Tham mưu trưởng Khu Sài Gòn - Chợ Lớn Lê Đức Anh trong những năm 1948 - 1950
Ở cương vị nào, ông cũng có quan hệ công tác và đặc biệt quan tâm đến Sài Gòn - Chợ Lớn, Thành phố Hồ Chí Minh, một trung tâm lớn về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội và đối ngoại của cả nước. Riêng trong những năm 1948 - 1950, ông trực tiếp giữ trách nhiệm Tham mưu trưởng Khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Có lối tư duy sắc sảo, biện chứng và mẫn cảm với xu thế phát triển của thực tiễn, bản lĩnh chỉ huy quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, ông đã cùng cấp ủy Đảng và Bộ Tư lệnh Sài Gòn - Chợ Lớn chỉ huy lực lượng vũ trang xây dựng, chiến đấu và công tác, góp phần quan trọng vào tiến trình phát triển phong trào chiến tranh du kích ở vùng đô thị sau lưng địch.
1. Tham mưu trưởng Khu Sài Gòn - Chợ Lớn
Sau hơn ba năm gây chiến tranh xâm lược ở Việt Nam và Đông Dương, nước Pháp ngày càng chìm sâu trong khủng hoảng. Nền kinh tế kiệt quệ từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai phục hồi chậm chạp, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Trong khi đó, chi phí của cuộc chiến tranh xâm lược “chớp nhoáng” ở Đông Dương trở nên quá tải. Chỉ tính từ tháng 01/1947 đến tháng 7/1950, Pháp thay đổi Thủ tướng, Chính phủ và tổ chức nhân sự đến 8 lần. Tại Đông Dương, sau thất bại ở Việt Bắc thu - đông 1947, thế bố trí chiến lược tại chiến trường Bắc Bộ bị rúng động và tinh thần chiến đấu của đội quân viễn chinh Pháp bắt đầu sa sút. Tình hình ấy buộc Pháp phải chuyển hướng chiến lược chiến tranh.
Tại Nam Bộ, nếu trước đó Pháp chỉ dùng biện pháp quân sự là chủ yếu, thì giờ đây phải chuyển trọng tâm hoạt động sang bình định nhằm giữ vững và củng cố vùng tạm chiếm, thực hiện chiến tranh tổng lực, đánh phá cơ sở kinh tế, chính trị và các cơ sở dự trữ của lực lượng kháng chiến. Về chính trị, chúng xúc tiến thành lập chính quyền bù nhìn trung ương và địa phương, lôi kéo các tổ chức tôn giáo và sử dụng lực lượng vũ trang giáo phái (Thiên Chúa giáo, Cao Đài, Hòa Hảo...) chống kháng chiến. Về quân sự, Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Nam Kỳ - tướng Nyo - bố trí lại chiến trường, bỏ bớt những đồn bót nhỏ lẻ, tập trung lực lượng chủ yếu ở xung quanh Sài Gòn. Chúng ráo riết phát triển các đơn vị người Việt trong quân đội Pháp, đưa số quân ngụy từ 25.000 (năm 1947) lên đến 80.000 (năm 1948); đồng thời điều chuyển 4 tiểu đoàn bộ binh và 1 tiểu đoàn pháo binh từ miền Bắc vào Sài Gòn, đưa lực lượng địch ở Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ lên tới 25.438 tên (Pháp và Lê Dương: 5.574, quân đội Pháp người Việt Nam: 19.864). Cũng từ năm 1948, tướng Boyer De Latour đến Sài Gòn, thay Nyo làm Tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại Nam Bộ. Kế hoạch bình định Nam Bộ được bổ sung “chiến thuật tháp canh De Latour”. Đến mùa thu năm 1949, thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và hai tỉnh Chợ Lớn, Gia Định có 516 đồn bót tháp canh với 10.000 quân.
Sang năm 1950, mặc dù Pháp đã điều động nhiều đơn vị ra chiến trường Bắc Bộ và Trung Bộ, nhưng quân số tại Sài Gòn - Chợ Lớn không giảm do vẫn tiếp tục được tăng cường viện binh từ Pháp sang Việt Nam và phát triển thêm “quân đội quốc gia” tại chỗ. Riêng trong tháng 01/1950, Pháp đưa sang Sài Gòn 16.679 tên, gần 370 tấn đạn dược và 174 tấn quân nhu. Trong lúc đó, chính phủ Bảo Đại triển khai chiến dịch xây dựng “quân đội quốc gia độc lập trong Liên hiệp Pháp”. Xung quanh thành phố Sài Gòn, tính đến cuối tháng 01/1950, ở phía đông và bắc, quân địch có 14.242 tên (1.913 lính Pháp và Lê dương, 1.703 lính quân đội Bảo Đại, 1.003 lính Khmer đánh thuê, 2.151 lính Cao Đài phản động, 171 lính Công giáo phản động và 6.401 lính bảo an); ở phía tây và nam, quân địch có 4.856 tên (1.134 lính Pháp và Lê dương, 2.384 lính quân đội Bảo Đại, 729 lính Khmer đánh thuê, 609 lính Cao Đài phản động). Kế hoạch của thực dân Pháp là muốn đẩy lực lượng kháng chiến ra xa các đô thị, nhất là Sài Gòn - Chợ Lớn, hòng tạo ra một cục diện mới, dứt điểm cuộc bình định Nam Bộ để tập trung lực lượng trở lại chiến trường miền Bắc Bộ, Trung Bộ và Lào.
Trước những động thái mới của thực dân Pháp, vấn đề đặt ra là cần phải điều chỉnh tổ chức quân sự theo lãnh thổ nhằm tạo điều kiện cho Sài Gòn - Chợ Lớn chủ động trong hoạt động chống chiến lược bình định của địch phù hợp với vị thế đặc điểm địa bàn. Tháng 12/1948, theo đề nghị của Bộ Tư lệnh Nam Bộ (do Trung tướng Nguyễn Bình làm Tư lệnh), Ủy ban Kháng chiến - hành chính Nam Bộ ban hành quyết định tách thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn cùng tỉnh Gia Định, tỉnh Chợ Lớn và một phần tỉnh Tây Ninh thuộc Khu 7 để thành lập Khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Khu Sài Gòn - Chợ Lớn trực thuộc Bộ Tư lệnh Nam Bộ, Bộ Tư lệnh gồm: đồng chí Tô Ký - Quyền Tư lệnh, đồng chí Phan Trọng Tuệ - Chính ủy, đồng chí Huỳnh Văn Một - Phó Tư lệnh, đồng chí Lê Đức Anh - Tham mưu trưởng.
Đang giữ chức vụ Tham mưu trưởng Khu 8, cuối năm 1948, ông Lê Đức Anh nhận được lệnh về chiến khu Vườn Thơm nhận nhiệm vụ Tham mưu trưởng Khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Tại đây, ông cùng Bộ Tư lệnh Khu chỉ đạo lực lượng vũ trang kiện toàn tổ chức và đẩy mạnh hoạt động tác chiến cả trong và ngoại vi thành phố.
2. Chỉ đạo kiện toàn, phát triển lực lượng vũ trang
Từ trước tháng 12/1948, lực lượng vũ trang hoạt động trên địa bàn Sài Gòn - Chợ Lớn gồm hai hệ thống: lực lượng vũ trang nội thành đặt dưới sự chỉ đạo của Thành ủy, do Thành đội chỉ huy và lực lượng vũ trang ngoại thành trực thuộc Bộ Tư lệnh Khu 7. Lực lượng nội thành gồm 10 ban công tác (gọi là Ban công tác Thành). Ở ngoại thành Sài Gòn, các chi đội trực phát triển thành các trung đoàn. Sau khi xuống cơ sở nắm chắc tổ chức biên chế, khả năng hoạt động và nhu cầu của chiến trường, Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đề nghị Bộ Tư lệnh Khu kiện toàn lại lực lượng vũ trang. Theo đó, 10 ban công tác Thành biên chế lại thành 5 ban, lấy phiên hiệu từ 16 đến 20. Cả năm ban nói trên đều trực thuộc Bộ Tư lệnh Khu do Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ huy. Mỗi ban gồm chủ yếu các bộ phận chiến đấu tại chỗ trong nội thành, đồng thời có những bộ phận đảm bảo và phục vụ chiến đấu ở ngoại ô, vùng ven. Các ban được phân công phụ trách từng phạm vi khu vực xác định. Cùng lúc, hệ thống dân quân Thành được củng cố lại, mỗi khu vực đều có binh công xưởng. Thành đội Sài Gòn - Chợ Lớn có một dân quân xưởng với 73 công nhân, một số quận, hộ đều có ban rờ sạc và tổ vũ khí. Tự vệ Thành có Ban vũ khí phát triển thành Binh công xưởng của 5 ban công tác với 80 công nhân.
Đứng chân hoạt động ở địa bàn ngoại thành, Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn có các trung đoàn 300, 306, 308, và 312. Để tạo sự phối hợp nhịp nhàng trong hoạt động tác chiến giữa nội và ngoại vi thành phố, thực hiện “trong đánh, ngoài đánh”, Tham mưu trưởng Lê Đức Anh chỉ đạo thành lập một mặt trận chung, lấy tên là Mặt trận quân sự Thành Sài Gòn - Chợ Lớn. “Mặt trận” gồm 5 ban công tác Thành trong nội đô và 5 tiểu đoàn bao vây xung quanh thành phố (1 tiểu đoàn của Trung đoàn 306 ở Gò Vấp, 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 312 ở Hóc Môn, 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 300 ở Cần Giuộc, 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 308 ở Trung Huyện và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 306 ở Thủ Đức).
Tiếp đó, tháng 11/1949, chấp hành chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (ngày 18/8/1949) “về xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân trong giai đoạn tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công”, Bộ Tư lệnh Nam Bộ chỉ đạo sắp xếp lại chiến trường, tổ chức lại lực lượng vũ trang theo hướng thành lập các liên trung đoàn, tiểu đoàn tập trung, đại đội độc lập. Theo đó, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn được mở rộng về phía Tây Bắc, gồm thêm toàn bộ địa bàn tỉnh Tây Ninh. Thực hiện chủ trương trên, Tham mưu trưởng Lê Đức Anh chỉ đạo các trung đoàn tổ chức lại lực lượng, mỗi trung đoàn xây dựng 1 tiểu đoàn chủ lực cơ động và các đại đội độc lập hoạt động tại từng địa bàn được phân công. Theo đó, Trung đoàn 300 Dương Văn Dương có 1 tiểu đoàn chủ lực và 2 đại đội độc lập, 1 đại đội “đặc biệt”, 1 đại đội binh chủng (pháo binh và công binh) hoạt động tại Nhà Bè, Cần Giuộc và khu vực phía nam thành phố. Trung đoàn 308 có 1 đại đội chủ lực và 2 đại đội độc lập hoạt động tại tỉnh Chợ Lớn và khu vực phía tây thành phố. Trung đoàn 311 có 1 đại đội chủ lực và 2 đại đội độc lập hoạt động tại Tây Ninh. Riêng Trung đoàn 306 và Trung đoàn 312 nhập lại thành Liên trung đoàn 306-312, gồm 1 tiểu đoàn chủ lực và 6 đại đội độc lập hoạt động ở các huyện phía bắc và tây thành phố. Ngoài ra, Bộ Tư lệnh Khu còn thành lập 1 tiểu đoàn chủ lực cơ động lấy phiên hiệu 870. Trong nội thành, ngày 19/12/1949, các ban công tác Thành nhập lại, thành lập Tiểu đoàn Quyết tử 950 trực thuộc Bộ Tư lệnh Khu. Tiểu đoàn gồm 3 đại đội mang phiên hiệu 3018, 3019, 3020.
Cùng với việc tổ chức lại bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, lực lượng dân quân, du kích được chú trọng xây dựng. Tự vệ ở khu phố, xí nghiệp trong thành phố phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Tính đến cuối năm 1949, toàn Khu Sài Gòn - Chợ Lớn có tổng cộng 3.505 đội viên du kích xã, riêng Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn có 36 tiểu đội không thoát ly. Bên cạnh lực lượng không thoát ly, các huyện ngoại thành đều xây dựng lực lượng du kích tập trung. Huyện Thủ Đức có 2 tiểu đội. Các huyện Nhà Bè, Hóc Môn, Gò Vấp, Trung Quận mỗi nơi có 1 tiểu đội.
Lúc này, trên chiến trường Khu Sài Gòn - Chợ Lớn đã hình thành lực lượng vũ trang ba thứ quân: bộ đội chủ lực (các tiểu đoàn chủ lực trong Liên trung đoàn 306-312, các trung đoàn 300, 308, 311 và Tiểu đoàn 870); bộ đội địa phương (các đại đội trong Liên trung đoàn, trung đoàn và Tiểu đoàn Quyết tử 950); tự vệ Thành Sài Gòn - Chợ Lớn và dân quân du kích các huyện ngoại thành. Chỉ đạo của Tham mưu trưởng Lê Đức Anh về việc tổ chức lại lực lượng vũ trang đã tạo ra những điều kiện mới để lực lượng vũ trang Khu Sài Gòn - Chợ Lớn xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, đẩy mạnh hoạt động tác chiến trong giai đoạn “tích cực cầm cự chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công”.
3. Chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động tác chiến
Cùng Bộ Tư lệnh Khu, Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đã chỉ huy lực lượng vũ trang Sài Gòn - Chợ Lớn đẩy mạnh hoạt động quân sự, vừa đánh địch càn quét khủng bố, vừa chủ động phục kích, tập kích tiêu diệt tiêu hao quân địch cả ở trong và ngoài thành phố.
Trong nội thành, các Ban công tác, Liên tác chiến đấu quân, Đại đội du kích, Công an xung phong tập kích nhóm sĩ quan Pháp trên đường Chasseloup Laubat (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai), trong rạp chiếu bóng Majestic trên đường Catinat (nay là đường Đồng Khởi); đốt cháy kho xăng ở Tân Sơn Nhất, tàu vận tải Brellel trọng tải 8.000 tấn trên sông Sài Gòn và một xà lan chứa xăng dầu tại cảng Nhà Bè; cùng các mục tiêu khác tại Thị Nghè, Bà Chiểu, Gò Vấp, cầu Rạch Chiếc, ngã ba Chữ Y, Nhà Bè, Chợ Đệm, Phú Thọ Hòa, hộ 17, 18 Chợ Lớn. Chỉ tính riêng 6 tháng cuối năm 1949, các đại đội du kích tác chiến 93 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 67 tên địch, bắt sống 24 tên. Từ cuối năm 1949, các lực lượng vũ trang nội thành như Tiểu đoàn Quyết tử, tự vệ, công an xung phong chuyển sang tiến công địch theo theo phương châm “đẩy mạnh vận động chiến tiến tới”, tập kích các nhà hàng Royal, Bombay, Khánh Hội, rạp chiếu bóng Nam Quang, cảng Sài Gòn, đường Mac Mahon (nay là đường Nam Kỳ khởi nghĩa). Riêng trong tháng 01/1950, các lực lượng vũ trang nội thành tổ chức 42 trận tác chiến đánh địch và phá hoại kinh tế, 7 lần vũ trang tuyên truyền, loại khỏi vòng chiến đấu 81 tên, thiêu hủy 3 xe cơ giới, 6 tàu ghe, 600 vỏ xe hơi, thu 3 súng và nhiều đồ quân dụng, dân dụng khác.
Tại các huyện ngoại thành, dưới sự chỉ huy của Tham mưu trưởng Lê Đức Anh, hoạt động quân sự của các lực lượng vũ trang kháng chiến diễn ra ở quy mô lớn hơn, chủ yếu là đánh địch càn quét bắn phá vào vùng du kích và vùng căn cứ địa, phục kích các đoàn vận tải quân sự (thủy, bộ) và tập kích đồn bót tháp canh, cơ sở hậu cần của chúng. Trong năm 1949, lực lượng du kích các huyện Hóc Môn, Thủ Đức, Nhà Bè đã độc lập tác chiến 207 trận, phối hợp tác chiến 171 trận, đánh khuấy rối 288 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 862 tên địch, bắt sống 18 tên, phá hủy 2 bót, 17 xe, 139 căn nhà của bọn Việt gian phản động, thu 66 súng, 38 lựu đạn, 266 viên đạn và nhiều quân trang quân dụng. Hoạt động quân sự của lực lượng vũ trang Khu Sài Gòn - Chợ Lớn đã góp phần tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, giữ vững và đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh, hạn chế và từng bước đánh bại chiến lược bình định của thực dân Pháp ở Nam Bộ.
Trong xu thế “chuyển mạnh sang tổng phản công”, phối hợp với các chiến dịch tại Tây Nguyên, Lào và Bắc Bộ, đầu năm 1950, Tham mưu trưởng Lê Đức Anh tham mưu cho Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn chủ trương mở một chiến dịch trên đường số 7 và đường 14, nhằm: “1. Mở rộng khu giải phóng từ đường số 1 (Gia Định) qua tới đường số 13 và đường xe lửa Lộc Ninh - Thủ Dầu Một. 2. Bảo đảm sự an toàn cho căn cứ An Thành và Hóc Môn là hai căn cứ chủ yếu của Khu Sài Gòn và nhiều cơ quan chính đảng huyện Bến Cát và tỉnh Gia Định. 3. Chiếm được miền kinh tế phì nhiêu từ Rạch Kiến lên tới Bến Súc để làm kho tiếp tế lương thực dồi dào sau này. 4. Để làm bàn đạp đánh mạnh vào vườn cao su Dầu Tiếng, Hớn Quản và đường số 13 và đường xe lửa Lộc Ninh - Thủ Dầu Một. 5. Ngưng trệ chương trình lấn chiếm hoàn toàn huyện Hóc Môn của địch”. Bộ Tư lệnh đồng ý với đề xuất của Tham mưu trưởng và ban hành quyết định thành lập “Ban chỉ huy chiến dịch” gồm Nguyễn Văn Thi (Chỉ huy trưởng), Trần Đình Xu (Chỉ huy phó), Lê Đức Anh (Tham mưu trưởng).
Công tác chuẩn bị cho đợt hoạt động được tiến hành khẩn trương ngay đầu năm 1950. Lực lượng tham gia đợt hoạt động gồm 1 tiểu đoàn chủ lực tăng cường của liên trung đoàn 306-312, 1 tiểu đoàn chủ lực và một đại đội độc lập của liên trung đoàn 301-310, 1 đại đội độc lập của huyện Bến Cát, lực lượng dân quân du kích hai huyện Hóc Môn, Gò Vấp và lực lượng công đoàn cao su đồn điền Dầu Tiếng. Phòng Chính trị Khu chuẩn bị phương án động viên bộ đội, tuyên truyền địch ngụy vận, động viên nhân dân ủng hộ và tham gia đợt hoạt động. Đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn và các cơ sở quân nhu của bộ đội tích cực chuẩn bị lương thực và thực phẩm và thuốc men sẵn sàng phục vụ. Đợt hoạt động diễn ra trong ba ngày (25-27) tháng 01/1950. Kết quả, bộ đội và du kích đã loại khỏi vòng chiến đấu 84 tên địch, phá hỏng 3 xe thiết giáp, 3 cầu, thu nhiều súng đạn (trong đó có 6 súng máy) và một số đồ dùng quân sự khác. Mặc dù không đạt được triệt để mục đích đề ra ban đầu, đợt hoạt động đã làm gián đoạn giao thông địch trong một thời gian dài, sau đó buộc địch phải giảm bớt hoạt động trên đường số 5 Hóc Môn và đoạn đường xe lửa Dĩ An - Lái Thiêu. Đây là đợt tiến công quân sự tập trung lớn nhất của lực lượng vũ trang Khu Sài Gòn - Chợ Lớn kể từ đầu cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Pháp; cũng là trận chỉ huy cấp chiến dịch đầu tiên của ông Lê Đức Anh, một người chưa từng được đào tạo về quân sự, về công tác tham mưu, chỉ huy binh chủng hợp thành.
Tháng 8/1950, để thực hiện chủ trương “tiến tới tổng phản công thắng lợi”, tăng cường lực lượng cho Khu 7, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn giải thể để thành lập Đặc khu, gồm Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và một phần các huyện vùng ven như Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè, Trung Huyện. Ông Lê Đức Anh rời Sài Gòn - Chợ Lớn, hành quân về Chiến khu Đ làm Tham mưu trưởng Khu 7. Trong vòng hai năm giữ trách nhiệm Tham mưu trưởng Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, ông đã để lại nhiều dấu ấn trong xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân phù hợp với đặc điểm địa bàn, trong hoạt động tác chiến tiến công địch cả ở nội đô và vùng ven, trong thiết kế và tổ chức một “chiến dịch” lớn và duy nhất của Sài Gòn - Chợ Lớn, Gia Định trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Đại tá PGS.TS. HỒ SƠN ĐÀI