Trong lửa khói chiến tranh
Chiến dịch Gianxơn Xity
Anh Sáu Nam là người trực tiếp giao nhiệm vụ cho Phòng Thông tin việc xây dựng xã ấp chiến đấu bằng bộ đội cơ quan. Những cuộc càn “tìm diệt” của quân Mỹ trước đó, ta thường chạy di tản để bảo toàn lực lượng. Lần này chúng tập trung lực lượng lớn, nhưng ta lại chủ trương “Bám trụ và bung ra đánh, không chạy”. Lúc đó anh Sáu Nam nói: “Giờ cứ để quân địch lên tống mình đi, chúng cứ càn quét, thì mình không biết đi đâu. Nó càn tới mà ta cứ di tản tránh né hoài thì ta lấy đâu chỗ làm việc?”. Anh Sáu bảo, giờ muốn bám trụ thì phải tổ chức bộ đội thành các “huyện căn cứ” vì không có dân. Chủ trương này thống nhất từ Trung ương Cục chứ không phải chỉ có Bộ chỉ huy Miền.
Bộ phận thông tin chúng tôi lúc đó ở khu vực Tà Đạt, chúng tôi được tổ chức thành “Huyện đội Tà Đạt”. Đấy được coi là huyện đứng ở vị trí đầu sóng ngọn gió để bảo vệ Bộ chỉ huy Miền. Chúng tôi có lực lượng ba tiểu đoàn thông tin và được tăng cường Đại đội 3 bộ binh. Giáp bên đường số 4 là huyện Đồng Rùm, nơi cơ quan pháo binh Miền đứng chân. Tây đường 4 là Tà Đạt, tây nam là huyện Sóc Kị của Phòng Công binh Miền. Ở bên Trung ương Cục cũng tổ chức “huyện đội”. Nói chung các căn cứ đều thành lập “huyện”, mỗi huyện chừng 300 đến 500 tay súng chiến đấu.
Huyện Tà Đạt của chúng tôi do anh Lê Văn Sai, Trưởng phòng Thông tin làm Huyện đội trưởng; anh Thăng làm Chính trị viên. Anh Đặng Quân Thuy, Trưởng phòng Hoá học làm phó, anh Trần Thắng Minh, Trưởng phòng Giao bưu quân sự là phó, tôi Phó trưởng phòng Thông tin làm Tham mưu trưởng. Đây là chủ trương của Bộ Tư lệnh mà anh Sáu là người trực tiếp triển khai. Trước đó cuộc càn của quân Mỹ mang tên Áttenborơ chủ yếu dùng tăng - thiết giáp; nó càn quét ta không có gì để đánh. Duy nhất có tiểu đoàn 4 Thông tin vô tuyến điện diệt được một xe thiết giáp bằng một quả pháo dù, nên Bộ Tư lệnh thường điều chủ lực đến đánh. Còn cơ quan thì rút, tránh né để bảo toàn lực lượng.
Chúng tôi tổ chức lực lượng thành các "xã đội" chiến đấu và phát động phong trào làm mìn chống tăng tự tạo; mỗi xã đã có từ 100 đến 200 quả, cưa bom lấy thuốc nổ, tìm bom bi làm đầu nổ. Trước khi cuộc càn Gianxơn Xity của địch bắt đầu, trong Ban chỉ huy "Huyện đội" anh Thắng, anh Đặng Quân Thụy rút về Miền, anh Tám Thanh và anh Huỳnh Minh được gọi đi học. Ngày 21 tháng 2, anh Tám Sai cũng được gọi lên Miền.
Chúng tôi đánh từ ngày 22 tháng 2 đến 15 tháng 3 thì quân Mỹ rút. Chúng tôi bám trụ và đánh du kích liên tục. Tôi nghe lúc đó chỉ có anh Lê Đức Anh, Huỳnh Minh và Bảy Hùng ở lại, còn cơ quan Miền đã chuyển lên vị trí dự bị. Anh Bảy Hùng là Trưởng ban trang bị, ở chung với anh Sáu ở Sở Chỉ huy tiền phương.
Lúc đó từ ngoài Bắc đã chuyển vào tiếp tế cho B2 súng đạn bộ binh - tiểu liên AK, súng trường bán tự động CKC, súng RBD và cả súng chống tăng B40, B41 và DKB còn đang để trong kho chuẩn bị cho nhiệm vụ chiến lược sắp tới, sau này mới biết là cho Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968. Các anh cân nhắc thấy rằng nếu để trong kho mà chúng càn tới thì để ở chỗ nào chúng cũng thấy được. Nên lúc đó có chủ trương “Người còn thì súng đạn còn, để kho khi giặc tới thì súng đạn sẽ mất". Nên các anh chỉ chôn dấu DKB, còn lại phát cho anh em chiến đấu gồm AK, trung liên, B40. Trước đây chỉ có súng trường K44. Chủ trương xuất kho súng trang bị cho du kích cơ quan khiến anh em rất phấn khởi, quyết tâm diệt địch rất cao.
Huyện đội chỉ đạo phát động một tháng làm mìn chống tăng. Chỗ tôi là nơi địch trút bom thừa, là chỗ đầu tiên nó thả bom bị rên trời rên đất. Mà ở đây là rừng rậm ba tán lá nên có nhiều bom không nổ hết. Chúng tôi đi tháo bom, cưa bom. Có anh Quang (ở Phòng Thông tin) anh em gọi là “Anh Hai đầu bom”, chuyên mở đầu nổ, cưa bom, rồi mang nấu thuốc nổ đóng thành bánh. Khoét lỗ ở giữa, lấy quả bom bi đã rút chốt an toàn đặt lên trên. Cách làm này do công binh hướng dẫn. Mỗi trái mìn công binh bảo làm 4 ký, anh em muốn xe của địch phải “bay sạch” bánh xích mới yên tâm nên thường làm 7 đến 8 ký. Quân Mỹ đinh ninh vùng này không có dân nên sẽ không có kiểu đánh du kích mà địch vốn rất sợ. Bởi vậy chúng đã bị bất ngờ khi vấp phải “du kích cơ quan” chúng tôi đánh chúng. Ngày nào chúng cũng bị đánh, ngày nào cũng bị thương vong. Xe tăng bị cháy lúc đầu chúng còn cẩu chỗ mang xác về, nhưng sau bị nhiều, cẩu không xuể nên không 30 tại cẩu nữa.
Hồi đó Bộ Chỉ huy Miền phát động phong trào “Dũng sĩ diệt Mỹ”. Có một lần anh chị em dùng mìn DH10 diệt được chục tên lính Pắc Chunghy. Diệt được rồi báo cáo lên trên và hỏi cách tính ra sao. Trên bảo “Cứ 3 thằng Pắc thì tính bằng OV 1 thằng Mỹ”.
Có Trường Thông tin, quân số chừng một tiểu đoàn, huấn luyện báo vụ, tiểu đội trưởng và trung đội trưởng thông tin, đơn vị đã diệt xe tăng và bộ binh đầu tiên của trận càn này: “Báo cáo anh Tư! Hôm nay đánh, diệt 2 tăng, 1 trực thăng và thằng địch!” Từ Sở Chỉ huy tôi báo cáo Trưởng ban Tác chiến của Miền thì đồng chí đó hỏi lại: "B40 sao bắn được trực thăng?" Tôi bảo: “Mày nói tao khùng sao? Anh em bắn cháy một xe, trực thăng nó đáp xuống, anh em diệt luôn!”. Những ngày ấy , anh Sáu thường hỏi cho tới gốc ” luôn! Anh luôn nhắc các nơi không được vì thành tích mà cứ báo cáo nóng lên, phải thật chính xác. Có thể nói việc xây dựng ấp, xã chiến đấu của cơ quan để bám trụ đánh địch thật sôi nổi, thật cụ thể tỉ mỉ, công phu lắm; lúc rảnh thì đào công sự, làm giao thông hào, làm mìn, tinh thần sẵn sàng chiến đấu rất cao. Cán bộ chiến sĩ rất hăng hái diệt địch, nhất là khi được trang bị súng đạn tốt, khí thế quyết tâm diệt địch, lập công rất mạnh. Dựa vào thế của núi rừng quen thuộc, cứ bám trụ, luồn lách bám sát địch mà đánh, không ngày nào không có xe tăng, xe thiết giáp của chúng bị mìn, bị diệt bằng đạn B40.
Về Mậu Thân đợt 2
Đợt 1, tôi phụ trách thông tin, đánh từ phía bắc Sài Gòn. Xong đợt 1 thì rút từ Bưng Còng (sát cầu Rạch Bắp, Bến Cát, Thủ Dầu Một) về Danh Tám (Dầu Tiếng) thì quân địch đeo bám theo. Anh Trần Văn Trà chỉ thị cho anh Tám Sai, Trưởng phòng Thông tin và anh Ba Trân (Tham mưu phó) tại Sở Chỉ huy tiền phương (lúc đó các trưởng phòng của Bộ Tham mưu Miền đi với anh Trà). Khi rút về tới Danh Tám, anh Trà kêu anh Tám Sai và anh Ba Trần vô gặp anh Trà. Tôi về sau, anh Tám nói: - Anh Tư ơi! Anh Trà quyết định anh Tư đưa lực lượng sở chỉ huy nhẹ đi qua sông Vàm Cỏ, đi xuống eo Ba Thu gặp anh Lê Đức Anh. Nhưng phải cắt ngang đường số 1 qua Gia Bình, Gia Lộc, qua Phước Chỉ, không được đi vòng phía trên kẻo không kịp nhiệm vụ (đợt 2). Việc này chỉ tôi biết, cấp phó đoàn không được biết.
Cánh rừng Bời Lời trước đây rất rậm, ta thường dùng làm chỗ đóng quân, vậy mà khi tôi đến đó, rừng đã nát tan hoang. Vượt qua được sông, đến rừng Bời Lời, bố trí ém đội hình thật kín đáo để trụ lại đây mấy ngày; trên đầu máy bay địch lượn đi đảo lại, không ngớt quan sát. Tôi biết ơn các anh. Anh Hai Bình, Trưởng ban giao bưu T4 nói: - Tôi có hai thằng nhỏ chăn trâu làm giao liên, chữ cho nó đưa các anh đi tìm cho được cái chốt ở Bời Lời. Đến Bời Lời, chỗ mình đang em lại chính là đường đi của quân địch . Độ 8 giờ sáng, có một cậu bé truồi từ hầm lên và sau đó đồng chí Trưởng trạm cũng ngoi từ hầm lên. Tôi mừng như mở cờ, dù chưa biết ngày hôm nay sẽ đánh nhau cỡ nào. Tôi lo nhiều vì lực lượng tôi đem đi là bộ phận phục vụ cho Sở Chỉ huy tiền phương Miền đợt 2 đánh vào Sài Gòn, nếu đụng địch mà phải nổ súng thì sẽ không đủ lực lượng phục vụ cho chỉ huy nên phải bảo đảm thật an toàn và đầy đủ.
Sau hai đêm vượt đường 1, vượt sông Vàm Cỏ, chúng tôi đến Ba Thu an toàn, gặp các anh Sáu Nam, Hai Tưởng và Hai Nghiêm. Tất cả nhanh chóng sắp xếp Sở Chỉ huy nhẹ tiền phương của Miền, bước vào chiến đấu đợt 2 Mậu Thân.
Trước giờ G ngày "N", đêm đầu tôi đi, các đêm tiếp theo anh Hai Nghiêm và anh Sáu Nam đi. Sở Chỉ huy đi xuống vùng ven, lúc đầu ở Quang Hữu, sau đi xuống gần Tân Bửu, Long An. Càng xuống sâu bom đạn càng ác liệt. Anh Sáu Nam, anh Hai Tưởng lúc nào cũng ở dưới rừng tràm cây chỉ cao khoảng 1,5 mét nên khi đi lại cứ phải khom người xuống. Anh Hai Nghiêm, Tham mưu phó Miền, đến ngày thứ ba đã bị thương. Sở Chỉ huy tuy trong tình thế xen kẽ với địch, rất quyết liệt, nhưng vẫn duy trì được liên tục việc nắm tình hình các đơn vị phía trước, thực hiện chỉ đạo chỉ huy liên tục Sư đoàn 9, Phân khu 2, Phân khu 6 và các đơn vị cánh Nam tiến vào nội đô Sài Gòn đánh địch.
Đến lúc phải quyết định kết thúc đợt 2, sau khi đánh giá tình hình, anh Sáu Nam và anh Hai Tưởng ra lệnh lui quân. Tôi và anh Bảy Sơn, Tham mưu Phân khu 6 thường nhắc lại với nhau rằng đây là một sự quyết đoán của người chỉ huy rất sáng suốt, kịp thời và rất cương quyết. Đó là những "Kỷ niệm chiến trường" mà tôi không bao giờ quên.
Đại tá Tư Diệp
Sách Bảo vệ, xây dựng và đổi mới đất nước