"Tướng quân tại ngoại"
Đây là chiến công đặc biệt xuất sắc của đồng chí Lê Đức Anh. Vớí chiến công này cùng những thành tích trước đó, ngày 16/4/1974, đồng chí Lê Đức Anh và tập thể Khu ủy Khu 9, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 và quân, dân đồng bằng sông Cửu Long được Chủ tịch nước thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng. Tạp chí Lịch sử quân sự trân trọng trích, giới thiệu hồi ký "Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng" của đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh.
Hiệp định Paris công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam chính thức được ký kết ngày 27/1/1973, có hiệu lực từ 7 giờ ngày 28/1/1973. Ngày 29/3/1973, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam làm lễ cuốn cờ về nước. Hiệp định qui định quân Mỹ rút, các lực lượng vũ trang còn lại của “hai bên Việt Nam” ở nguyên tại chỗ. Như vậy, ta đã đánh bại âm mưu “phân tuyến” của đối phương, bộ đội ta không phải “tập kết” ra một nơi (như Hiệp định Genève 1954), mà ngược lại, ta duy trì trên chiến trường thế xen kẽ “da báo”, một thực trạng rất có lợi cho ta, bất lợi cho địch.
Quân và dân ta rất phấn khởi khi Hiệp định Paris được ký kết. Nhưng sau khi Hiệp định được ký kết, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước của chúng ta diễn ra thật lạ, có thể nói đó là những ngày “dở trăng dở đèn”. Tôi nhớ lúc ấy, từ Trung ương, từng kiện tài liệu gửi vào Nam hướng dẫn, phổ biến các qui định, các hình thức thực hiện hòa hợp dân tộc, thống nhất nước nhà. Trên các làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam hầu như lúc nào cũng hát vang bài Đường chủng ta đi rất đỗi tự hào, phấn chấn và ngân vang bài thơ Việt Namỉ Máu và Hoa với những câu đầy ấn tượng: “Mặt đất bình yên giấc trẻ thơ”, “Đã tắt hôm nay lửa chiến trường”... Nhưng thực tế, không hề có lấy một phút “tắt lửa chiến trường” và máu của đồng bào, chiến sĩ ta ở miền Nam chưa có một phút ngừng rơi. Khi ta lấy được tài liệu mật của địch và qua theo dõi các động thái của chúng, ta càng thấy rõ âm mưu phá hoại Hiệp định của địch. Những kẻ cầm quyền hiếu chiến trong chính giới Mỹ và chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn thấy rằng, tuy Mỹ phải rút quân, nhưng quân đội Sài Gòn còn 1,1 triệu với 13 sư đoàn chủ lực, lại được Mỹ viện trợ tối đa về quân sự và kinh tế nên vẫn nuôi ảo vọng sẽ thắng ta bằng chiến lược “Vỉệt Nam hóa chiến tranh”. Bởi vậy, nếu theo văn bản Hiệp định thì 7 giờ sáng 28/1/1973, hai bên ngừng bắn, nhưng chính ngày đó Tổng thống chính quyền Sài Gòn công khai tuyên bố trong diễn văn của mình là “Ngừng chiến, không ngừng bắn, không thi hành Hiệp định Paris!”; và Thiệu đã gào thét chỉ đạo cấp dưới tiếp tục hành quân bình định, tiếp tục đánh và giết, tiếp tục kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”.
Ngày 29/1/1973 (24 giờ sau ngừng bắn), Bộ Tư lệnh Quân khu 9 họp đánh giá địch ngoan cố tiếp tục chiến tranh và chỉ thị các đơn vị kiên quyết đánh địch vi phạm Hiệp định. Ngày 2/2/1973, Thường vụ Khu ủy xác định: “Địch không thi hành Hiệp định, ta phải tiếp tục chiến đấu giữ vững thành quả, trước mắt phải kiên quyết trừng trị địch vi phạm Hiệp định”.
Từ sau tháng 1/1973, Mỹ ký Hiệp định Paris, phải rút hết quân Mỹ, quân chư hầu ra khỏi miền Nam, nhưng âm mưu cơ bản của chúng là vẫn tiếp tục dùng chính quyền và quân đội Sài Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, tiếp tục chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt, làm tay sai cho Mỹ.
Địch không thi hành những điều khoản trong Hiệp định không có lợi cho chúng, mà tiếp tục “một kiểu chiến tranh mới” - “lấn chiếm” và “bình định” - bằng quân đội và chính quyền Sài Gòn với viện trợ và cố vấn Mỹ để kiềm chế ta hòng giành thắng lợi cuối cùng. Chỉ trong một thời gian ngắn, Mỹ đã viện trợ ồ ạt cho Sài Gòn, tăng nhanh quân số và phòng vệ dân sự, đồng thời Mỹ duy trì một lực lượng không quân, hải quân răn đe ở Đông Nam châu Á. Chúng tiến hành các cuộc hành quân lấn chiếm, bình định theo kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” hòng xóa thế trận chiến tranh nhân dân xen kẽ của ta, đẩy lực lượng ta ra khỏi vùng đồng bằng đông dân...
Sau khi ký Hiệp định Paris, ta chủ trương đẩy mạnh và kết hợp các hoạt động chính trị, quân sự, ngoại giao, đấu tranh buộc địch phải thi hành các điều khoản đã ký. Lúc đàu chủ trương đó là đúng, nhưng trong quá trình Mỹ và chính quyền Sài Gòn công khai, trắng trợn phá hoại Hiệp định, trong chỉ đạo của ta có ý nhấn sách lược trước mắt là cố gắng đưa cách mạng miền Nam tiến lên bằng con đường hòa bình. Tuy nhiên, có những đồng chí lãnh đạo khi giải thích ở một số chiến trường còn quá nhấn mạnh “giữ vững hòa bình là nhiệm vụ trung tâm số một hiện nay”.
Một số ý kiến chỉ đạo không đúng đó lại được phổ biến xuống cơ sở khi trên chiến trường ta đang có nhiều khó khăn về thực lực (tổn thất năm 1972 chưa kịp bổ sung sau thời gian chiến đấu liên tục...). Thực tế ấy đã làm cho một số nơi chần chừ, để địch lấn chiếm, bình định, ta mất dân, mất đất. Chỉ sau vài tháng thi hành Hiệp định, thực tế chiến trường đã bộc lộ ngày càng rõ ý đồ và hành động phá hoại của địch cũng như sơ hở và tổn thất của ta. Tháng 5/1973, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cùng các đồng chí lãnh đạo chiến trường đã kịp thời nhận định tình hình mới và thống nhất chủ trương mới: Trong khi địch đang dùng hành động quân sự đánh ta, ta cần kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đấu tranh pháp lý... không phòng ngự đơn thuần... tiến công quân sự của ta bằng phản công.
Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương còn nghiêm khắc kiểm điểm: Vì sao từ đầu năm 1973, quân Mỹ đã rút ra, lực lượng địch trên chiến trường đã giảm một bộ phận quan trọng cả về bộ binh và binh chủng kỹ thuật, mà địch vẫn giành được chủ động tiến công, ta phải bị động đối phó, có nơi mất đất mất dân như vậy?. Đó là do ta có khuyết điểm chứ không phải do địch mạnh... lúc đầu ta đánh giá không hết khả năng thực hiện âm mưu của địch... lại thiếu chủ trương nhất quán từ đầu về vị trí, nội dung của tiến công quân sự. Địch tiến công mà ta cứ ngồi yên, có nơi còn rút lui, thì rõ ràng là địch mạnh lên, mà ta yếu đi...
Ngày 2/2/1973, tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Vùng 4 chiến thuật quân đội Sài Gòn, phổ biến cho các sĩ quan thuộc quyền trong cuộc họp kín tại cần Thơ: “Trên hòa bình, dưới chiến tranh; ngoài hòa hợp, trong bình định” và đề ra chỉ tiêu đến ngày 26/3/1978 phải chiếm hết những vùng đất ở miền Tây Nam Bộ. Cùng lúc, chính quyền Thiệu công khai ban hành luật phát xít, như: Xừ bắn những ai công khai hoan hô hòa bình, xử bắn lính bỏ trốn, bỏ tù các gia đình có con đi lính bỏ trốn, cấm tụ tập bàn tán hòa bình, cấm đi lại vùng giải phóng... Chúng ráo riết thực hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, cắm cờ giành đất, giành dân trong 48 giờ trước khi Hiệp định có hiệu lực, đồng thời đẩy mạnh bình định lấn chiếm. Kế hoạch bình định ở trọng điểm Tây Nam Bộ, năm 1978 của địch gồm ba đợt: Đợt 1, bình định lấn chiếm Chương Thiện; đợt 2, bình định lấn chiếm u Minh; đợt 3, bình định lấn chiếm Cà Mau.
Riêng kế hoạch bình định lấn chiếm Chương Thiện, chúng chia làm hai bước: Bước 1, từ tháng 2 đến tháng 5/1973 lấy lại các vùng đã mất trước khi có Hiệp định và lấn chiếm các vùng quan trọng nhất; bước 2, I từ tháng 6 đến tháng 10, tiếp tục thực hiện I kế hoạch bình định năm 1973 ở những nơi chưa làm được.
Vì sao địch chọn Chương Thiện làm trọng điểm bình định đột phá?
Chương và Thiện là tên người thân cùa Trần Lệ Xuân (vợ của Ngô Đình Nhu). Ngô Đình Diệm quyết định thành lập ra cái tỉnh mới “Chương Thiện” này và ngày 24/12/1960, Lâm Lễ Trinh, Bộ trưởng Nội vụ của Diệm làm lễ ra mắt tỉnh mới. Nhưng ý nghĩa không phải là cái tên mà ở vị trí của vùng đất này. Đây là vùng ruột các tỉnh Nam sông Hậu. Thị xã Vị Thanh là trung tâm tỉnh, gồm các huyện: Phụng Hiệp, Long Mỹ, Ngang Dừa (thuộc cần Thơ), Gò Quan và Giồng Riềng, Ngã Năm Vĩnh Thuận (thuộc Rạch Giá). Mỹ và chính quyền Sài Gòn đánh giá cao vị trí chiến lược của vùng này cả trước mắt cũng như lâu dài. Còn ta xác định đây là vùng đông dân (480.000 dân), nhiều lúa, địa bàn cơ động trọng yếu nằm giữa và giáp ranh các tỉnh: cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá và nối liền với hành lang biên giới - Đường 1C. Địa hình Chương Thiện phần lớn là ruộng chen lẫn vườn dọc theo kênh. Sông rạch đã chia cắt địa hình Chương Thiện thành nhiều khu vực. Ta đứng chân được ở Chương Thiện có nghĩa là làm chủ được địa bàn cơ động của cả miền Tây Nam Bộ gắn liền với Nam Bộ và Campuchia. Chính vì vị trí quan trọng của Chương Thiện nên trong suốt cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, ta và địch tranh chấp quyết liệt địa bàn này. Ngay từ giữa năm 1957, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tổ chức ra khu tập trung ấp chiến lược điển hình nhất ở Nam Bộ mà chúng gọi là “Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu”, đồng thời tổ chức “Biệt khu Ư Minh” đóng tại Vị Thanh. Diệm - Nhu cho rằng địa bàn này “tién khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”. Còn Nguyễn Văn Thiệu thì cho rằng “Sống là đây mà chết cũng là đây!”. Thị xã Vị Thanh luôn luôn là căn cứ của một trung đoàn chủ lực quân đội Sài Gòn. Địch chọn Chương Thiện còn có một lý do phụ khác là chúng quyết lấn chiếm lại vùng này vì ta mới “mở” trước khi có Hiệp định Paris.
Tôi nhớ lúc đó có ông già ở Hỏa Lựu đến tìm gặp Trung đoàn 1. Khi gặp tôi, ông nói: “Các chú không đánh thì nó không bao giờ chịu thi hành Hiệp định đâu. Các chú đánh đồn bốt nào, tui sẽ dẫn đường cho các chú”.
Âm mưu của quân thù đã rõ. Lòng dân cũng đã rõ. Tôi nghiệm ra một điều là trong đấu tranh cách mạng, đánh giá đúng tình hình địch - ta là yếu tố có ý nghĩa quyết định để từ đó đề ra đường lối, chủ trương phù họp. Ta muốn thi hành Hiệp định Paris nhưng địch không chịu thực hiện, ta phải đấu tranh bắt buộc chứng thi hành. Tuy nhiên, ta phải tính xem có thể bắt buộc chúng thi hành được không? Rút kinh nghiệm xương máu khi thi hành Hiệp định Genève 1954, Mỹ - Diệm đã công khai tuyên bố không thừa nhận Hiệp định, chúng dùng súng đạn để đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng của Nhân dân ta, thẳng tay tàn sát những người yêu nước, nhưng ta vẫn sử dụng biện pháp đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định nên đã bị tổn thất lớn. Tình hình này kéo dài suốt sáu năm trời. Vì vậy, khi tôi đề xuất ý kiến, Khu ủy đã hoàn toàn nhất trí chủ trương phải phát huy thắng lợi của Hiệp định Paris, huy động sức mạnh tổng họp để trừng trị quân địch vi phạm Hiệp định.
Ngày 28/1/1973, Hiệp định Paris có hiệu lực. Theo qui định, hai bên ngừng bắn tại chỗ, nhưng thực tế chiến tranh vẫn tiếp diễn trên khắp đồng bằng sông Cửu Long. Quân đoàn 4, Quân khu 4 địch tiếp tục nổ súng tiến công lấn chiếm, tiếp tục kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, tăng cường phản kích với mức độ đánh phá, càn quét ác liệt hơn trước. Tại vùng trọng điểm Chương Thiện, địch tổ. chức lấn chiếm quyết liệt ở Tây Vị Thanh và Đông Bắc Long Mỹ.
Đầu tháng 3/1973, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 xác định nhiệm vụ trung tâm của Quân khu là: Phá kế hoạch bình định, buộc địch phải thực hiện Hiệp định. Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu đã điện xin ý kiến của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Trung ương Cục, về mặt quân sự xin ý kiến của Bộ Chỉ huy Miền; đồng thời quyết tâm đẩy mạnh phong trào tiến công và phân công trừng trị quân địch vi phạm Hiệp định Paris; trước mắt đẩy lùi và làm thất bại kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, lấn chiếm và bình định Chương Thiện của chúng... chúng tôi quyết định triển khai theo kế hoạch mà Khu ủy đã thông qua. Ta đã biết rõ địch, nay phải đề cao cảnh giác, kiên quyết không để mất đất, mất dân; đẩy mạnh binh vận làm tan rã địch; vừa tuyên truyền thắng lợi của Hiệp định, vừa củng cố và phát triển lực lượng, sẵn sàng đánh trả trong khuôn khổ Hiệp định cho phép nếu địch tiến công. Phải luôn chủ động đánh địch để bảo vệ Hiệp định. Chủ trương nghị quyết này đã được phổ biến cho các tỉnh và các ngành trong Quân khu.
Giữa tháng 3/1973, địch mở cuộc hành quân cấp quân đoàn với lực lượng 30 tiểu đoàn, tổ chức đội hình thành nhiều cánh, đồng loạt đánh vào Tây Nam Long Mỹ. Chúng dự kiến trong vòng 7 ngày lấn chiếm xong các mục tiêu qui định và hình thành tuyến ngăn chặn từ Ngang Dừa đến Vĩnh Chèo, bịt cửa u Minh, đẩy ta ra khỏi Chương Thiện. Các đơn vị của ta đã bố trí triển khai đánh địch từ xa đến gần, thực hiện chia cắt từng cánh quân địch.
Trung đoàn 10 ngăn chặn và đẩy lùi cánh quân địch tiến công ở Giao Đu. Trung đoàn 1 tiêu diệt 1 tiểu đoàn (thuộc Trung đoàn 16, Sư đoàn 9), chặn cánh quân lấn chiếm Lái Hiếu. Bộ đội địa phương, du kích và các cơ quan Quân khu chặn mũi địch lấn chiếm khu vực Khuông Ninh, Rọc Dứa. Quân địch chỉ đóng được đồn ở kênh thứ 13 nhưng bị đánh khựng lại, không thực hiện được tuyến ngăn chặn Ngang Dừa - Vĩnh Chèo. Pháo binh Quân khu bắn chìm 3 tàu tên sông Cái Lớn, đặcj công đánh chìm 5 tàu tại bến Gò Quan. Bộ, đội ta thực hiện áp sát các chi khu Long Mỹ, Ngang Dừa, Giồng Riềng làm công tác binh vận phân hóa quân chủ lực và bảo an dichj Các chị, các mẹ dùng xuồng ba lá chèo vàoj đồn bốt kêu gọi binh lính địch bỏ ngũ. Nhiều má vừa nhủ vừa chất vấn: “Hòa bình rồi, tụi bay lại đánh nhau là sao? Bộ không thích về đoàn tụ với vợ con ba má sao?”... Và khi lính rã ngũ thì các má, các chị chở họ về quê, Hên tục mỗi ngày ta đã làm rã ngũ hàng trăm tên.
Ta đánh đến ngày 20/4 thì các cánh quân của địch bị chặn đứng. Chúng chỉ đóng được hai đồn ở Phụng Hiệp, hai đồn ở Tây Nam Long Mỹ và một số chốt dã ngoại.
Cuối tháng 4/1973, địch điều thêm lực lượng bảo an vào Chương Thiện, đưa tổng số lên tương đương 46 tiểu đoàn để tiếp tục thực hiện kế hoạch bình định, lấn chiếm. Song, khi chúng tôi đang tổ chức đánh địch quyết liệt, thì Bộ Chỉ huy Miền ra Chỉ thị (số 02) nêu phương châm “lấy đấu tranh chính trị làm cơ sở, đấu tranh vũ trang làm hậu thuẫn...” và chỉ thị Quân khu 9 rút 2 trung đoàn về căn cứ u Minh để chỉnh huấn. Bộ Chỉ huy Miền còn hai lần điện yêu cầu T3 (mật danh Quân khu 9) phải thấy tình hình mới, phải có biện pháp mới và phê bình T3 không thi hành chủ trương của Trung ương Cục, đồng thời, thông báo cho toàn Miền.
Trước tình hình đó, anh Võ Văn Kiệt - Bí thư Khu ủy đã thống nhất với tôi, một mặt quyết đánh ghìm giữ địch ở Chương Thiện, không rút trung đoàn ở tuyến trước về; đồng thời triệu tập ngay cán bộ lãnh đạo và chỉ huy các tỉnh đội từ phía Nam sông Hậu, thông báo và lệnh cho các tỉnh tiếp tục thực hiện chủ trương của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 9, chờ lệnh mới. Tôi và anh Kiệt chủ trì phiên họp hỏa tốc với các tỉnh thông báo tình hình, nêu rõ chủ trương của Ban Thường vụ Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu. Hội nghị nhất trí cao hai nội dung: Một là, mệnh lệnh trên hết lúc này trong toàn Quân khu là kiên quyết phá bằng được âm mưu phá hoại Hiệp định Paris của Mỹ - Thiệu, không được để mất đất, mất dân, không có bất cứ mệnh lệnh nào cao hơn; hai là, Khu ủy và Quân khu chịu trách nhiệm trước cấp trên; các tỉnh phải chấp hành nghiêm mệnh lệnh của Quân khu và tư lệnh chiến trường.
Sau hội nghị, anh Kiệt xúc động nói với tôi: Trong tình hình nước sôi lửa bỏng mà ý kiến trên dưới lại thống nhất cao và nhanh như vậy, chứng tỏ cán bộ của các địa phương sâu sát với hơi thở cuộc sống ở chiến trường, đặc biệt họ có ý chí và lòng tin tuyệt đối với chỉ huy Quân khu...
Cuối tháng 5/1973, trên Miền có Hội nghị tổng kết công tác đấu tranh chính trị và binh vận. Đoàn Cán bộ tổng kết của Trung ương và Trung ương Cục nhắc nhở các nơi khác thực hiện “năm cấm” (cấm bao vây đồn bốt, cấm “gỡ” đồn bốt, cấm đánh địch bung ra, cấm pháo kích và cấm xây dựng ấp, xã chiến đấu). Cùng thời gian đó, Đoàn Đại biểu binh vận và thanh niên của Khu 9 đi R (Miền) dự hội nghị tiếp thu chủ trương của trên, Trung ương Cục cho phép về thẳng cơ sở phổ biến (không cần thông qua Ban Thường vụ Khu ủy), cho rằng, hiện tại lấy đấu tranh chính trị, binh vận làm gốc, nơi nào tiến công quân sự là sai lầm. Anh Trung, Khu ủy viên phụ trách công tác binh vận vừa đi họp trên Miền về...
Tôi tin tưởng rằng anh Phạm Hùng - Bí thư Trung ương Cục và Bộ Chính trị sớm muộn cũng nhận định được tình hình, sẽ xử lý đúng, nên trả lời anh Trung: “Được, anh cứ yên tâm đi!... Tôi phải đánh đã... Chủ trương này là của Khu ủy, anh cũng phải chấp hành!”.
Đến ngày 30/8/1973, tức là hết thời hạn đợt 2 lấn chiếm bình định U Minh, quân địch vẫn không chiếm được Chương Thiện, chưa đánh phá được U Minh. Vùng giải phóng Căn cứ U Minh của ta vẫn ổn định. Cục diện chiến trường chưa hề thay đổi theo ý đồ của chúng.
Bước hai của địch từ tháng 6 đến tháng 10/1973, chúng tiếp tục thực hiện mục tiêu cúa bước một, vì đợt 1 chúng chưa thực hiện được việc bình định lấn chiếm Chương Thiện. Một lần nữa, tháng 10/1973, địch vẫn không thực hiện được kế hoạch. Địch cay cú tập trung lực lượng đến 75 tiểu đoàn, chuẩn bị cuộc hành quân (tháng 11) đánh vào Chương Thiện. Cách đánh của chúng là dùng bom, pháo đánh ác liệt để dọn bãi cho trực thăng đổ cấp tập hàng nghìn quân xuống một lúc, càn quét, cày ủi địa hình kìm giữ dân, tiến hành đóng đồn bốt, kết hợp với các điểm dã ngoại, lấy đó làm điểm, làm bàn đạp để lấn chiêm loang dần ra.
Tháng 6/1973, địch đánh giá việc lấn chiếm Chương Thiện không phát triển được, nên tăng thêm 7 tiểu đoàn bảo an của các tỉnh Bến Tre, Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong, nâng tổng số đơn vị cấp tiểu đoàn lên đến 68 tiểu đoàn vào khu vực Chương Thiện. Các đơn vị trong Quân khu liên tục chiến đấu, diệt nhiều tiểu đội, trung đội địch. Tuy nhiên, đến ngày 30/8/1973, địch lấn chiếm được vùng Ba Hồ và tuyến sông Cái Bé, đồng thời đóng đồn ở vùng tuyến sông Cái Lớn, ngăn chặn đường hành lang vận chuyển thủy của ta từ u Minh lên phía trước. Tình hình đó gây cho ta nhiều khó khăn, các đơn vị phải hành quân mang vác bộ, đi vòng qua nhiều đồn bốt.
Tháng 7/1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 21 phân tích toàn diện tình hình và ra Nghị quyết về “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới”. Nghị quyết xác định: “Cách mạng miền Nam phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, nhưng phải căn cứ vào từng thời kỳ, hoàn cảnh cụ thể từng vùng, thậm chí từng cuộc đấu tranh mà vận dụng hình thức đấu tranh và chiến thuật tiến công hoặc phòng ngự một cách linh hoạt, sắc bén, đồng thời giữ vững và phát triển lực lượng về mọi mặt của ta,... làm cho lực lượng so sánh giữa ta và địch ngày càng thay đổi có lợi cho ta”. Hội nghị nhấn mạnh: “Cách mạng miền Nam có thể phải trải qua nhiều bước quá độ và chỉ có thể giành được thắng lợi bằng con đường bạo lực cách mạng: Tiến hành khởi nghĩa dựa trên lực lượng chính trị và lực lượng quân sự, hoặc là trong trường hợp chiến tranh lớn trở lại thì tiến hành chiến tranh cách mạng để giành thắng lợi hoàn toàn”.
Trung tuần tháng 8/1973, Khu ủy họp Hội nghị mở rộng để quán triệt tinh thần Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương. Hội nghị nhất trí với Trung ương về đánh giá tình hình và đề ra nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Cuối tháng 8/1973, Quân khu triển khai học tập tinh thần, nội dung Hội nghị lần thứ 21 đến cấp trung đoàn và các cơ quan Quân khu. Cán bộ rất phấn khởi vì thấy từ đây trên dưới nhất trí trong đánh giá tình hình và có phương hướng đúng đắn với cuộc cách mạng ở miền Nam. Các quân khu bạn được lệnh phản công. Ở Quân khu 9, một tình thế mới xuất hiện: Địch yếu đi, ta tiến công liên tục, không còn tình cảnh bị động đối phó như trước nhà.
Ngày 3/9/1973, tôi viết báo cáo gửi Bộ Tư lệnh Miền và Trung ương về tình hình của Quân khu trong tám tháng kể từ sau khi có Hiệp định Paris. Đánh giá tình hình chung, ở Quân khu 9, đồng bằng sông Cửu Long nói chung và có thể ở cả miền Nam, hoàn toàn không phải là xung đột vũ trang từng vụ, từng nơi. Địch cố tình gây căng thẳng để củng cố lực lượng, thực hiện âm mưu xóa bỏ từng phần tiến tới xóa bỏ hoàn toàn thành quả của cách mạng miền Nam. Để thực hiện âm mưu cơ bản đó, địch đã thực sự duy trì tình trạng chiến tranh, thực hiện chương trinh bình định trong điều kiện có Hiệp định hòa bình. Đem so sánh trạng thái chiến tranh đang diễn ra với thời kỳ “Chiến tranh cục bộ” thì thấp hơn nhiều, song so với thời kỳ “Chiến tranh đặc biệt” thi cường độ, chiều sâu, bề rộng và tính chất ác liệt hơn nhiêu. Thế nhưng quân địch không đủ khả năng mở rộng chiến tranh đồng thời ra khắp nơi, nên chúng thực hiện hòa hoãn ở nơi này, tập trung khả năng đánh nơi khấc... Chống sẽ không thi hành Hiệp định. Cứ nhừ vậy thì chiến tranh sẽ kéo dài trong tình hình bất lợi cho ta, địch sẽ lạm chủ được vùng nông thôn. Neu xảy ra như vậy thì ta phải mở lại mệt cuộc tiến công chiến lược như năm 1972, tổn thất xương máu sẽ nhiều hơn, mà cách mạng sẽ đâm chân tại chỗ mệt lân nữa, tình hình sẽ phức tạp hơn hồi năm 1968 - 1970. Nhận thức tình hình như vậy, tôi đề nghị lên trên:
1. Tình hình trước mắt vẫn có chiến tranh trong điều kiện có Hiệp định hòa bình. Nội dung chủ yếu của chiến tranh mà địch tiến hành là bình định lấn chiếm, giành dấn, giành đất, đánh phá lực lượng cách mạng, củng cố, xây dựng lực lượng phản cách mạng.
2. Hiện ở hầu hết vùng đồng bằng sông Cửu Long, địch đang dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, bằng biện pháp phát xít chiến tranh để đánh vào dân, kìm kẹp dân. Như thế sẽ khó thực hiện phương thức đấu tranh chính trị là chủ yếu, quân sự đánh có mức độ. Do đó, đề nghị phương châm chiến lược trước mắt ở chiến trường miền Nam là quân sự, chính trị kết hợp với pháp lý của Hiệp định. Đến khi nào địch chịu ngừng bắn về cơ bản thì sẽ thay đổi phương châm, về phương châm hành động hằng ngày, đề nghị thêm chữ tiến công để đủ nội dung tư tưởng cách mạng tiến công. Tiến công địch để giành dân, giành quyền làm chủ; giành dân, giành quyền làm chủ đề tiến công địch. Ở đồng bằng sông Cửu Long thêm hai chữ “giành đất”.
3. Về hướng tiến công, đề nghị hướng tiến công chủ yếu là vùng tranh chấp đông dân, nhiều của, kết hợp với thọc sâu chuyển biến vùng kim kẹp, kết hợp với giữ vững củng cố, xây dựng vùng giải phóng.
4. Về phương thức tiến công, đề nghị đánh nhỏ, đánh vừa, đánh để giành dân, lấn đất, chưa cần đánh nổi cộm, chưa cần mở chiến dịch tập trung nổi cộm, đồng thời chuẩn bị những chiến dịch lớn, những đợt tiến công lớn để khi cần thì tiến hành đánh thật đau.
5. Về đối tượng tiến công của ba thứ quân (gồm cả chủ lực cấp trên) là đánh thẳng vào quân kìm kẹp địa phương của địch, đánh thẳng vào cơ sở hạ tầng của địch, kết hợp với đánh tiêu diệt từng tiểu đoàn chủ lực, các đầu não chỉ huy và các kho dự trữ của địch đang trực tiếp hành quân. Đề nghị bố trí các binh chủng nặng như pháo binh, xe tăng... các đơn vị bộ binh dự bị ở trong vùng giải phóng, các trung đoàn và sư đoàn bộ binh đều chuyển ra vùng tranh chấp, vùng đông dân, thực hành kết hợp tác chiến, huấn luyện và binh vận, sản xuất cải tạo địa hình.
6. Về công tác binh vận, đề nghị lấy đánh vận động làm tan rã liên tục, làm cho thành phần binh sĩ địch liên tục không ổn định làm nội dung chủ yếu, kết hợp với kiên trì xây dựng cơ sở cách mạng trong quân đội địch để làm nòng cất cho binh biến khởi nghĩa trong tương lai.
7. Về lực lượng chính trị, đấu tranh chính trị trước mắt là đấu tranh bung về ruộng vườn, đấu tranh để chống bắt lính, đấu tranh chống vơ vét cướp bóc, đấu tranh để làm tan rã binh lính địch và thường xuyên phối hợp với lực lượng vũ trang đấu tranh để giành và giữ quyền làm chủ. Trên cơ sở đó, xây dựng, cùng cố từng bước lực lượng chính trị, chuân bị cho khởi nghĩa vũ trang và tiến hành vũ trang khởi nghĩa.
Những đề nghị trên đây cũng là nội dung chỉ đạo của Quân khu 9 trong phạm vi địa phương mình từ sau ngày 28/1/1973.
Đầu tháng 9/1978, địch vẫn tiếp tục kế hoạch bình định lấn chiếm. Lần này, chúng chỉ yêu cầu lấn chiếm Chương Thiện và phong tỏa U Minh. Trước hết là hòa hoãn với khu vực mới lấn chiếm ở vùng Ba Hồ, đồng thời mở mũi lấn chiếm xuống Tây Nam Long Mỹ. Cùng lúc, địch đề ra kế hoạch cướp lúa. Hai kế hoạch này chồng lên nhau, chúng gọi là “Kế hoạch Trần Khánh Dư”, về bố trí sử dụng lực lượng, địch vẫn duy trì Sư đoàn bộ binh 7 ở khu vực Tiền Giang, chủ yếu yểm trợ lấn chiếm Vùng 4 Kiến Tường, Sư đoàn 9 yểm trợ cướp lúa ở Bạc Liêu và Sóc Trăng, Sư đoàn 21 chịu trách nhiệm các tỉnh Chương Thiện, Rạch Giá và Cà Mau. Ở các vùng kìm và đô thị, chúng phát động chiến dịch gọi là “quét lá rừng” nhằm đánh phá cơ sở cách mạng và bắt lính.
Trên cơ sở nắm được ý đồ và kế hoạch của địch, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 quyết tâm đánh bại kế hoạch lấn chiếm và cướp lúa của chúng, về phương thức hoạt động, Quân khu chủ trương: Chống lấn chiếm kết hợp với chống cướp lúa, kiên định nguyên tắc bám trụ vững chắc kết hợp cơ động tiến công. Địa bàn trọng điểm của Quân khu vẫn là vùng ruột Hậu Giang (Chương Thiện). Các tỉnh phải hình thành cho được kế hoạch tiến công rộng khắp, căng kìm địch không để cho chúng dồn lực lượng về trọng điểm của Quân khu.
Trung tuần tháng 9, các trung đoàn đang tổ chức chỉnh huấn cho cán bộ trung, sơ cấp thì được tin địch hành quân lấn chiếm Tây Nam Long Mỹ và phong tỏa U Minh, thời gian có thể từ ngày 12 đến 15/9. Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định mở đợt tiến công địch. Đợt hoạt động bắt đầu từ Đoàn 10 tiến công đồn Chùa Miên và Xeo Chích (sát Tây Chi khu Ngã Năm). Hai ngày sau, địch đưa 2 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 16/Sư đoàn 9 và 1 chi đoàn thiết giáp đến giải tỏa. Cùng lúc, bộ đội địa phương huyện Thạnh Trị và du kích xã hoạt động mạnh ở vùng Mỹ Quới bao vây các đồn Láng Sơn, Mỹ Tho thuộc quân bảo an của Chi khu Ngã Năm đi giải tỏa. Tin tức các địa phương liên tiếp báo cáo về: Từ ngày 10 đến ngày 13/9, Tiểu đoàn 2 bộ đội địa phương tỉnh Sóc Trăng tiến công Căn cứ số 1, đánh Tiểu đoàn bảo an 428 đi cứu viện suốt máy ngày liền; sau đó, gài thế đánh một ưận phục kích, làm thiệt hại nặng Tiểu đoàn bảo an 428, buộc chúng phải băng đồng tháo chạy... Trung đoàn 15, Sư đoàn 9 địch phải đổ quân đối phó.
Cùng thời gian trên, chúng tôi lệnh cho Trung đoàn 1 tiến công mạnh khu vực Lái Hiếu và cho một bộ phận thọc sâu, lấn sát thị xã Vị Thanh, buộc địch phải đưa một tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 21 và một chi đoàn xe M113 lên chi viện cho Vị Thanh. Ở khu vực Giồng Riềng, do tác động của Trung đoàn 20, địch phải đưa Trung đoàn 31 Sư đoàn 21 và chi đoàn xe M113 đến giải tỏa. Các tỉnh trong quân khu đều tiến công căng kìm địch, làm cho kế hoạch lấn chiếm và cướp lúa của địch bị phá vỡ, chúng phải phân tán lực lượng đối phó với ta khắp nơi.
Tháng 10/1973, địch lại chuẩn bị hành quân ở Tây Nam Long Mỹ, đồng thời có một cánh quân đánh vào U Minh ở khu vực Nam sông Cái Lớn. Chúng tập trung đến các tuyến xuất phát hành quân như Hỏa Lựu, Gò Quao, Long Mỹ. Riêng tại Chi khu Gò Quao có đến 4 sở chỉ huy cấp trung đoàn.
Ngày 6/10/1973, địch chưa kịp hành quân thì Quân khu tập trung pháo đánh mạnh vào Chi khu Gò Quao, cả 4 sở chỉ huy đóng ở đây đều bị thiệt hại nặng, hư 1 tàu tại bến. Đêm sau, ta sử dụng đặc công đánh bồi lạm chìm 5 tàu nữa. Địch phải giải quyết hậu quả, đưa số còn sống sót và binh lính bị thương về Vị Thanh.
Trung đoàn 10 ở Tây Nam Long Mỹ tiến công diệt bốn đồn ở xã Vĩnh Thuận Đông (sát chi khu), đồng thời pháo kích, uy hiếp mạnh trung tâm hành qụân ở Chi khu Long Mỹ. Địch vội vã điều Trung đoàn 15 Sư đoàn 9 đang đối phó với ta ở Sóc Trăng về giữ Chi khu Long Mỹ. Trung đoàn 20 kìm chân địch ở tuyến sông Cái Bè, đánh 4 trận, tập kích liên tục vào Trung đoàn 9 thiết giáp, diệt 4 chi đoàn xe M113 và đánh thiệt hại nặng 2 chi đoàn khác (phá hủy 22 xe M113).
Một lần nữa, trong tháng 10/1973, địch vẫn không thể thực hiện được kế hoạch. Đầu tháng 11/1973, địch điều thêm lực lượng hải quân Trần Hưng Đạo số 44, từ căn cứ Cát Lái (Sài Gòn) tăng cường cho hải quân Vùng 4 chiến thuật; rút thêm nhiều tiểu đoàn bảo an ở các tỉnh Ben Tre, Gò Công, An Giang, Châu Đốc, nâng tổng số tiểu đoàn ở khu vực Chương Thiện lên đến 75 tiểu đoàn (75 tiểu đoàn và tương đương, kể cả các tiểu đoàn bộ binh, pháo binh, giang đoàn...) chuẩn bị cho cuộc hành quân tháng 11 đánh vào Chương Thiện. Ngoài ra, địch còn tăng thêm dự trữ đạn pháo vào U Minh, Sóc Trăng và Bạc Liêu. Quân khu 9 phải đương đầu với thử thách mới hết sức nặng nề và quyết liệt.
Ngày 6/11/1973, Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy họp, chủ trương: Phát huy thế chủ động và tư tưởng tiến công, kiên quyết bẻ gãy cuộc hành quân tháng 11 của địch, bảo vệ căn cứ, đồng thời tích cực chuẩn bị kế hoạch để chuyển sang tiến công trong mùa khô tới...
Dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh, các lực lượng vũ trang Quân khu 9 đã anh dũng chiến đấu. Điển hình là Trung đoàn 1, bộ đội ta đứng chân trên hai bờ kênh, hai bên là đồng trống, 1.000 quân đấu với trên 10.000 quân địch cộng với phi pháo, tàu thuyền, chất độc hóa học tăng cường. Lúc đó, tôi nói: Bom đạn ác liệt thế này, chết là chuyện thưởng, sống mới kỳ! về sau anh em cứ nhắc lại mãi câu này. Anh em đã dùng chiến thuật vận động là chủ yếu để đánh địch, kết hợp với quần chúng, các má, các chị làm binh vận, kêu gọi quân lính rã ngũ.
Khi địch dùng trực thăng đổ bộ cấp tập 15.000 quân xuống Ba Hồ (Giồng Riềng), Trung đoàn 20 chịu trách nhiệm hướng này, bị địch uy hiếp mạnh. Trung đoàn 20 đã tự rút lui, bỏ Ba Hồ, mặt trận này bỗng nhiên bị bỏ trống. Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu đã khiển trách Ban Chỉ huy Trung đoàn 20, ra lệnh và hướng kế hoạch cho trung đoàn trở lại bám địa bàn Ba Hồ. Trung đoàn 20 chỉ rút ra có mấy ngày mà trở lại rất khó khăn, gian khổ, nhưng trung đoàn vẫn thực hiện đúng kế hoạch. Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu ra lệnh cho tất cả lực lượng trên chiến trường toàn khu đẩy mạnh hoạt động, nhất là các cánh quân ở Lái Hiếu, Nam - Bắc sông Măng Thít thuộc Vĩnh - Trà... để hỗ trợ cho trọng điểm Chương Thiện nói chung, cho Trung đoàn 20 nói riêng.
Cuộc hành quân tháng 11/1973 của địch bi bẻ gãy hoàn toàn. Từ đây địch chấm dứt bình định lấn chiếm Chương Thiện.
ĐẠI TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH