Công cuộc đổi mới của đất nước ta, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, đang được triển khai sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đổi mới tư duy quân sự, đổi mới trong quân đội và lĩnh vực quốc phòng được đặt ra trong công cuộc đổi mới về mọi một của Đảng và nhân dân ta. Đổi mới tư duy quân sự là phải kế thừa và phát triển những thành tựu đã đạt được, sửa chữa những khuyết điềm, thiếu sót, thay đổi những gì không còn phù hợp, và phải quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội ỉân thứ VI và các nghị quyết tiếp theo của Đảng ta.
Từ sau Đại hội VI đến nay, đồng chí Lê Đức Anh ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Bộ trưởng Quốc phòng đã có nhiều bài nói và viết phân tích sâu sắc những quan điểm, tư tưởng cơ bản của Đảng ta về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân, nhiệm vụ bảo vệ Tồ quốc và nhiệm vụ quốc tế của quân đội ta trong tình hình mới.
Đáp ứng yêu cầu bạn đọc, nhất là cán bộ trong các lực lượng vũ trang nhân dân, được sự đồng ý của đồng chí Lê Đức Anh, chúng tôi xuất bản cuốn “Đổi mới tư duy quân sự, kiên trì chấp hành và vận sự, kiên trì chấp hành và vận dụng sáng tạo đường lối quân sự của Đảng”, gồm một số bài nói và viết của đồng chí trong thời gian qua.
Với mong muốn góp phần quán triệt đường lối quân sự của Đảng trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, quán triệt quan điềm đổi mới của Đảng ta trên lĩnh vực quân sự và quốc phòng, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
NHÀ XUẤT BẢN QUẦN ĐỘI NHÂN DÂN
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội lần thứ VI đã nêu rõ: “Đối với nước ta đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”. “Phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, chúng ta mới có thề vượt qua khó khăn, thực hiện được những mục tiêu do Đại hội lần thứ VI đề ra”. Báo cáo cũng khẳng định: “Mỗi người chúng ta, từ người lãnh đạo đến đảng viên thường, dù hoạt động trong lĩnh vực nào, cũng cần kiểm tra lại nhận thức của mình, sớm lĩnh hội được những quan điểm mới kiên quyết gạt bỏ những quan niệm sai lầm”.
Đổi mới tư duy quân sự, đổi mới trong quân đội và trong lĩnh vực quốc phòng nói chung được đặt ra trong tinh thần đổi mới chung của Đại hội lần thứ VI của Đảng, trong công cuộc đổi mới về mọi mặt của Đảng ta và đất nước ta. Quân sự phụ thuộc vào chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... và có quy luật riêng. Do vậy, đặt đúng vấn đề đổi mới tư duy quân sự, một mặt phải thấy sự chi phối cùa sự đổi mới chung của đất nước về các mặt đối với quân sự; mặt khác, cũng phải thấy sự chi phối của quy luật quân sự đặc thù có khác quy luật kinh tế, thấy những ưu điểm và khuyết điểm riêng của Đảng la và nhân dân ta trong lĩnh vực quân sự, thấy những yêu cầu riêng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Đường lối quân sự của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước là đường lối quốc phòng toàn dân, xâv dựng lực lượng vũ trang nhân dân và tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Đường lối đó là sự kế thừa và phát triển đường lối quân sự của Đảng trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ và chiến tranh giải phóng dân tộc (trong đó có phần tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trước đây). Đường lối đó được kiểm nghiệm trong chiến tranh và hình thành từng bước từ Đại hội lần thứ IV của Đảng, sau khi cách mạng giải phóng dân tộc đã hoàn thành, được cụ thể hóa và phát triền dần qua Đại hội lần thứ V, Đại hội lần thứ VI và các nghị quyết về quân sự của Ban Chấp hành trung ương Đảng, của Bộ Chính trị và Đảng ủy quân sự trung ương.
Đường lối quân sự của Đảng là một hành tự tư duy xuất sắc của Đảng ta và dân tộc ta, mà tính chân lý, tính cách mạng và koa học của nó đã được kiểm nghiệm và được chứng minh qua cuộc chiến đấu lâu dài, đầy gian khổ nhưng thắng lợi rất vẻ vang của quân và dân ta chống những kẻ thù xâm lược hung bạo của thời đại trong mấy chục năm khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh giải phóng trước đây, cũng như trong hơn chục năm củng cố quốc phòng và tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vừa qua.
Đồng thời chúng ta cũng thấy rằng không phải mọi vấn đề của đường lối quân sự, của khoa học và nghệ thuật quân sự trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đều đã được giải quyết đúng đắn và trọn vẹn. Trong lĩnh vực quân sự và quốc phòng nói chung, chúng ta có ưu điểm và cũng có khuyết điểm. Trong lý luận và thực tiễn, trong xây dựng và chiến đấu cũng có biểu hiện chủ quan, không phù hợp với tình hình thực tế; có hiện lượng lãng quên phần nào truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc ta và kinh nghiệm quý báu về chiến tranh nhân dân mà quân và dân ta đã tích lũy được; có hiện tượng lơi lỏng những nguyên tắc xây dựng quân đội nhân dân mà chúng ta đã tổng kết... Những hiện tượng tiêu cực kéo dài đôi khi nghiêm trọng trong quân đội làm cho chúng ta phải suy nghĩ nhiều. Chúng ta lại thấy cả biểu hiện máy móc, thoát ly thực tế tình hình của đất nước ta và quân đội ta, biểu hiện bảo thủ, kinh nghiệm chủ nghĩa, không nhận thức được hết những yêu cầu mới trong tình hình và nhiệm vụ mới...
Cho nên nói đổi mới tư duy quân sự là nói đổi mới sự suv nghĩ và cách suy nghĩ để nhận thức sâu sắc hơn nữa đường lối quân sự của Đảng, đánh giá đúng tình hình khách quan, tình hình địch và ta, phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, giải quyết đúng đắn các vấn đề quân sự, cả các vấn đề chiến lược, đúng với quy luật khách quan, phù hợp với tình hình mới của đất nước và thế giới. Đồi mới tư duy quân sự không có nghĩa là phủ định những thành tựu lý luận quân sự đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của hoạt động quân sự, của chiến tranh và đấu tranh vũ trang, phủ nhận đường lối quân sự đúng dần đã được xác định. Trái lại, đổi mới tư duy quân sự chính là kế thừa, bổ sung và phát triển những thành tựu đã đạt được; là sửa chữa những khuyết điểm và thiếu sót, thay đổi những gì không còn phù hợp; là “kiên trì chấp hành và cụ thể hóa” đường lối quân sự của Đảng, như Đại hội lần thứ VI đã chỉ rõ; là nắm vững và vận dụng sáng tạo đường lối quân sự phù hợp với những điều kiện mới, hoàn cảnh mới của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc gắn liền với nhiệm vụ xây dựng đất nước.
Định hướng lớn cho đổi mới tư duy quân sự, cho sự đổi mới trong quân đội và trong lĩnh vực quốc phòng nói chung, chính là Nghị quyết Đại hội lần thứ VI và các nghị quyết về quân sự của Đảng mà chúng ta cần nghiên cứu kỹ nắm vững, chấp hành nghiêm túc và sáng tạo. Phải dựa vào trí tuệ tập thể, trải qua thảo luận dân chù, mạnh dạn đổi mới cách nghĩ và cách làm và trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn mà góp phần tiếu tục cụ thể hoá và phát triển đường lối quân sự của Đảng, xây dựng và hoàn chỉnh không ngừng khoa học và nghệ thuật quan sự Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Một bài học kinh nghiệm mà Đại hội lần thứ VI đã tổng kết là phải “luôn luôn xuất phát từ thực tế, phải tôn trọng quy luật khách quan”. Bài học đó rất có ý nghĩa đối với việc đổi mới tư duy quân sự. Khi định ra nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là một nhiệm vụ chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta song song với nhiệm vụ xây dựng đất nước, Đảng ta không phải đi từ sự suy diễn chủ quan, mà xuất phát từ thực tế khách quan, từ sự phân tích tình hình chung trên thế giới và khu vực, âm mưu và hành động thực tế của kẻ thù. Đảng ta cũng xuất phát từ quy luật chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa, từ quy luật giữ nước đi đôi với dựng nước trong lịch sử tồn tại và phái triển cùa dân tộc Việt Nam. Do vậv coi nhẹ, hạ thấp nhiệm vụ bảo vệ Tồ quốc, chỉ muốn tập trung sức xây dựng đất nước, tách rời xây dựng đất nước với bảo vệ Tổ quốc, là không đúng. Phải thấy rõ cả kẻ thù cơ bản lâu dài và kẻ thù nguy hiểm trực tiếp của cách mạng nước ta và ba nước Đông Dương: thấy rõ tính chất cuộc đấu tranh quyết liệt và phức tạp hiện nay giữa cách mạng và phản cách mạng, tuy có lúc, có nơi có biểu hiện hòa hoãn trên mặt này hay mặt khác; thấy rõ khả năng ngăn ngừa chiến tranh hạt nhân thế giới và khả năng tiếp tục diễn ra các cuộc chiến tranh và xung đột khu vực do sự phản kích điên cuồng của các thế lực đế quốc và phản động; dự đoán đúng các khả năng hành động của mọi kẻ thù...
Kinh nghiệm vừa qua cho thấy, có vấn đề quan trọng là phải đánh giá đúng âm mưu trước mắt và lâu dài của địch bắt nguồn từ bản chất của chúng, từ đó đặt đúng vị trí của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống, không mơ hồ mất cảnh giác, nhất là trước những biểu hiện bề ngoài, những thủ đoạn sách lược tạm thời của chúng. Lại còn có vấn đề đánh giá đúng chỗ mạnh, chỗ yếu và xu thế phát triền trong tương lai của địch, xét trong toàn cục cũng như trong từng tình huống chiến lược cụ thể, không mắc sai lầm chủ quan, đánh giá thấp, hoặc ngược lại đánh giá cao khả năng của chúng. Như vậy ta mới có thể có đối sách phù hợp với tình hình trước mắt, đồng thời chủ động ứng phó khi có biến động, kể cả khi xảy ra tình huống xấu nhất. Âm mưu cơ bản và bản chất của địch là một chuyện, song địch có khả năng thực hiện được âm mưu cơ bản đó hay không và vào thời cơ nào lại là chuyện khác. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có một yếu tố rất quan trọng là sức mạnh và sự sẵn sàng của quan đội ta, của nhân dân và đất nước ta. Cho nên chúng ta cần luôn luôn kiên định lập trường bảo vệ Tổ quốc, nhận rõ bản chất của kẻ thù, tích cực giải quyết những khó khăn to lớn về kinh tế, về sản xuất và đời sống, xây dựng đất nước mạnh lớn trong bất kể tình huống nào. Đồng thời theo sát sự phát triển của tình hình, những thay đổi của địch trong bối cảnh chung của thế giới và khu vực, dự đoán đúng hoặc gần đúng các khả năng, để định ra chiến lược và sách lược phù hợp. Chúng ta không máy móc, cứng nhắc với một nhận định sẵn có, mà phải nhạy bén với cái mới, nhìn thẳng vào sự thật, dám phủ dịnh nhữrg nhận định trước đây có thể đúng nhưng nay không còn phù hợp nữa. Phải kiên định trên lập trường cơ bản và thật năng động, sáng tạo trong nhận thức và hoạt dộng thực tiễn, cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo và linh hoạt về sách lược, đặc biệt trước những vấn đề về đấu tranh cách mạng, về bảo vệ chủ nghĩa xa hội và bảo vệ hòa bình hiện nay trên thế giới. Đó là tư duy chính trị mới và cũng là tư duy quân sự mới.
Quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân, toàn dân giữ nước và cả nước đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, đó là tư tưởng chỉ đạo cơ bản trong đường lối quân sự của Đảng ta, là truyền thống quân sự của dân tộc ta, là học thuyết quân sự và kinh nghiệm quý báu của quân và dân ta trong mấv chục năm chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước vừa qua. Như Đại hội lần thứ VI của Đảng ghi rõ: “Toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”. Đổi mới tư duy quân sự là nắm vững tư tưởng chỉ đạo cơ bản đó, khắc phục những lệch lạc coi bảo vệ Tổ quốc, củng cố quốc phòng hình như chỉ là việc của quân đội, nhấn mạnh một chiều vai trò của quân dội, coi nhẹ vai trò của cả ba thứ quân và của toàn dân trong chiến tranh giữ nước, trong sức mạnh quốc phòng. Quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân thề hiện sự vận dụng sáng tạo học thuyết quân sự Mác-Lê-nin của Đảng ta vào điều kiện cụ thể Việt Nam, đất không rộng, người không đông lắm, kinh tế kém phát triển, thường phải lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, chống lại những kẻ thù xâm lược mạnh hơn về tiềm lực kinh tế và quân sự.
Do vậy, xây dựng nền quốc phòng toàn dân ngày càng vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tô quốc trong mọi tình huống là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chuyên chính vô sản.
Nội dung xây dựng nền quốc phòng toàn dân rất rộng lớn, từ việc giáo dục ý thức quốc phòng, kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng tiềm lực quân sự, xây dựng thế trận, chấp hành chính sách hậu phương quân đội, v.v. Những nội dung đó thuộc chức năng lãnh đạo của các tổ chức đảng từ trung ương đến địa phương, sự thực hiện của nhiều ngành trong bộ máy nhà nước và sự tham gia của đông đảo nhân dân, không phảỉ là việc riêng của Bộ Quốc phòng, của quân đội, của các cơ quan quân sự.
Vừa qua, do nhận thức chưa đầy đủ nên có hiện lượng ở cẩp này cấp khác, ngành này ngành khác, còn xem nhẹ nhiệm vụ quốc phòng; có hiện tượng “khoán trắng” cho cơ quan quân sự; không thật tự giác thực hiện những công tác về quốc phòng, xem như một việc phiền phức.
Trong tỉnh hình đó, việc tăng cường giáo dục cho toàn dân, trước hết là cho cán bộ, đảng viên, thấu suốt nhiệm vụ xây dựng và củng cố quốc phòng là hết sức cần thiết. Cán bộ lãnh đạo từ trung ương đến địa phương, đi đôi với việc học tập nâng cao kiến thức về chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật, phải được bồi dưỡng những tri thức về quốc phòng, về đường lối quân sự. Cần nghiên cứu biên soạn chương trình giáo dục quốc phòng một cách phổ cập, nhất là trong các trường đảng, trường của các ngành, cũng như trường phổ thông và đại học. Phải khẩn trương hoàn chỉnh việc thể chế hóa nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của công dân trong sự nghiệp quốc phòng thành pháp luật và các chính sách cụ thể.
Đất nước ta hiện nay vừa có hòa bình, vừa phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt do địch gây ra, thì nhiệm vụ quốc phòng trước mắt phải tập trung đánh thắng chiến tranh phá hoại của địch, làm thất bại âm mưu chiến lược của chúng hòng làm suy yếu nước ta, đồng thời sẵn sàng về mọi mặt để ứng phó với mọi tình thế. Đó phải là sự sẵn sàng của cả đất nước, của toàn dân chứ không phải chỉ là sự sẵn sàng của quân đội, của lực lượng vũ trang.
Chống chiến tranh phá hoại của địch là một cuộc đấu tranh rãi rộng lớn và phức tạp. Chúng ta phải nắm vững quan điểm “lấy dân làm gốc”, triệt để dựa vào dân để phát hiện và đấu tranh chống địch. Phải phát huy triệt để sức mạnh tổng hợp của cả nước, của toàn bộ hệ thống chuyên chính vô sản, nhất là các ngành nội chính; phối họp chặt chẽ và tiến hành đồng bộ các biện pháp đấu tranh trên mọi lĩnh vực tư tưởng, chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Phải gắn cuộc đấu tranh chống địch phá hoại với việc đấu tranh chống tiêu cực, chống hiện tượng vi phạm pháp luật và trật tự, an toàn xã hội. Đặc biệt phải kết hợp rất chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh, vừa chống địch phá hoại trong nội địa, vừa kiên quyết chống trả những hoạt động xâm lấn bằng quân sự của địch trên biên giới, trên không, trên biển và hải đảo.
Quân và dân ta phải tiếp tục làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với hai nước Lào và Cam-pu-chia anh em; đoàn kết với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác; ủng hộ phong trào cách mạng và hòa bình trên thế giới.
Nhân dân ta thiết tha muốn được sống trong hòa bình để xây dựng đất nước. Do đó chúng ta sẵn sàng thông qua đối thoại giải quyết các vấn đề giữa nước ta với các nước láng giềng. Chúng ta muốn bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, khôi phục tình hữu nghị lâu đời với nhân dân Trung Quốc, trên cơ sở độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Chúng ta kiên trì đấu tranh cho hòa bình và ổn định trong khu vực.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là sự nghiệp lâu dài. Nhưng ngay từ bây giờ, chúng ta đã phải tiến hành từng bước, Trên cơ sở quy hoạch tổng thể về xây dựng đất nước, phải kết hợp xây dựng quy hoạch tổng thể về quốc phòng, từng bước xây dựng tiềm lực quân sự, xây dựng thế trận của chiến tranh nhân dân trên cả nước và trên mỗi địa phương. Các kế hoạch kinh tế - xã hội dài hạn cũng như trong từng thời gian, trên phạm vi cả nước cũng như trong từng địa phương đều phải gắn chặt với kế hoạch về quốc phòng. Mỗi khu vực kinh tế, mỗi công trình và cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội... ngoài việc phục vụ sản xuất và đời sống, đều phải tính đến khả năng chuyển hướng hoạt động khi có chiến tranh. Phải trên cơ sở xây dựng từng bước nền công nghiệp hiện đại mà tăng cường khả năng bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho lực lượng vũ trang, từng bước xây dựng hệ thống công nghiệp quốc phòng để tự lực trang bị và giải quyết những nhu cầu thiết yếu cho quốc phòng. Nhìn chung, trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phải kết hợp rất chặt chẽ giữa kinh tế và quốc phòng, quốc phòng và kinh tế.
Các tỉnh ủy, thành ủy, huyện ủy được giao nhiệm vụ xây dựng các tỉnh (thành phố), huyện vững mạnh toàn diện về kinh lế và quốc phòng, xây dựng các khu vực phòng thủ trên địa bàn tỉnh, thành phố và huyện, củng cố hệ thống các làng, xã, phường chiến đấu ngày càng vững chắc, theo kế hoạch thống nhất của cả nước và từng quân khu. Đặc biệt phải chú trọng xây dựng các tỉnh biên gỉới phía bắc vững mạnh toàn diện. Đây là một nội dung lớn trong nhiệm vụ hiện nay của sự nghiệp củng cố quốc phòng thể hiện trực tiếp quan điểm quốc phòng toàn dân. Địa phương tỉnh (thành phố), huyện là cơ sở của nền quốc phòng toàn dân, là tiềm năng và sức mạnh của nhân dân trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chỉ khi nào xây dựng được từng địa phương mạnh thì sự nghiệp quốc phòng của cả nước mới thực sự vững chắc. Khi có chiến tranh, mỗi địa phương sẽ là một mặt trận kiên cường, một pháo đài quân sự chống địch; khi không có địch, là hậu phương mạnh chi viện cho tiền tuyến. Hậu phương bao giờ cũng là một nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh.
Các tỉnh (thành phổ) còn có nhiệm vụ góp phần tích cực xây dựng bộ đội chủ lực, bảo đảm cho các đơn vị chủ lực trở thành những lực lượng cơ động mạnh được bố trí trên những khu vực quan trọng nhất và tiến hành những trận đánh, những chiến dịch quan trọng nhất. Phải làm tốt công tác tuyển quân, chăm lo chu đáo đời sống vật chất và tinh thần của các đơn vị chủ lực đóng quân trong địa phương... Chấp hành chu đáo chính sách hậu phương quân đội là một nội dung quan trọng trong việc củng cố quốc phòng và xây dựng quân đội. Nó góp phần rất to lớn trong việc nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, góp phần động viên các lực lượng vũ trang yên tâm, phấn khởi khi đi làm nhiệm vụ cũng như khi trở về hậu phương sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Đây cũng là một trọng điểm trong chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Để đảm bảo đưa sự nghiệp xây dựng và củng cố quốc phòng nhanh chóng vươn lên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, vấn đề có tính quyết định là phải phát huy hiệu lực của cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng và xây đựng quân đội. Cơ chế đó đã được xác định trong Nghị quyết của Đại hội lần thứ VI, trong Điều lệ Đảng và đã được cụ thề hóa trong các quy định của Ban Bí thư. Việc tổ chức đảng ủy quân sự địa phương với bí thư tỉnh (huyện) làm bí thư đảng ủy quân sự, là một biểu hiện cụ thể của việc Đảng lãnh dạo nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc để phát huy sức mạnh của các địa phương, của toàn dân trong nhiệm vụ quốc phòng. Đó là kinh nghiệm và truyền thống của Đảng ta từ trong chiến tranh trước đây.
Nền quốc phòng toàn dân vững mạnh nhất thiết phải có nòng cốt là quân đội nhân dân chính quy và ngày càng hiện đại, là lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Mỗi thứ quân có vai trò chiến lược của nó. Nhấn mạnh một chiều vai trò của quân đội, không thấy đầy đủ vai trò chiến lược của dân quân, tự vệ, của lực lượng toàn dân đánh giặc là sai lầm. Mặt khác, không thấy đầy đủ vai trò của quân đội, của những quả đấm mạnh của các binh đoàn chiến lược trong chiến tranh cũng là không dúng. Cho nên phải chú trọng xâỵ dựng cả ba thứ quân, vừa chú trọng xây dựng quan đội nhân dân, vừa chú trọng xây dựng dân quân tự vệ.
Phải từng bước, nhưng rất kiên quyết, chấn chỉnh tổ chức biên chế của quân đội nhân dân, nâng cao chất lượng huấn luyện cán bộ và chiến sĩ, tăng cường quản lý bộ đội về mọi mặt... để xây dựng quân đội nhân dân có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu ngày càng cao, với một tổng quân số hợp lý, đủ sức chấp hành mọi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Đây cũng là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của cả hệ thống chuyên chính vô sản, chứ không thể chỉ là nhiệm vụ của quân đội, của Bộ Ọuổc phòng.
Quân đội nhân dân bao gồm lực lượng thường trực và lực lượng dự bị. Trong khi nhấn mạnh chất lượng quân đội thường trực và xác định số lượng quân thường trực phù hợp với tình hình chưa có chiến tranh và khả năng của nền kinh tế, thì việc quan tâm xây dựng lực lượng dự bị là đặc biệt quan trọng. Quân đội phải cùng với các cấp của Đảng và Nhà nước tổ chức và quản lý chặt chẽ quân dự bị và cán bộ dự bị, cả bộ binh và các quân chủng, binh chủng khác, có kế hoạch huấn luyện thường xuyên, bảo đảm khi có tình hình khẩn trương thì có thể kịp thời động viên mờ rộng lực lượng với chất lượng tốt.
Trong xây dựng lực lưọng dự bị, cần xuất phát từ điều kiện thực tế của đất nước ta, phát huy kinh nghiệm đã tích lũy được trong mấy chục năm chiến tranh giải phóng, đồng thời ra sức học tập kinh nghiệm tiên tiến cùa Liên Xô và các nước anh em khác để giải quyết một cách sáng tạo, phù hợp với yêu cầu cùa tình hình và nhiệm vụ mới. Không máy móc, thoát ly thực tế của ta và cũng không bảo thủ, dừng lại ở những kinh nghiệm cũ không còn phù hợp. Thực tế cho thẩy việc xây dựng lực lượng dự bị của các quân chủng và binh chủng kỹ thuật rất phức lạp, không đơn giản như bộ binh. Hơn nữa ta cũng chưa có nhiều kinh nghiệm.
Phương hướng là phải xây dựng quân đội nhân dân chính quy và ngày càng hiện đại, có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, có tổ chức hợp lý, cân đối, gọn và mạnh, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ sẵn sàng chiến đấu và trình độ sẵn sàng động viên cao.
Trong xây dựng quân đội, chú trọng xây đựng toàn diện, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở. Phải nắm vững những nguyên tắc mác-xít lê-nin về xây dựng quân đội nhân dân mà Đảng ta đã tổng kết. Phải phấn đấu trong một thời gian nhất định xoay chuyển tình hình, giải quyết các hiện tượng tiêu cực, khôi phục củng cố và phát huy bản chất giai cấp công nhân, truyền thống vẻ vang của “Anh bộ đội cụ hồ”.
Trong xây dựng chất lượng chính trị, tập trung xây dựng đảng bộ quân đội, tăng cường sự lãnh đạo vững chắc của Đảng đối với quân đội. Phải thực hiện tốt cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức Đảng và hiệu lực quản lý của bộ máy Nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội, do Bộ Chính trị phát động. Tích cực thực hiện nguyên tắc dân chủ, công bằng, công khai. Tăng cường đoàn kết nhất trí nội bộ, đoàn kết quân dân.
Khâu then chốt của công cuộc xây dựng quân đội là xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong quân đội có phẩm chất đạo đức tốt, vững vàng về chính trị, có trình độ và năng lực lãnh đạo, chỉ huy trình độ quản lý và phong cách lãnh đạo tương xứng với nhiệm vụ, có độ tuổi và sức khoẻ phù hợp với từng cương vị, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Về phía lãnh đạo, phải khẩn trương nghiên cứu bổ sung và thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với cán bộ và gia đình quân nhân nghiên cứu bổ sung Luật về sĩ quan, góp phần động viên cán bộ và bộ đội yên tâm làm nhiệm vụ, và cũng là thực hiện công bằng xã hội. Quân đội là một ngành lao động đặc biệt làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Cần giải quyết thoả đáng, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội, chế độ tiền lương, nhà ở và các chính sách khác đối với cán bộ quân đội nói chung, đối với những người hoạt động trên các chiến trường xa, đối với những người nghỉ hưu, mất sức hoặc còn tuổi lao động mà chuyển ngành. Chăm sóc tận tình thương binh và gia đình liệt sĩ.
Phải phát huy mạnh mẽ hiệu quả của công tác đảng – công tác chính trị, xây dựng đảng bộ quân đội trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện tốt cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, ghi trong Chương VI Điều lệ Đảng và các quy định của Ban Bí thư; kiện toàn hệ thống cơ quan chính trị; hướng mọi hoạt động công tác đảng – côg tác chính trị vào việc giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, quán triệt đường lối, quan điểm, tư tưởng của Đảng và thường xuyên bám chắc việc thực hiện các nhiệm vụ của quân đội.
Cùng với việc xây dựng chất lượng chính trị của quân đội, chúng ta ra sức phấn đấu nâng cao chất lượng huấn luyện cán bộ và bộ đội, chú trọng công tác bảo đảm trang vị, bảo đảm kỹ thuật, đặc biệt coi trọng vấn đề bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần cho chiến sĩ.
Một vấn đề lớn hiện nay là nghiên cứu phát triển khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục cụ thể hoá và hoàn chỉnh đường lối quân sự của Đảng. Cần chú trọng tổng kết, kế thừa những kinh nghiệm hết sức quý báo trong thời kỳ chiến tranh giải phóng và vận dụng sáng tạo vào điều kiện mới. Mặt khác, tích cực nghiên cứu, học tập những tri thức khoa học quân sự hiện đại và kinh nghiệm tiên tiến của các nước anh em, trước hết là học tập khoa học quân sự xô – viết. Những hiện tượng giáo điều, máy móc cũng như bảo thủ, kinh nghiệm chủ nghĩa đương nhiên là không phù hợp. Nhưng phân biệt đúng sai, xác định đâu là máy móc, đâu là bảo thủ không đơn giản. Phải trải qua thảo luận dân chủ - và khi thảo luận thì có ý kiến khác nhau là bình thường – rồi cũng phải từng bước có kết luận để thống nhất nhận thức và hành động. Phải nắm được tình hình thực tế của đất nước và quân đội ta cũng như khả năng giúp đỡ của các nước anh em, theo sát những phát triển mới nhất về học thuyết quân sự, về chiến lược cũng như về khoa học kỹ thuật quân sự trên thế giới. Phải nắm vững tư tưởng quân sự của Đảng, có quan điểm thực tiễn và quan điểm phát triển trong nghiên cứu khoa học quân sự.
Cùng với nhiệm vụ xây dựng, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, quân đội phải tích cực tham gia lao động sản xuất, góp phần cải thiện đời sống bộ đôi, tham gia xây dựng kinh tế, làm giàu cho đất nưcos. Đây là một nhiệm vụ chiến lược của quân đội ta. Quân đội không có chức năng kinh doanh thương nghiệp, không tham gia buôn bán dưới bất cứ hình thức nào. Mỗi đơn vị, tuỳ theo tính chất, nhiệm vụ và địa bàn hoạt động, được giao những nhiệm vụ lao động sản xuất và xây dựng kinh tế với hình thức và mức độ khác nhau. Các đơn vị thường trực sẵn sàng chiến đấu dành thời gian chủ yếu để huấn luyện, xây dựng công trình chiến đấu, bảo đảm kỹ thuật và bảo đảm sinh hoạt; dành một tỷ lệ thời gian cần thiết và tranh thủ ngoài giờ làm việc để sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi nhằm bù đắp thêm vào bữa ăn (không trừ vào tiêu chuẩn cung cấp). Các đơn vị chuyên xây dựng kinh tế phải thực hiện hạch toán, lấy thu bù chi, tự trang trải mọi chi phí và tiến tới có lãi. Dù làm kinh tế ở hình thức và mức độ nào cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành các chính sách, pháp luật của Nhà nước và quân đội, phải tính toán hiệu quả kinh tế.
Tình hình và nhiệm vụ quốc phòng, với những nội dung chính sách trên đây thể hiện tinh thần đổi mới cả Đại hội lần thứ VI, trước hết là đổi mới tư duy trong lĩnh vực quân sự, và là nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ VI. Các văn kiện của Đảng đã chỉ rõ, các cấp, các ngành của Đảng, Nhà nước và quân đội trong phạm vi chức năng của mình, cần phát huy nỗ lực chủ quan, dựa vào sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân để hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc gắn bó chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng đất nước, với kế hoạch kinh tế - xã hội từng năm và 5 năm của địa phương (ngành) và cả nước.
Tư duy quân sự mới gắn bó chặt chẽ với tư duy chính trị mới, tư duy kinh tế mới, tư duy mới về chủ nghĩa xã hội, về tình hình đất nước và thế giới hiện đại. Nó đòi hỏi đội ngũ cán bộ của Đảng phải có tri thức tương đối toàn diện, vừa có tri thức quân sự, vừa có tri thức về các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật… Hơn lúc nào hết, cán bộ cần phải có tinh thần học tập rất cao, ham hiểu biết, không chủ quan, tự mãn, mà phải chịu khó suy nghĩ, biết lắng nghe nhiều ý kiến khác nhau, biết học tập trong quần chúng đông đảo, có được những thông tin cần thiết … để có thể năng động và sáng tạo trong hoạt động thực tiễn, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Thưa Đoàn chủ tịch,
Thưa các đồng chí đại biểu,
Thưa các vị khách quý mến,
Trước hết, thay mặt toàn thể đảng viên, cán bộ, chiến sĩ, công nhân và nhân viên quốc phòng, chúng tôi xin nhiệt liệt chào mừng Đại hội và bày tỏ sự nhất trí hoàn toàn với bản Báo cáo chính trị do đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh, tha mặt Ban Chấp hành trung ương Đảng đã trình bày trước Đại hội.
Phản ánh tập trung trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, thấm nhuần tinh thần đổi mới sâu sắc và vươn lên mạnh mẽ, bản báo cáo đánh dấu một bước trưởng thành quan trọng của Đảng ta, đáp ứng nguyện vọng của đồng bào và chiến sĩ cả nước, phù hợp với yêu cầu của thời đại. Toàn quân tin tưởng Đại hội lần này sẽ tăng cường hơn nữa sự đoàn kết nhất trí của toàn Đảng và toàn dân ta, trên cơ sở những bài học kinh nghiệm vừa qua, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện của Đảng, tạo ra một sức mạnh mới vượt qua khó khăn, thử thách, từng bước ổn định tình hình và đưa đất nước tiếp tục tiến lên.
Xin phép được phát biểu thêm một số ý kiến về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện lời dạy ucar Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, trải qua nhều năm đấu tranh đầy gian khổ và hy sinh, quân và dân ta đã giành được thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc, nhân dân ta không có nguyện vọng nào tha thiết hơn là được sống trong hoà bình, độc lập, tự do để xây dựng lại đất nước và cuộc sống của mình.
Toàn dân cùng với toàn quân phấn khởi bắt tay vào nhiệm vụ xây dựng đất nước, thực hiện Di chúc của Bác Hồ “đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Thế nhưng, tình hình không phát triển theo mong muốn của chúng ta. Thế lực bá quyền và bành trướng câu kết với đế quốc Mỹ và các bọn phản động quốc tế khác đã ra sức phá hoại cuộc sống lao động hoà bình của nhân dân, ngăn cản bước đi lên của dân tộc ta. Chúng thúc đẩy bè lũ tay sai Pôn Pốt tiến hành chiến tranh xâm lược biên giới tây – nam, và tiếp đó, trực tiếp đem quân xâm lược biên giới phía bắc nước ta.
Quân và dân ta vừa ra khỏi cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, ác liệt, lại buộc phải cầm súng chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc thân yêu của mình và giúp nhân dân Cam - pu - chia thoát khỏi hoạ diệt chủng.
Bị thất bại, thế lực thù địch chuyển sang tiến hành chiến tranh phá hoại nhiều mặt và chiến tranh lấn chiếm biên giới đối với Việt Nam, ráo riết phá hoại cuộc hồi sinh của nhân dân Cam - pu - chia và tìm mọi cách chống phá cách mạng Lào.
Đại hội lần thứ V của Đảng đã vạch rõ tình thế của đất nước ta là vừa có hoà bình, vừa phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch; đồng thời phải sẵn sàng đối phó với tình huống chúng có thể gây chiến tranh xâm lược quy mô lớn. Đại hội khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Chấp hành nghị quyết đó, quân và dân ta đã giành những thắng lợi mới to lớn trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Thực tiễn vừa qua đã chỉ rõ, trong tình hình thế giới phức tạp hiện nay, trước bước ngoặt mới của cách mạng, Đảng ta đã tỉnh táo, đánh giá đúng tình hình, kịp thời nắm bắt chính xác những âm mưu chiến lược thích hợp. Đây chính là thể hiện bài học kinh nghiệm của Đảng ta về bám sát thực tiễn, nhận thức quy luật và hành động theo quy luật trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng. Âm mưu và chính sách thù địch của chủ nghĩa đế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế khác đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại, lấn chiếm, sẵn sàng chủ động đối phó trong mọi tình huống. Muốn vậy, chúng ta phải có thực lực mạnh, phải xây dựng cho đất nước ta mạnh lên về mọi mặt trong mọi hoàn cảnh.
Thưa các đồng chí,
Thắng lợi to lớn của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong thời gian qua là thắng lợi của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Thắng lợi đó gắn liền với những thành tựu trong xây dựng đất nước, là thắng lợi của sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chuyên chính vô sản trong sự nghiệp giữ nước. Đó cũng là thắng lợi của liên minh đặc biệt Việt Nam – Lào – Cam – pu – chia, của sự giúp đỡ to lớn có hiệu lực của Liên Xô trong liên minh và hợp tác toàn diện Việt Nam – Lê Xô, sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, sự đồng tình, ủng hộ của các nước bầu bạn và nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Trong thắng lợi của tuyến trước, có sự tác động quyết định của hậu phương. Từ diễn đàn này, thay mặt các lực lượng vũ trang nhân dân, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trên cả nước, đối với các ngành, các đoàn thể…đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và công cuộc xây dựng các lực lượng vũ trang.
Để tạo nên sức mạnh giữ nước vững chắc, lâu dài, bài học lớn từ xưa tới nay đối với chúng ta là luôn luôn kết hợp chặt chẽ xây dựng đất nước với bảo vệ Tổ quốc. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, vừa tập trung xây dựng kinh tế, vừa chú trọng củng cố quốc phòng. Xây dựng kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hộ là tạo nên tiềm lực quốc phòng ngày càng lớn, từng bước xây dựng đất nước giàu và mạnh như đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh đã chỉ rõ trong Đại hội đảng bộ toàn quân. Phải thấu suốt quan điểm chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân của Đảng: thực hiện “toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”. Chăm lo phát huy và bồi dưỡng sức dân, ra sức phấn đấu để từng bước ổn định và cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, tăng cường sự thống nhất về chính trị và tinh thần trong nhân dân, từ đó mà tăng cường sức mạnh giữ nước. Chăm lo xây dựng hậu phương, một nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh.
Thưa các đồng chí,
Thắng lợi đã giành được trong hoàn cảnh khó khăn và phức tạp vừa qua chứng tỏ bản chất cách mạng và truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục được giữ vững và phát huy. Đồng thời chúng tôi cũng nhận rõ những mặt còn yếu kém, những hiện tượng tiêu cực làm yếu sức mạnh của quân đội. Những yếu kém đó có phần do tác động của những khó khăn chung của nền kinh tế - xã hội nước ta, nhưng chủ yếu là do khuyết điểm của cán bộ, đảng viên, trước hết là của cán bộ lãnh đạo và chỉ huy các cấp trong quân đội. Qua đợt tự phê bình, phê bình và tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, chúng tôi càng thấy rõ thêm những ưu điểm, khuyết điểm và nhược điểm của cán bộ, đảng viên và đang tích cực tìm cách phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, để không ngừng nâng cao chất lượng của các đơn vị, của cả ba thứ quân trong lực lượng vũ trang nhân dân.
Quân đội ta có truyền thống đoàn kết nhất trí, đoàn kết chung quanh Ban chấp hành trung ương Đảng, tuyệt đối phục tùng sự lãnh dạo của Đảng, đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân. Cán bộ và chiến sĩ Quân đội nhân dân nhận thức sâu sắc rằng phát huy truyền thống tốt đẹp đó là nhân tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để nâng cao sức mạnh của quân đội.
Quán triệt yêu cầu đổi mới toàn diện của Đảng, trong lĩnh vực quốc phòng, chúng ta cần nắm vững đường lối quân sự của Đảng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục cụ thể hoá và vận dụng một cách sáng tạo đường lối đó, vươn lên giải quyết một cách kịp thời những vấn đề mới đặt ra trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc phù hợp với những điều kiện lịch sử của đất nước.
Thưa các đồng chí,
Tổ quốc ta đã trải qua nhiều thử thách hết sức nặng nề trong những năm dài. Ngày nay, kẻ thù vẫn không để chúng ta yên. Cách mạng nước ta qua mỗi bước tiến lên, bên cạnh mặt thuận lợi, còn gặp không ít khó khăn. Nhưng chúng ta không nao núng. Với niềm tin vững chắc vào thành công có ý nghĩa quyết định của Đại hội, các lực lượng vũ trang nhân dân xin hứa triệt để thực hiện nghị quyết của Đại hội, cùng với toàn thể đồng chí, đồng bào hoàn thành thắng lợi nhệm vụ bảo vệ vững chức Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và mọi nhiệm vụ khác mà Đảng giao cho. Quân đội nhân dân Việt Nam nguyện luôn luôn xứng đáng là một công cụ tin cậy của Đảng và Nhà nước, giữ vững và nêu cao danh hiệu “Bộ đội Cụ Hồ”.
Toàn quân quyết tâm làm sáng mãi, sống mãi lời của Bác: “Trung với nước”, “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Kính chúc Đại hội thành công tốt đẹp.
Chúc sức khoẻ Đoàn chủ tịch.
Chúc sức khoẻ các vị khách quý và tất cả các đồng chí đại biẻu thân mến.
Thưa các đồng chí,
Thưa Đại hội,
Mấy hôm nay, chúng tôi rất vui mừng được cùng các đồng chí dự Đại hội đại biểu Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh toàn quân lần thứ III, được nghe các đồng chí phát biểu, được hoà mình trong không khí sôi động, tràn đầy sức sống và nhiệt tình cách mạng của tuổi trẻ.
Từ khi có Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị (khoá V) và nhất là trong quá trình tiến hành Đại hội Đoàn từ cơ sở đến toàn quân tới nay, phong trào thanh niên trong quân đội cũng như sự lãnh đạo của tổ chức đảng các cấp trong quân đội đối với thanh niên đã có một bước chuyển biến mới.
Thay mặt Đảng uỷ quân sự trung ương và Bộ Quốc phòng, tôi hoàn toàn tin tưởng rằng, trên đà tiến bộ và thấm nhuần tinh thần đổi mới của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, với ý chí vươn lên đầy năng động và sáng tạo của tuổi trẻ, thanh niên quân đội nhất định sẽ phát huy hơn nữa vai trò là lực lượng xung kích cách mạng cùng với toàn quân hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ to lớn mà Đảng và Nhà nước đã giao cho. Chúc Đại hội Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh toàn quân lần thứ III thành công tốt đẹp.
Trong Đại hội này, chúng ta vinh dự được đón và nhiệt liệt chào mừng ba bà mẹ anh hùng, đại diện cho các bà mẹ Việt Nam anh hùng, những người đã sinh ra và nuôi dưỡng cho Tổ quốc những người con yêu quý, truyền cho các con những cốt cách, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và sẵn sàng hiến dâng con em mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và nghĩa vụ quốc tế.
Sự có mặt của em học sinh Trường thiếu sinh quân Tây Nguyên làm cho Đại hội càng thêm vui vẻ. Đại hội chúng ta chúc thiếu niên, nhi đồng Tây Nguyên và cả nước học tập tốt, rèn luyện tốt, xứng đáng là “cháu ngoan Bác Hồ”, sẵn sàng tiếp bước cha anh, tham gia quân đội bảo vệ Tổ quốc.
Chúng ta tự hào đón mừng những đại biểu của tuổi trẻ quân đội ở biên giới, ở hải đảo, ở nước bạn Lào và Cam-pu-chia, đã vượt nhiều khó khăn, gian khổ, hy sinh để làm tròn nhiệm vụ bảo vệ biên cương của Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả.
Đại hội chúng ta hoan nghênh:
- Ba anh hùng lực lượng vũ trang đại diện cho các thế hệ anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam;
- Các đồng chí lãnh đạo Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, lãnh đạo Hội phụ nữ và các đại biểu trong và ngoài quân đội;
đã đến cùng dự Đại hội Đoàn toàn quân, và đem tới cho tuổi trẻ quân đội niềm động viên, cổ vũ to lớn.
Thưa các đồng chí và các bạn,
Chúng tôi rất phấn khởi được nghe nhiều đại biểu nói lên thực trạng của thanh niên và công tác thanh niên, góp nhiều ý kiến quan trọng về công tác thanh niên, về hoạt động của Đoàn và về công tác lãnh đạo thanh niên, về hoạt động của Đoàn và về công tác lãnh đạo thanh niên của tổ chức đảng các cấp trong quân đội. Chúng tôi hoan nghênh các ý kiến đó, vì đó là biểu hiện của trách nhiệm, nhiệt tình và trí tuệ của tuổi trẻ đối với công tác thanh niên và công tác lãnh đạo thanh niên trong quân đội của các tổ chức đảng, của Đảng uỷ quân sự trung ương.
Hôm nay, cho phép tôi thay mặt đảng uỷ quân sự trung ương và Bộ Quốc phòng “nói với thanh niên” mấy vấn đề mà Đoàn thanh niên quan đội cũng như Đảng bộ quân đội đang đặc biệt quan tâm.
Từ thực tiễn chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, lao động sản xuất và làm nghĩa vụ quốc tế của quân đội ta, qua Đại hội Đoàn các cấp và Đại hội Đoàn toàn quân hôm nay, chúng ta khẳng định rằng: tuy còn những mặt cần phải kiên quyết khắc phục, nhìn chung, thanh niên trong quân đội, trong giai đoạn mới của cách mạng, đã tỏ rõ những mặt mạnh, những ưu điểm của mình. Luôn luôn phát huy vai trò là lực lượng xung kích cách mạng của Đảng trên các mặt công tác. Sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ, ác liệt, hy sinh trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Tích cực trong lao động sản xuất, xây dựng đất nước. Hăng hái trong học tập, công tác, góp phần xứng đáng vào việc hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao cho.
Đại hội Đoàn các cấp trong quân đội dã thể hiện được tinh thần đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ VI, nhìn thẳng vào sự thật, dân chủ và công khai, thực hiện đối thoại trực tiếp, thẳng thắn, cởi mở và bình đẳng giữa các cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp với thanh niên. Đó cũng là một bước chuyển biến mới trong công tác vận động thanh niên, trong công tác lãnh đạo thanh niên của các tổ chức đảng trong quân đội ta.
Cùng với việc thảo luận góp nhiều ý kiến kiến vào dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và sửa đổi Điều lệ đoàn, Đại hội Đoàn các cấp, từ cơ sở cho đến toàn quân, đều thảo luận những vấn đề quan trọng về công tác thanh niên trong quân đội. Tuổi trẻ trong quân đội mong các cấp uỷ đảng và người chỉ huy các cấp có sự thay đổi mới về nhận thức, quan điểm và phong cách lãnh đạo, tiếp cận thanh niên, quan tâm đến nguyện vọng chính đáng và tạo điều kiện cho thanh niên quân đội phát huy vai trò xung kích cách mạng, cống hiến nhiều hơn nữa cho sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Thanh niên mong cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và mọi cán bộ, đảng viên hãy là gương sáng về mọi mặt để thanh niên noi theo. Mong cấp uỷ và người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp… hãy coi trọng hơn nữa công tác thanh niên, chăm lo xây dựng tổ chức và hoạt động của Đoàn ở cơ sở và xây dựng, bồi dưỡng đọi ngũ cán bộ của Đoàn. Mong Đảng, Nhà nước, quân đội cùng các đoàn thể chính quyền các cấp quan tâm hơn nữa giáo dục, chuẩn bị để thanh niên yên tâm là tốt nghĩa vụ quân sự, và tạo điều kiện cho thanh niên khi hết hạn phục vụ quân thường trực, có công ăn việc làm để ổn định đời sống, tiếp tục phát huy được vai trò xung kích của tuổi trẻ trong sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc…
Đó là những vấn đề lớn vừa nóng hổi, vừa có ý nghĩa chiến lược mà thanh niên quân đội đang đặt ra một cách trực tiếp và cấp bách. Đảng uỷ quân sự trung ương, Bộ Quốc phòng tiếp nhận những vấn đề đó, trong đó có nhiều nội dung phải được coi là “những việc cần làm ngay”, trước hết là của đảng uỷ, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp, nhằm đáp ứng nguyện vọng chính đáng của thanh niên, tạo điều kiện cho thanh niên phát huy mạnh mẽ vai trò của mình trong sự nghiệp cách mạng và xây dựng thanh niên thành những con người mới xã hội chủ nghĩa.
Những vấn đề như đánh giá thực trạng của thanh niên và công tác thanh niên, sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên và phương hướng công tác thanh niên trong quân đội thời gian tới, đề ra trong báo cáo của Tổng cục chính trị, đã được Đảng uỷ quân sự trung ương xem xét và kết luận. Mong rằng sau Đại hội này những vấn đề đó sẽ được phổ biến rộng rãi, quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện đầy đủ trong tổ chức đảng, tổ chức đoàn, trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên… và chức chắn sẽ tạo nên một sự đổi mới, một bước chuyển biến mạnh mẽ trong phong trào thanh niên và công tác vaanj động thanh niên trong quân đội ta.
Hôm nay, tôi không nói lại các nội dung đó mà chỉ xin đề cập mấy vấn đề bao quát đối với thanh niên, đối với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy trong quân đội. Đây cũng chính là những lời tâm huyết của chúng tôi đối với thế hệ thanh niên quân đội ta hiện nay và là trách nhiệm của lớp người đi trước đối với thanh niên.
Hiện nay thanh niên quân đội đang phát động phong trào “Tuổi trẻ quân đội hãy xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Đây là một chủ trương rất đúng và là một nội dung rất quan trọng, rất thiết thực, nhằm khôi phục và phát triển bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp và sức mạnh chiến đấu của quân đội ta. Đại hội Đoàn cá cấp đã thảo luận rất nghiêm túc và sôi nổi vấn đề này. Đó là mong muốn thiết tha của nhân dân ta, của Đảng ta đối với lực lượng vũ trang của mình. Đó cũng là sự trăn trở, suy nghix của đông đảo cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên trong quân đội ta. Nhân dịp này, tôi xin góp vài ý kiến về vấn đề trên với các đồng chí, những đại biểu ưu tú của lớn chiến sĩ trẻ, sĩ quan trẻ quân đội ta ngày nay.
Trong Cách mạng tháng Tám cũng như suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nhân dân ta từ rừng núi Việt Bắc đến bưng biền Đồng Tháp, từ cụ già cho đến em bé đầu ghi sâu hình ảnh “Anh bộ đội Cụ Hồ”, dành cho anh những tình cảm đẹp đẽ, thân thương, trìu mến nhất.
“Bộ đội Cụ Hồ”, danh hiệu ấy không phải tự quân đội đặt ra và nhận lấy, cũng không phải do Nhà nước phong cho, mà hình thành từ đáy lòng của mỗi người dân Việt Nam.
Quân đội nhân dân Việt Nam được Đảng, Bác Hồ tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Quân đội ta, con em của nhân dân lao động các dân tộc Việt Nam, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Đó là một quân đội kiểu mới mang bản chất của giai cấp công nhân, anh dũng tuyệt vời, khiêm tốn, giản dị, trong sáng, hiền dịu, thuỷ chung, luôn luôn làm theo gương rực sáng của Bác Hồ vĩ đại kính yêu.
Từ khi thành lập cho đến nay, qua các thời kỳ của cách mạng, lúc khó khăn cũng như lúc thuận lợi, trước các bước ngoặt của cách mạng, quân đội ta luôn luôn trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, tuyệt đối phục tùng sự lãnh dạo của Ban Chấp hành trung ương Đảng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Quân đội ta, “Bộ đội Cụ Hồ”, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, đi dân nhớ, ở dân thương, kính già, yêu trẻ, tôn trọng phụ nữ, giúp đỡ nhân dân, không doạ nạt dân, không lấy cái kim sợi chỉ của dân. Mối quan hệ quân dân đạm tình cá nước.
Đối với mọi kẻ thù của dân tộc, dù to mạnh, hung bạo đến mấy quân đội ta sẵn sàng chiến đấu hy sinh, quyết đánh và quyết thắng, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
Đối với đồng đội, đồng chí thì thương yêu nhau như ruột thịt, đoàn kết giúp đỡ nhau, cùng chia ngọt sẻ bùi. Cán bộ thương yêu chiến sĩ, đồng cam cộng khổ với cấp dưới, chăm lo đến sự tiến bộ, trưởng thành của chiến sĩ, dân chủ, bình đẳng, thân ái với cấp dưới. Chiến sĩ tôn trọng cán bộ, coi cán bộ như người anh, người chị, nghiêm chỉ chấp hành mọi chỉ thị, mệnh lệnh của người chỉ huy, kỷ luật tự giác nghiêm minh.
Đối với bầu bạn thì nêu cao tinh thần quốc tế vô sản cao cả, thuỷ chung, không tiếc xương máu vì sự nghiệp cách mạng của bạn, vì hạnh phúc của nhân dân nước bạn, coi “giúp bạn cũng là tự giúp mình”.
“Anh bộ đội Cụ Hồ” còn là một hình mẫu rất đẹp về lối sống. Sống có lý tưởng, sống giản dị, khiêm tốn, vô tư, trung thực, thẳng thắn, hăng say học tập, cầu tiến bộ; sống có văn hoá, lễ độ và nhân ái, trọng cha mẹ, quý tình bạn, tình yêu, mình vì mọi người, nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn.
“Bộ đội Cụ Hồ” – đó là niềm tự hào của Đảng ta, của nhân dân ta. Đó là một hình mẫu về người quân nhân cách mạng, là nhân cách của con người mới mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã dày công giáo dục, bồi dưỡng. Đó là một giá trị tinh thần và đạo đức cao quý, một thành tựu tốt đẹp mà lớp lớp các thế hệ thanh niên quân đội trước đây đã xây dựng nên. Đó cũng là sự cô đọng những phẩm chất cao quý của giai cấp công nhân và truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam được thể hiện trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thế nhưng đáng tiếc biết bao, trong những năm gần đây, hình ảnh “ Anh bộ đội Cụ Hồ” không còn được như trước. Trước diễn biến phức tạp của cuộc đấu tranh giữa hai con đường trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, trước sự tấn công nhiều mặt của kẻ thù, trước những khó khăn về đời sống, trước những khuyết điểm, sai lầm của Đảng và Nhà nước trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý quân đội, trong quân đội đã xuất hiện không ít những hiện tượng tiêu cực làm tổn thương đến bản chất, truyền thống cách mạng, làm hoen ố hình ảnh “Anh bộ đội Cụ Hồ”.
Sự thật đau lòng đó, trách nhiệm trước hết thuộc về Đảng uỷ quân sự trung ương và Bộ Quốc phòng, cấp uỷ và cán bộ chỉ huy các cấp. ĐÓ là trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đó cũng là trách nhiệm của thanh niên quân đội ta.
Khôi phục, củng cố và tăng cường bản chất cách mạng của quân đội là một nội dung lớn trong nhiệm vụ nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng vũ trang lên một tầm cao mới mà Nghị quyết của Bộ Chính trị về nhiệm vụ quốc phòng đã đề ra. Đảng uỷ quân sự trung ương tán thành và hết lòng ủng hộ phong trào “ Tuổi trẻ quân đội hãy xứng danh Bộ đội cụ Hồ” mà thanh niên quân đội đã đề ra. Chính vì phong trào đó đặt ra đúng lúc, đúng hướng, thể hiện được trách nhiệm chính trị của thanh niên. Mong rằng tuổi trẻ quân đội, mà nòng cốt là Đoàn và đoàn viên thanh niên, hãy phát huy vai trò xung kích cách mạng vào nhiệm vụ làm rực sáng hình tượng “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần to lớn của mnfh vào việc nâng cao hơn nữa bản chất cách mạng và sức mạnh chiến đấu của quân đội ta. Đó là một yêu cầu cực kỳ quan trọng của cách mạng; đó cũng là mong muốn tha thiết của Đảng, của nhân dân ta.
Thưa các đồng chí,
Tre già, măng mọc – đó là quy luật của tạo hoá. Thời gian vùn vụt trôi qua. Chẳng bao xa nữa, chính thế hệ thanh niên ngày nay, chính những người ưu tú trong tuổi trẻ quân đội hiện nay, sẽ trở thành những cán bộ chỉ huy, lãnh đạo chủ chốt ở các đơn vị, cách ngành, các cấp của quân đội ta. Các đồng chí phải suy nghĩ một ách nghiêm túc và đầy đủ về trách nhiệm của mình và thế hệ mình đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay cũng như trong tương lai.
Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, biến những mục tiêu kinh thế - xã hội, những quyết sách lớn do Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra, thành thắng lợi hiện thực trong cuộc sống, là lý tưởng, là mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong giai đoạn hiện nay.
Kẻ thù chưa từ bỏ âm mưu chiến lược làm suy yếu để khuất phục nhân dân ta. Chúng ráo riết tiến hành kiểu chiến tranh phá hoại ta về mọi mặt và không phải không tính tới những bước phiêu lưu quân sự mới khi chúng cho là tình hình có lợi cho chúng Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của ta còn diễn ra hết sức phức tạp. Xây dựng chủ nghĩa xã hội trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ theo phương hướng đúng đắn, đổi mới và đầy sáng tạo mà Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đề ra, cũng là một cuộc đấu tranh gay go, gian khổ, đầy thử thách trên tất cả các lĩnh vực. Nhiệm vụ dân tộc, nghĩa vụ quốc tế đang đặt ra và yêu cầu quân đội ta có những cố gắng lớn lao.
Tình hình đó đòi hỏi lực lượng vũ trang nhân dân - lực lượng nòng cốt của toàn dân trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc - phải rất vững vàng. Thanh niên quân đội phải hết sức tích cực, chủ động, sáng tạo trong mọi lĩnh vực hoạt động, đặc biệt là phải:
- Nâng cao không ngừng sự giác ngộ về mục tiêu, lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa, ý chí chiến đấu, tinh thần cảnh giác và trình độ sẵn sàng chiến đấu cao. Có trình độ quân sự giỏi và ý thức kỷ luật nghiêm.
- Ra sức rèn luyện, hăng sau học tập, tranh thủ làm giàu thêm kiến thức của bản thân mình, nắm vững khoa học, kỹ thuật quân sự, làm chủ được và giữ gìn tốt những vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật có trong tay, trong đơn vị.
Trong thời đại ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, ngày càng hiện đại, tuổi trẻ quân đội phải vươn lên, nắm được những đỉnh cao của khoa học – kỹ thuật, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội, sự nghiệp củng cố quốc phòng.
So với các thế hệ thanh niên quân đội ta trước kia, thế hệ thanh niên quân đội ngày nay có ưu điểm nổi bật là trình độ học vấn cao, có kiến thức tương đối toàn diện. Các đồng chí hãy phát huy thế mạnh đó, làm cho thế mạnh đó trở thành sức mạnh thực sự trong huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, trong công tác và lao động sản xuất, trong nghiên cứu khoa học quân sự, khoa học kỹ thuật phục vụ quốc phòng…
Phải học tập tốt ở trường, trong sách vở và điều quan trọng là học thường xuyên và học ở ngay trong cuộc sống thực tiễn, huấn luyện và chiến đấu và lao động sản xuất, công tác. Học ngay ở cán bộ, ở đồng đội, học trong các buổi diễn đàn, thao diễn, tham quan do thanh niên, đơn vị tổ chức… Học và học, tranh thủ mọi thời gian để học, đó là đức tính không thể thiếu của thanh niên.
- Phải tích cực lao động để góp phần xây dựng đất nước và cải thiện đời sống.
- Phải rèn luyện lối sống và nếp sống lành mạnh, giải dị phù hợp với cuộc sống của quân đội, của nhân dân. Yêu lao động, ham tiến bộ, tôn trọng điều lệnh, kỷ luật quân đội và phát luật Nhà nước; tự trọng, trung thực, khiêm tốn. Sống có văn hoá, biết xử lý đúng đắn các mối quan hệ trong gia đình, ngoài xã hội, trong tình bạn, tình yêu và tình đồng chí. Sống theo phong ách của người thanh niên có lý tưởng, dũng cảm đấu tranh bảo vệ chân lý, loại trừ lối sống lạc hậu, ích kỷ, lẩn tránh khó khăn, đặc biệt là lối sống thực dụng, không có chí hướng, coi lợi ích cá nhân là trên hết, chạy theo con đường xoay xở, hưởng thụ vật chất mù quáng…
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quân đội phải là mũi nhọn, là lực lượng xung kích thực hiện cuộc vận động lớn của Bộ Chính trị “Làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội”, đấu tranh chống tiêu cực, xây dựng nếp sống lành mạnh, phát huy lối sống tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”.
Đoàn thanh niên có trách nhiệm chọn và giới thiệu những đoàn viên ưu tú đi học tập để bổ sung vào đội ngũ sĩ quan, góp phần tích cực vào công tác phát triển đảng, xây dựng đội ngũ đảng viên, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh.
Những yêu cầu trên đối với thanh niên quân đội chính là nhằm làm cho thanh niên trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa, những chiến sĩ, sĩ quan trẻ ưu tú, chiến đấu giỏi, lao động giỏi, có nhiệt tình và năng lực hoàn thành chức trách, nhiệm vụ, hết lòng cống hiến tuổi trẻ của mình vào sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội, sự nghiệp xây dựng quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc. Hơn nữa, khi hết hạn tại ngũ trong bộ đội thường trực, thanh niên khi trở về địa phương sẽ trở thành nòng cốt trong lực lượng dự bị động viên, nòng cốt toàn dân đánh giặc, giữ nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng trở lại quân đội khi có yêu cầu.
Vai trò của thanh niên nói chung, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, cũng như vai trò của thanh niên quân đội nói riêng, rất lớn. Trách nhiệm của thanh niên đối với sự nghiệp dựng nước và giữ nước rất cao. Thanh niên phải có nguyện vọng và hoài bão vươn lên một tầm cao mới, đáp ứng kịp thời với yêu cầu của cách mạng, của thời đại.
Trong quân đội ta, trách nhiệm giúp đỡ và hướng dẫn Đoàn và thanh niên trước hết thuộc về tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị các cấp. Cần phải nói thẳng rằng trong nhiều năm qua, ý thức về trách nhiệm này còn chưa đúng mức, có đơn vị còn rất kém.
Thanh niên ở đơn vị cơ sở là đối tượng chủ yếu của công tác lãnh đạo và chỉ huy. Làm tốt công tác vận động thanh niên vừa làm một nội dung của việc nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, vừa làm một việc có tầm chiến lược là góp phần vào việc đào tạo, bồi dưỡng thanh niên thành những con người mới xã hội chủ nghĩa, lớn người kế tục sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tổ chức đảng, cấp uỷ dảng và người chỉ huy các cấp phải trực tiếp chăm lo xây dựng Đoàn vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, chăm lo hướng dẫn hoạt động của thanh niên.
Cán bộ lớn tuổi - lớp người đi trước - cần nhận rõ trọng trách của mình đối với thế hệ trẻ, quan tâm hơn nữa tới việc giáo dục bồi dưỡng, rèn luyện thanh niên. Cán bộ hãy đi sát cơ sở, đối thoại dân chủ, bình đẳng, công khai với thanh niên, lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu chính đáng của thanh niên. Hãy bằng hành động thực tế, thiết thực, cụ thể của bản thân mà tạo điều kiện và khơi dậy trong niên niên nhiệt tình cách mạng, tính sôi nổi, năng động và sáng tạo, tìm mọi cách tạo thuận lợi cho thanh niên phát huy quyền làm chủ, vai trò xung kích trong mọi mặt hoạt động của đơn vị. Quân đội ta có truyền thống dân chủ hết sứ tốt đẹp. Phải khôi phục lại và phát huy truyền thống đó. Có như vậy, ta mới củng cố được kỷ luật quân đội, mới xây dựng được sự đoàn kết gắn bó keo sơn giữa cán bộ với chiến sĩ, giữa cấp trên với cấp dưới, giữa dảng viên với quần chúng. Mọi cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đều phải là một tấm gương sáng, một nhà giáo dục đối vứoi thanh niên. Không làm đúng như thế, chưa phải là một cán bộ tốt.
Đảng viên, cán bộ đang ở độ tuổi thanh niên càng phải nỗ lực vượt bậc, không ngừng rèn luyện về mọi mặt, khiêm tốn học tập và phát huy kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ huy của các đồng chí cán bộ lớn tuổi.
Đại hội này sẽ đánh dấu một bước chuyển biến mới thật mạnh mẽ về sự đổi mới công tác Đoàn, về công tác vận động thanh niên và phong trào thanh niên, về sự lãnh đạo thanh niên của các tổ chức đảng và về trách nhiệm, vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên đối với thanh niên quân đội.
Chúc Đại hội Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh toàn quân lần thứ III thành công rực rỡ, và dứt khoát tuổi trẻ quân đội ta phải xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”.
Chúc các đồng chí sức khoẻ.
(Bài phát biểu tại cuộc mít tinh ở đảo Trường Sa, kỷ niệm lần thứ 33 Ngày truyền thống của quân chủng Hải quân)
Cùng với các lực lượng, các đơn vị trong quân chủng Hải quân nhân dân, hôm nay Bộ tư lệnh quân chủng tổ chức mít tinh kỷ niệm lần thứ 33 Ngày truyền thống quang vinh của quân chủng (7/5/1955-7/5/1988) trên vùng quần đảo Trường Sa, mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.
Thay mặt Bộ Quốc phòng, tôi chuyển tới các đồng chí cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân lời chúc sức khoẻ.
Hải quân ta ra đời trong hoàn cảnh khó khăn về nhiều mặt, vượt qua mọi khó khăn thử thách, bằng sức lao động thông minh và sáng tạo, từ những chiếc thuyền gỗ có gắn máy mà đi lên, Hải quân ta đã phát triển không ngừng và đã lập được nhiều thành tích trên các mặt chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng lực lượng, bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam và làm nhiệm vụ quốc tế.
Từ những ngày đầu của cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, Hải quân nhân dân ta đã nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí quyết đánh quyết thắng và đã lập nên nhiều chiến công oanh liệt. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ ven biển miền Bắc, hải quân nhân dân ta còn có nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng là đưa cán bộ, súng đạn vào miền Nam qua đường biển bằng loại tàu đi biển do hải quân ta tự thiết kế. Loại tàu nhỏ bé này đã vượt biển khơi đi qua vùng biển dưới sự kiểm soát của không quân và hải quân thuộc hạm đội 7 của Mỹ, của hạm đội tuần tiễu thuộc quân đội Sài Gòn.
Nhưng Hải quân nhân dân ta vừa làm nhiệm vụ bảo vệ ven biển miền Bắc, chống mọi sự phong toả của địch, đồng thời đã vận chuyển được hàng vạn tấn hàng hoá, vũ khí, đạn dược và hàng ngan cán bộ, chiến sĩ chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần xứng đáng giành thắng lợi trọn vẹn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc ta.
Nhân kỷ niệm Ngày truyền thống của quân chủng, tôi nhắc lại điều đó để nói lên tinh thần dũng cảm và sự thông minh sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ hải quân ta trong thời kỳ đánh Mỹ. Đó là một sự thông minh và dũng cảm tuyệt vời, nó được nối tiếp mãi cho đến ngày nay và mãi mãi đến các thế hệ mai sau. Thông minh, dũng cảm là sức mạnh.
Niềm tin là sức mạnh, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế là sức mạnh.
Mở đầu thời kỳ đánh Mỹ để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, trước một tên đầu sỏ hùng mạnh nhất của chủ nghĩa đế quốc, Đảng ta có một vũ khí cực mạnh, đó là niềm tin, niềm tin ở chính nghĩa độc lập tự do, niềm tin ở sức mạnh của nhân dân. Khi đã quyết tâm thì sẽ sáng tạo ra muôn vàn cách đấu tranh để giành lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Chính niềm tin sắt đá đó đã động viên và đoàn kết toàn dân tộc nhất tề đứng dậy đấu tranh với tên đế quốc cực mạnh và đã từng bước thu hút sự chú ý và sự ủng hộ của loài người tiến bộ trên thế giới, kể cả của nhân dân Mỹ. Sự ủng hộ của bạn bè trên thế giới đã góp phần quan trọng giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Đoàn kết dân tộc, đoàn kết với bạn bè quốc tế, đó là sức mạnh, đó là đại nghĩa, đó là lẽ sống của cách mạng Việt Nam, của nhân dân Việt Nam.
Về mối quan hệ giữa ta và Trung Quốc, trong những năm 50 và những năm 60 quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc là quan hệ hữu nghị, tình sâu nghĩa nặng. Đặc biệt là sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta trong những năm từ 1965 đến 1972 là rất to lớn và có hiệu quả. Nhân dân Việt Nam vô cùng biết ơn sự giúp đỡ to lớn mà nhân dân Trung Quốc đã dành cho mình.
Mặt khác thắng lợi của chúng ta cũng đã góp phần đáng kể phá vỡ sự bao vây của đến quốc Mỹ đối với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Năm 1976, Đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và Nhà nước ta đi thăm và cảm ơn các nước và bầu bạn trên thế giới đã ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam đánh thắng đế quốc Mỹ. Tới Trung Quốc, các đồng chí lãnh đạo của Đảng ta đã cảm ơn sự giúp đỡ to lướn của Trung Quốc đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam thì người lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc lúc bấy giờ đã nói: “Trung Quốc phải cảm ơn Việt Nam, chính nhờ Việt Nam thắng Mỹ mà tổng thống Mỹ đã phải thân hành đến Trung Quốc để cầu thân với Trung Quốc”.
Nói tóm lại là cả hai nước giúp đỡ nhau trên nhiều lĩnh vực, với tình nghĩa anh em sâu đậm. Chúng ta đinh ninh rằng tình sâu nghĩa nặng đó sẽ kéo dài mãi mãi, và nhất định nó sẽ xoá nhoà, đi đến xoá hẳn trong ký ức của dân tộc Việt Nam những tội lỗi mà các triều đại phong kiến Trung Quốc đã gây đau khổ cho dân tộc Việt Nam suốt hàng ngàn năm đô hộ.
Nhưng thật cay đắng cho cả nhân dân hai nước, tội lỗi mới lại ập tới, do một số người lãnh đạo của Trung Quốc gây ra cho dân tộc Việt Nam bắt đầu từ ngày 30-4-1977 ở biên giới Tây – Nam Tổ quốc, rồi từ tháng 2 – 1979 ở biên giới Việt – Trung, và gần đây nhất, từ đầu năm 1988 lực lượng vũ trang Trung Quốc lại trắng trợn xâm lấn vùng quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đặc biệt nghiêm trọng là ngày 14-3-1988 hải quân Trung Quốc đã bắn chìm và bắn cháy 3 tàu vận tải của chúng ta đang làm nhiệm vụ tiếp tế trong vùng quần đảo, gây thương vong cho bộ đội hải quân ta, và đến giờ phút này 70 cán bộ, chiến sĩ hải quân ta đang còn mất tích và họ vẫn tiếp tục nhăn cản công việc cứu hộ.
Các bọn đế quốc tư bản hung bạo, đầy tham vọng như đế quốc Pháp, đế quốc Nhật, đế quốc Mỹ cuối cùng cũng không xâm chiếm được một mảnh đất nào trên lãnh thổ và lãnh hải của Tổ quốc chúng ta.
Tại sao một số người lãnh đạo Trung Quốc nhân danh gì lại sử dụng vũ lực xâm chiếm một phần lãnh thổ của ta trên biên giới Việt – Trung, chiếm quần đảo Hoàng Sa, nay lại chiếm quần đảo Trường Sa của Tổ quốc chúng ta!
Cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chỉ nói từ thế kỷ XVII đến nay, dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, chế độ thực dân cũ và mới, và nay dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, các nhà nước Việt Nam liên tục và thật sự thực hiện quyền làm chủ của mình một cách hoà bình. Mãi đến năm 1956, Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm phía đông quần đảo Hoàng Sa, đầu năm 1974 chiếm phần phía tây quần đảo Hoàng Sa, nay lại dùng quân sự gây tội ác và xâm chiếm một số bãi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa.
Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thật sự trên thực tế, phù hợp với pháp lý quốc tế, với đạo lý quốc tế.
Từ xưa cho đến nay dân tộc Việt Nam, dù chế độ xã hội khác nhau qua các thời dại, xu hướng chính trị khác nhau, tôn giáo khác nhau, đàn ông cũng như đàn bà, già cũng như trẻ đều một lòng, một dạ kiên trì và kiên quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Chúng ta tin tưởng rằng trong tương lai, nhân dân và cán bộ Trung Quốc hiểu rõ sự thật, họ sẽ chặn bàn tay bành trướng của một số ít người lãnh đạo Trung Quốc đã có những hành động phi đạo lý, làm tổn thương đến tình hữu nghị giữa hai nhà nước và nhân dân hai nước Việt – Trung. Chúng ta tin tưởng rằng mọi sự bất đồng giữa hai nước sẽ được giải quyết bằng thương lượng, bằng sự đồng cảm giữa những con người cùng chung mục tiêu, cùng chung lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta nhớ mãi không bao giờ quên tình sâu nghĩa nặng giữa nhân dân hai nước Việt – Trung, kiên trì phấn đấu để khôi phục tình hữu nghị giữa hai nước, đồng thời chúng ta nhất quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc chúng ta.
Hôm nay nhân kỷ niẹm Ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam trên đảo chính của quần đảo Trường Sa, có mặt đông đủ đại diện của các tổng cục, các quân chủng, đại biểu tỉnh Phú Khánh, chúng ta xin thề trước hương hồn của Tổ tiên ta, trước hương hồn của các cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau: “Quyết tâm bảo vệ bằng đwocj Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa – một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta”.
(Bài phát biểu tại Hội nghị Lịch sử quân sự toàn quân lần thứ hai, ngày 21 tháng 9 năm 1987).
Mấy năm qua, kể từ khi có nghị quyết của Quân uỷ trung ương (12-1980) về việc tiến hành tổng kết và viết lịch sử hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Viện Lịch sử quân sự cùng các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đã hoàn thành được một phần nhiệm vụ tổng kết chiến lược và chiến dịch, biên soạn được một số công trình lịch sử xây dựng, chiến đấu của quân đội và đơn vị, lịch sử kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của cả nước và địa phương.
Chúng ta đều biết, chỉ trong 30 năm (1945-1975), dân tộc ta đã tiến hành liên tục hai cuộc chiến tranh cứu nước rất gian khổ, quyết liệt và đã giành được thắng lợi rất oanh liệt. Trận mở đầu, ta đánh thắng thực dân Pháp, tiếp đó ta đã đánh thắng đế quốc Mỹ.
Việt Nam thắng Mỹ là một sự kiện lịch sử vĩ đại của dân tộc, đồng thời cũng là một sự kiện lịch sử có tính chất thời đại. Nhưng có một câu hỏi đã được đặt ra từ hơn 10 năm nay vẫn chưa được giải đáp trọn vẹn, sâu sắc: Vì sao Việt Nam thắng Mỹ? Đã có nhiều người trên thế giới lý giải sự kiện lịch sử này theo nhiều cách khác nhau. Ta cũng đã viết, nhưng còn ít quá, lại chưa sâu, tuy đã có một vài tài liệu viết khá công phu nhưng cũng chưa thật sáng tỏ. Các thế hệ người Việt Nam chúng ta hiẹn nay và mai sau cần hiểu rõ. Anh em bè bạn ta cũng muốn hiểu rõ. Ta cũng cần có đầy đủ tài liệu lịch sử để chống lại sự xuyên tạc của kẻ thù.
Hôm nay, nhân Hội nghị Lịch sử quân sự toàn quân lần thứ II, có mặt đông đủ các đồng chí tư lệnh các đơn vị, thủ trưởng các cơ quan trong toàn quân, tôi muốn nêu một số ý kiến về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong tổng kết chiến tranh và viết lịch sử quân sự.
1. Trước hết, cần hết sức coi trọng việc sưu tầm tư liệu lịch sử, để có cơ sở viết lịch sử hiện nay và quan trọng hơn, để các thế hệ mai sau có cơ sở viết tiếp hoàn chnhr hơn, nâng cao hơn.
Mọi người đều biết, dân tộc ta xưa kia – nổi bật là trong các triều đại Lý, Trần, Lê, Tây Sơn, … thắng ngoại xâm rất oanh liệt. Vì sao tổ tiên ta giỏi như vậy? Nay ta không có tư liệu cụ thể về các thời kỳ lịch sử đó, mà thường dùng nhận thức mới – qua một ít tư liệu – mà suy luận, phân tích. Nếu ngày nay ta không kịp thời thu thập đầy đủ tư liệu về lịch sử anh hùng của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ… thì các thế hệ mai sau cũng sẽ không có đủ tư liệu để viết tiếp về lịch sử một thời oanh liệt của dân tộc Việt Nam ta.
Tôi được biết, mấy năm qua Viện Lịch sử quân sự và các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đã thu thập được hàng chục vạn dầu tư liệu lịch sử về hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Đây là vốn rất quý, nhưng chưa đủ. Vì đó chủ yếu mới là tư liệu về lãnh đạo, chỉ đạo, về chỉ thị, nghị quyết; còn thiếu nhiều tư liệu sống, tư liệu cụ thể, sinh động, tư liệu hoạt động thực tiễn cực kỳ phong phú của quần chúng bộ đội và nhân dân, tư liệu về các trận đánh hay, những người đánh giỏi, tư liệu về làng xã Việt nam đánh giặc, cứu nước, cả tư liệu về mỗi gia đình Việt Nam đã tham gia đánh giặc, cứu nước như thế nào. Tất cả những tư liệu đó là để thế hệ hiện nay và các thế hệ mai sau làm khoa học lịch sử và cũng là cơ sở để làm khoa học phát triển. Hiện nay, có một số cuốn sử viết chưa sâu sắc, chưa hấp dẫn. Tôi nghĩ, một phần cũng do thếu tư liệu sống. Vì thế, việc sưu tầm tư liệu lịch sử vừa rất cơ bản, vừa rất cấp bách đối với công tác tổng kết và viết lịch sử.
2. Khi viết lịch sử, quan trọng nhất là phải trung thực, viết đúng sự thật. Tôi nghĩ, có thể viết còn sót, nhưng không được viết sai. Phải viết cả thành công và thất bại, cao trào và thoái trào, xung phong và thoái lui, ưu điểm và khuyết điểm, phải viết cả cái đúng và cái sai, tìm ra cái sai ngay trong cái đúng và tìm thấy cả cái đúng trong cái sai. Phải phản ánh trung thực sự thật lịch sử, không được gò ép sự kiện cho phù hợp với chủ trương, nghị quyết của lãnh đạo, không được xem động cơ cá nhân, cục bộ, bè phái khi viết sử (cục bộ, bè phái cũng là cá nhân). Xuyên tạc lịch sử, làm sai lạc lịch sử là có tội với lịch sử, có lỗi với con cháu cả ngày nay và mai sau. Phải phòng ngừa và đấu tranh không khoan nhượng với những thái độ sai trái khi viết lịch sử. Khách quan, trung thực là biểu hiện cao nhất của tính đảng vô sản trong viết lịch sử.
Lịch sử dân tộc ta ba chục năm gần đây – từ năm 1945 đến năm 1975 – có thể nói chủ yếu là lịch sử đấu tranh cũ trang, chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc. Ta đã giành thắng lợi ngày càng to lớn cho đến thắng lợi cuối cùng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nhưng ta cũng từng phạm nhiều sai lầm qua các thời kỳ, chứ không phải lúc nào cũng đúng. Sau mỗi sai lầm, ta đã biết kịp thời tổng kết kinh nghiệm để lại vươn lên giành thắng lợi mới. Lịch sử phát triển tiến lên thườngnhquanh co, phức tạp chứ không thẳng tắp, giản đơn, nhất là lịch sử đấu tranh cách mạng và chiến tranh cách mạng của nước ta trong 30 năm giải phóng dân tộc, đặc biệt là cuộc đụng dầu lịch sử vô cùng ác liệt giữa dân tộc Việt Nam ta với đế quốc Mỹ thì không thể viết suôi sẻ, dễ dàng. Viết đúng sự thật về tất cả sự thăng trầm của lịch sử sẽ thấy tầm vóc của thứng lợi vĩ đại và có điều kiện rút ra được những bài học lịch sử càng sâu sắc.
Có tư liệu đầy đủ, lại viết một cách trung thực, đó là yêu cầu nghiêm túc của khoa học lịch sử.
3. Những kinh nghiệm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ là một tài sản vô giá của cách mạng nước ta và của cả phong trào cách mạng thế giới. Chúng ta có trách nhiệm phải thu thập đầy đủ, trân trọng, nâng niu cái di sản quý báu đó cho các thế hệ của dân tộc ta và phục vụ cho cả loài người tiến bộ. Ta phải có nhận thức đúng và đề ra chủ trương đúng đối với công tác tổng kết chiến tranh và viết lịch sử quân sự.
Đầu tháng 8 vừa qua, Thường vụ Đảng uỷ quân sự trung ương đã họp bàn về chuyên đề này và chủ trường từ nay đến nưm 1990, các cấp trong toàn quân cố gắng căn bản hoàn thành việc tổng kết và viết lịch sử về hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; đồng thời ghi chép tài liệu về thời kỳ lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa để au năm 1990 viết tiếp.
Để thực hiện được mục tiêu trên, rõ ràng cấp uỷ và thủ trưởng các đơn vị phải tập trung chỉ đạo, lựa chọn cán bộ, kiện toàn cơ quan, bảo đảm kinh phí, phương tiện để nghiên cứu biên soạn, xuất bản và coi trọng việc sử dụng khi công trình đã hoàn thành. Các quân khu, quân đoàn cần tập trug làm tổng kết và viết lịch sử để tạo điều kiện tốt sau này làm khoa học phát triển. Các đơn vị, cơ quan cần động viên, tổ chức các đồng chí cán bộ đã nghỉ hưu tham gia viết sử và viết hồi ký. Viện Lịch sử quân sự vừa phải hoàn thành biên soạn các công trình tổng kết và lịch sử của Bộ, vừa phải làm tốt chức năng của một cơ quan khoa học đầu ngành, hướng dẫn toàn quân tiến hành tổng kết và viết sử theo chủ trương của Thường vụ.
(Bài đăng trên Tạp chí Quân đội nhân dân, số tháng 10 năm 1987)
Ngày 07 tháng 1 năm 1987, những người cộng sản, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam cùng với nhân dân và Các lực lượng vũ trang xô – viết anh em và toàn thể loài người tiến bộ kỷ niệm trọng thể lần thứ 70 cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại.
Cách đây 70 năm, bằng một cuộc vũ trang khởi nghĩa mẫu mực do V.I. Lê-nin trực tiếp vạch kế hoạch và lãnh đạo, giai cấp vô sản và nhân dân lao động Nga trong vòng “10 ngày rung chuyển thế giới”, đã lật đổ chế độ thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp địa chủ quý tộc Nga, lập nên Nhà nước công nông đầu tiên trên trái đất. Chế độ tư hữu, chế độ người bóc lột người sinh ra từ nghìn năm bị xoá bỏ trên đất nước này. Giai cấp vô sản và nhân dân lao động Nga từ địa vị nô lệ trở thành người làm chủ vận mệnh của mình. Ách áp bức dân tộc bị đập ta. Trên lãnh thổ nước Nga mênh mông, một chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa, ra đời. Trong chế độ xã hội đó, nguồn gốc của sự không bình đẳng giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, cũng như nguồn gốc sinh ra chiến tranh bị thủ tiêu, và con người được chắp cánh để vươn tới đỉnh cao của sáng tạo và văn minh.
Với sức sống mãnh liệt của 70 năm tồn tại và lớn mạnh không ngừng. Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa xô-viết hùng cường, Nhà nước xã hội chủ nghĩa xô-viết hùng cường đang chuyển mình theo chiến lược cải tổ và đổi mới vĩ đại do Đại hội lần thứ 27 lịch sử của Đảng Cộng sản Liên Xô đề ra, tiếp tục tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển của lịch sử thế giới.
Các mạng tháng Mười mở đường cho loài người tiến đến mục tiêu cao cả: giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức lóc lột, khỏi thảm hoạ chiến tranh; xây dựng một cuộc sống hạnh phúc, hoà bình và văn minh trên trái đất. Đi theo con đường của tháng Mười vĩ đại, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của Đảng Cộng sản Liên Xô và nhân dân xô-viết anh em, của Đảng Cộng sản và nhân dân Trung Quốc, của cả cộng đồng xã hội chủ nghĩa thế giới và loài người tiến bộ, đã đứng lên tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng gay go, quyết liệt trong nhiều thập kỷ, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc; ngày nay đang đem hết sức mình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược “xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” mà Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đề ra.
I. CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI VÀ THỜI ĐẠI MỚI CỦA LỊCH SỬ LOÀI NGƯỜI
Nêu bật ý nghĩa thời đại của cuộc cách mạng vô sản Nga năm 1917, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng” “Cách mạng tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới”.
Những biến đổi sâu sắc trong cuộc đấu tranh đầy quyết liệt, gay go và cũng rất hào hùng của loài người tiến bộ hơn hai phần ba thế kỷ qua đã khẳng định sự đúng đắn của nhận định trên đây. Từ nền móng đầu tiên ở nước Nga, chủ nghĩa xã họi đã phát triển thành một hệ thống thế giới. Một loạt nước xã hội chủ nghĩa đã ra đời ở châu Âu, châu Á, châu Mỹ, châu Phi. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa chiếm một phần ba số dân của hành tinh, một phần ba diện tích của cá lục địa và khoảng 30 phần răm tổng số sản phẩm xã hội của thế giới hiện đại. Với Liên Xô là trụ cột, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang giữ vai trò ngày càng quyết định tiến trình phát triển của lịch sử.
Bắt đầu từ Cách mạng tháng Mười, dưới ngọn cờ của Lê-nin “Giai cấp vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”, phong trào giải phóng dân tộc dần dần trở thành một lực lượng tiến công sắc bén vào chủ nghĩa đến quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc… Dưới sự lãnh đạo của các đảng Mác – Lê-nin, của lực lượng dân chủ, hơn một trăm dân tộc, quốc gia thuộc địa và phụ thuộc đã giành được độc lập. Hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc bị tan rã. Cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc quyện chặt với nhau trong quá trình giải quyết các mục tiêu cách mạng của thời đại. Cuộc cách mạng vô sản Nga đã mở ra thời kỳ phát triển mới về chất của phong trào cốngarn và công nhân trong các nước tư bản. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống bọn tư bản độc quyền và tổ hợp công nghiệp – quân sự kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Ngày nay, phong trào cộng sản và công nhan trong các nước tư bản trở thành trung tâm tập hợp các lực lượng trong cuộc đấu tranh vì dân chủ, tiến bộ xã hội và hoà bình.
Trong suốt bảy thập kỷ qua, chủ nghĩa đế quốc thế giới cùng những tàn dư ucar các chế độ phản động đã điên cuồng ngăn chặn tiến trình tất yếu của lịch sử. Song, các dảng cộng sản và công nhân, bằng trí tuệ, công sức và xương máu của hàng chục triệu chiến sĩ cộng sản, chiến sĩ cách mạng và những người chính trực đã làm cho thời đại mới, bắt đầu từ Cách mạng tháng Mười, vẫn vận động theo nội dung và quy luật phát triển của mình. Và điều đó đã chấm dứt thời đại “siêu quyền lực” của bọn trùm đế quốc hiếu chiến đối với số phận của các dân tộc.
Bên cạnh những thành tựu to lớn có không ít vấp váp sai lầm, thậm chí có cả sai lầm nghiêm trọng và chịu biết bao thử thách nặng nề, nhà nước xô- viết tồn ại và lướn mạnh không ngừng trong 70 năm qua là nguồn cổ vũ, động viên mạnh mẽ và chỗ dựa vững chắc cho các dân tộc, các lực lượng cách mạng trên thế giới tin tưởng đi theo ngọn cờ của Cách mạng tháng Mười. Trong một thời gian lịch sử ngắn, Liên Xô từ một nước Nga lạc hậu nhất châu Âu đã trở thành cường quốc công nghiệp hùng mạnh trên thế giới; xây dựng thành công một chế độ xã hội tiên tiến nhất trong lịch sử nhân loại; và từng bước thực hiện ngay trên mặt đất những ước mơ của con người về “thiên đường bình đẳng, hạnh phúc”.
Nhân dân Liên Xô vĩ đại trong điều kiện luôn luôn phải đương đầu với lực lượng phản động và hiếu chiến nhất chủ nghĩa đến quốc, gánh vác nghĩa vụ quốc tế rất lớn lao, đã đạt được những bước nhảy vọt về phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, xây dựng và củng cố quốc phòng, phát triển khoa học – kỹ thuật hiện đại… Là người mở đầu kỷ nguyên mới, Liên Xô cũng là người đi tiên phong trong việc thực hiện sứ mạng giải phnogs dân tộc thoát khỏi thảm hoạ nô dịch của chủ nghĩa đế quốc. Trong chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) bảy triệu chiến sĩ xô-viết đã tham gia vào công cuộc giải phóng hoàn toàn hoặc một bộ phận 10 nước châu Âu, 2 nước châu Á, với số dân 147 triệu người và diện tích 2,2 triệu ki-lô-mét vuông khỏi ách nô dịch của phát-xít Đức và quân phiệt Nhật. Công cuộc chinh phục vũ trụ của con người cũng bắt đầu từ đất nước của Lê-nin vĩ đại.
Trên đất nước Liên Xô đang diễn ra công cuộc cải tổ và đổi mới to lớn, sâu sắc, trên các bình diện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, đạo đức, quốc phòng…, trong lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Nó nhằm tiếp tục phát triển, hoàn thiện chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc hơn hoà bình thế giới thủ tiêu trong thực tế nguy cơ chiến tranh hạt nhân, góp phần khắc phục những mâu thuẫn có tính chất toàn cầu đang đe doạ cuộc sống của cả nhân loại.
Sự tồn tại và lớn mạnh không ngừng của Nhà nước chuyên chính vô sản Liên Xô trong 70 năm qua gắn liền với sức mạnh quân sự, sức mạnh quốc phòng hùng hậu vô địch của mình. Sức mạnh quân sự đó là sản phẩm tổng hợp của những thành tựu lao động quên mình của nhân dân Liên Xô trên cơ sở của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt. Và gắn liền với nó là sự ra đời của một khoa học quân sự mới, khoa học quân sự xô – viết, đúng như dự đoán của Ăng-ghen. Nhờ nền quốc phòng hùng hậu và nền khoa học quân sự tiên tiến đó, nhân dân và các lực lượng vũ trang Liên Xô anh hùng đã đánh bại tất cả các cuộc tiến công xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và lực lượng phản động vào đất nước này. Loài người biết ơn và ghi nhớ mãi mãi chiến công hiển hách của nhân dân và Hồng quân Liên Xô vĩ đại trong cuộc chiên tranh thế giới thứ hai. Sự kết hợp chặt chẽ chính sách đối ngoại yêu chuộng hoà bình và không ngừng củng cố sức mạnh quốc phòng của đất nước đã góp phần vào việc đảm bảo cho nhân dân xô – viết và nhân dân nhiều nước khác có một thời gian dài được xây dựng, phát triển trong hoà bình. Vào những năm 70-80 của thế kỷ này, sức mạnh quốc phòng của Liên Xô và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang xô – viết đã có bước phát triển mới về chất. Điều đó đảm bảo cho nhân loại tiến bộ đạt được những thành tựu mới trong cuộc đấu tranh ngăn chặn chiến tranh hạt nhân thế giới, bảo vệ nền hoà bình và an ninh cho các dân tộc và quốc gia trên trái đất.
Đại hội lần thứ 27 của Đảng Cộng sản Liên Xô đã công khai tuyên bố xu hướng tự vệ của học thuyết quân sự xô – viết, và tỏ rõ thái độ của Liên Xô là lực lượng kiên nghị nhất chống chiến tranh hạt nhân dưới mọi hình thức. Song, xuất phát từ thực tế lịch sử 70 năm qua là chủ nghĩa đế quốc chưa bao giờ từ bỏ âm mưu tiêu diệt Liên Xô, xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, Đại hội đã nhấn mạnh: “Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Đảng, nhà nước và nhân dân vẫn là nâng cao bằng mọi cách trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng cũ trang, giáo dục các quân nhân trong quân đội và hạm đội, tất cả công dân xô – viết tinh thần cảnh giác và thường xuyên chuẩn bị bảo vệ những thành quả vĩ đại của chủ nghĩa xã hội”.
Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa xô – viết là niềm tin của cả nhân loại tiến bộ, là thành trì vững chắc của phong trào cách mạng và hoà bình của nhân dân các dân tộc trên toàn thế giới. Mọi sự xuyên tạc, bôi nhọ và phá hoại Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa xô – viết của ác thế lực đế quốc và phản động quốc tế không thể phá vỡ niềm tin của nhân loại đối với Liên Xô. Những người cộng sản và nhân dân xô – viết sẽ vượt qua mọi thử thách, hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.
II. TỪ CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ CUỘC ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC CỦA NHÂN DÂN TA
V.I. Lê-nin, người thầy của cách mạng của các dân tộc phương Đông sau Cách mạng tháng Mười đã chỉ ra rằng: “Ngày nay, hiển nhiên là phong trào cách mạng đó của các dân tộc ở phương Đông chỉ có liên hệ trực tiếp với cuộc đấu tranh cách mạng của nước Cộng hoà xô – viết chống chủ nghĩa đế quốc quốc tế thì mới phát triển thắng lợi được, mới thành công được. Theo quan điểm của Người, cách mạng xã hội chủ nghĩa không phải chỉ là và chủ yếu là cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở từng nước chống lại giai cấp tư sản nước mình; đó còn là cuộc đấu tranh của các thuộc địa và các nước bị chủ nghĩa đế quốc áp bức, của các nước phụ thuộc chống lại chủ nghĩa đế quốc thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên đem tư tưởng của Cách mạng tháng Mười, học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin truyền bá cho giai cấp vô sản và nhân dân Việt Nam, giai cấp vô sản và nhân dân các dân tộc trên toàn Đông Dương. Ở Cách mạng tháng Mười, ở Lê-nin, Người đã tìm thấy con đường đúng đắn nhất để giải phóng dân tộc Việt Nam, nhân dân và các dân tộc Đông Dương thoát khỏi ách thống trị của chế độ thực dân, phong kiến, Đảng Cộng sản Đông Dương (Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay) được thành lập vào tháng 2 năm 1930 đã khẳng định lòng tin vững chắc của giai cấp vô sản và nhân dân lao động Việt Nam vào con đường của Cách mạng tháng Mười, vào học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Ngay trong Chính cương vắn tắt của mình, Đảng ta đã nêu “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân ta bước sang một bước ngoặt quyết định. Đó là cuộc cách mạng do giai cấp vô sản và đôi tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, thuộc phạm trù cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin và những kinh nghiệm lớn của Cách mạng tháng Mười vào thực tiễn Việt Nam qua các giai đoạn phát triển của cách mạng nước ta. Sự tồn tại và lớn mạnh không ngừng của Nhà nước xô-viết, những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân Liên Xô anh em động viên, cổ vũ mạnh mẽ nhân dân ta và là một nguồn tiềm lực to lướn trong cuộc đấu tranh đầy gian khổ, quyết liệt để giành độc lập, tự do của Việt Nam.
Thắng lợi lịch sử vĩ đại của nhân dân và các lực lượng vũ trang xô-viết anh hùng – tiêu diệt phát –xít Đức, đánh bại quân phiệt Nhật vào mùa xuân và mùa thu năm 1945 – đã tạo ra điều kiện khách quan thuận lợi chưa từng có cho bước phát triển nhảy vọt của sự nghiệp giải phóng dân tộc, cho cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam.
Nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về khởi nghĩa vũ trang, kinh nghiệm của giai cấp vô sản Nga về khởi nghĩa vũ trang trong ba cuộc cách mạng, trước hết là trong Cách mạng tháng Mười, là cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng ta giải quyết sáng tạo và lãnh đạo thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng ở nước ta dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Đảng ta còn học tập và vận dụng những kinh nghiệm quý báu của cách mạng Trung Quốc, cách mạng Pháp và cách mạng nhiều nước khác trên thế giới.
Với thắng lợi lịch sử của cuộc Tổng khởi nghĩa, nhân dân ta đã lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Chế độ thực dân phong kiến phản động bị thủ tiêu. Đó là đòn chí tử giáng vào chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, trước hết là chủ nghĩa thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã chứng tỏ sự đúng đắn của học thuyết Mác – Lê-nin về vấn đề dân tộc thuộc địa, đã chứng tỏ sự đúng đắn của của con đường mà Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại dã vạch ra.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời chưa đầy tháng thì thực dân Pháp được đế quốc Anh – Mỹ phụ hoạ đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược chống nhân dân Việt Nam. Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, cả nước ta đã anh dũng đứng lên kháng chiến.
Thắng lợi của Liên Xô trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại, sự ra đời của các nước dân chủ nhân dân ở châu Âu, sự thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, đã đem đến cho quân và dân ta nguồn động viên mạnh mẽ, niềm tin vững chắc vào thắng lợi và cả sự giúp đỡ về vật chất. Nhiều liệt sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và du kích như Phan Đình Giót, Mạc Thị Bưởi… đã từng biết đến và được cổ vũ bởi những chiến công anh hùng của nhân dân và quân đội Liên Xô, của Ma-tơ-rô-xốp, Dô-i-a… Kinh nghiệm chiến đấu của Hồng quân Liên Xô và nhân dân xô – viết trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống phát xít đã được giới thiệu ở Việt Nam dưới nhiều hình thức: sách báo, phim ảnh, tiểu thuyết… Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biên soạn sách “Kinh nghiệm du kích Nga”; viết lời tựa giới thiệu cuốn “Tỉnh uỷ bí mật” được dịch và xuất bản trong kháng chiến chống Pháp… Việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa nước ta và Liên Xô cùng các nước dân chủ nhân dân vào tháng 1 năm 1950 đã thúc đẩy mạnh mẽ cuộc chiến đấu của quân và dân Việt Nam. Sau thắng lợi của cuộc chiến đấu của quân và dân Việt Nam. Sau thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược đông – xuân 1950-1951, giải phóng vùng biên giới Việt – Trung, cuộc kháng chiến của ta đã trực tiếp nhận được sự ủng hộ và giú đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác. Đó là một nhân tố vô cùng quan trọng để nhân dân ta tiến lên kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến bằng chiến công lừng lẫy tại Điện Biên Phủ (tháng 5 năm 1954) và tại Hội nghị Giơ-ne-vơ (tháng 7 năm 1954).
Với miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, cách mạng Việt Nam chuyển sang một bước ngoặt mới với hai nhiệm vụ chiến lược: “Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập, dân chủ trên cả nước”. Trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược trên đây, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và của các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác. Cuộc đi thăm Liên Xô và Đoàn đại biểu Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn dầu (tháng 7 năm 1955) là một cái mốc giới về tình hữu nghị, mối quan hệ anh em cùng giai cấp giữa hai đảng, hai nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam – Liên Xô.
Công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, đấu tranh thống nhất nước nhà trong những năm 1955-1960 của nhân dân ta đã nhận được những món quà quý gửi đến từ Tổ quốc của Cách mạng tháng Mười. Các lực lượng vũ trang xô – viết còn giúp đỡ các lực lượng vũ trang nhân dân ta xây dựng quân đội chính quy hiện đại bằng cả vũ khí, trang bị - kỹ thuật, đào tạo cán bộ và kinh nghiệm tiên tiến của mình. Nhờ đó, các binh đoàn bộ đội hợp thành, các quân chủng, binh chủng kỹ thuật hiện đại của Quân đội nhân dân Việt Nam từng bước được xây dựng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cuộc chiến tranh giải phóng ở miền Nam, cũng như cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, nhân dân ta lại nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ ngày càng to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác và cả loài người tiến bộ. Trước hết, đó là sự ủng hộ hoàn toàn của Đảng và Nhà nước Liên Xô đối với đường lối chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhà nước ta, những giải pháp quân sự, chính trị và ngoại giao do ta đề ra trong quá trình kháng chiến. Liên Xô đã gửi đến cho quân và dân ta nhiều vũ khí và trang bị kỹ thuật hiện đại như: xe tăng, pháo mặt đất, pháo cao xạ, máy bay phản lực, tên lửa… Đó là một yếu tố không thể thiếu để làm tăng tiềm năng kinh tế và khả năng quốc phòng của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tăng sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trên cả hai miền Nam – Bắc. Đồng chí L.I. Brê-giơ-nhép, Tổng bí thư Uỷ ban trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ đã tuyên bố: “Sự giúp đỡ này sẽ còn tiếp tục chừng nào đế quốc Mỹ chưa chấm dứt hành động phiêu lưu nhục nhã đầy tội ác của chúng và chưa cút khỏi Việt Nam”.
Theo đường lối tiến hành chiến tranh đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí minh, với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do” và nghệ thuật đánh giặc tài giỏi, quân và dân ta đoàn kết chặt chẽ với hai nước Lào và Cam-pu-chia anh em, dựa vào nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa láng giềng thân thiết, dựa vào sức mạnh của thời đại mới với Liên Xô là trụ cột, đã đánh bại hàng loạt chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Đế quốc Mỹ, tên đế quốc mạnh nhất trong những nước đế quốc, chịu một thất bại lớn nhất, sâu cay nhất trong lịch sử của nó.
Thắng lợi đó cũng chứng tỏ sức mạnh vô địch của chủ nghĩa xã hội, của tình hữu nghị, tình đoàn kết anh em giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Liên Xô được xây dựng nên từ Cách mạng tháng Mười do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng.
III. LIÊN XÔ VỚI CÔNG CUỘC BẢO VỆ TỔ QUỐC VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA NHÂN DÂN TA NGÀY NAY
Thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời đại của cuộc chống Mỹ, cứu nước đưa dân tộc ta sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập thống nhất và làm nhiệm vụ chiến lược duy nhất là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng đó ở nước ta diễn ra trong những điều kiện quốc tế thuận lợi, song cũng có nhiều diễn biến phức tạp. Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, lại bị nhiều năm chiến tranh tàn phá. Hậu quả về nhiều mặt của 30 năm chiến tranh chưa được khắc phục, thì quân và dân ta lại phải đương đầu với chiến tranh xâm lược mới ở hai đầu biên giới của Tổ quốc, và nhiều âm mưu thủ đoạn phá hoại khác của các thế lực thù địch.
Một lần nữa, Liên Xô lại ở bên cạnh Việt Nam, với sự giúp đỡ to lớn hơn, cả trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa hai nước Việt Nam và Liên Xô ra đời (tháng 11 năm 1978), đã từng bước phát huy hiệu lực thực tế trong sự phối hợp hai bên theo kế hoạch dài hạn phát triển nền kinh tế quốc dân cũng như các lĩnh vực khác. Sự nghiệp xây dựng và củng cố quốc phòng, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân Việt nam cũng nhận được sự giúp đỡ theo một kế hoạch toàn diện, cơ bản. Nhiều trang bị và vũ khí hiện đại của Liên Xô có trình độ kỹ thuật vượt xa nền kinh tế và công nghiệp của Việt Nam lại được gửi sang trang bị cho các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhiều chuyên gia Liên Xô trên các lĩnh vực đã được phái sang giúp đỡ Việt Nam trên tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa cao cả.
Công cuộc cải tổ rộng lớn mang tính cách mạng, sáng tạo và tính thực tiễn to lớn trong công cuộc hoàn thiện chủ nghĩa xã hội và chính sách đối ngoại hoà bình của Đại hội 27 Đảng Cộng sản Liên Xô, cùng với tinh thần đổi mới tích cực và sâu sắc trong đường lối cách mạng do Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, là tiền đề mới và rộng lớn để phát triển hơn nữa sự hợp tác xã hội chủ nghĩa giữa Việt Nam và Liên Xô từ ngay về sau. Nó mở ra những khả năng và triển vọng to lớn để quân và dân ta giải quyết thành công nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giữ vững độc lập, chủ quyền và an ninh của Tổ quốc.
Có thể nói, Tuyên bố chung Việt Nam – Liên Xô, kết quả chuyến đi thăm hữu nghị chính thức Liên Xô của đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 5 năm 1987, là nền tảng mới của tình hữu nghị và sự hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô. Trong diễn văn đọc tại cuộc mít tinh ở nhà máy Công xã Pa-ri, thuộc Mát-xcơ-va, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã khẳng định: “Quan hệ thuỷ chung, trong sáng giữa hai đảng và nhân dân hai nước chúng ta thật sự là một mẫu mực về quan hệ kiểu mới giữa các dân tộc cùng xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Suốt nửa thế kỷ đấu tranh cách mạng, đấu tranh vũ trang dưới sự lãnh đạo của Đảng Mác – Lê-nin, bằng sức mạnh sáng tạo của mình và học tập nền khoa học quân sự tiên tiến xô – viết, kế thừa, phát triển kinh nghiệm và truyền thống quân sự độc đáo của dân tộc Việt Nam, quân và dân ta đã từng bước xây dựng và dần dần hoàn chỉnh nền khoa học quân sự cách mạng, hiện đại, mang tính dân tộc sâu sắc. Nền khoa học quân sự đó đã góp phần quyết định để quân và dân ta thực hiện thắng lợi đường lối tiến hành chiến tranh nhân dân của Đảng, liên tiếp đánh thắng những thế lực xâm lược, phản động hung hãn nhất của thời đại. Nắm vững và thực hiện tinh thần đổi mới của Đảng trên lĩnh vực quân sự và quốc phòng, chúng ta đang tích cực hoàn thiện và phát triển hơn nữa tư tưởng và đường lối quân sự của Đảng, phát triển khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật mới trên thế giới đang tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến khoa học quân sự, cả về chiều rộng và chiều sâu. Điều đó đòi hỏi chúng ta tích cực nghiên cứu và áp dụng trong thực tế những thành tựu mới của khoa học và kỹ thuật, để làm phong phú thêm truyền thống và kinh nghiệm của dân tộc ta, nhanh chóng đưa khoa học quân sự Việt Nam tiến lên những bước phát triển mới, theo kịp yêu cầu của sự nghiệp củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội trong điều kiện hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
Sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, sức mạnh của Quân đội nhân dân bắt nguồn từ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng trên cả nước, từ sức mạnh của nhân dân làm chủ, “lấy dân làm gốc”, sức mạnh tổng hợp của các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, khoa học, giáo dục, v.v. Vì thế, phải làm cho mọi người nhận thức sâu sắc rằng, xây dựng và củng cố quốc phòng, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của tất cả các ngành, các địa phương trong cả nước, của cả hệ thống chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từ kinh nghiệm lịch sử, quân và dân ta cần rút ra một bài học lớn là chưa bao giờ chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế từ bỏ mưu đồ buộc nhân dân ta phải khuất phục. Chúng không thực hiện được mưu đồ của chúng là do quân và dân ta luôn luôn cảnh giác và biết tạo nên sức mạnh để chiến thắng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Thực tế đó đòi hỏi phải thường xuyên giáo dục tinh thần cảnh giác cách mạng, nâng cao lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa, ý thức và trách nhiệm xây dựng quốc phòng cho toàn đảng, toàn quân, toàn dân; đồng thời phải nghiêm túc phát hiện, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, thay đổi, bổ sung những cái đã lỗi thời; hoàn chỉnh hơn nữa các chế độ, chính sách về quốc phòng, về xây dựng các lực lượng vũ trang phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.
Đại hội VI của Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng trong thời gian tới. Để thực hiện nhiệm vụ đó, phải đổi mới tư duy, đổi mới trong tổ chức và xây dựng lực lượng, trong công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, trong công tác cán bộ, trong công tác huấn luyện chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu cũng như bảo đảm đời sống, bảo đảm kỹ thuật và hậu cần.
Trên tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật” của Đảng, hưởng ứng “Những việc cần làm ngay” của đòng chí N.V.L. nêu trên báo Đảng, chúng ta phải nghiêm túc xem xét những vụ việc tiêu cực, những sai trái của các mặt công tác trên trong toàn quân để kiên quyết xử lý và khắc phục. Phải từng bước tạo nên sự chuyển biến thực sự về đời sống vật chất, đời sống chính trị - tinh thần, đời sống chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của toàn quân: tin tưởng, nhất trí, đoàn kết, dân chủ, kỷ luật, văn minh.
Cần phải đổi mới tư duy và phong cách trong việc sử dụng việc trợ quân sự của Liên Xô và của các nước xã hôi chủ nghĩa anh em khác, làm cho sự giúp đỡ này đạt được hiệu quả cao và tiết kiệm. Phải khiêm tốn học hỏi các đồng chí chuyên gia, đoàn kết chặt chẽ và tạo điều kiện thuận lợi cho các đồng chí hiểu rõ tình hình của ta, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Để kỷ niệm một cách thiết thực và xứng đáng 70 năm Cách mạng tháng Mười vĩ đại (7-11-1987) và tiến tới kỷ niệm 70 năm Ngày Quân đội và Hải quân Liên Xô (23-2-1988), cán bộ và chiến sĩ của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam phải tích cực và nghiêm túc nghiên cứu, học tập những thành tựu tiên tiến của nền khoa học quân sự xô – viết, những kinh nghiệm xây dựng quân đội chính quy, hiện đại, những kinh nghiệm tiến hành chiến tranh giữ nước vô giá của nhân dân và quân đội Liên Xô. Phải bám sát, nghiên cứu và học tập những phát triển mới trong học thuyết quân sự và chính sách quốc phòng của Nhà nước Liên Xô do Đại hội 27 đề ra. Cần vận dụng đúng đắn và sáng tạo những kết quả học tập vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta, của quân và dân ta, để thiết thực nâng cao sức mạnh quốc phòng của nước ta, nâng cao sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đại hội VI của Đảng giao cho.
Đồng chí M.X.Goóc-ba-chốp, Tổng bí thư Uỷ ban trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, khi đánh giá tình hình thế giới ngày nay đã chỉ ra: “Thế giới đầy hy vọng bởi vì chưa bao giờ nhân loại được trang bị toàn diện như thế để tiếp tục phát triển nền văn minh. Nhưng đó cũng là một thế giới đầy hiểm hoạ và mâu thuẫn làm cho chúng ta phải nói về một giai đoạn có lẽ là nguy hiểm nhất trong lịch sử”. Tiến trình thực tế của thế giới hiện đại đã khẳng định nhận định đúng đắn và khoa học đó.
Chủ nghĩa đế quốc thế giới, đứng đầu là đế quốc Mỹ, đang rắp tâm thực hiện “học thuyết toàn cầu mới”, thực hiện chương trình “chiến tranh giữa các vì sao” (SDI), đưa vũ khí hạt nhân lên vũ trụ, thực hiện học thuyết “xung đột cường độ thấp” (LIC), leo thang chạy đua vũ trang, nhằm chống Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa khác và chống phong trào độc lập, giải phóng dân tộc ở các nước đang phát triển. Bằng chiến lược châu Á – Thái Bình Dương, đế quốc Mỹ khuyến khích phục hồi chủ nghĩa quân phiệt Nhật, mưu toan lập ra một kiểu liên minh NATO ở châu Á, tìm mọi cách cấu kết quân sự với các thế lực phản động khác, đưa học thuyết LIC vào châu Á, chống các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân đọc ở khu vực này. Ở Đông Nam Á, đế quốc Mỹ câu kết với các thế lực phản động liên tục chống phá cách mạng Việt Nam, cách mạng ba nước Đông Dương. Tình hình đó đòi hỏi quân và dân ta cũng như các lực lượng cách mạng, dân chủ và hoà bình ở châu Á và Đông Nam Á phải luôn luôn cảnh giác và kiên trì đấu tranh cho hoà bình, ổn định ở khu vực.
Đi theo con đường của Cách mạng tháng Mười, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đời đời biết ơn Liên Xô, biết ơn Lê-nin vĩ đại, biết ơn Đảng, Nhà nước, nhân dân và Các lực lượng vũ trang xô – viết anh em đầy tình nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa đã hết lòng ủng hộ và giúp đỡ tận tình sự nghiệp giải phngs dân tộc của nhân dân ta, hiện đang tiếp tục nhiệm vụ quốc tế cao cả của mình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
Toàn dân và toàn quân ta hoàn toàn đồng tình và nhiệt liệt ủng hộ những sáng kiến hoà bình vĩ đại do Đảng của Lê-nin và Chính phủ xô-viết đưa ra, sát cánh cùng nhân dân Liên Xô, các lực lượng vũ trang xô – viết anh hùng và cả loài người tiến bộ trong sự nghiệp cao cả bảo vệ và phát triển những thành quả của chủ nghĩa xã hội và hoà bình thế giới.
(Bài đăng trên Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số tháng 1 năm 1989)
Trong những ngày tháng giêng này, hoà chung với niềm vui lớn của nhân dân Cam-pu-chia anh em, nhân dân ta cùng với mọi người thiện chí trên thế giới vui mừng chào đón kỷ niệm 10 năm ngày thắng lợi vĩ đại của cách mạng Cam-pu-chia đạp tan chế độ diệt chủng Pôn Pốt, lập nên nước Cộng hoà nhân dân Cam-pu-chia, cứu dân tộc thoát khỏi thảm hoạ diệt vong, mở đường đưa đất nước Cam-pu-chia bước sang kỷ nguyên mới, kỷ nguyên nhân dân thật sự làm chủ vận mệnh của mình trong độc lập, tự do.
10 năm qua, dưới ngọn cờ lãnh đạo đúng đắn của Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia, từ trong cảnh hoang tàn, đổ nát do chế độ Pôn Pốt trút lại, công cuộc hồi sinh dân tộc đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều mặt.
Chính quyền cách mạng các cấp từ trung ương đến cơ sở - do nhân dân xây dựng nên – ngày càng vững mạnh trên cả nước, đang làm tốt chức năng quản lý đất nước trên mọi lĩnh vực, từ đối nội đến đối ngoại, từ chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục đến an ninh, quốc phòng.
Mặt trận đoàn kết, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Cam-pu-chia – nơi tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dan các dân tộc, tôn giáo – đang phát huy mạnh mẽ vai trò củng cố và mở rộng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc anh em trong nước và kiều dân Cam-pu-chia sống ở nước ngoài, động viên và phát huy sức mạnh làm chủ của toàn dân Cam-pu-chia thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia, ngọn cờ lãnh đạo của cách mạng Cam-pu-chia – “bảo đảm quan trọng nhất để từ nay về sau cách mạng Cam-pu-chia tiến lên một cách đúng đắn, không bao giờ còn bị phản bội” như Nghị quyết Đại hội lần thứ IV Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia chỉ rõ – đã đạt được những bước tiến quan trọng trong việc tự xây dựng lại mình theo những nguyên tắc cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Đảng ăn sâu, bám rễ trong quần chúng, được nhân dân tin yêu, đang thực hiện sứ mệnh lịch sử trọng đại của mình là lãnh dạo nhân dân Cam-pu-chia vượt qua khó khăn, xây dựng lại toàn bộ cuộc sống của đất nước và bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.
Nền kinh tế đã từng bước được khôi phuc, đạt những thành tựu đáng tự hào. Bốn mũi nhọn của chương trình kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ nhất là sản xuất lương thực, cao su, gỗ và nghề cá đều có bước phát triển khá … Giá cả trên thị trường và giá trị đồng tiền Cam-pu-chia – đồng riêng – về cơ bản được ổn định. Nạn đói và tình trạng suy kiệt sức khoẻ của nhân dân ở thời kỳ đầu sau giải phóng đã bị chặn đứng và khắc phục. Đời sống nhân dân đã đi vào ổn định và có nhiều mặt được cải thiện.
Giáo dục, văn hoá cũng đạt thành tựu đáng kể. Nạn mù chữ đã căn bản được xoá bỏ trên cả nước. Mẫu giáo, giáo dục phổ thông phát triển rất mạnh. Đại học và trung học chuyên nghiệp cũng đã được chú trọng phát triển, thu hút hàng vạn sinh viên và học sinh; hàng nghìn người đã được gửi đi học ở nước ngoài.
Trên mặt trận bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng – nhiệm vụ hàng đầu thiêng liêng của cách mạng Cam-pu-chia – nhân dân và các lực lượng vũ trang cách mạng Cam-pu-chia cũng đã giành được thắng lợi rất to lớn. Đã xác lập và củng cố ngày càng vững chắc quyền làm chủ trên toàn bộ lãnh thổ Cam-pu-chia từ biên giới đến nội địa, bao gồm cả vùng đất, vùng trời và vùng biển. Đã thành công trong việc xây dựng lại một lực lượng vũ trang cách mạng thật sự cách mạng, thật sự nhân dân, bao gồm cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân và lực lượng an ninh nhân dân làm công cụ sắc bén cho chính quyền cách mạng để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh của đất nước. Đồng thời động viên, tổ chức được một phong trào rộng lớn toàn dân đấu tranh, xây dựng quốc phòng và an ninh. Kết hợp chặt chẽ với các mặt đấu tranh khác, thắng lợi về quốc phòng, an ninh đã góp phần quyết định bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc và các thành quả cách mạng của Cam-pu-chia, bảo đảm cho Nhà nước Cộng hoà nhân dân Cam-pu-chia nắm chắc quyền kiểm soát, quyền làm chủ trên toàn bộ lãnh thổ Cam-pu-chia.
Trên trường quốc tế, với chính sách đối ngoại hoà bình, hữu nghị, hợp tác với các nước, với chính sách hoà hợp dân tộc đúng đắn thể hiện nguyện vọng sâu xa của nhân dân Cam-pu-chia và phù hợp với xu thế của thời đại, uy tín của Cộng hoà nhân dân Cam-pu-chia không ngừng được nâng cao, đặc biệt với việc trong thời gian gần đây Cộng hoà nhân dân Cam-pu-chia đã liên tiếp đưa ra nhiều sáng kiến, đề nghị hợp tình, hợp lý để cùng các bên tìm ra một giải pháp chính trị thoả đáng cho vấn đề Cam-pu-chia, được dư luận rộng rãi trên thế giới đồng tình.
10 năm qua chỉ là một thời gian rất ngắn trong lịch sử phát triển lâu dài của dân tộc Cam-pu-chia. Nhưng những thành tựu mà nhân dân Cam-pu-chia đạt được thật là to lớn. Nhân dân Cam-pu-chia đã tạo nên những thắng lợi đó từ đống tro tàn đổ nát của chế độ Pôn Pốt để lại: nền kinh tế kiệt quệ, cơ cấu xã hội bị đảo lộn hoàn toàn, nhân dân đói rách và bệnh tật, thiên tai liên tiếp, đất nước tất cả chỉ còn là một thảm cảnh đau thương, lại trong hoàn cảnh phải liên tục đối phó với âm mưu phá hoại và phản kích độc ác và điên cuồng của nhiều thế lực thù địch chống lại ước vọng hoà bình, độc lập, tự do của nhân dân Cam-pu-chia.
Những thành tựu và thắng lợi to lớn đó chứng minh sức sống kỳ diệu của nhân dân các dân tộc Cam-pu-chia đạt được. Nhân ngày hội lớn này của đất nước Ăng – co, chúng ta xin gửi đến nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân Cam-pu-chiaanh em những lời chúc mừng nhiệt liệt nhất.
Như nhiều nghị quyết của Ban chấp hành trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia đã xác định, những thành tựu to lớn mà nhân dân Cam-pu-chia đạt được là nhờ có sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia với đường lối cách mạng, đường lối quân sự đúng đắn; nhờ sự phấn đấu lao động bền bỉ và hy sinh chiến đấu to lớn của toàn dân và lực lượng vũ trang cách mạng Cam-pu-chia; nhờ sự giúp đỡ to lớn và có hiệu quả trên tinh thần quốc tế vô sản của Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân tình nguyện Việt Nam; nhờ sự giúp đỡ, ủng hộ to lớn và có hiệu quả của Lào, Liên Xô, của các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, của Ấn Độ, của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.
Cách đây 10 năm, để bảo vệ Tổ quốc chống chiến tranh xâm lược của bọn phản động Pôn Pốt, chống lại những hành động cực kỳ dã man của chúng đối với nhân dân ta, và để đáp lại tiếng gọi thiết tha của Mặt trận dân tộc cứu nước Cam-pu-chia, của nhân dân Cam-pu-chia đang đứng trước thảm hoạ diệt vong, nhiều đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam, sau khi liên tiếp đánh bại các cuộc tiến công xâm lược vào biên giới tây – nam của đát nước mình, chấp hành quyết định của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã mở cuộc phản công chớp nhoáng sang đất Cam-pu-chia lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Sau đó, Quân tình nguyện Việt Nam dã cùng nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân Cam-pu-chia tiếp tục cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước Cam-pu-chia, bảo vệ thành quả cách mạng; giúp đỡn nhân dân Cam-pu-chia trong công cuộc hồi sinh, xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang của cách mạng Cam-pu-chia lớn mạnh, dần dần đủ sức tiến lên tự mình làm chủ công cuộc xây dựng đát nước và bảo vệ Tổ quốc bảo vệ thành quả cách mạng.
Trong thời kỳ đầu vô cùng bi thảm của đất nươcs do chế độ diệt chủng để lại, sau thắng lợi ngày 7 tháng 01 năm 1079, theo yêu cầu của chính quyền cách mạng Cam-pu-chia, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam đã trải rộng trên hầu khắp đất nước Cam-pu-chia còn đầy đau thương tang tóc, đi sâu vào mọi xóm làng, góc rừng, ngọn núi, con sông, khe suối… vừa tiếp tục đánh địch, vừa cứu dân, cần mẫn làm đát cả mọi việc. Cứu đói, chữa bệnh cho dân, giúp đỡ nhân dân trở về quê cũ, ổn định cuộc sống, khôi phục sản xuất, xây dựng tổ đoàn kết sản xuất, xây dựng dân quân ở các ấp, xã, .v.v góp phần tích cực vào việc nhanh chóng ổn địch đời sống bình thường của nhân dân, lập lại trật tự xã hội trong thời kỳ trứng nước của cách mạng.
Tiếp đó, trong suốt nhiều năm ròng rã, các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam phối hợp chặt chẽ với các ngành và các địa phương của ta, đã không quản hy sinh gian khổ, kề vai sát cánh với quân và dân Cam-pu-chia chiến đấu anh dũng, bền bỉ và liên tục, đánh bại mọi cuộc phản kích điên cuồng của địch, không ngừng giữ vững và mở rộng quyền làm chủ của cách mạng trên toàn bộ đất nước; đồng thời đã kiên trì, bền bỉ giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng không ngừng lớn mạnh. Quân đội ta còn tích cực hỗ trợ cho Bạn xây dựng và củng cố cơ sở cấp, xã, xây dựng và thúc đẩy các phong trào cách mạng của quần chúng. Cần nói rõ rằng trong suốt 10 năm qua, cán bộ và chiến sĩ ta đã phải chiến đấu và côgn tác liên tục trên chiến trường đất Bạn trong hoàn cảnh hết sức gian khổ, khó khăn: khí hậu vô cùng vô cùng khắc nghiệt, bệnh sốt rét thường xuyên uy hiếp; đời sống vật chất và tinh thần thiếu thốn; ngôn ngữ bất đồng; đời sống gia đình của cán bộ và chiến sĩ ở hậu phương cũng gặp nhiều khó khăn; nhiệm vụ chiến đấu và công tác giúp Bạn lại hết sức nặng nề, đa dạng, phức tạp, cường độ lao động và chiến đấu thường xuyên khẩn trương… Mặc dù vậy, đại bộ phận cán bộ và chiến sĩ ta vẫn nêu cao tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, kiên định ý chí chiến đấu và trách nhiệm công tác, bền bỉ và chủ động khắc phục mọi khó khăn và thiếu thốn, hoàn thành tốt nhiệm vụ giúp Bạn. Rất nhiều tấm gương tiêu biểu về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, về tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, thể hiện rõ bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam, của “Anh bộ đội Cụ Hồ” không ngừng xuất hiện, đã gây ấn tượng rất tốt đẹp đối với Bạn, trở thành niềm tin và chỗ dựa của lực lượng vũ trang và nhân dân Cam-pu-chia.
Phẩm chất cao quý đó của bộ đội ta đã được đồng chí Chia Xim, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng toàn quốc Mặt trận đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Cam-pu-chia nêu rõ: “Những gì mà Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân Cam-pu-chia chúng tôi mãi mãi khắc sâu trong trái tim mình, đó là tinh thần quốc tế vô sản cao cả của các đồng chí trong việc giúp đỡ quân đội và nhân dân Cam-pu-chia”.
Qua 10 năm xây dựng và chiến đấu, ngày nay đất nước Cam-pu-chia đã thật sự hồi sinh. Lực lượng cách mạng Cam-pu-chia đã dần dần tiến lên tự đảm đương được toàn bộ nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước. Thắng lợi của cách mạng Cam-pu-chia là không thể đảo ngược.
Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội ta rất lấy làm vinh dự được góp phần cống hiến xứng đáng vào thắng lợi lịch sử đó của Đảng, Chính phủ và nhân dân Cam-pu-chia anh em.
Để tuyên dương công trạng cán bộ và chiến sĩ Quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam đã hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia, Nhà nước Cộng hoà nhân dân Cam-pu-chia đã trao tặng Huân chương Ăng-co – huân chương cao quý nhất của Nhà nước Cam-pu-chia; Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trao tặng Huân chương Sao vàng – huân chương cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam, cho quan tình nguyện Việt Nam. Những phàn thưởng cao quý đó, một lần nữa tô thắm thêm truyền thống chiến dấu vẻ vang và bản chất cách mạng sáng ngời của Quân đội nhân dân Việt nam, vì nước vì dân, vì nghĩa vụ quốc tế.
Như chúng ta đều biết, do chính sách diệt chủng man rợ của chế độ phản động Pôn-Pốt, nên sau khi giành lại được chính quyền, dân tộc Cam-pu-chia đã phải làm lại cuộc cách mạng từ đầu, xây dựng lại đất nước, xây dựng lại thực lực cách mạng từ đầu, từ gốc đến ngọn. Tình hình đặc biệt đó đã đặt ra cho nhiệm vụ giúp Bạn của Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam ở Cam-pu-chia những yêu cầu mới hết sức phức tạp, đa dạng, nặng nề.
Để đảm bảo cho bộ đội ta hoàn thành tốt nhiệm vụ đó, chúng ta đã chú ý trước hết xây dựng cho cán bộ và chiến sĩ ta có quan điểm và thái độ đúng trong công tác giúp Bạn, trong đó tập trung vào hai nội dung then chốt:
Một là, chúng ta giáo dục đi lại nhiều lần làm cho mọi người quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng ta về mối quan hệ thống nhất giữa nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế; về lời dạy dâu sắc của Bác Hồ: “Giúp nước bạn tức là mình tự giúp mình”. Trên cơ sở đó, làm cho mỗi người thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng vì lợi ích của dân tộc mình và của dân tộc anh em mà sẵn sàng chiến đấu hy sinh, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành thành tốt mọi nhiệm vụ, giành thắng lợi trọn vẹn cả về chính trị và quân sự, trước mắt và lâu dài. Khắc phục mọi biểu hiện của tư tưởng nước lớn, tư tưởng ban ơn cũng như tư tưởng dân tộc hẹp hòi. Chúng ta đặt thành yêu cầu chính trị nghiêm khắc: làm nhiệm vụ trên đất nước Bạn, cán bộ và chiến sĩ ta nhất thiết phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, pháp luật của Nhà nước Cam-pu-chia, tôn trọng chính quyền và lực lượng vũ trang Bạn, kính trọng và yêu mến nhân dân Cam-pu-chia, tôn trọng phong tục tập quán của các dân tộc Bạn, tuyệt đối không xâm phạm tài sản của nhân dân và đất nước Bạn. Mỗi lời nói và việc làm của cán bộ và chiến sĩ ta đều phải hướng vào việc tăng cường lực lượng cách mạng Cam-pu-chia, vun đắp tình đoàn kết Việt Nam – Cam-pu-chia, để lại tiếng tốt, tình nghĩa thuỷ chung trong lòng nhân dân Cam-pu-chia.
Hai là, chúng ta chú ý giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ thấm nhuần quan điểm “thắng lợi của cách mạng Cam-pu-chia phải do lực lượng tự thân của Cam-pu-chia quyết định”. Mọi người cần nhận rõ rằng, do sự phản bội của bè lũ cầm quyền Pôn-Pốt, lực lượng cách mạng Cam-pu-chia lúc đầu còn non yếu, phải có sự giúp đỡ của của Quân tình nguyện Việt Nam để lật đổ chế độ diệt chủng. Nhưng trong quá trình phát triển và tiến lên của cách mạng, xây dựng lại và bảo vệ đất nước, lực lượng quyết định phải chính là nhân dân Cam-pu-chia, không ai làm thay được. Cahcs mạng là sự nghiệp của quần chúng. Sự nghiệp cách mạng của mỗi nước phải do chính nhân dân nước đó quyết định.
Trên quan điểm đó, ngay từ đầu, chúng ta đã xác định rõ mục tiêu nhất quán, cái đích cao nhất của mọi cố gắng của ta là giúp Bạn xây dựng thực lực cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, giúp cho Bạn trưởng thành từng bước tiến lên tự lực đảm đang lấy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mình. Bạn trưởng thành nhanh thì Quân tình nguyện Việt Nam sẽ trở về nước sớm. Chúng ta xây dựng cho cán bộ và chiến sĩ ta lòng tin vững chắc vào khả năng mọi mặt của Bạn, tôn trọng tính độc lập, chủ động và mọi sáng kiến của Bạn, kịp thời phát hiện và khắc phục mọi tư tưởng lệch lạc, mọi hành động sai trái xuất hiện trong quá trình giúp Bạn.
Trong những năm làm nghĩa vụ quốc tế ở Cam-pu-chia, cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và đoàn chuyên gia Việt Nam luôn luôn được Đảng, Nhà nước và toàn thể quân dân Cam-pu-chia dành cho nhiều ưu ái, hết lòng đùm bọc, chăm sóc như con em ruột thịt; được các lực lượng vũ trang cách mạng Cam-pu-chia hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ, tiếp thu và vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm mà Việt Nam giúp đỡ. Quá trình lớn mạnh của lực lượng cách mạng Cam-pu-chia đã tạo điều kiện cho Quân tình nguyện Việt Nam có thể hàng năm rút quân từng phần về nước.
Sự lớn mạnh của cách mạng Cam-pu-chia đã giúp cho Việt Nam có thêm điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giúp tăng cường thế và lực của cách mạng ba nước Đông Dương. Đảng, Chính phủ, nhân dân và lực lượng vũ trang cách mạng Cam-pu-chia lòng biết ơn chân thành.
Chúng ta hết sức phấn khởi nhận thấy rằng, mối quan hệ gắn bó thuỷ chung, tình đồng cam cộng khổ, vui sướng có nhau, hoạn nạn cứu nhau, luôn dành cho nhau sự giúp đỡ chí tình, đã được dày công hun đúc trong cuộc chiến tranh lâu dài chống kẻ thù chung thực dân, đế quốc. Qua trận thử thách lâu dài lần này, tinh thần đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Cam-pu-chia lại được nâng lên một tầm cao mới, trở thành vật báu chung vô giá của hai dân tộc, cho thế hệ ngày nay và các thế hệ mai sau.
Chúng ta chân thành chúc nhân dân Cam-pu-chia thân thiết tiêp tục đạt nhiều thành tích to lớn hơn nữa trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong sự nghiệp đấu tranh cho hoà bình, hoà hợp dân tộc, đẩy lùi tội ác, đem lại hạnh phúc cho toàn dân trên toàn cõi đất nước Cam-pu-chia.
Hướng về các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đang còn làm nhiệm vụ quốc tế trên đất nước Cam-pu-chia, chúng ta xin gửi đến tất cả cán bộ và chiến sĩ thân yêu lời chào thân thiết và lời chúc sức khoẻ. Chúc các đồng chí tiếp tục nêu cao lòng yêu nước chân chính và tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, nỗ lực hết sức mình trong nhiệm vụ giúp Bạn giành nhiều thắng lợi mới, góp phần đắc lực cùng các mặt đấu tranh khác đạt được một giải pháp chính trị có nguyên tắc đáp ứng đúng nguyện vọng của nhân dân Cam-pu-chia, đảm bảo cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Cam-pu-chia tiếp tục tiến lên trong tình thế mới và sẵn sàng chủ động ứng phó với mọi tình huống.
(Bài nói tại Hội nghị cán bộ quân chính toàn quân, tháng 1 năm 1989)
Từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay, các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã cùng với toàn dân chấp hành nhiệm vụ quốc phòng trong tình hình chung có những thuận lợi cơ bản nhưng cũng có những khó khăn gay gắt. Trên thế giới khả năng bảo vệ hoà bình tăng lê, xu thế hoà hoãn phát triển, nhưng cuộc đấu tranh giữa cách mạng và phản cách mạng còn diễn biến gay go, phức tạp, lâu dài, trên mọi lĩnh vực. Các thế lực đế quốc, phản động, thù địch vẫn tiếp tục tiến hành kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt nhằm chia rẽ, làm suy yếu nước ta, Cam-pu-chia và Lào. Trong nước ta, hai năm qua tình hình kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, các lực lượng vũ trang đã ra sức khắc phục khó khăn, nghiêm chỉnh chấp hành nhiệm vụ và đạt được kết quả tương đối tốt trên nhiều mặt công tác.
Chúngta đã đánh giá đúng và khách quan hơn tình hình địch, ta, quán triệt sâu hơn quan điểm chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, và đã chuyển hướng chiến lược trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Chúng ta đã nhanh chóng khôi phục và thực hiện có kết quả các nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, xây dựng cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và sự nghiệp quốc phòng phù hợp với nguyên tắc, truyền thống và kinh nghiệm của ta.
Có thể nói hai vấn đề cơ bản trên là bước khởi đầu cho công cuộc đổi mới trong lĩnh vực quân sự và quốc phòng.
Các mặt tác chiến phòng thủ, làm nghĩa vụ quốc tế, củng cố nền quốc phòng toàn dân, chấn chỉnh, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân, lao động sản xuất xây dựng kinh thế, củng cố đảng bộ quan đội… đã được tiến hành đúng hướng, có chuyển bến một bước về quan điểm tư tưởng, có tiến bộ về nguyên tắc bà tính đảng, tạo nên sự nhất trí trong Đảng và trong cán bộ.
Những kết quả tiến bộ trên đây đã tạo điều kiện và cơ sở thuận lợi để trong những năm tới chúng ta có thể làm chuyển biến được tình hình, nâng cao chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang, củng cố nền quốc phòng toàn dân một cách mạnh hơn, vững chắc hơn, bảo đảm chấp hành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế với hiệu quả cao hơn.
Tuy nhiên, trên nhiều lĩnh vực kết quả đạt được còn bị hạn chế, có nhiều vấn đề phải nỗ lực rất lớn trong một số năm mới có thể giải quyết được. Nổi bật là chất lượng các lực lượng vũ trang về nhiều mặt chưa đáp ứng được tình hình và nhiệm vụ. Trình độ sẵn sàng chiến đấu còn thấp. Công tác bảo đảm kỹ thuật tuy có cố gắng nhưng vẫn còn khó khăn. Công tác bảo đảm đời sống cho bộ đội vẫn còn chật vật. Chính sách đối với quâ đội còn nhiều mặt chưa hợp lý, chậm được đổi mới. Đội ngũ cán bộ đang được từng bước quy hoạch lại nhưng nhìn chung trình độ chưa theo kịp yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ. Công tác đảng, công tác chính trị tuy đã đạt được một số tiến bộ nhưng tính đấu tranh thấp, hiệu lực còn hạn chế. Tư tưởng của bộ đội còn nhiều diễn biến phức tạp, kỷ luật chưa có chuyển biến rõ rệt, còn nhiều vụ việc nghiêm trọng…
Vì vậy, trong những năm tới chúng ta phải có những cố gắng rất lớn để từng bước vươn lên khắc phục mọi khó khăn, nâng cao được chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang, của nền quốc phòng toàn dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, cùng với lực lượng công an và toàn dân đối phó có hiệu quả với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt và âm mưu lấn chiếm cục bộ của kẻ địch, tham gia xây dựng đất nước và làm tốt nghĩa vụ quốc tế.
Để nâng cao được chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang nhân dân trong tình hình mới, cần nắm vững một số yêu cầu cơ bản sau đây:
1. Củng cố ý chí chiến đấu, kiên định quyết tâm bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹ lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa; không mơ hồ, ảo tưởng, lơ là, mất cảnh giác với kẻ thù.
Cuộc đấu tranh giữa ta và địch còn tiếp diễn phức tạp trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hoá, ngoại giao, kinh tế, và chúng ta phải luôn luôn đề phòng những diễn biến bất ngờ về quân sự.
Gần đây chủ nghĩa đế quốc đã và đang điều chỉnh sách lược và cả chiến lược cho phù hợp với diễn biến của tình hình thế giới, khu vực và Đông Dương. Chúng ta phải tiếp tục bám sát tình hình để có đối sách phù hợp, tranh thủ điều kiện hoàn bình xây dựng đất nước. Nhưng mặt khác chúng ta không mơ hồ về bản chất phản động và tham vọng làm bá chủ thiên hạ của họ. Trên quả đất này chừng nào còn chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thế lực bá quyền thì còn áp bức bóc lột giai cấp, áp bức bóc lột dân tộc và tất nhiên còn đấu tranh chống áp lức bóc lột giai cấp, đấu tranh chống áp bức bóc lột dân tộc. Trong điều kiện mới, hình thức áp bức bóc lột và hình thức đấu tranh chống áp bức bóc lột tinh vi, đa dạng, phưc tạp và dai dẳng hơn. Nếu chúng ta không nhận thức được đầy đủ, sâu sắc cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa ta và địch đang còn tiếp diễn gay gắt, phức tạp thì sẽ dẫn đến mơ hồ, mất cảnh giác đối với các lực lượng thù địch, thiếu sẵn sàng chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta rất mong muốn hoà bình, mong muốn có công bằng xã hội, có bình đẳng giữa các dân tộc, muốn giải quyết các mâu thuẫn giai cấp, dân tộc bằng đối thoại hoà bình, bằng giải pháp chính trị. Đảng ta và nhân dân ta đã từng kiên trì giải quyết mâu thuẫn với Pháp, Mỹ, bằng chính trị, ngoại giao. Nhưng họ cứ làm ngược lại.
Sau Cách mạng tháng Tám, Đảng ta và Bác Hồ đã kiên trì dùng đủ mọi biện pháp về chính trị, ngoại giao, kể cả việc Bác tự thân sang tận Pa-ri để thương thuyết với Pháp, nhưng Pháp vẫn mưu toan xoá bỏ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mới ra đời, xoá bỏ độc lập tự do của Tổ quốc ta mới giành được, quyết tâm xâm lược nước ta một lần nữa. Không còn con đường nào khác, nhân dân ta buộc phải cầm vũ khí chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc thiên liêng của mình. Cuộc kháng chiến kéo dài chín năm. Nhân dân ta đã giành được thắng lợi. Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết (1954).
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, Đảng ta chủ trương đấu tranh thi hành các điều khoản trong hiệp định, tiêp tục giải quyết những mâu thuẫn với Pháp và Mỹ ở miền Nam bằng con đường chính trị. Suốt năm năm ròng, cán bộ, đảng viên, nhân dân ta ở miền Nam đã kiên trì đấu tranh chính trị như vậy, nhưng kẻ thù vẫn tiếp tục dùng vũ trang đánh phá quyết liệt cách mạng miền nam, gây cho chúng ta những tổn thất hết sức nặng nề, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên, cơ sở cách mạng của ta bị kẻ địch giam cầm, giết hại. Trước tình hình đó nếu chúng ta chỉ có đấu tranh chính trị thì cách mạng miền Nam sẽ bị kẻ thù tiếp tục dìm trong bể máu. Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng (1959) vạch ra con đường, phương hướng đấu tranh cách mạng ở miền Nam, từ đó cán bộ và nhân dân ta mới được phép dùng vũ trang để tự vệ.
Cuộc chiến tranh ở miền Nam kéo dài gần 20 năm cực kỳ căng thẳng, ác liệt, đau khổ. Khi có Hiệp định Pa-ri (1973) chúng ta ai cũng vui mừng, mong muốn hoà bình, hòa hợp dân tộc, chứ không ai muốn tiếp tục chiến tranh nữa. Tôn trọng Hiệp định Pa-ri, chúng ta đã kiên trì đấu tranh chính trị và pháp lý nhưng kẻ địch lại dùng quân sự lấn đánh chúng ta khắp nơi. Một lần nữa buộc chúng ta phải dùng vũ trang để đánh trả lại kể thù.
Sau chiến thắng ngày 3- tháng 4 năm 1975, cả nước sung sướng, xúc động, vì chúng ta đã giành được hoàn toàn độc lập tự do và có hoà bình trên cả nước. Tổ quốc ta được hoàn toàn giải phóng. Nhưng đến ngày 30 tháng 4 năm 1977, chiến tranh biên giới tây – năm, rồi tháng 2 năm 1979 chiến tranh ở biên giới phía bắc, cùng với chiến tranh phá hoại nhiều mặt do các thế lực thù địch gây ra đã làm cho quân và dân ta thương vong lớn, tổn thất nặng nề. Nhân đó, đế quốc Mỹ từ chỗ rút chạy khỏi Đông Dương đã quay lại tập hợp lực lượng tại chỗ và lực lượng đã di tản đưa về phá hoại chúng ta.
Có thể nói rằng, trong những năm qua Việt Nam là nạn nhân của chính sách thù địch của đế quốc Mỹ và các lực lượng phải động quốc tế khác, chúng bao vây cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị, đối đầu về quân sự. Các thế lực đó đã đẩy nhiều nước ASEAN chống Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia. Mặc dù các thế lực thù địch đã gây cho dân tộc ta bao nỗi đau khổ, khó khăn như vậy, nhưng Đảng ta vẫn kiên trì chính sách hoà bình, mong muốn lập lại quan hệ bình thường với các nước.
Là một dân tộc đã từng trải qua mấy cuộc chiến tranh lâu dài ác liệt, đầy hy sinh gian khổ, nhân dân và quân đội ta rất mong muốn có hoà bình để tập trung năng lực xây dựng đất nước, xoá bỏ dần tình trạng nghèo nàn lạc hậu và xây dựng lại nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá.
Không có ai mong muốn hoà bình hơn quân đội và nhân dân ta. Chúng ta không muốn chiến tranh, vì chiến tranh thì nhân dân, cán bộ, chiến sĩ ta phải chịu hy sinh cực kỳ to lớn cả về xương máu cũng như tình cảm. Nhưng hoà bình phải trên cơ sở bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đó là lợi ích cao nhất, thiên liêng nhất và là lợi ích vĩnh viễn của dân tộc, của Tổ Tổ quốc. Không thể nhượng bộ lãnh thổ để đổi lấy quan hệ bình thường, đổi lấy hoà bình. Hoà bình quý lắm, nhưng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ còn quý hơn nhiều.
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn chủ trương đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại nhằm giữ vững hoà bình, tranh thủ mọi thời cơ và điều kiện thuận lợi để từng bước ổn định, phát triển kinh tế -xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần vào cuộc đấu tranh chung vì hoàn bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, chúng ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, an ninh đất nước, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội.
2. Khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta, hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ và của Đảng ta.
Chủ nghĩa xã hội trên thế giới đang đứng trước sự thách thức rất gay gắt về nhiều mặt. Mỗi nước phải tự nhận thức lại mình để tiến hành cải tổ và đổi mới mọi mặt của đời sống xã hội, khắc phục những mặt trì trệ, yếu kém, phát huy được đầy đủ bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội.
Đối với nước ta, từ sau Đại hội VI, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã triển khai công cuộc đổi mới trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Quá trình đổi mới là quá trình tìm tòi, thử nghiệm để xác định bước đi, hình thức, cách làm để đạt được hiệu quả cao nhất. Và quá trình đó cũng xuất hiện nhiều vấn đề mới mẻ đòi hỏi Đảng ta phải có nhận thức phù hợp, quan niệm đúng đắn vê chủ nghĩa xã hội, về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, triển khai công cuộc đổi mới trong tình hình các thế lực thù địch phản kích quyết liệt chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn cầu. Chúng tung ra những luận điệu phản động để làm giảm uy tín của chủ nghĩa xã hội, phủ định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, rập rình để tìm những sơ hở, khó khăn, vấp váp, thiếu sót của Đảng và Nhà nước ta để kích động, xuyên tạc hòng phá hoại hoặc làm trệch phương hướng, mục tiêu đổi mới của Đảng và nhân dân ta. Chúng ta phải đề cao cảnh giác, rất tỉnh toá trước những luận điệu thù địch của kẻ thù và các phần tử cơ hội, kiên định và kiên quyết đi theo con đường mà Bác Hồ và Đảng ta đã lực chọn đồng thời phải thấy hết những khó khăn, thiếu sót của mình, không chủ quan, tự mãn, khắc phục cho được những mặt yếu kém, trì trệ, tạo ra được những nhân tố mới để thúc đẩy các mặt của đời sống xã hội phát triển tiến lên.
Nếm quá đủ mùi vị cay đắng mà chủ nghĩa tư bản, đế quốc Pháp, Nhật, Mỹ đã đem đến cho nhân dân ta, chúng ta cần khẳng định sâu sắc rằng đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta, hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ và Đảng ta. Xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, là lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Bằng kinh nghiệm lịch sử và thực tiễn cuộc sống của mình, nhân dân ta đã nhận thức sâu sắc rằng chỉ có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì đất nước ta mới giàu mạnh, mới giữ vững được độc lập, tự do, nhân dân ta mới có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đó là con đường duy nhất đúng đắn, ngoài ra, không còn con đường nào khác.
Trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, nhân dân ta ở miền Nam luôn luôn hướng về miền Bắc xã hội chủ nghĩa với lòng tin tưởng sâu sắc. Trong những lúc khó khăn, gian khổ, ác liệt, kể cả những lúc tình hình đên tối nhất tưởng chừng không thể chịu đựng được nữa, nhưng với tinh thần yêu nước và niềm tin vững chắc vào chế độ mới ở miền Bắc, nhân dân ta ở miền Nam lại tiếp tục vươn lên chiến đấu bền bỉ với kẻ thù. Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc lúc bấy giờ tuy còn đơn sơ và quá trình tiến lên có những vấp váp, lệch lạc, thiếu sót, nhưng nó đã đóng một vai trò quyết định là hậu phương chiến lược vững chắc, tạo nên một sức mạnh cực kỳ to lớn cùng với nhân dân miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam.
Nhân tố yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội đã phát huy tác dụng trong sự nghiệp đánh Mỹ, cứu nước, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân cả nước, thì ngày nay nhân tố đó sẽ tiếp tục phát huy tác dụng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, đi theo con đường đổi mới do Đại hội VI vạch ra là để tiếp tục đưa chủ nghĩa xã hội tiến lên. Xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chính là mục tiêu của đổi mới. Vì vậy, trong quá trình triển khai công cuộc đổi mới, tuyệt đối không được đi trệch hoặc thay đổi mục tiêu đó, mà phải luôn luôn quán triệt nó trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong từng bước đi, làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả.
Trong quá trình triển khai công cuộc đổi mới, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn nắm vững chủ nghĩa Mác – Lê-nin, coi đó là nền tảng tư tưởng của Đảng chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; phải hết sức coi trọng tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận để chỉ đạo mọi hoạt động cách mạng theo hướng đổi mới, đòng thời để bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, làm phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Quân đội ta là một công cụ của Đảng, là một thành phần quan trọng của hệ thống chuyên chính vô sản, phải thấm nhuần và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, bảo vệ Đảng Cộng sản, bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của kẻ thù phái hoại sự lãnh đạo của Đảng, phá hoại Nhà nước xã hội chủ nghĩa; phải kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm, tư tưởng phản động của kẻ thù và những phần tử cơ hội.
Phải không ngừng tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chuyên chính vô sản. Đảng ta nói đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không có nghĩa là xoá bỏ chuyên chính vô sản, mà là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trên mọi mặt hoạt động của xã hội, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, quốc phòng, an ninh trật tự an toàn xã hội… có nghĩa là tăng cường sức mạnh của chuyên chính vô sản, làm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động năng động và có hiệu quả hơn.
Trong công cuộc đỏi mới hiện nay ở nước ta cũng đã xuất hiện quan niệm mở rộng dân chủ theo kiểu tư sản hoá. Một số người lợi dụng dân chủ để gây bè phái, đả kích lãnh đạo, phá hoại dân chủ xã hội chủ nghĩa. Phải kiên quyết chống khuynh hướng dân chủ tư sản hoá, dân chủ cực đoan vô tổ chức, vô chính phủ. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa phải gắn liền với chuyên chính vô sản. Tăng cường chuyên chính vô sản là để đảm bảo cho đông đảo quần chúng nhân dân lao động được làm chủ. Không vì những thiếu sót trong việc thực hiện dân chủ mà phủ nhận hoặc coi nhẹ chuyên chính. Kinh nghiệm lịch sử chỉ rõ rằng kẻ thù của chủ nghĩa xã hội không bao giờ bỏ lỡ cơ hội chống phá cách mạng, thậm chí giành lại chính quyền khi chuyên chính vô sản bị buông lỏng.
3. Nắm chắc quan điểm quốc phòng toàn dân, kiên trì nguyên tắc xây dựng quân đội lấy chính trị làm cơ sở, từng bước nâng cao chất lượng tổng hợp của quân đội.
Cuộc đấu tranh giữa ta với địch vẫn đang còn tiếp diễn rất phức tạp. Kẻ địch chưa từ bỏ âm mưu thâm độc, không ngừng tiến hành phá hoại cách mạng nước ta bằng nhiều thủ đoạn xảo quyệt, tinh vi kể cảam mưu, hành động lấn chiếm cục bộ của chúng, và cũng không loại trừ khả năng chúng có thể liều lĩnh gây chiến tranh xâm lược quy mô lớn khi chúng cho là có điều kiện.
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay trước hết là nhiệm vụ đánh thắng điểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt do địch gây ra, làm thất bại âm mưu chiến lược của chúng hòng làm suy yếu nước ta, bảo vệ vững chắc công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài.
Kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch rất thâm độc và nguy hiểm, nó phá ta toàn diện về chính trị, tư tưởng, văn hoá, ngoại giao, kinh tế… Chúng ta phải tổ chức nghiên cứu đầy đủ, sâu sắc kiểu chiến tranh phá hoại này để triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành để đấu tranh chống lại chúng có hiệu quả hơn.
Cùng với việc đấu tranh chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta còn phải tích cực, khẩn trương củng cố và tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước bảo đảm chủ động trong mọi tình huống.
Phải gắn chặt cuộc đấu tranh chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch với việc hoàn chỉnh từng bước kế hoạch phòng thủ đất nước chống chiến tranh xâm lược của kẻ thù với nhiều quy mô khác nhau.
Kế hoạch phòng thủ đất nước phải thể hiện và phát huy được toàn bộ sức mạnh của cả hệ thống chuyên chính vô sản, sức mạnh của cả quân và dân, sức mạnh của các quân chủng, binh chủng hợp thành. Nền tảng của kế hoạch đó là kiên trì xây dựng các khu vực phòng thủ trên địa bàn tỉnh (thành phố) và huyện, xây dựng, củng cố hệ thống làng, xã, phường chiến đấu, các trận địa an ninh nhân dân… để chống lại có hiệu quả kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, kịp thời ngăn ngừa và chống bạo loại và diễn biến hoà bình, chống địch tập kích bất ngờ trên các hướng chiến trường, chống được chiến tranh xâm lược với nhiều quy mô khác nhau.
Xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc phải thể hiện đầy đủ đặc tính: nhanh nhất, kịp thời nhất, tức là địch tập kích bất ngờ thì chúng ta đánh được ngay; địch gây bạo loạn thì xử trí kịp thời, địch làm diễn biến hoà bình thì biết cách ứng phó…
Khu vực phòng thủ phải mang tính linh hoạt cao, có độ co giãn lớn, bám trụ vững chắc, làm chủ toàn diện, tiến công được liên tục, tiến công từ nhiều phía vào quân địch, càng đánh sức chiến đấu càng tăng, dồn địch vào thế tiến không yên, lui không ổn,.v.v
Trên cơ sở phòng thủ khu vực tỉnh (thành phố) mà chuẩn bị nhiều phương án sử dụng các binh đoàn binh chủng hợp thành của quân khu, và các tập đoàn quân, binh chủng hợp thành của Bộ trong phòng ngự cũng như trong tiến công một cách chủ động và có hiệu quả cao nhất. Các binh đoàn quân, binh chủng hợp thành của ta phải phát huy cao trên nền tảng phòng thủ vững chắc tỉnh (thành phố).
Để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống, chúng ta phải tiếp tục xây dựng quân đội nhân dân theo hướng chính quy, ngày càng hiện đại, có chất lượng tổng hợp ngay càng cao, lấy chấ lượng chính trị làm cơ sở; có tổ chức hợp lý, cân đối, gọn và mạnh phù hợp với điều kiện của đất nước và yêu cầu của nhiệm vụ chiến đấu trước mắt, của kế hoạch phòng thủ đất nước lâu dài.
Trong tình hình mới, cần nghiên cứu chấn chỉnh tổ chức lực lượng cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ, đồng thời tập trung sức giải quyết các mặt công tác chủ yếu nhằm từng bước tạo nên chất lượng tổng hợp của quân đội. Trong nhiệm vụ xây dựng quân đội, chúng ta phải kiên trì nguyên tắc xây dựng quân đội lấy chính trị làm cơ sở. Phải từng bước đổi mới các mặt hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, nâng cao chất lượng và hiệu quả xây dựng quân đội về mặt chính trị, lấy việc củng cố nguyên tắc và kiện toàn cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng làm trọng tâm, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là khâu then chốt, phát huy bản chất và truyền thống cách mạng tốt đẹp của Đảng, của quân đội, bảo đảm cho quân đội vững vàng về chính trị trong mọi tình huống diễn biến phức tạp, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp của quân đội, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Phải tiếp tục quán triệt đường lối đổi mới của Đại hội VI, quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho cán bộ, đảng viên, tạo nên sự nhất trí cao và quyết tâm thực hiện có hiệu quả công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực quân sự và quốc phòng.
Tiếp tục kiện toàn đồng bộ cơ chế lãnh đạo của đảng đối với quân đội, tập trung củng cố nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ sinh hoạt trong các cấp bộ đảng, tăng cường tính giai cấp và tính tiên phong của đội ngũ đảng viên, nâng cao sức chiến đấu của cơ sở và chi bộ đảng, đổi mới phong cách lãnh đạo để nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực tổ chức thực hiện của các tổ chức đảng.
Phải nắm vấn đề cấp bách quan trọng bậc nhất hiện nay là triển khai thực hiện quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp, cán bộ khoa học kỹ thuật đầu ngành, đồng thời giải quyết vững chắc nhu cầu về cán bộ cơ sở, khắc phục tình hình mất cân đối để từng bước đi vào ổn định số lượng, tỷ kệ và cơ cấu cán bộ, giữ gìn từng bước nâng cao chất lượng.
Củng cố và phát triển bản chất và truyền thống cách mạng tốt đẹp của quân đội, mở rộng dân chủ, công khai đi đôi với củng cố kỷ cương, kỷ luật, giữ gìn bí mật quốc gia, bí mật quốc phòng, củng cố quan hệ mật thiết với nhân dân, đề cao ý thức cần kiệm, quý trọng và giữ gìn tốt vũ khí, trang bị và tài sản của quân đội. Kiên quyết khắc phục tình trạng suy thoái phẩm chất đạo đức, lối sống tự do, tiêu cực, kèm kỷ luật trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, chiến sĩ.
Công tác nghiên cứu và tổ chức thực hiện các chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội cần phải được xúc tiến khẩn trương, tập trung vào những vấn đề cấp bách cần giải quyết ngay để kiến ngị với Ban Bí thư và Hội đồng Bộ trưởng; đồng thời nghiên cứu những vấn đề cần giải quyết một cách cơ bản, lâu dài để từng bước đề nghị bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các chính sách trên. Phát huy tinh thần tự lực, trách nhiệm và tiềm năng của các cấp, các ngành, các địa phương cùng góp sức thực hiện các chính sách đã có. Bảo đảm dân chủ, công khai trong tổ chức thực hiện các chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội.
Để nâng cao chất lượng quân đội cần làm tốt công tác huấn luyện, tăng cường bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật.
Công tác huấn luyện chiến đấu phải theo hướng cơ bản, thiết thực, vững chắc, cho tất cả các đối tượng, sát với yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu của từng đơn vị, sát với khả năng thực tế của ta.
Về công tác bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật, phải tập trung trước hết vào công tác bảo quản, bảo dưỡng vũ khí, trang bị, tích cực giải quyết đồng bộ mấy vấn đề chủ yếu: kho tàng, hòm hộp bao gói, vật tư bảo quản, con người làm công tác bảo quản và các quy tắc, chế độ về công tác kỹ thuật. Đồng thời phấn đấu đáp ứng các yêu cầu chiến đấu thường xuyên và đột xuất, các yêu cầu về điều chỉnh tổ chức và bố trí lại lực lượng, tập trung khả năng để đồng bộ và cân đối trang bị thêm một bước. Phải hết sức ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để hiện đại hoá các trang bị mang vác của bộ binh và của dân quân, hiện đại hoá cả chông, mìn. Phải bảo quản và cải tiến các trang bị hiện có, bảo quản được lâu dài và cải tiến để sử dụng được tốt hơn.
Cần chấn chỉnh, kiện toàn hệ thống tổ chức nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự và đưa vào hoạt động có hiệu quả phục vụ cho quốc phòng, quốc phòng gắn với kinh tế và tạo ra vốn để phát triển công tác nghiên cứu khoa học. Hình thành phương hướng nghiên cứu dài hạn để một mặt tập trung vào trọng tâm hiện nay là khai thác, sử dụng, bảo dưỡng, bảo quản vũ khí, bảo đảm đời sống bộ đội, sản xuất phụ tùng thay thế, cải tiến công nghệ, mặt khác có thể đón đầu các yêu cầu hiện đại hoá trên một số ngành mũi nhọn.
4. Về nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế của quân đội.
Quân đội phải tích cực lao động sản xuất tham gia xây dựng kinh tế để tự giải quyết một phần các nhu cầu của mình và làm ra của cải vật chất cho xã hội. Chúng ta cần quán triệt đầy đủ nhiệm vụ chiến lược này để định hướng nhiệm vụ, xác định rõ cơ chế quản lý cho các loại hình làm kinh tế của quân đội.
Các đơn vị chuyên làm kinh tế chủ yếu tham gia xây dựng một số khu vực chiến lược về kinh tế và quốc phòng, các công trình liên quan đến quốc phòng, một số công trình trọng điểm do Nhà nước giao, kể cả những công trình hợp tác xây dựng với các công ty nước ngoài.
Các đơn vị có điều kiện (quân khu, tỉnh) thì triển khai các đơn vị nghĩa vụ lao động kết hợp với huấn luyện để mở mang các vùng kinh tế mới có lợi cho kinh tế và quốc phòng, tự đầu tư và hạch toán từng phần theo kinh nghiệm của các đơn vị ở Long An và Tiền Giang.
Các xí nghiệp quốc phòng (của các cấp, các ngành) sắp xếp, điều chỉnh dây chuyền công nghệ và tổ chức sản xuất để bảo đảm tốt nhất yêu cầu về sản phẩm quốc phòng. Đồng thời tận dụng công suất thiết bị, phát huy cao độ mọi năng lực sản xuất hiện có trong quân đội, mở rộng liên doanh, liên kết, tham gia làm các mặt hàng kinh tế phục vụ đời sống và xuất khẩu, cố gắng chọn những mặt hàng truyền thống gắn với khả năng kỹ thuật của từng nhà máy. Phấn đấu giữ vững và nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành.
Các đơn vị thường trực sẵn sàng chiến đấu tiếp tục đẩy mạnh lao động sản xuất để góp phần bảo đảm bữa ăn, cải thiện đời sống và thực hiện chính sách. Cần chọn lọc các mặt hàng kinh tế có giá trị cao, phù hợp với khả năng và điều kiện của đơn vị để tổ chức sản xuất có hiệu quả và phải quản lý chặt chẽ.
Trong hoạt động kinh tế, các đơn vị và tổ chức quân đội phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, cơ chế quản lý của Nhà nước và những quy định của Bộ Quốc phòng. Thực hiện liên doanh liên kết trong sản xuất nhưng không được khoán trắng cho đơn vị dưới hoặc chiến sĩ đi tìm việc làm để nộp sản phẩm hoặc tiền. Không được tự ý dùng các loại vật tư và trang bị quốc phòng để làm kinh tế; chỉ được sử dụng khi được cấp có thẩm quyền cho phép.
Trong hai năm qua, chấp hành Nghị quyết Đại hội VI của Đảng và các nghị quyết tiếp theo của Ban Chấp hành trung ương, của Bộ Chính trị một cách nghiêm túc, khẩn trương, chúng ta đã đạt được kết quả bước đầu trên những vấn đề rất quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Công việc còn phải làm tiếp trong những năm tới rất nhiều và phức tạp, nhưng chúng ta có cơ sở để tiếp tục làm tốt. Cần phải đi sâu và cụ thể hoá, tổ chức thực hiện thật tốt phương hướng và những chủ trương đã xác định.
Chúng ta phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, tiếp tục đổi mới tư duy, đổi mới phong cách, phát huy tính năng động và sáng tạo, vượt mọi khó khăn, phấn đấu khắc phục những vấn đề lớn đang tồn tại, tạo cho được một bước chuyển biến rõ rệt về chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang, của nền quốc phòng toàn dân, chấp hành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế trong tình hình mới.