Vai trò của đồng chí Lê Đức Anh với xây dựng công trình phòng thủ biên giới K5 Campuchia
Trong hàng vạn người con ưu tú của Việt Nam sang giúp Campuchia, có người con quê hương Khu 4 - đồng chí Lê Đức Anh, với vai trò là Tư lệnh lực lượng Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia từ năm 1981 đến năm 1986, đồng chí đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của nước bạn và góp phần vun đắp tình hữu nghị giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia. Một trong những dấu ấn thể hiện rõ vai trò của đồng chí Lê Đức Anh đó là trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân và dân nước bạn tổ chức xây dựng công trình phòng thủ biên giới giữa Campuchia và Thái Lan (công trình phòng thủ K5).
Công trình phòng thủ K5 được triển khai thực hiện từ cuối năm 1984 đến đầu năm 1987, đây là giai đoạn cách mạng Campuchia bước sang thời kỳ mới. Đất nước được hồi sinh sau những năm nỗ lực hàn gắn vết thương do hậu quả của chế độ diệt chủng Pôn Pốt để lại, đã từng bước đạt được một số thành tựu quan trọng về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa. Quân đội cách mạng và nhân dân Campuchia đã tự đảm đương được những nhiệm vụ trọng yếu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thực hiện chủ trương của Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia: “Giúp bạn trong công tác phát động quần chúng, xây dựng 3 phong trào cách mạng phải phối hợp chặt chẽ với chuyên gia các ngành giúp bạn tiếp tục vận động quần chúng, đưa 3 phong trào cách mạng đi vào chiều sâu, trở thành phong trào thường xuyên, liên tục và mạnh mẽ; trên cơ sở đó mà chống luận điệu chiến tranh tâm lý của địch một cách hiệu quả, chống các hiện tượng cầu an, tiêu cực trong bộ phận nhân dân và lực lượng vũ trang bạn và cũng trên cơ sở đó mà đẩy mạnh xây dựng Đảng, Đoàn, củng cố chính quyền các cấp...”, các phái viên, đội công tác, chuyên gia quân sự của
Mặt trận 979 đi sâu xuống cơ sở cùng bạn tổ chức các lớp học cho quần chúng ở phum, xã, tổ đoàn kết sản xuất. Đồng thời để tạo nguồn bổ sung đội ngũ cán bộ bạn, Mặt trận 979 giúp bạn tổ chức, lựa chọn cán bộ ưu tú đưa lên cấp trên hoặc đưa ra nước ngoài học tập, tổ chức lớp bồi dưỡng, đào tạo cho cán bộ bạn về kỹ thuật, chiến thuật, về năng lực quản lý, chỉ huy điều hành công việc ở cấp cơ sở, từ tiểu đội đến tiểu đoàn, huyện đội; tổ chức chấn chỉnh, sắp xếp lại biên chế, rút các cán bộ có năng lực ở đơn vị lên, chọn hàng trăm cán bộ từ các đơn vị, cơ quan gửi đi học ở Trường 481 và bồi dưỡng tại Trường Văn hoá của Mặt trận 979 để sau đó trở về cùng cán bộ các ngành thực hiện tốt nhiệm vụ. Những việc làm của Quân tình nguyện Việt Nam nhằm giúp bạn tiến tới đảm nhiệm toàn bộ địa bàn, thay thế cho lực lượng bộ đội Việt Nam khi ta chủ trương rút quân về nước.
Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn này, mặc dù đã bị đánh thiệt hại nặng trên các địa bàn chiến lược, nhưng được các thế lực bên ngoài giúp sức và dựa vào các căn cứ ở vùng biên giới Campuchia - Thái Lan, quân Pôn Pốt và quân các phe phái khác ráo riết đẩy mạnh các hoạt động chống phá, hòng tạo ra thế hai vùng, hai chính phủ có lợi cho chúng.
Để đáp ứng tình hình mới, ngày 12/7/1984, Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia ra Nghị quyết số 228/NQ-TW về: “Tăng cường tuyến phòng thủ biên giới Campuchia - Thái Lan” nhằm phấn đấu sớm thực hiện 3 mục tiêu chiến lược đề ra, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của địch, tạo thế và điều kiện thuận lợi cho việc đưa lực lượng vũ trang ra thay thế Quân tình nguyện Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Nghị quyết nêu rõ: “Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải tập trung khả năng xây dựng phòng tuyến biên giới và từng bước khép kín biên giới Campuchia - Thái Lan”. Các nội dung chính bao gồm:
1. Bố trí lực lượng vũ trang, tổ chức phòng thủ tuyến biên giới, tập trung bộ đội chủ lực trên các trọng điểm và phân công cho các tỉnh cả nước mỗi tỉnh phụ trách xây dựng và quản lý một đoạn biên giới. Xây dựng hệ thống trận địa của bộ đội trên biên giới, gồm: Hệ thống công sự, chiến hào, vật cản; hệ thống trận địa hỏa lực, pháo binh, cao xạ và hệ thống vật cản.
2. Xây dựng tuyến ngăn chặn, hệ thống nối liền với các khu vực trận địa bộ đội, hình thành tuyến ngăn chặn khép kín toàn biên giới. Hệ thống vật cản làm bằng hàng rào dây thép gai, mìn, đê, hào, lũy, rào, hầm chông, cạm bẫy”.
Ngày 01/9/1984, Mặt trận 579 được giao nhiệm vụ xây dựng công trình phòng thủ biên giới giữa Campuchia và Thái Lan, mang mật danh “K5”. Mục đích của công trình là nhằm tạo thế trận đánh địch, bảo vệ biên giới, ngăn chặn các đơn vị quân Pôn Pốt từ biên giới Thái Lan tấn công sang. Đây là nhiệm vụ vô cùng nặng nề và khó khăn đối với ta và quân dân Campuchia, bởi đất nước Campuchia còn rất nghèo nàn, nền kinh tế kiệt quệ sau nhiều năm bị chiến tranh và chế độ diệt chủng Pôn Pốt tàn phá. Nguồn nguyên liệu trong nước hầu như không có, đường sá vận chuyển xa. Trong khi đó, địch luôn tìm mọi cách xâm nhập biên giới, tiến hành các hoạt động phá hoại, gây nhiều khó khăn cho ta. Nhận thức sâu sắc đây là nhiệm vụ chiến lược lâu dài, do đó nhân dân Campuchia đồng tình ủng hộ và tham gia xây dựng rất tích cực. Bên cạnh đó, nhân dân Việt Nam cũng như nhiều bạn bè quốc tế quan tâm giúp nhân dân Campuchia xây dựng công trình phòng thủ chiến lược.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Lê Đức Anh, lãnh đạo chỉ huy Mặt trận 579 xác định: Để thực hiện nhiệm vụ xây dựng công trình K5, phải lấy lực lượng vũ trang làm chủ yếu, kết hợp với lực lượng công binh các Mặt trận 479, 779 và 979 làm nòng cốt kỹ thuật; đồng thời phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân và liên minh chiến đấu của các lực lượng, tạo thành sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ.
Sau khi nhận nhiệm vụ, Mặt trận 579 chỉ đạo tổ chức trinh sát thực địa, xác định vị trí công trình, mô hình vật cản từng đoạn, từng khu vực phòng thủ và các điểm tựa trong khu vực đứng chân để thi công hậu cứ, kho tàng và các hạng mục khác. Sau đó tiến hành xây dựng kế hoạch và tổ chức lực lượng tham gia xây dựng; lực lượng tham gia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới (K5) dài 800km, được huy động gồm toàn bộ các đơn vị công binh của các mặt trận 479, 579, 779 và 979, 2 trung đoàn công binh của Bộ (269 và 521), 2 sư đoàn bộ binh và 2 lữ đoàn công binh của bạn cùng với sự giúp đỡ tích cực của Quân tình nguyện Việt Nam (10 trung đoàn của 4 sư đoàn) thuộc Mặt trận 479. Các lực lượng này vừa tham gia xây dựng các cụm điểm tựa, vừa chốt giữ bảo vệ biên giới. Ngoài các đơn vị trên, bạn còn huy động số lượng lớn nhân dân Campuchia tham gia. Trong quá trình xây dựng, bạn đã huy động tới 32 vạn lượt người, trong đó chủ yếu là dân quân tự vệ, dân công, lực lượng công nhân, viên chức các ngành và địa phương. Các đơn vị triển khai lực lượng trên từng địa bàn và tiến hành xây dựng tuyến phòng thủ biên giới theo từng khu vực được phân công. Riêng trong năm 1984, Mặt trận 579 đã huy động 228 lượt dân công, 502 lượt bộ đội địa phương với 118.500 ngày công để tổ chức xây dựng công trình phòng thủ.
Để tạo thuận lợi cho việc hoàn thành xây dựng công trình phòng thủ K5, từ đầu năm 1985, Bộ Tư lệnh 719 thống nhất với bạn tiếp tục đợt hoạt động mùa khô 1984 - 1985, mở chiến dịch truy quét địch trên toàn tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan, đánh vào các căn cứ sào huyệt của quân Pôn Pốt. Sau hơn một tháng chiến đấu (từ ngày 9/01 đến ngày 15/02/1985), ta và bạn làm tan rã một bộ phận lớn sinh lực địch, đánh chiếm các cơ quan chỉ huy, buộc chúng phải thay đổi thế bố trí lực lượng, bị động đối phó, tạo điều kiện cho Campuchia xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng. Cùng thời gian ta phối hợp với bạn mở Chiến dịch S4, sau hơn 3 tháng chiến đấu (18/11/1984 - 15/3/1985), bằng sức mạnh hiệp đồng quân binh chủng, ta và bạn đã đánh 260 trận, trong đó có 14 trận cấp sư đoàn, 20 trận cấp trung đoàn, 90 trận cấp tiểu đoàn, loại khỏi vòng chiến đấu 10.077 tên, thu 6.875 súng các loại, bắn cháy 12 ô tô, phá hủy nhiều kho tàng và đồ dùng quân sự khác.
Tháng 5/1985, Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia ra Nghị quyết số 39 về nhiệm vụ chung của cách mạng Campuchia. Nghị quyết nêu rõ: “Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ hàng đầu rất thiêng liêng của toàn dân, về quốc phòng cần tập trung cùng với Quân tình nguyện Việt Nam kiên quyết đánh bại âm mưu và hành động của địch ở biên giới với đủ thế tiến công cả về mặt chính trị và quân sự. Xây dựng tuyến phòng thủ ngày càng vững chắc và hiệu quả, tạo điều kiện tiến tới kiểm soát toàn tuyến biên giới”. Thực hiện Nghị quyết của Đảng bạn, ta phối hợp với bạn vừa tiếp tục chiến đấu truy quét lực lượng Pôn Pốt, đồng thời vừa triển khai kế hoạch xây dựng tuyến phòng thủ biên giới K5. Chỉ riêng trên địa bàn Mặt trận 579, trong năm 1985, ta và bạn đã huy động được 42,2 triệu ngày công, gồm 42.131 dân công, 22.299 dân, quân của 6 tỉnh, thành; 4 sư đoàn chủ lực của bạn phối hợp với 5 sư đoàn bộ binh, 2 trung đoàn công binh Quân tình nguyện Việt Nam tham gia.
Sau chiến dịch truy quét địch trên toàn tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan, phía quân Pôn Pốt chuyển hướng chiến lược. Một mặt, chúng đưa sở chỉ huy và cơ sở hậu cần vào sâu trong đất Thái Lan, mặt khác, chúng đánh các điểm tựa, ngăn chặn vận chuyển của ta ra biên giới, phá tuyến phòng thủ biên giới K5 của ta, soi mở hành lang thâm nhập nội địa. Bên cạnh đó, chúng đưa lực lượng vào sâu trong nội địa, tập trung ở vùng Biển Hồ và vùng phụ cận Phnôm Pênh, củng cố và xây dựng lực lượng, lấy việc giành dân, giành chính quyền ở cơ sở làm biện pháp chiến lược, chờ thời cơ Việt Nam rút quân về nước thì phản công giành chính quyền. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh 719 chủ trương cùng với bạn tiếp tục đánh cho địch suy yếu tan rã, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn và ta từng bước chủ động rút hết Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự về nước.
Ngày 06/01/1986, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 02/QĐ-QP giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh 719 lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự tiếp tục giúp bạn xây dựng công trình phòng thủ K5, hoàn thành trước ngày 31/5/1986, các năm sau củng cố thêm cho vững chắc. Quán triệt, triển khai nhiệm vụ, trên địa bàn hai tỉnh Xiêm Riệp và Báttambang với chiều dài 450 km đường biên do Mặt trận 479 phụ trách được phân chia thành 5 công trường của cả ta và bạn; trong đó, lực lượng thi công chủ yếu là Trung đoàn công binh 548 (Mặt trận 479), Trung đoàn công binh 25 (Quân khu 7) và Trung đoàn công binh 521 (Bộ Tư lệnh Công binh). Có một số khu vực do bạn phụ trách thi công, ta cử chuyên gia giúp bạn về các vấn đề kỹ thuật. Tại khu vực do Mặt trận 479 đảm nhiệm xây dựng có đường số 5 và số 6 là hai trục đường chiến lược chạy từ phía đông sang phía tây Campuchia; ngoài ra còn có các trục đường số 58, 67, 68, 69 và số 10 là những trục đường chiến dịch cùng một số đường quân sự làm gấp, hình thành mạng đường vận chuyển nguyên vật liệu, hậu cần cho cả ta và bạn; đồng thời cũng là mạng đường cho các đơn vị của ta cơ động khi chiến đấu.
Lực lượng ta và bạn đã nỗ lực phấn đấu, từng bước hoàn thành các hạng mục trong từng khu vực trọng điểm, bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật và thời gian quy định. Trong quá trình xây dựng tuyến phòng thủ, do điều kiện mùa mưa nước ngập nên việc cơ động lực lượng, thi công và sinh hoạt của bộ đội gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Còn mùa khô, nhiều nơi bộ đội ta phải làm nhiệm vụ và sinh hoạt ngay trên các đồi núi, gò đất cao, nắng gay gắt, thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng, các đơn vị phải tổ chức vận chuyển từ tuyến sau lên hơn 4 triệu lít nước phục vụ sinh hoạt cho bộ đội. Với tinh thần khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm xây dựng đạt chất lượng, hiệu quả cao, các đơn vị đã đạt và vượt nhiều chỉ tiêu kế hoạch như bố trí vật cản vượt 170%, đào hào, đắp luỹ từ 1,5m3 một ngày công tăng lên 2,5m3 một ngày công (cá biệt có người đạt 5,5m3), khai thác gỗ tròn tăng từ 25 cây một ngày công lên 40 cây một ngày công. Có lúc, bộ đội phải tranh thủ làm cả ban đêm để bảo đảm tiến độ thi công. Sau một thời gian tham gia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 phát quang 3.892.600m2 đường tuần tra, mở được 23.400 m đường; đào hào, đắp lũy dài 25 km, xây dựng 583 hầm chữ A trên hai khu vực điểm tựa cấp trung đoàn; dò gỡ mìn trên diện tích 1.239.415m2 với hàng trăm nghìn ngày công, góp phần tăng cường thế phòng thủ trên tuyến biên giới phía tây Campuchia.
Trên hướng của Mặt trận 779, Trung đoàn công binh 549 cùng một số đơn vị ta và bạn tiếp tục đẩy mạnh xây dựng tuyến phòng thủ với các hoạt động bảo đảm giao thông trên toàn tuyến. Với những nỗ lực to lớn, đến tháng 4/1986, trên cả hai hướng Mặt trận 479 và Mặt trận 779, ta và bạn đã xây dựng hoàn chỉnh tuyến vật cản ngăn chặn, mở thêm đường tuần tra, xây dựng thêm các con trạch (đê bao hào chiến đấu, hào giao thông), bố trí bổ sung mìn và các loại chông ở địa bàn xung yếu; đồng thời tổ chức nâng cấp tuyến đường số 32, mở thêm đường quân sự, xây dựng hàng loạt cầu và ngầm mới. Ngoài ra, các đơn vị của ta và bạn còn xây dựng được 73 cụm điểm tựa, trong đó có một số cụm điểm tựa được xây dựng kiên cố (gồm công sự bằng bê tông cốt thép), có hệ thống đường hầm chiến đấu cho bộ binh. Quá trình xây dựng, ta và bạn đã tổ chức đào đắp được 11.958 công sự các loại, 160 km hào giao thông, hoàn chỉnh 144 km hào giao thông khác, xây dựng gần 50 điểm cấp nước, 18 sân bay trực thăng, bố trí hàng chục vạn quả mìn các loại..., góp phần cải thiện một bước đáng kể điều kiện chiến đấu bảo vệ tuyến biên giới.
Trên hai hướng Mặt trận 579 và Mặt trận 979, các đơn vị ta và bạn cũng khẩn trương đẩy mạnh các hoạt động xây dựng tuyến phòng thủ biên giới trên địa bàn được phân công. Các đơn vị quân tình nguyện vừa đánh địch, vừa tổ chức xây dựng tuyến phòng thủ biên giới phía tây Campuchia. Việc xây dựng trên hướng này gặp khó khăn do nhiều loại vật tư và khối lượng lớn vật chất hậu cần vận chuyển từ Việt Nam sang không kịp thời. Mặt khác, nguồn nước ở các vùng biên giới phía tây Campuchia vào mùa khô bị cạn, nên nước dùng cho sinh hoạt của bộ đội và nước sử dụng thi công công trình rất khan hiếm, phải vận chuyển từ xa. Vượt qua những khó khăn đó, các đơn vị ta và bạn đã nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Sư đoàn 315 (thuộc Mặt trận 579) nhận nhiệm vụ chốt giữ trên khu vực ngã ba biên giới Campuchia - Thái Lan - Lào. Lãnh đạo, chỉ huy Sư đoàn 315 cử lực lượng công binh của Sư đoàn xây dựng công sự, trận địa trên các điểm cao ta chốt giữ. Đến ngày 12/02/1986, công binh Sư đoàn 315 đã cơ bản xây dựng xong sở chỉ huy sư đoàn, trạm phẫu thuật, trạm xá và hệ thống công sự, trận địa; đồng thời bố trí bãi mìn xung quanh các điểm cao 426, 555, 743, 718. 563, 612, 417, với chính diện rộng 14 km và chiều sâu 4,5 km. Trong khi đó, một bộ phận cán bộ công binh Sư đoàn và các đơn vị bộ binh trực thuộc Sư đoàn trinh sát địa hình và phân chia khu vực bố trí mìn ngăn chặn địch từ xa. Ban Công binh Sư đoàn 315 đã lập hồ sơ các bãi mìn và giao cho từng phân đội rải đội hình hàng ngang, bố trí mìn lùi dần về phía sau, làm đến đâu ngụy trang và cắm mốc đến đó. Cuối tháng 02/1986, Sư đoàn 315 đã hoàn thành nhiệm vụ bố trí bãi mìn ngăn chặn địch từ xa.
Ở khu vực Sư đoàn 307, từ ngày 8 đến ngày 15/3/1986, công binh Sư đoàn lập hệ thống vật cản ngăn chặn địch, gồm lưới dây thép gai bùng nhùng, trồng cây gai, cây tre, đào các giao thông hào, bên dưới đáy hào rải chông chân chim; đồng thời phối hợp cùng các đơn vị bố trí được 32.788 quả mìn chống bộ binh, 288 quả mìn chống tăng và ngả cây rừng, tạo thành bãi vật cản trên đường ô tô dài 8 km. Một số khu vực khác trên tuyến phòng thủ biên giới do Mặt trận 579 đảm nhiệm tiếp tục được xây dựng hoàn chỉnh. Bên cạnh các sư đoàn 315, 307, trên hướng Mặt trận 579 còn có Trung đoàn công binh 280, 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn công binh 270 tham gia xây dựng tuyến phòng thủ. Nhằm nâng cao năng suất xây dựng, Quân khu 5 tăng cường một số cán bộ kỹ thuật và phương tiện thi công cơ giới từ trong nước sang, góp phần hoàn thành các công trình quân sự xây dựng được giao.
Trên hướng Mặt trận 979, các đơn vị ta và bạn triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng tuyến phòng thủ biên giới dài hơn 60 km trong điều kiện thuận lợi hơn. Ở hướng này, bạn huy động được một lực lượng đông đảo nhân dân ba tỉnh biên giới (Côcông, Puốcxát, Báttambang) và nhân dân một số tỉnh phía sau tham gia. Trong năm 1986, các đơn vị thuộc Mặt trận 979, với lực lượng công binh làm nòng cốt, tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh hệ thống công trình chiến đấu, hệ thống vật cản, mạng đường cơ động, vận chuyển, các công sự phía trước và phía sau. Mặc dù xây dựng trong điều kiện địch thường xuyên xâm nhập, pháo kích vào một số khu vực, nhưng ta đã tổ chức đánh chặn hạn chế địch phá hoại. Sau một thời gian khẩn trương xây dựng, các đơn vị trên hướng Mặt trận 979 đã hoàn thành hàng chục cụm điểm tựa cấp tiểu đoàn, hàng chục khu vực phòng thủ sư đoàn với đầy đủ hệ thống vật cản nổ, không nổ cùng hàng trăm kilômét hào chiến đấu và các công trình bảo đảm hậu cần, vũ khí trang bị.
Như vậy, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh - Tư lệnh Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam, đến giữa năm 1986, lực lượng quân tình nguyện thuộc các Mặt trận 479, 579, 779, 979 và một số đơn vị khác của ta đã cùng các lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia hoàn thành cơ bản nhiệm vụ xây dựng các hạng mục công trình đúng thời gian quy định, hình thành tuyến phòng thủ dọc vùng biên giới phía tây Campuchia. Công trình K5 được xây dựng hoàn thành theo kế hoạch, có ý nghĩa thiết thực, giúp cho các đơn vị vũ trang của bạn vững tâm hơn khi đảm nhận nhiệm vụ tuần tra bảo vệ tuyến đường biên giới; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quân tình nguyện Việt Nam rảnh tay thực hiện nhiệm vụ của đơn vị chủ lực cơ động chiến lược đúng như mục tiêu mà ta và bạn đã đề ra. Công trình K5 còn là nơi thực tế tập dượt cho bạn về công tác vận động, tổ chức quần chúng; thực sự là một công trình quốc phòng của toàn dân và toàn quân Campuchia.
Sau khi đã cơ bản hoàn thành công trình K5, Bộ Chính trị Đảng bạn và đại diện Bộ Chính trị Đảng ta thống nhất nhận định: bạn cơ bản đã tự đảm đương được công việc vừa chiến đấu chống Pôn Pốt, vừa tái thiết xây dựng đất nước, do đó lực lượng quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam từng bước rút dần theo thỏa thuận giữa ta và bạn. Nhiệm vụ giúp bạn cơ bản hoàn thành, cuối năm 1986, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký Quyết định số 1318/NQ-NS/TW, theo đó đồng chí Lê Đức Anh thôi giữ chức Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam và Trưởng ban Lãnh đạo đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia, trở về Bộ Quốc phòng nhận công tác. Đồng chí Đoàn Khuê, Ủy viên Trung ương Đảng - Phó Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam, được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam và Trưởng ban Lãnh đạo đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia.
Trải qua 6 năm, với trọng trách Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam và Trưởng ban Lãnh đạo đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia, đồng chí Lê Đức Anh đã dồn hết tâm sức để lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng giúp bạn từng bước hồi sinh và xây dựng một đất nước có chủ quyền với hệ thống chính trị mới được xây dựng từ trung ương đến cơ sở xã, ấp, cùng với những thiết chế văn hóa - xã hội bảo đảm độc lập, tự do của dân tộc và quyền tự chủ của người dân, là nền tảng vững chắc để tiến lên xây dựng xã hội mới, cuộc sống mới; góp phần xây dựng, vun đắp thêm tình đoàn kết, hữu nghị Việt Nam - Campuchia ngày càng bền vững.
Đại tá NGUYỄN ĐÌNH VŨ