô-nê-xi-a đã tổ chức trang trọng lễ viếng và mở sổ tang Đại tướng Lê Đức Anh. Trong bầu không khí trang nghiêm, xúc động, toàn thể cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Việt Nam tại In-đô-nê-xi-a cùng các cơ quan đại diện Việt Nam tại Gia-các-ta do Đại sứ Phạm Vinh Quang dẫn đầu đã dành một phút mặc niệm và thắp hương tưởng nhớ nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại ASEAN do Đại sứ Trần Đức Bình dẫn đầu viếng và tưởng niệm nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Đến viếng và tưởng niệm nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh còn có đoàn đại biểu của Tổng cục Du lịch, Hội Lữ hành Hà Nội, Hiệp hội Du lịch Hà Nội… đang công tác tại In-đô-nê-xi-a.
Ban Thư ký ASEAN treo cờ rủ tại trụ sở ở Gia-các-ta trong hai ngày 3 và 4-5. Tổng Thư ký ASEAN có kế hoạch đến viếng nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh vào sáng 4-5.
* Đại sứ quán Việt Nam tại Ô-xtrây-li-a đã tổ chức lễ viếng và mở sổ tang nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh. Đại sứ Ngô Hướng Nam cùng toàn thể cán bộ, nhân viên Đại sứ quán và thân nhân, cùng cán bộ thuộc các cơ quan bên cạnh Đại sứ quán đã dành một phút mặc niệm nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Đại diện các đoàn ngoại giao, bà con Việt kiều, đại diện cộng đồng du học sinh Việt Nam tại Can-bơ-rơ đã vào viếng và ghi sổ tang Đại tướng Lê Đức Anh.
Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Xít-ni và Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Pớt đã tổ chức trang trọng lễ viếng và mở sổ tang nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh. Các cán bộ, nhân viên Tổng lãnh sự quán cùng các cơ quan đại diện khác của Việt Nam tại Xít-ni, đại diện Tổng lãnh sự quán các nước, đông đảo bạn bè Ô-xtrây-li-a và quốc tế, cùng bà con Việt kiều đã tới viếng, ghi sổ tang, gửi lời chia buồn sâu sắc tới gia đình nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh cũng như toàn thể nhân dân Việt Nam.
* Đại sứ quán Việt Nam tại Xin-ga-po mở cửa trong hai ngày 3 và 4-5 để các cá nhân, tổ chức, cộng đồng người Việt Nam tại Xin-ga-po, chính quyền sở tại cũng như các phái đoàn ngoại giao tới viếng và ghi sổ tang nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh. Trong không khí trang nghiêm và xúc động, Đại sứ Tào Thị Thanh Hương cùng tập thể cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Việt Nam tại Xin-ga-po, các cơ quan đại diện Việt Nam tại Xin-ga-po và đại diện cộng đồng người Việt Nam tại đây đã dành một phút mặc niệm tưởng nhớ nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh.
Thay mặt Chính phủ Xin-ga-po, Quốc vụ khanh phụ trách Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao Xin-ga-po, ông Ma-li-ki Ô-xman đã đến viếng và gửi lời chia buồn sâu sắc nhất tới Chính phủ, nhân dân Việt Nam về sự ra đi của nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Ông nhấn mạnh "nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà lãnh đạo đáng kính và là người bạn tốt của Xin-ga-po. Ông đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc làm sâu sắc hơn mối quan hệ hợp tác giữa Xin-ga-po và Việt Nam. Nhân dân Xin-ga-po luôn sát cánh cùng nhân dân Việt Nam trước tổn thất quá lớn này".
Đại sứ các nước tại Xin-ga-po gồm: Cam-pu-chia, Cu-ba, Nhật Bản, Anh, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Ai Cập, Ni-giê-ri-a, Ru-ma-ni, Ru-an-đa; cùng đại diện đoàn ngoại giao và bạn bè quốc tế đã tới viếng, gửi vòng hoa và chia buồn.
* Đại sứ quán Việt Nam tại Niu Di-lân đã tổ chức lễ viếng và mở sổ tang đồng chí Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Dự lễ viếng có toàn thể cán bộ Đại sứ quán, đại diện bà con Việt kiều và sinh viên Việt Nam đang theo học tại Niu Di-lân. Thay mặt Đại sứ quán, Đại sứ Tạ Văn Thông bày tỏ lòng tiếc thương vô hạn trước sự ra đi của nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh.
Ngày 3-5, đông đảo các đại sứ, trưởng cơ quan đại diện nước ngoài thường trú tại thủ đô Oen-linh-tơn, cùng đại diện các cơ quan chính phủ và bạn bè Niu Di-lân đến ghi sổ tang tưởng nhớ nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh.
* Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Khu Hành chính đặc biệt Hồng Công (Trung Quốc) đã tổ chức lễ viếng và mở sổ tang tưởng niệm đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh. Đại diện Văn phòng Đặc phái viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc tại Hồng Công, đại diện Chính quyền Khu Hành chính đặc biệt Hồng Công, các Tổng lãnh sự quán các nước ASEAN cùng cơ quan đại diện ngoại giao nhiều nước khác tại Hồng Công đã đến viếng nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, chia buồn với sự mất mát lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
* Đại sứ quán Việt Nam tại Ma-lai-xi-a tổ chức trọng thể lễ viếng và mở sổ tang tưởng niệm nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh với sự có mặt của toàn thể cán bộ, nhân viên Đại sứ quán cùng các cơ quan đại diện Việt Nam tại Ma-lai-xi-a. Đoàn của Chính phủ Ma-lai-xi-a do Thứ trưởng Ngoại giao H.Y-a-i-a dẫn đầu đã gửi lời chia buồn sâu sắc tới Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Thứ trưởng đánh giá cao những đóng góp của nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh trong việc tăng cường quan hệ giữa hai nước. Gần 30 đoàn đại diện các nước tại Ma-lai-xi-a cũng đến viếng, chia buồn và ghi sổ tang.
* Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc đã tổ chức trang trọng lễ viếng và mở sổ tang nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Thứ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Li Tê-hô đã tới viếng Đại tướng Lê Đức Anh. Nhiều đoàn đại sứ quán các nước tại Hàn Quốc như Lào, Mi-an-ma, Bru-nây, Ai-len, Mê-hi-cô, Ăng-gô-la, Gru-di-a, I-ran, I-rắc, Mỹ, Ni-giê-ri-a, Xi-ê-ra Lê-ôn, Bun-ga-ri, Ru-an-đa, Thái-lan, Các Tiểu vương quốc A-rập thống nhất, Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Xri Lan-ca, Băng-la-đét, Áp-ga-ni-xtan, Bô-li-vi-a và Cô-oét cũng đã đến viếng và ghi sổ tang đồng chí Lê Đức Anh.
* Đại sứ quán và Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Đức đã mở cửa để các cá nhân, tổ chức, cộng đồng người Việt Nam tại Đức, chính quyền nước sở tại, cũng như các phái đoàn ngoại giao tới viếng và ghi sổ tang Đại tướng Lê Đức Anh. Đại sứ các nước tại Đức, bao gồm Tây Ban Nha, Cộng hòa Cô-xta Ri-ca, U-crai-na, Gia-mai-ca, Cam-pu-chia, Ma-lai-xi-a, Buốc-ki-na Pha-xô…, cùng đại diện đoàn ngoại giao, Hội hữu nghị Đức - Việt Nam và bạn bè quốc tế đã tới viếng và chia buồn.
* Phái đoàn Thường trực Việt Nam bên cạnh Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các tổ chức quốc tế khác tại Giơ-ne-vơ (Thụy Sĩ) đã tổ chức lễ viếng, mở sổ tang nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Đại sứ Dương Chí Dũng, Trưởng phái đoàn Việt Nam tại Giơ-ne-vơ cho biết, trong những ngày qua, rất nhiều phái đoàn, các tổ chức quốc tế gửi lời chia buồn tới Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Giơ-ne-vơ, cũng như chuyển đến Chính phủ, nhân dân Việt Nam lời chia buồn sâu sắc, bày tỏ tình đoàn kết với Việt Nam.
* Đại sứ quán Việt Nam tại Vương quốc Bỉ đã trang trọng tổ chức lễ viếng và mở sổ tang tưởng nhớ Đại tướng Lê Đức Anh. Tham dự lễ viếng có toàn thể cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Việt Nam tại Vương quốc Bỉ và Đại Công quốc Luých-xăm-bua, các cơ quan đại diện Việt Nam tại Bỉ, Phái đoàn đại diện Việt Nam bên cạnh Liên hiệp châu Âu (EU), đại diện cộng đồng người Việt Nam sinh sống tại Vương quốc Bỉ. Đến viếng và ghi sổ tang còn có đoàn đại diện Bộ Ngoại giao Vương quốc Bỉ, Đại sứ quán các nước Bru-nây, Cam-pu-chia, Lào, Phi-li-pin, Tây Ban Nha, On-đu-rát, Ni-giê-ri-a…
* Đại sứ quán Việt Nam tại I-xra-en đã tổ chức trọng thể lễ viếng và mở sổ tang Đại tướng Lê Đức Anh. Đại sứ quán đón tiếp nhiều bà con Việt kiều, lưu học sinh và đại diện nước sở tại, đại sứ các nước tại I-xra-en tới viếng và ghi sổ tang Đại tướng Lê Đức Anh.
* Đại sứ quán Việt Nam tại Vương quốc Anh đã tổ chức trang trọng lễ viếng và mở sổ tang tưởng nhớ Đại tướng Lê Đức Anh. Viết trong sổ tang, Quốc vụ khanh Bộ Ngoại giao Anh M.Phin đã thay mặt nhân dân và Chính phủ Anh bày tỏ chia buồn sâu sắc trước sự ra đi của Đại tướng Lê Đức Anh. Nhiều đại sứ các nước tại Anh cũng đến chia buồn, ghi sổ tang tại Đại sứ quán.
* Theo phóng viên Báo Nhân Dân thường trú tại LB Nga, sáng 3-5, Đại sứ quán Việt Nam tại U-crai-na tổ chức lễ mở sổ tang và viếng đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh. Đại diện Bộ Ngoại giao U-crai-na và đại diện các cơ quan ngoại giao, các tổ chức quốc tế, cơ quan lãnh sự tại Thủ đô Ki-ép, đại diện Hội hữu nghị U-crai-na - Việt Nam, lãnh đạo trường PTTH mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại diện các hội, đoàn của cộng đồng người Việt Nam tại U-crai-na đã đến viếng, ghi sổ tang, gửi điện chia buồn, tỏ lòng thương tiếc tới Chính phủ, nhân dân Việt Nam và toàn thể gia quyến đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh.
* Ngày 3-5, Đại sứ quán Việt Nam tại Băng-la-đét tổ chức trọng thể lễ viếng và mở sổ tang nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh tại trụ sở Đại sứ quán. Thứ trưởng Ngoại giao Băng-la-đét; Nghị sĩ, Chủ tịch Đảng Công nhân Băng-la-đét; Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Băng-la-đét; Đại sứ, Đại biện các nước; Chủ tịch Phòng Thương mại Công nghiệp Băng-la-đét - Việt Nam và cộng đồng người Việt Nam tại Băng-la-đét đã tới viếng và viết sổ tang tưởng nhớ Đại tướng Lê Đức Anh.
* Ngày 3-5, một số cơ quan truyền thông nước ngoài đưa tin nêu bật những đóng góp của Đại tướng Lê Đức Anh đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc Việt Nam.
Trang Freshnews - một trong những trang mạng có lượng độc giả lớn nhất tại Cam-pu-chia, bản tiếng Khmer, đưa tin "Nguyên Chủ tịch nước Việt Nam Lê Đức Anh từ trần ở tuổi 99", trong đó nêu rõ nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh từng là vị tướng chỉ huy lực lượng quân đội Việt Nam giúp Cam-pu-chia lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt.
* Bản tiếng Anh tờ Phnom Penh Post (Bưu điện Phnôm Pênh) của Cam-pu-chia đã đăng trên trang nhất tin nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh từ trần, trong đó nhấn mạnh nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh là nhân vật nổi bật với một di sản ở Cam-pu-chia, với vai trò được ghi nhận nhiều nhất là Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Cam-pu-chia, giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng Khmer Đỏ năm 1979.
Trong khi đó, tờ Rasmei Kampuchea (Tia Sáng Cam-pu-chia), có lượng phát hành lớn nhất tại Cam-pu-chia cũng đã đăng tiểu sử về cuộc đời và hoạt động cách mạng của nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh.
* Tờ Bưu điện Oa-sinh-tơn (Mỹ) cũng đăng bài viết về nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh với vai trò là người chỉ huy Quân tình nguyện Việt Nam sang Cam-pu-chia giúp lật đổ chế độ Khmer Đỏ, đồng thời là người chứng kiến sự kiện Mỹ và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao. Theo bài báo, Đại tướng Lê Đức Anh đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến đấu giải phóng hoàn toàn miền nam với tư cách là Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền nam Việt Nam. Năm 1974, ông trở thành Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, góp phần phát động cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước. Bài báo nhắc lại Đại tướng Lê Đức Anh được biết đến nhiều nhất với vai trò hỗ trợ Cam-pu-chia lật đổ chế độ Khmer Đỏ tàn bạo, là “kiến trúc sư” của chiến dịch giúp chấm dứt gần bốn năm cai trị của chính quyền Pôn Pốt, cũng như ngăn chặn chế độ diệt chủng quay trở lại Cam-pu-chia. Bài báo khẳng định, với tư cách là Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đóng vai trò quan trọng trong việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ.
Sáng 03/5/2019, Lễ viếng và truy điệu Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức trọng thể tại Nhà tang lễ Quốc gia (số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội) theo nghi thức Quốc tang. Lễ an táng từ 17 giờ cùng ngày tại Nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh.
Lễ an táng nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh được cử hành trọng thể chiều 3/5, tại Nghĩa trang thành phố Hồ Chí Minh.
Dự Lễ an táng nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh có các đồng chí: Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc; nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng; Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân; Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính; Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng; Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình; Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thiện Nhân; Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Trần Thanh Mẫn; Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh; các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước; lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh; đại diện các lực lượng vũ trang nhân dân, lão thành cách mạng cùng đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Sau khi đội tiêu binh thực hiện nghi lễ hạ huyệt, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh cùng gia quyến nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã thả những nắm cúc vàng tiễn đưa Đại tướng Lê Đức Anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Trong niềm tiếc thương sâu sắc, các đồng chí lãnh đạo, nguyên Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng chí, đồng bào và gia đình dành một phút mặc niệm, vĩnh biệt nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh. Với 99 tuổi đời, hơn 80 năm tuổi Đảng, Đại tướng Lê Đức Anh đã trọn đời phấn đấu, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân ta.
Trong niềm tiếc thương vô hạn, thay mặt Ban Tổ chức Lễ tang và gia đình, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình cảm ơn các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; các đồng chí lão thành cách mạng; đại diện các ban, bộ, ngành, địa phương; các lực lượng vũ trang nhân dân; đồng bào, đồng chí, lãnh đạo các nước, đoàn ngoại giao, bạn bè quốc tế đã bày tỏ tình cảm, niềm tiếc thương sâu sắc, đến viếng, gửi vòng hoa, gửi điện chia buồn; dự Lễ truy điệu, Lễ an táng, tiễn đưa nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Thưa các vị khách quốc tế,
Thưa gia quyến đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh,
Thưa đồng bào, đồng chí,
Hôm nay, trong niềm xúc động và tiếc thương vô hạn, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng đồng bào, đồng chí và gia đình tổ chức trọng thể Lễ truy điệu và tiễn đưa đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nơi an nghỉ cuối cùng.
Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân ta; người đảng viên cộng sản kiên trung, suốt đời cống hiến, hy sinh vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Đồng chí mất đi là một tổn thất to lớn đối với Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân ta, đối với gia quyến của Đồng chí, để lại niềm tiếc thương đối với đồng bào, đồng chí, gia đình và bạn bè quốc tế.
Thưa đồng bào, đồng chí,
Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh (bí danh Nguyễn Phú Hoà; Sáu Nam), sinh ngày 01/12/1920, quê quán tại xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Được thừa hưởng truyền thống yêu nước của quê hương và gia đình, Đồng chí đã sớm giác ngộ cách mạng; năm 1937 khi mới 17 tuổi, Đồng chí đã tham gia phong trào dân chủ ở Phú Vang, Thừa Thiên - Huế. Tháng 5/1938, Đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Đồng chí luôn bám dân, bám địa bàn, hoạt động và xây dựng phong trào cách mạng ở cơ sở từ tỉnh Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, đến Lâm Đồng, Bình Dương, Bình Phước.
Tháng 8/1945, Đồng chí tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước và chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, đồng chí Lê Đức Anh luôn có mặt ở những địa bàn chiến trường trọng yếu, khó khăn, ác liệt. Đồng chí đã kinh qua các chức vụ từ cấp đại đội, chi đội, trung đoàn, Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8, Quan khu Sài Gòn - Chợ Lớn, Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ, Phó Cục trưởng Cục Tác chiến, Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng tham mưu, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong mọi hoàn cảnh, Đồng chí luôn vượt qua khó khăn, chỉ đạo tác chiến, xây dựng đoàn kết nội bộ, mở rộng vùng căn cứ, thể hiện phẩm chất cao quý của Bộ đội Cụ Hồ, của người chỉ huy, mưu trí, dũng cảm, quyết đoán, quyết thắng.
Trên cương vị là Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh miền Nam, Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh miền Nam, Tư lệnh Khu 9, Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam, Đồng chí đã trực tiếp tham gia và chỉ huy nhiều chiến dịch lớn, luôn thể hiện bản lĩnh của người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, giữ vững thế tiến công, chủ động tấn công, lăn lộn với thực tế chiến trường để tìm ra những cách đánh hiệu quả, giảm hy sinh xương máu của chiến sĩ và đồng bào, góp phần cùng quân và dân ta giành được nhiều thắng lợi có tính chiến lược, như: Đánh bại cuộc hành quân mang tên Gian-xơn Xi-ti của Mỹ tấn công căn cứ của Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền ở Tây Ninh năm 1967, chống địch lấn chiếm, phá hoại Hiệp định Pa-ri năm 1973 trên địa bàn Khu 9, cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng nhiều tỉnh, thành phố có vị trí chiến lược, làm thay đổi cục diện chiến trường, tạo đà góp phần vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng trận mạc, một nhà chỉ huy xuất sắc, có tầm nhìn chiến lược, có chiến thuật tài tình và linh hoạt xử lý các tình huống phức tạp. Đồng chí là một trong hai sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được phong hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng. Cuộc đời binh nghiệp của Đại tướng gắn với nhiều chiến trường vào Nam ra Bắc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả.
Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, Đồng chí là một trong những tướng lĩnh trực tiếp chỉ huy chiến trường và giành nhiều thắng lợi quan trọng, bảo vệ biên giới thiêng liêng của Tổ quốc và giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Đồng chí cũng là người trực tiếp thị sát, chỉ đạo và đóng góp quan trọng trong thực hiện chủ trương xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Sau khi đất nước hòa bình, thống nhất, Đồng chí được Đảng, Nhà nước giao nhiều trọng trách, như: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng uỷ Quân sự Trung ương; là Ủy viên Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng khoá VII; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa V, VI, VII, VIII; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ tháng 9/1992 đến tháng 12/1997; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ năm 1997 đến tháng 4/2001; Đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII và IX.
Ở bất kỳ cương vị nào, Đồng chí luôn trăn trở, tìm tòi, tâm huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng để tái thiết đất nước, khởi xướng công cuộc đổi mới, phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước; cùng Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng thế trận "chiến tranh nhân dân" và nền quốc phòng toàn dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước.
Khi giữ trọng trách Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với tầm tư duy chiến lược, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tác phong sâu sát, Đồng chí cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước đề ra và chỉ đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đưa đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hơn 80 năm hoạt động cách mạng, Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh đã có nhiều công lao to lớn và cống hiến xuất sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta, tuyệt đối trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Là cán bộ lão thành cách mạng, được tôi luyện, vào sinh ra tử, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đồng chí luôn giữ vững ý chí, phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; không ngừng rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, nâng cao tri thức, sáng tạo, sắc sảo, quyết đoán và hành động quyết liệt trong mọi công việc.
Là một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt tiêu biểu của Đảng, dù ở cương vị nào, Đồng chí cũng mang hết nhiệt huyết đóng góp nhiều ý kiến quan trọng vào những vấn đề lớn của đất nước. Đồng chí không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn thể hiện rõ phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ"; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc và Nhân dân lên trên hết. Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà chính trị, nhà quân sự tài năng; một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc đời hoạt động cách mạng của Đồng chí là tấm gương sáng để đồng bào, đồng chí, cán bộ, chiến sĩ cả nước yêu quý, kính trọng, học tập và noi theo.
Đối với đồng chí, đồng đội, Đại tướng Lê Đức Anh không phân biệt cấp bậc, chức vụ, sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi, luôn quan tâm, chăm lo cho cán bộ, chiến sĩ và thực hiện chế độ, chính sách hậu phương quân đội. Đồng chí luôn gần gũi, chân tình, sâu sắc và nặng tình nghĩa với quê hương. Trong gia đình, Đồng chí là người chồng, người cha, người ông, người cụ mẫu mực, đức độ, giàu đức hy sinh và lòng nhân ái.
Với 99 tuổi đời, hơn 80 năm tuổi Đảng, đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh đã trọn đời phấn đấu, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Nhân dân ta. Đồng chí đã được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân chương, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.
Kính thưa anh linh đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh,
Hôm nay, chúng tôi có mặt tại đây để bày tỏ lòng tiếc thương và tình cảm sâu sắc tiễn đưa Đồng chí về nơi an nghỉ cuối cùng. Chúng tôi nguyện đoàn kết một lòng, noi gương Đồng chí, cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ra sức phấn đấu, tiếp tục đi theo con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và các thế hệ cách mạng đi trước, trong đó có Đồng chí đã trọn đời cống hiến; kiên định chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, vì một nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Chúng tôi mãi mãi nhớ về Đại tướng Lê Đức Anh - anh Sáu Nam kính mến, người đồng chí thân thiết, chí tình, một vị tướng tài ba, một nhà lãnh đạo xuất sắc, một nhân cách đức độ, giản dị, gần gũi.
Trong giờ phút tiếc thương và xúc động này, chúng tôi xin trân trọng gửi đến toàn thể gia quyến đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh lời chia buồn sâu sắc nhất trước nỗi đau thương, mất mát không gì bù đắp được.
Xin kính cẩn nghiêng mình vĩnh biệt đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh - Anh Sáu Nam kính mến của chúng ta!”
Đúng 10.45' Lễ truy điệu Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức trọng thể tại Nhà tang lễ Quốc gia (số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội).
Sau khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đọc lời điếu, ông Lê Mạnh Hà, con trai nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh phát biểu cảm tạ. Ông Lê Mạnh Hà cảm ơn đến các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc cùng lãnh đạo các địa phương, các cơ quan đoàn thể, đơn vị; lãnh đạo cấp cao các nước, bạn bè quốc tế, các cơ quan ngoại giao đoàn, đồng bào, đồng chí, bạn bè cũng như anh em họ hàng đã đến chia buồn, tiễn đưa cha mình về nơi yên nghỉ cuối cùng; gửi lời cảm ơn các giáo sư, bác sĩ, nhân viên y tế đã quan tâm điều trị, chăm sóc hết lòng cho cha mình trong suốt thời gian qua, cho đến những giây phút cuối đời.
Tiếp đó con trai nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh nói lời tiễn biệt: Thưa ba, ba đã sống một cuộc sống kiên cường của người chiến sĩ và bình dị như bao người dân khác. Vượt qua 4 cuộc kháng chiến và 3 cơn bạo bệnh, ba đã sống đến 100 tuổi.
Yêu thương, nghị lực, may mắn và sức sống phi thường đã giúp ba sống thật lâu và thực sự có ích cho đời. Thế nhưng quy luật của muôn đời đã đưa ba đi mãi mãi.
Gia tài của ba để lại cho con cháu thật đồ sộ và quý giá, đó là là trái tim nhân hậu của con người dũng cảm, yêu thương và vị tha, nhân hậu.
Chúng con thật vinh dự và tự hào được nhận món quà quý giá đó. Cảm ơn ba, chúng con chào ba, ba về bên mẹ, bên bạn bè thời kỳ khói lửa và thời bình yên. Vĩnh biệt ba!
Tiếp đó, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đại diện các bộ, ban, ngành, đoàn thể, đồng chí, đồng bào đã đi quanh linh cữu lần cuối tiễn biệt nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh.
Sau lễ truy điệu, linh cữu nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh được di chuyển ra linh xa.
Linh cữu nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh được phủ Quốc kỳ trang trọng. Linh xa đưa linh cữu nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh rời Nhà Tang lễ Quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông (Hà Nội) đi qua các tuyến đường: Lê Thánh Tông - Tràng Tiền -Hàng Khay -Tràng Thi- Điện Biên Phủ - Nguyễn Tri Phương- Phan Đình Phùng - Hoàng Diệu - Độc Lập - Hoàng Văn Thụ - Hùng Vương- Thanh Niên - Nghi Tàm, Âu Cơ - An Dương Vương - cầu Nhật Tân - Võ Nguyên Giáp - Cảng Hàng không quốc tế Nội Bài đi thành phố Hồ Chí Minh.
DANH SÁCH BAN LỄ TANG
Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị,
nguyên Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
1. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trưởng Ban Lễ tang.
2. Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Đồng chí Nguyễn Thị Kim Ngân, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Đồng chí Trần Quốc Vượng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư.
5. Đồng chí Tòng Thị Phóng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch thường trực Quốc hội.
6. Đồng chí Phạm Minh Chính, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương.
7. Đồng chí Võ Văn Thưởng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương.
8. Đồng chí Trương Thị Mai, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương.
9. Đồng chí Nguyễn Văn Bình, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương.
10. Đồng chí Trương Hoà Bình, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ.
11. Đồng chí Phạm Bình Minh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
12. Đồng chí Vương Đình Huệ, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ.
13. Đồng chí Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
14. Đồng chí Đại tướng Tô Lâm, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an.
15. Đồng chí Hoàng Trung Hải, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ Hà Nội.
16. Đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Đồng chí Trần Thanh Mẫn, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam .
18. Đồng chí Đại tướng Lương Cường, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
19. Đồng chí Nguyễn Văn Nên, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng.
20. Đồng chí Nguyễn Hoà Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Toà án nhân dân Tối cao.
21. Đồng chí Phan Đình Trạc, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương.
22. Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Bí thư Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương.
23. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.
24. Đồng chí Đặng Thị Ngọc Thịnh, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước.
25. Đồng chí Đại tướng Đỗ Bá Tỵ, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội.
26. Đồng chí Hoàng Bình Quân, Uỷ viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương.
27. Đồng chí Lê Minh Trí, Uỷ viên Trung ương Đảng, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao.
28. Đồng chí Mai Tiến Dũng, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ.
29. Đồng chí Đào Việt Trung, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước.
30. Đồng chí Nguyễn Hạnh Phúc, Uỷ viên Trung ương Đảng, Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.
31. Đồng chí Lê Vĩnh Tân, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
32. Đồng chí Bùi Văn Cường, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam .
33. Đồng chí Thào Xuân Sùng, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam .
34. Đồng chí Nguyễn Thị Thu Hà, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam .
35. Đồng chí Lê Trường Lưu, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
36. Đồng chí Trung tướng Võ Minh Lương, Uỷ viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân khu 7.
37. Đồng chí Thiếu tướng Huỳnh Chiến Thắng, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chính ủy Quân khu 9.
38. Đồng chí Thượng tướng Nguyễn Văn Được, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam .
39. Đồng chí Lê Quốc Phong, Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.