Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam Lê Đức Anh với công tác bảo đảm hậu cần trên chiến trường Campuchia
Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả xin được làm rõ hơn vai trò của Đại tướng Lê Đức Anh với công tác hậu cần quân đội trên cương vị Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở chiến trường Campuchia từ năm 1981 đến năm 1986. Nổi bật ở một số nội dung chủ yếu sau:
1. Quan tâm chỉ đạo công tác hậu cần bảo đảm cho quân tình nguyện Việt Nam và giúp bạn xây dựng ngành hậu cần
Sau khi Campuchia được giải phóng thoát khỏi chế độ diệt chủng Khơ-me đỏ, cách mạng Campuchia đã phải đối phó ngay với cuộc phản kích quyết liệt, toàn diện của các thế lực thù địch. Chúng tiếp tục nuôi dưỡng tàn quân Khơ-me đỏ hòng giành lại những địa bàn chiến lược đã mất, thực hiện âm mưu trở lại thống trị Campuchia và cô lập làm suy yếu Việt Nam.
Theo thỏa thuận giữa hai Nhà nước Việt Nam và Campuchia, ngày 06/6/1981, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký Quyết định số 185/QĐ-QP thành lập Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, đặt phiên hiệu là Bộ Tư lệnh 719, Thượng tướng Lê Đức Anh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng được bổ nhiệm Tư lệnh theo Sắc lệnh số 106/LCT ngày 29/6/1981 của Chủ tịch nước. Thực hiện quyết định này, cơ quan đại diện Tổng cục Hậu cần tại Phnôm Pênh được chuyển thuộc Bộ Tư lệnh 719, với biên chế 37 người, trong đó có 17 sĩ quan và 20 hạ sĩ quan, chiến sĩ. Thượng tá Nguyễn Xuân Khôi, Phó Tham mưu trưởng Tổng cục được chỉ định phụ trách Đại diện Tổng cục Hậu cần trong Bộ Tư lệnh 719.
Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ quân sự và hậu cần trên đất bạn, Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam đã chỉ đạo cơ quan hậu cần các cấp phải tập trung thực hiện nhiều công tác cấp thiết, trong đó có ba nhiệm vụ chủ yếu: Một là, xây dựng tổ chức lực lượng hậu cần theo đúng yêu cầu của chiến trường; Hai là, hình thành các phương thức bảo đảm, các quy định, tiêu chuẩn, chế độ hậu cần, mối quan hệ giữa các cấp, các tổ chức hậu cần; Ba là, đẩy mạnh nhiệm vụ giúp bạn, đặc biệt là giúp xây dựng ngành Hậu cần Quân đội cách mạng Campuchia.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ quốc tế và giúp bạn theo thỏa thuận, tháng 5/1981, trên cơ sở lực lượng của Quân đoàn 4 và của các Quân khu 5, 7, 9 hoạt động trên đất Campuchia, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã thành lập các Mặt trận quân tình nguyện 479, 579, 779 và 979. Tiền phương Cục Hậu cần các quân khu, quân đoàn này được chuyển thành tổ chức Hậu cần Mặt trận 479, 579, 779, 979 trực thuộc Tư lệnh mặt trận và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Hậu cần Quân đoàn 4, các quân khu 5, 7, 9.
Về phân cấp bảo đảm, từ giữa năm 1981 trở đi, căn cứ vào tình hình thực tế và những chuyển biến tích cực ở Campuchia, sau khi thống nhất kế hoạch với hậu cần các quân khu, quân đoàn, Tổng cục Hậu cần chịu trách nhiệm bảo đảm trực tiếp cho lực lượng của các Mặt trận 479, 579 và 979 tại các căn cứ hậu cần mặt trận. Riêng Mặt trận 779 do Cục Hậu cần Quân khu 7 bảo đảm, khi cần thiết, Tổng cục Hậu cần chi viện vật chất, phương tiện. Từ năm 1982, theo Nghị định ký kết giữa hai nước, phương thức bảo đảm hậu cần được điều chỉnh, quân tình nguyện Việt Nam được nhận toàn bộ lương thực và một số thực phẩm tươi (như thịt, cá, rau...) tại các địa phương của Campuchia do bạn trực tiếp cung cấp. Đổi lại, Nhà nước và Bộ Quốc phòng Việt Nam viện trợ những vật chất khác cần thiết với giá trị tương đương, hoặc chi trả bằng ngân sách cho bạn. Sự điều chỉnh này đã giúp ngành hậu cần quân đội ta giảm được một khối lượng khá lớn vật chất phải vận chuyển từ Việt Nam sang, hạn chế được tổn thất, hư hỏng hàng hóa.
Nhiệm vụ bảo đảm hậu cần cho quân tình nguyện Việt Nam và giúp bạn thời kỳ này rất nặng nề, phức tạp, đối tượng bảo đảm lớn và đa dạng. Quân số bảo đảm bình quân năm 1981 là 17 vạn người; riêng lực lượng Campuachia do ta chịu trách nhiệm bảo đảm là hơn 5,1 vạn người. Trong đó, bộ đội và dân quân du kích lên tới 4,3 vạn người. Tất cả 22 đầu mối cơ sở trực thuộc Tổng cục Hậu cần ở phía Nam của các ngành quân y, quân lương, quân trang, vận tải, xăng dầu... đều tham gia bảo đảm cho quân tình nguyện và giúp bạn.
Về bảo đảm đời sống, thực hiện phương thức bảo đảm bằng hiện vật và theo tiêu chuẩn định lượng. Tư lệnh Lê Đức Anh yêu cầu hậu cần các mặt trận bám sát các ngành và địa phương bạn, tiếp nhận đủ lương thực và 5 mặt hàng thực phẩm cho Quân tình nguyện. Đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất của các đơn vị để đưa vào cải thiện bữa ăn cho bộ đội và giúp nhân dân Campuchia. Các mặt trận đều tích cực đầu tư lực lượng, kinh phí, mở rộng các cơ sở chăn nuôi, trồng trọt, đánh bắt cá và chế biến thủy hải sản, sản xuất vật liệu xây dựng... với nhiều quy mô và loại hình đạt hiệu quả tốt.
Về nơi ở, được sự ủng hộ giúp đỡ nhiều mặt của chính quyền và nhân dân Campuchia, từ năm 1981, ta đã có kế hoạch xây dựng nơi ăn, ở ổn định cho bộ đội tình nguyện. So với bộ đội tuyến 1, bộ đội ở tuyến sau có thuận lợi hơn, trong đó 75-90% quân số có nhà ở, 60-65% quân số có ván nằm; nhà kho, nhà xe bảo đảm đạt 70-75% nhu cầu.
Về sức khỏe của bộ đội, mối quan tâm hàng đầu, thường xuyên của Bộ Quốc phòng, của toàn chiến trường và cả hậu phương là tình hình bệnh tật, đặc biệt là bệnh sốt rét. Tư lệnh
Lê Đức Anh yêu cầu tăng cường cán bộ quân y, thuốc men, trang bị y tế phục vụ công tác cứu, chữa, đồng thời đầu tư nghiên cứu, xây dựng các cơ sở điều trị sốt rét. Đặc biệt, ta còn cử nhiều đoàn chuyên viên giỏi lên vùng biên giới trực tiếp theo dõi, nghiên cứu và thực hành điều trị, phòng dịch tại chỗ. Quân y mỗi trung đoàn biên giới được bổ sung 1 bác sĩ, 1 y sĩ chuyên khoa ngoại, có đủ trang thiết bị làm nhiệm vụ cứu chữa khẩn cấp và cơ bản cho thương binh, bệnh binh. Các đội điều trị và bệnh viện khu vực đều được bổ sung cán bộ và trang thiết bị, tăng cường chỉ đạo nghiệp vụ kỹ thuật, nhất là kỹ thuật cứu chữa vết thương do mìn và sốt rét nặng. Kết quả là số bệnh nhân sốt rét và số tử vong do sốt rét ác tính giảm đi, sức khỏe của bộ đội có khá hơn; tỷ lệ quân số khỏe toàn chiến trường năm 1981 là 94,5%, 6 tháng đầu năm 1982 là 95-96%.
Về công tác vận tải, thời gian này việc vận chuyển hàng hóa từ Việt Nam sang chiến trường Campuchia phải triển khai với khối lượng rất lớn: năm 1981 là 70 nghìn tấn và 6 tháng đầu năm 1982 là 50 nghìn tấn. Bên cạnh đó, hằng năm còn vận chuyển bình quân 60-70 nghìn lượt người qua lại trên các tuyến giao liên. Trong tổng khối lượng vận chuyển thì đường thủy chiếm tới 59%, ô tô 35%, đường sắt 5% và đường không 1%. Để tạo điều kiện cho ngành vận tải quân sự hoàn thành nhiệm vụ, có tới 57% số phương tiện đường thủy, 35% số phương tiện đường bộ (ô tô) được thuê từ các cơ quan, xí nghiệp, các ngành của Nhà nước và các địa phương. Riêng vận chuyển đường không do lực lượng vận tải của Không quân nhân dân Việt Nam đảm nhiệm. Về vận tải đường sắt, ta dựa hoàn toàn vào bạn.
Về công tác giúp bạn xây dựng ngành Hậu cần, chấp hành mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng Việt Nam và Chỉ thị của Tư lệnh quân tình nguyện, hậu cần các cấp hết sức quan tâm và trong thực hiện đã có bước phát triển mới. Ngành Hậu cần quân đội ta đẩy mạnh giúp bạn xây dựng tổ chức, bộ máy hậu cần quân đội; huấn luyện đào tạo cán bộ, nhân viên, xây dựng cơ sở vật chất hậu cần với phương châm ngành nào giúp ngành đó, cấp nào giúp cấp đó. Hệ thống chuyên gia hậu cần từ Tổng cục đến các quân khu, mặt trận, các đoàn quân sự, các sư đoàn được hình thành, đã giúp bạn một cách thiết thực, có hiệu quả. Chỉ trong một thời gian ngắn, ta đã giúp bạn xây dựng được 2 tiểu đoàn vận tải ô tô, 1 tiểu đoàn vận tải thủy, 1 xưởng may quân trang, 1 trại sản xuất (với 10 ha gieo trồng và chăn nuôi hơn 200 con lợn...), 1 bệnh viện đa khoa 300 giường bệnh, 1 đội vệ sinh phòng dịch, 1 đội sửa chữa doanh trại, Trường Sĩ quan Hậu cần và Trường Nhân viên Hậu cần, 1 kho xăng dầu có sức chứa 1.700 tấn. Những cơ sở này vừa mới hình thành tuy còn nhỏ bé, nhưng với sự giúp đỡ của chuyên gia hậu cần - kỹ thuật Việt Nam đã sớm phát huy được tác dụng đối với ngành Hậu cần Quân đội Campuchia.
Cùng với sự giúp đỡ của hậu cần các cấp trên đất Campuchia, từ thực tế công tác hậu cần của Quân đội Campuchia, Tư lệnh Lê Đức Anh đã chỉ đạo tăng cường chuyên gia về hậu cần và đề nghị bạn lựa chọn đưa cán bộ sang Việt Nam học tập. Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam đã lựa chọn, cử nhiều chuyên gia thuộc các chuyên ngành nghiệp vụ sang giúp bạn dài hạn, năm 1981 là 148 cán bộ, năm 1982 là 86 cán bộ, năm 1983 là 97 cán bộ, năm 1984 là 67 cán bộ. Các trường đào tạo về công tác hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam đã đón nhiều cán bộ quân đội Campuchia sang học tập. Chỉ tính trong 2 năm 1981 - 1982, Học viện Hậu cần, Học viện Quân y, Trung cấp Quân y của ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam đã tiếp nhận đào tạo 190 học viên Campuchia, nhận nuôi dưỡng bảo đảm cho 300 học viên Campuchia tại các trường khác của Việt Nam. Lãnh đạo và chỉ huy các nhà trường, học viện của ta đã tổ chức cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên chức trực tiếp làm công tác quản lý, giảng dạy, phục vụ bạn, quán triệt nghị quyết của Bộ Chính trị là phải coi “việc giúp bạn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là khâu then chốt trong toàn bộ nội dung giúp bạn của Đảng và Nhân dân ta nói chung và của mỗi ngành nói riêng”. Đồng thời, công tác đào tạo phải thực hiện tốt ba yêu cầu của Bộ Quốc phòng đề ra là: Bảo đảm cho học viên ra trường phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với cách mạng; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia; nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ huy và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho học viên Lào và học viên Campuchia.
Với sự giúp đỡ tận tình đó, ngành Hậu cần Quân đội cách mạng Campuchia đã có những bước trưởng thành rõ rệt. Ta bàn giao dần việc tổ chức bảo đảm hậu cần các lực lượng vũ trang bạn cho Tổng cục Hậu cần Quân đội cách mạng Campuchia tự đảm nhiệm từ tháng 6/1980. Riêng công tác bảo đảm, cứu chữa thương binh, bệnh binh của bạn vẫn do Quân y Việt Nam trực tiếp đảm trách. Từ đây, ta đã kết thúc giai đoạn “từ làm giúp sang giúp làm”, nơi nào bạn thiếu cán bộ hoặc cán bộ còn yếu về trình độ chuyên môn thì ta cử chuyên gia, cán bộ giúp đỡ, cố vấn nhưng bạn giữ cương vị phụ trách, chỉ huy. Chính vì vậy, ngành Hậu cần Quân đội cách mạng Campuchia đã nhanh chóng trưởng thành, đủ sức đảm đương nhiệm vụ sau khi quân tình nguyện Việt Nam rút về nước.
2. Chỉ đạo hậu cần, kỹ thuật chuẩn bị chu đáo, kịp thời, bảo đảm cho chiến dịch mùa khô 1984 - 1985 thắng lợi
Sau thời kỳ tranh chấp, địch ra sức củng cố và xây dựng thêm lực lượng, với ý đồ tập trung nỗ lực lớn nhất chuyển sang tiến công chiến lược vào mùa khô 1984 - 1985. Để kịp thời phá tan âm mưu của chúng, bước vào mùa khô 1984 - 1985, ta và bạn phối hợp chủ động mở chiến dịch tiến công liên tục, lần lượt đánh tan 16 căn cứ lớn của địch trên dọc biên giới Campuchia - Thái Lan. Chiến dịch này chia làm ba đợt: Đợt 1, tiến công các căn cứ Poi Bét, Đăng Cum, Ăm Pin. Đợt 2, đánh chiếm căn cứ Sư đoàn 320, Sư đoàn 474 và các căn cứ khác dọc biên giới phía tây Bát Tam Bang (Noọng Prư - Cao mê lai - Sơ đa - Ô đa). Đợt 3, đánh chiếm căn cứ Tà Tum và căn cứ Côla - Tà Lốc...
Để bảo đảm chắc thắng cho chiến dịch và căn cứ từ thực tế các cơ sở hậu cần trên toàn chiến trường Campuchia, Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam quyết định chọn phương án tác chiến chiến dịch là đánh lần lượt vào các căn cứ. Phương án này tạo thuận lợi cho ngành hậu cần có điều kiện tập trung khả năng phù hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp trên toàn chiến trường trong suốt thời gian dài chiến dịch. Hậu cần các cấp đã động viên lực lượng, dồn sức tập trung bảo đảm cho chiến dịch thắng lợi với quyết tâm cao.
Đầu tháng 8/1984, thực hiện mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng và quyết tâm tác chiến của Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam, Tổng cục Hậu cần đã tổ chức chỉ đạo vận chuyển vật chất cho các mặt trận. Sau hơn ba tháng tiến hành, đến tháng 11/1984, ngành Hậu cần quân tình nguyện đã chuyển giao được 337 tấn cơm sấy, 65 tấn lương khô, 1.421 tấn thực phẩm khô và đồ hộp. Trước khi hành quân chiếm lĩnh trận địa, các đơn vị tham chiến được cấp lương thực, thực phẩm đủ ăn trong một tháng; quân trang chiến đấu bảo đảm cấp đủ 100% quân số, quân trang thương binh tỷ lệ 12%, bổ sung tổn thất 7%, quân trang tử sĩ 1% quân số. Việc cất giữ quân tư trang chưa dùng của cá nhân được tổ chức chu đáo nên đã hạn chế mất mát. Các quân khu, mặt trận và đơn vị ngoài việc tiếp nhận hết khối lượng vật chất do Tổng cục Hậu cần bảo đảm còn huy động lượng vật chất tăng gia sản xuất tại chỗ và chi viện từ Việt Nam chuyển sang để tăng thêm nguồn thực phẩm, cải thiện đời sống cho bộ đội trong dịp Tết Nguyên đán Ất Sửu (1985) và trong những ngày chiến đấu căng thẳng.
Trước chiến dịch, để bảo đảm quân số chiến đấu, Tư lệnh Lê Đức Anh chỉ đạo các đơn vị cho bộ đội ăn bồi dưỡng, cấp thuốc bổ và uống thuốc phòng sốt rét cho 100% quân số. Trong thời gian chiến dịch, việc tổ chức bữa ăn được các cấp chỉ huy, hậu cần đơn vị rất quan tâm. Ngay cả khi đã vào chiếm lĩnh trận địa, bộ đội vẫn được bảo đảm ăn nóng, bữa ăn luôn có thịt và rau tươi. Nhờ đó, sức khỏe bộ đội bảo đảm, quân số tham gia chiến đấu cao.
Trong quá trình tiến hành chiến dịch, do điều kiện khí hậu, thời tiết và địa hình ở Campuchia, việc bảo đảm nước ăn uống, sinh hoạt cho bộ đội giữa mùa khô rất khó khăn. Trên đường biên có suối, nhưng đều ở phần đất Thái Lan. Trong nội địa Campuchia, giữa rừng sâu đa số các con suối đều cạn kiệt, nếu suối nào còn thì chỉ có nước đọng thành từng vũng và bị ô nhiễm hoặc bị địch bỏ chất độc. Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của “vấn đề nước”, Tư lệnh Lê Đức Anh yêu cầu hậu cần các cấp phải tìm mọi biện pháp để bảo đảm nhu cầu tối thiểu cho ăn và uống của bộ đội, mỗi người, mỗi ngày có từ 5 đến 7 lít nước. Ngành quân lương, quân trang cấp đủ bi đông loại 1 lít cho cá nhân, loại 5 - 10 lít cho mỗi xe tăng - thiết giáp, loại can 20 - 30 lít cho tiểu đội. Ngành doanh trại cung cấp thêm túi nhựa ni lông, thùng nước, téc, can, phuy. Ngoài ra, anh em bộ đội còn có sáng kiến tự tạo ống bương, tre, thùng đạn, vỏ đạn, sọt lót nilông để đựng nước, vận chuyển nước. Hậu cần các sư đoàn, mặt trận tổ chức tiếp nước từ phía sau lên từng trận địa bằng xe ô tô. Nơi xa như hướng Sư đoàn 309 thuộc Quân khu 7 phải đi tới 50 - 70km đường rừng, thường xuyên bị địch phục kích. Khi nước tới nơi, cán bộ đại đội chịu trách nhiệm phân phối cho từng trung đội, tiểu đội. Tại Mặt trận 579, có nơi phải dùng xe chở nước xa từ 15 đến 20km.
Công tác vệ sinh, phòng bệnh trong chiến dịch cũng được Tư lệnh Lê Đức Anh quan tâm, chỉ đạo, nhờ đó các cấp hậu cần chú trọng đặt ra từ đầu và có nhiều biện pháp bảo đảm, thực hiện đồng bộ. Lực lượng cán bộ chuyên môn quân y được tăng cường. Việc giáo dục cho bộ đội nêu cao tinh thần tiết kiệm, quản lý, sử dụng nguồn nước, chiến lợi phẩm được tiến hành chặt chẽ... nên không có dịch bệnh nào xảy ra. Tỷ lệ quân số khỏe của Mặt trận 479 đạt 96,02%, Mặt trận 579 đạt 94%, Mặt trận 779 đạt 97,07% và Mặt trận 979 đạt 91,62%. Công tác tổ chức cứu chữa thương binh của các cấp hợp lý, kịp thời và chu đáo; Quân y các mặt trận đều thu dung hết số thương binh, bệnh binh, chất lượng cấp cứu, điều trị ngày càng được nâng cao. Quân y trung đoàn và quân y sư đoàn bố trí ở cự ly thích hợp, bảo đảm thời gian cáng thương binh bằng vận tải bộ về các tuyến sau ngắn nhất. Công tác chuyển thương được chú trọng, tổ chức chặt chẽ bằng nhiều phương tiện: vận chuyển bộ, xe cứu thương, xe vận tải, xe thiết giáp M.113. Trong chiến dịch này, xe M.113 được chỉ huy các cấp sử dụng rộng rãi, máy bay trực thăng cũng được sử dụng nhiều để chuyển thương binh nặng từ các căn cứ hậu cần phía trước của các sư đoàn về các bệnh viện tuyến sau. Đội chuyển thương của Mặt trận 479 còn được trang bị thêm xe bọc thép để chuyển thương và hộ tống thương binh. Nhờ vậy, tính mạng thương binh, bệnh binh trên đường vận chuyển được bảo đảm, tạo điều kiện tốt cho việc cứu chữa, điều trị.
Ngành Xăng dầu đã bảo đảm tốt cho nhiệm vụ hậu cần và nhiệm vụ quân sự cho quân tình nguyện, cũng như giúp bạn theo mệnh lệnh. Nhất là bảo đảm cho các chiến dịch tác chiến mùa khô 1985 - 1986, không có phương tiện nào bị thiếu nhiên liệu hoặc bảo đảm không kịp thời, góp phần vào thắng lợi của chiến dịch. Ngoài phục vụ chiến dịch, Hậu cần quân tình nguyện còn có lượng xăng dầu dự trữ cho nhiệm vụ tiếp theo.
Ngành Vận tải quân sự hoàn thành vận chuyển một khối lượng lớn vật chất các loại và cơ động quân. Trong gần 9 tháng kể từ ngày dứt điểm chuẩn bị cho chiến dịch, lực lượng vận tải các cấp vừa phục vụ chiến dịch, vận chuyển tiếp nhận dự trữ cho mùa mưa năm 1985, vừa phục vụ nhiệm vụ xây dựng tuyến phòng thủ biên giới (K5). Vận tải tuyến chiến dịch, nhiệm vụ cũng hết sức nặng nề trong khi lực lượng, phương tiện có hạn. Nhưng do tổ chức vận tải linh hoạt, lúc phân tán, lúc tập trung và khắc phục nhiều khó khăn nên ngành Vận tải quân sự đã góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ngoài lực lượng vận tải của quân khu, mặt trận, quân đoàn, đơn vị, ta còn huy động được lực lượng tổng hợp của Nhà nước, thuê mướn phương tiện của các địa phương bạn. Mặt trận 579 đã sử dụng 116 xe ô tô vận tải, trong đó có 17 xe của bạn. Mặt trận 479 sử dụng 80 xe ô tô vận tải; ngoài ra còn tận dụng 200 chuyến xe tác chiến, 310 chuyến xe của bạn. Đặc biệt, để kịp tham gia đợt 2 chiến dịch trong đợt cơ động Sư đoàn 7, Quân đoàn 4 từ hậu phương sang giữa những ngày Tết Nguyên đán Ất Sửu năm 1985, Hậu cần Quân khu 7 đã huy động được trên 200 xe của Quân khu, của Thành phố Hồ Chí Minh và của Cục Vận tải Tổng cục Hậu cần. Đối với Mặt trận 979, ta đã sử dụng 248 xe ô tô vận tải và 18 tàu vận tải thủy, trong đó có 72 xe của các tỉnh, 47 xe của bạn, 10 xe của Tổng cục Hậu cần. Mặt trận 979 còn sử dụng vận tải đường không 17 chuyến máy bay AH-26 và 15 chuyến máy bay Mi-8, sử dụng cả vận tải đường sắt của bạn với 45 toa tàu 40 tấn chở được 180 tấn. Kết quả vận tải toàn chiến dịch: Mặt trận 479 đã vận chuyển được 15.705 tấn hàng bằng 1.597.940 tấn/km và 39.067 lượt người bằng 5.200.000 người/km; Mặt trận 579 vận chuyển được 6.835 tấn hàng bằng 1.052.194 tấn/km và 26.050 lượt người bằng 6.247.000 người/km; Mặt trận 979 vận chuyển được 23.163 tấn hàng bằng 2.882.318 tấn/km và 23.650 lượt người bằng 3.208.436 người/km.
Chiến dịch mùa khô năm 1984-1985 trên chiến trường Campuchia của quân tình nguyện Việt Nam phối hợp cùng với bạn đã giành được thắng lợi giòn giã, vang dội, có ý nghĩa chiến lược quan trọng, buộc địch sau đó phải chuyển hướng chiến lược, lùi sâu, tản mát trong đất Thái Lan, tạo điều kiện cho bạn nhanh chóng củng cố, xây dựng quân đội lớn mạnh về mọi mặt đủ sức hoàn thành nhiệm vụ. Ngành hậu cần các cấp của quân đội ta đã góp phần quan trọng bảo đảm cho chiến dịch thắng lợi. Trước hết, luôn bám sát nhiệm vụ quân sự và chỉ đạo của người chỉ huy để chủ động, có kế hoạch và triển khai tổ chức bố trí hậu cần hợp lý, liên hoàn, vững chắc. Đồng thời, ngành Hậu cần nỗ lực khắc phục khó khăn, dồn sức tập trung bảo đảm đủ, kịp thời mọi nhu cầu cho chiến đấu. Các mặt bảo đảm đời sống, sức khỏe, thương binh, bệnh binh, vận tải... đều hoàn thành tốt nhiệm vụ với chất lượng cao hơn nhiều so với giai đoạn trước.
Như vậy, khoảng thời gian từ giữa năm 1981 đến cuối năm 1986, chúng ta vừa làm nhiệm vụ quốc tế giúp Campuchia, đồng thời tiếp tục thực hiện nghĩa vụ quốc tế giúp cách mạng Lào. Nhiệm vụ tổ chức và bảo đảm hậu cần cho quân đội ta trong thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế thời kỳ này hết sức nặng nề, khó khăn, phức tạp. Suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia, đứng đầu là Tư lệnh Lê Đức Anh; sự giúp đỡ của các bộ, ngành chức năng, các đơn vị, địa phương, ngành Hậu cần quân đội luôn bám sát nhiệm vụ, ra sức khắc phục khó khăn, vượt qua gian khổ, hy sinh, tự lực tự cường, mưu trí sáng tạo, tận tụy phục vụ bộ đội, đặc biệt là đối với các đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ ở Campuchia. Do phải thực hiện nhiệm vụ ở nước bạn nên công tác hậu cần còn một số hạn chế, nhưng toàn ngành Hậu cần đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, tổ chức bảo đảm đầy đủ, kịp thời cho quân đội ta thực hiện thắng lợi và làm tròn nhiệm vụ quốc tế vẻ vang, được nhân dân Campuchia yêu mến.
Là vị tướng trận mạc trải qua thực tiễn nhiều năm chiến tranh, Đại tướng Lê Đức Anh thực sự là một nhà chỉ huy quân sự xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên từng cương vị công tác, Đại tướng luôn trăn trở, có tầm nhìn chiến lược, chuẩn bị chu đáo, chỉ đạo chiến trường sát sao để đi đến thắng lợi. Trong đó, công tác hậu cần quân đội luôn được Đại tướng đặc biệt quan tâm và coi là yếu tố quan trọng góp phần hoàn thành nhiệm vụ quốc tế giúp bạn.
Ngày nay, trong bối cảnh tình hình mới, kế thừa và vận dụng những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh về quân sự nói chung, về hậu cần nói riêng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, ngành Hậu cần quân đội tiếp tục phát huy truyền thống, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo, phấn đấu vượt qua khó khăn thử thách, hoàn thành tốt nhiệm vụ tham mưu, chỉ đạo, tổ chức bảo đảm hậu cần; tạo ra sự đồng bộ trong bảo đảm hậu cần cho các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trung tướng TRẦN DUY GIANG