Quay lại

Vĩnh biệt Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh

(LĐTĐ) Tính đến thời điểm này, có lẽ ông là vị tướng cuối cùng tạm biệt trần thế để về cõi vĩnh hằng từng tham gia 4 cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc vĩ đại. Ông chính là Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh.

Sinh ngày 1 tháng 12 năm 1920 tại huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế quê hương vốn giàu truyền thống cách mạng. Lớn lên trong màn đêm nô lệ nên ông thấu hiểu thân phận của những người phải sống dưới chế độ thực dân, phong kiến hà khắc. Nung nấu tâm can làm sao phải góp phần nhỏ bé của mình để người dân quê hương không phải sống trong cảnh xiềng xích, bởi thế ông đã sớm giác ngộ và tham gia cách mạng.

vinh biet dai tuong nguyen chu tich nuoc le duc anh

Tháng 5/1938 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam và bắt đầu từ tháng 8/1945, chính thức tham gia quân đội. Từ tháng 10 năm 1948 đến năm 1950, ông là tham mưu trưởng các Quân khu 7, Quân khu 8 và đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Từ năm 1951 đến 1954, ông giữ chức tham mưu phó, quyền tham mưu trưởng bộ tư lệnh Nam Bộ.

Sau Hiệp định Genève, ông tập kết ra Bắc. Tháng 5 năm 1955, ông được cử giữ chức Cục phó Cục Tác chiến, rồi Cục trưởng Cục Quân lực Bộ Tổng Tham mưu; hàm Đại tá (1958). Từ tháng 8 năm 1963, ông giữ chức Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Tháng 2 năm 1964, ông được điều vào Nam với bí danh Sáu Nam, giữ chức Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Miền Nam. Năm 1969, được điều về làm Tư lệnh Quân khu 9. Cuối năm 1974, ông được điều trở lại chức Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam và được phong vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng.

Năm 1975, ông được cử giữ chức Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam đánh vào Sài Gòn. Từ tháng 5 năm 1976, ông là Tư lệnh Quân khu 9. Đến tháng 6 năm 1978, là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, chỉ huy trưởng cơ quan tiền phương Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây-Nam; được phong Thượng tướng năm 1980. Năm 1981, khi đang giữ chức Tư lệnh Quân khu 7, ông được phân công kiêm chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Phó trưởng ban, rồi Trưởng ban lãnh đạo chuyên gia Việt Nam tại Campuchia.

Năm 1984, ông được phong hàm Đại tướng. Tháng 12 năm 1986, ông được cử giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ ngày 16 tháng 2 năm 1987đến 10 tháng 8 năm 1991, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, phó bí thư thứ nhất Đảng ủy Quân sự Trung ương. Gần cả cuộc đời bình nghiệp, dù trải qua nhiều cương vị khác nhau nhưng ông luôn thể hiện bản lĩnh bản chất anh bộ đội Cụ Hồ, vị tướng luôn biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của cấp dưới; quyết đoán và bao dung.

Từ ngày 23 tháng 9 năm 1992 đến ngày 24 tháng 9 năm 1997 ông là Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trong thời gian làm Chủ tịch nước ông đã để lại nhiều dấu ấn trong chính sách đối nội và đối ngoại, trong đó nổi bật là việc Việt Nam chính thức tham gia mái nhà chung ASEAN (28/7/1995), bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ (11/7/1995).

H.P