Quay lại

Quân khu 4 điều chỉnh thế bố trí chiến lược trên địa bàn theo chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1987 - 1992)

Với trọng trách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trong giai đoạn 1987 - 1992, cùng với Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) và Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã có những chỉ đạo, điều chỉnh thế bố trí chiến lược chung trên cả nước, trong đó, đặc biệt quan tâm đến vùng đất Khu 4 - địa bàn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng của đất nước.
 

Những ý kiến chỉ đạo, điều chỉnh của đồng chí Lê Đức Anh đã thể hiện vai trò của người chỉ huy quân sự tài năng, một nhà lãnh đạo xuất sắc của cách mạng Việt Nam. Dưới sự chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Quân khu 4 tiến hành điều chỉnh thế bố trí chiến lược ở những nội dung sau:
 

1. Điều chỉnh vị trí đứng chân của các đơn vị, hình thành thế bố trí chiến lược bảo đảm nâng cao khả năng phòng thủ, sức mạnh sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi của lực lượng vũ trang Quân khu 4 trong tình hình mới

Ngày 18/02/1987, đồng chí Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trên cương vị mới, đồng chí đã sớm nắm bắt thực trạng khó khăn chung của đất nước, của quân đội, để cùng với tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương và cơ quan Bộ Quốc phòng nhanh chóng chỉ đạo triển khai thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược trước mắt là: Điều chỉnh tổ chức biên chế, giảm quân số thường trực và tiến hành điều chỉnh lại thế bố trí chiến lược trong toàn quân phù hợp với kế hoạch phòng thủ cơ bản trong thời kỳ mới; phát huy được sức mạnh toàn dân, toàn diện, tạo nên sức mạnh phòng thủ đất nước, đủ sức chống lại mọi tình huống chiến tranh nếu xảy ra. Đây là một cuộc đổi mới về xây dựng Quân đội nhân dân, xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Quán triệt và triển khai thực hiện nhiệm vụ quân sự quốc phòng theo đường lối đổi mới, đầu tháng 7/1987, Đảng ủy Quân khu họp mở rộng xác định các nhiệm vụ cấp bách: Chuyển hướng thực hiện nhiệm vụ quốc tế ở Lào cho phù hợp với tình hình phát triển mới và yêu cầu điều chỉnh lực lượng quân tình nguyện. Chỉ đạo chặt chẽ việc điều chỉnh lực lượng đi đôi xây dựng nâng cao chất lượng tổng hợp lực lượng vũ trang ba thứ quân. Chỉ đạo các tỉnh tập trung nâng cao chất lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, cơ sở xã, phường; chuyển hướng mạnh mẽ, thiết thực và hiệu quả hơn nữa về chỉ đạo thực hiện công tác quân sự địa phương trong tình hình mới. Yêu cầu các tỉnh ra nghị quyết hoặc chỉ thị về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trước sự phát triển mới của tình hình Quân khu 4, quân đội và đất nước.

Theo đường lối đổi mới của Đảng và ý kiến chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Quân khu 4 có bước đột phá về chấn chỉnh tổ chức biên chế, điều chỉnh bố trí lại đội hình; triển khai tích cực các mặt công tác với những cách làm mới, phù hợp tình hình thực tế của Quân khu 4. Quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ đã từng bước đổi mới tư duy và hành động, phong cách làm việc, tập trung khâu then chốt xây dựng Đảng, tăng cường đi sát cơ sở, đối thoại với cấp dưới, mở rộng tự phê bình, phê bình, phát huy dân chủ, tạo được sự nhất trí cao. Theo đó, Quân khu 4 đã thực hiện được một bước về chấn chỉnh lực lượng, giảm mạnh quân số, đẩy mạnh xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, nâng cao sức mạnh và khả năng phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, tham gia sản xuất, xây dựng phát triển kinh tế, thực hiện tốt nhiệm vụ quốc tế với Lào.

Sau khi có Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị, “Về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới” và Chỉ thị 20 của Ban Bí thư, “Về nhiệm vụ quốc phòng địa phương của các cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể”, Quân khu 4 đã hiệp đồng chặt chẽ với các địa phương đẩy mạnh công tác quân sự địa phương, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng thế trận phòng thủ trên các hướng chủ yếu, nhất là chất lượng xây dựng huyện gắn với xây dựng xã, phường, cơ sở an toàn làm chủ. Những tháng cuối năm 1987, toàn Quân khu 4 thực hiện điều chỉnh lực lượng quy mô lớn, đồng thời bố trí lại lực lượng chiến lược để kết hợp giữa nhiệm vụ tác chiến với xây dựng lực lượng và thế trận.

Trong bối cảnh chung của đất nước, quân đội và Quân khu 4, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 4 và các tỉnh đã thống nhất cao, kiên quyết thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu đã xác định, ổn định tình hình. Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh ra Nghị quyết 20 “Về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự xã hội trong tình hình mới”; Thường vụ Tỉnh ủy Bình Trị Thiên ra Nghị quyết 12 “Về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh”. Tỉnh Thanh Hoá triển khai thực hiện Thông báo 74 của Ban Bí thư giải quyết một số vấn đề về nội bộ. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 4, các cơ quan Quân khu 4 cùng các tỉnh định hướng và triển khai từng bước thực hiện
2 nội dung mới, kịp thời rút kinh nghiệm về xây dựng, diễn tập khu vực phòng thủ ở tỉnh Nghệ Tĩnh; xây dựng diễn tập một số làng, xã chiến đấu, trọng tâm ở tỉnh Bình Trị Thiên nhằm định hình mô hình về quốc phòng, an ninh ở cơ sở. Đây là bước đột phá mới để thực hiện được hai chuyển hướng: Chuyển hướng công tác quân sự địa phương và xây dựng cơ sở chủ lực, địa phương, cơ sở kho tàng, trạm xưởng. Cuối năm 1988, Quân khu tập trung chuẩn bị kế hoạch 1989 - 1990, trong đó xác định các việc lớn: Tiếp tục giảm mạnh quân số trong lúc nhiệm vụ có nhiều mặt phát triển mới; xây dựng, rút kinh nghiệm về làng, xã chiến đấu; diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh, huyện; triển khai Kế hoạch C89 và A2, bổ sung hoàn chỉnh Kế hoạch A.

Đến cuối năm 1989, toàn Quân khu 4 đã hoàn thành về cơ bản việc điều chỉnh bố trí chiến lược, xây dựng lại quyết tâm tác chiến trong tình hình mới. Sở Chỉ huy Quân khu 4 cũng được di chuyển từ Đại Huệ, huyện Nam Đàn về vị trí trước đây tại thành phố Vinh, nhằm bảo đảm cho việc lãnh đạo, chỉ huy trước yêu cầu mới. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đã phối hợp cùng với cấp ủy, chính quyền các địa phương trên địa bàn, triển khai bước đầu nhiệm vụ phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, hình thành Kế hoạch A2, gắn vào các nội dung diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh, huyện; đồng thời tổ chức luyện tập xử lý một số tình huống giả định, trọng điểm là các tỉnh phía nam Quân khu 4; hình thành Sở Chỉ huy Tiền phương của Quân khu 4 ở Thừa Thiên Huế và sẵn sàng cơ động khi có tình huống phức tạp. Trong hai năm 1991 - 1992, Quân khu 4 và các tỉnh tiếp tục tập trung thực hiện nhiệm vụ xây dựng nâng cao chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang và sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, tạo thế và lực mới, đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, chủ động phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, giữ vững ổn định chính trị các địa bàn trong mọi tình huống. Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ đạo nhanh chóng rà soát, bổ sung hoàn chỉnh Kế hoạch A2 từ Quân khu 4 xuống cơ sở sát với tình huống dự báo; xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu 4 vững mạnh toàn diện, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ và làm tốt công tác dân vận.

Để tăng cường khả năng phòng thủ hướng nam Quân khu 4, theo chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, phải tổ chức ngay một trung đoàn bộ binh khoảng 1.000 cán bộ, chiến sĩ thuộc Bộ Chỉ huy quân sự Thừa Thiên Huế để bảo đảm sẵn sàng chiến đấu. Chấp hành mệnh lệnh, Quân khu đã điều động Trung đoàn 176 được bổ sung thêm Tiểu đoàn 4, Sư đoàn 968 bố trí đứng chân ở Phú Bài, khi có lệnh nhanh chóng tổ chức chiến đấu được ngay. Đồng thời, chỉ đạo Trung đoàn 206, điều 1 tiểu đoàn tăng thiết giáp gồm 10 xe PT-76 và 4 xe ĐM2 vào nhận nhiệm vụ theo phương án A2 trên địa bàn Thừa Thiên Huế. Các đơn vị công binh của tỉnh và Quân khu 4 cũng được triển khai nhiệm vụ nhanh chóng tổ chức bảo quản và xây dựng thêm một số đường hầm, công sự ở các đảo, một số vị trí then chốt ở các tỉnh Nghệ Tĩnh, Quảng Trị; xây dựng các cụm điểm tựa theo phương án tác chiến. Các công trình được xây dựng theo tiêu chuẩn đúc nguyên khối thay cho việc lắp ghép trước đây để bảo đảm chất lượng theo yêu cầu chiến đấu.

2. Điều chỉnh tổ chức biên chế, giảm quân số thường trực, tăng cường lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên, xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu 4 theo hướng tinh, gọn, mạnh

Theo mệnh lệnh của Đại tướng Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Chỉ thị của Tư lệnh Quân khu, việc chấn chỉnh tổ chức, giảm quân số bắt đầu từng bước, tiến tới giảm quân số lớn; trong đó cơ quan các cấp, cơ sở bảo đảm phục vụ giảm từ 20 đến 25% biên chế theo quy định, sau đó tiếp tục giảm thêm 10 đến 15%. Mục đích là nhằm chấn chỉnh một bước lực lượng vũ trang Quân khu theo hướng tinh giản biên chế, kiện toàn bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương theo hướng gọn, mạnh, chính quy, kỷ luật nghiêm minh, giữ vững kỷ luật kỷ cương, nâng cao sức chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu; xây dựng dân quân tự vệ và các lực lượng dự bị động viên trong sạch, vững mạnh, chất lượng chiến đấu cao, đủ sức làm nòng cốt chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt và giữ vững an ninh chính trị ở từng địa phương, nhất là các khu vực xung yếu và địa bàn trọng điểm.

Quân khu bố trí ưu tiên lực lượng cho các đơn vị quân tình nguyện ở Lào và lực lượng cơ động; điều chỉnh hợp lý hệ thống nhà trường và khung huấn luyện chiến sĩ mới; soát xét kỹ lực lượng làm kinh tế, cơ quan các cấp, cơ sở bảo đảm phục vụ. Tiến hành giải thể Trung tâm huấn luyện chiến thuật - chiến dịch, các đội cắm mốc biên giới, các trạm đón quân trả phép, bàn giao bộ đội biên phòng về thuộc quyền Bộ Tư lệnh Biên phòng. Ưu tiên xây dựng khu vực phòng thủ gồm: 6 huyện biên giới: Bá Thước, Thường Xuân, Tương Dương, Hương Sơn, Tuyên Hoá và A Lưới; 8 huyện ven biển là Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Tĩnh Gia, Quỳnh Lưu, Nghi Xuân, Kỳ Anh, Bến Hải và Phú Lộc; 2 thành phố là Vinh và Huế; 3 thị xã là Bỉm Sơn, Thanh Hoá và Đông Hà. Tập trung xây dựng “làng, xã chiến đấu”, “cụm chiến đấu” liên hoàn tuyến biển, bản, xã tuyến biên giới và những xã, phường khu vực phòng thủ trọng điểm nội địa.

Tháng 9/1987, Quân khu tiếp tục giải thể Trung tâm huấn luyện chiến sĩ mới 441; sáp nhập Trường Đảng, Trường Văn hoá vào Trường Quân chính Quân khu; giải thể Trường Hậu cần - Kỹ thuật, chuyển một bộ phận sang Cục Hậu cần, Cục Kỹ thuật; chuyển Trường Quân y về Viện Quân y 268; giải thể Cục Kinh tế và kiện toàn Phòng Kinh tế. Ở Lào, Sư đoàn 324 và Sư đoàn 968 nhận thức đúng tình hình nhiệm vụ, phối hợp chặt chẽ với bạn bàn giao cụ thể địa bàn, bảo đảm bí mật, an toàn, chấp hành đúng quy định quan hệ quốc tế Việt - Lào và đến tháng 11/1987, các đơn vị tổ chức hành quân về nước an toàn.

Thực hiện chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, năm 1988, Quân khu 4 chỉ đạo các tỉnh đẩy mạnh xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Ở Bình Trị Thiên, 14 huyện, thị, thành đều làm điểm xây dựng xã an toàn làm chủ, có mô hình mới liên kết giữa xã và đồn biên phòng như xã Tân Phước với đồn biên phòng Lao Bảo. Quân khu 4 cùng với tỉnh Bình Trị Thiên chỉ đạo xã Gio Việt tổ chức lực lượng dân quân chiến đấu trên biển; tổ chức rà xét dân quân tự vệ 410/410 xã và 545/612 cơ sở tự vệ, đưa 27.330 người không đủ tư cách ra và phát triển mới 8.760 người. Một số địa phương trong tỉnh giữ được phong trào “cân thóc quốc phòng, ngày công quốc phòng”, có quỹ quốc phòng
3 cấp: huyện, xã, gia đình. 100% cán bộ xã, phường ở 3 tỉnh sau bầu cử Hội đồng nhân dân được sắp xếp lại; các xã, phường đội trưởng đều là đảng viên, trong đó có 59,7% tham gia cấp ủy địa phương. Theo tinh thần đổi mới, bám sát yêu cầu thực tiễn đặt ra, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đã chỉ đạo các cơ quan nghiên cứu đổi mới nội dung giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự theo yêu cầu “đánh như thế nào thì huấn luyện như thế” cho dân quân tự vệ, dự bị động viên, từng bước tìm cách khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức huấn luyện.

Năm 1989, tiếp tục thực hiện tinh giản tổ chức, biên chế, quân số theo yêu cầu của Bộ, Quân khu 4 tiến hành giải thể Sư đoàn 348 và Sư đoàn 342, Trung tâm huấn luyện 442, Đội điều trị 42, Tiểu đoàn 684; điều chỉnh Lữ đoàn 176 thành Trung đoàn 176 dự bị động viên có 1 tiểu đoàn đủ quân, Tiểu đoàn 31 đặc công thành Đại đội 31. Theo phương hướng đó, tổng quân số Quân khu 4 giảm mạnh (42,29%) tổ chức biên chế cả chủ lực và địa phương, nhưng vẫn bảo đảm được chất lượng luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu.

Đến năm 1991, Quân khu 4 chỉ đạo giải thể các trung đoàn bộ binh khung động viên của các tỉnh Trung đoàn 762, Trung đoàn 840 (Thanh Hóa), Trung đoàn 764, Trung đoàn 841 (Nghệ Tĩnh), Trung đoàn 996 (Quảng Bình), Trung đoàn 6 (Quảng Trị), Trung đoàn 842 (Thừa Thiên Huế); thành lập các tiểu đoàn bộ binh sẵn sàng chiến đấu gồm: Tiểu đoàn 40 Thanh Hóa, Tiểu đoàn 41 Nghệ Tĩnh, Tiểu đoàn 42 Quảng Bình, Tiểu đoàn 43 Quảng Trị; thành lập 2 trung đội bộ binh ở hai huyện biên giới Quan Hóa, Kỳ Sơn. Các trung đoàn binh chủng: 414 Công binh, 283 Phòng không, 16 Pháo binh nâng cấp thành 3 lữ đoàn; chuyển Trường Quân chính Quân khu thành Trường Quân sự Quân khu; thành lập Cụm kho kỹ thuật tổng hợp (CK2) thuộc Cục Kỹ thuật Quân khu.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Đại tướng Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trong 5 năm (1987 - 1992), lực lượng vũ trang Quân khu 4 đã từng bước điều chỉnh thế bố trí chiến lược phù hợp với tình hình mới, tăng cường sức mạnh phòng thủ, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của lực lượng vũ trang Quân khu; bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn được giao.
 

3. Kết hợp chặt chẽ với lãnh đạo, chính quyền các địa phương thực hiện quy hoạch phân bố dân cư trên địa bàn quân khu, đặc biệt ở vùng biên giới đất liền, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh

Thực hiện chỉ đạo của đồng chí Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh về điều chỉnh thế bố trí chiến lược, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 nhận thức sâu sắc rằng: Quy hoạch phân bố dân cư là công tác hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh của cả nước nói chung, trên địa bàn Quân khu nói riêng, đặc biệt là hướng biên giới, biển, đảo. Thực tế cho thấy, dân cư, lao động trên địa bàn Quân khu phân bố không đều, thường tập trung đông ở các đô thị, đồng bằng và ven biển, nhất là thành phố, thị xã, thị trấn; trong đó các khu vực miền núi của Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình... vùng biên giới đất liền giáp với nước bạn Lào nhìn chung dân cư còn khá thưa thớt. Do đó, để tăng cường công tác xây dựng khu vực phòng thủ trên địa bàn Quân khu, ngoài nhiệm vụ điều chỉnh vị trí đứng chân các cơ quan, đơn vị; tổ chức xây dựng lại lực lượng bảo đảm đủ sức chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trước mọi tình huống, cần phải làm tốt công tác quy hoạch, phân bố lại dân cư trên địa bàn Quân khu. Quá trình phân bố lại, quy hoạch dân cư cần chú ý hợp lý giữa các vùng, các điểm dân cư, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng sâu, vùng xa, biên giới; vừa tạo nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, vừa tạo lực lượng bảo vệ biên giới tại chỗ, thực hiện tốt nhiệm vụ kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trên địa bàn.

Cùng với hoàn thiện tư duy mới về tăng cường kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trên địa bàn, Quân khu 4 từng bước nghiên cứu, hoàn thiện, ban hành các văn bản pháp quy, hướng dẫn bảo đảm cho sự kết hợp và tăng cường kết hợp đó ngày càng có hiệu lực và hiệu quả hơn. Thường xuyên rà soát, nghiên cứu đồng bộ, thống nhất và phát triển hệ thống văn bản có tính quy phạm pháp luật, giúp cho công tác quản lý, tổ chức thực hiện việc tăng cường kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trên địa bàn Quân khu bảo đảm nghiêm túc, hiệu quả. Trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và quân đội, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đã lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị vận dụng một cách sáng tạo, xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trên địa bàn Quân khu, chú trọng hướng địa bàn biên giới và ven biển. Cơ chế, chính sách luôn hướng vào việc huy động các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội và cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế cùng tham gia vì sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên địa bàn Quân khu 4.

Quân và dân Quân khu 4 vinh dự và tự hào có người con quê hương đã cống hiến suốt cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng, góp phần tô thắm thêm trang sử truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu 4 và Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong tình hình mới, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 4 tiếp tục phấn đấu, rèn luyện, học tập, công tác theo tấm gương tiêu biểu của đồng chí Chủ tịch nước, Đại tướng - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh:

Một là, phải luôn luôn quán triệt và thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và mệnh lệnh trực tiếp của cấp trên. Xây dựng ý chí quyết tâm, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Hai là, chủ động xây dựng kế hoạch, vận dụng linh hoạt, sáng tạo mọi chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước, quân đội vào tình hình nhiệm vụ cụ thể của cơ quan, đơn vị và sát với địa bàn được giao.

Ba là, thường xuyên rèn luyện bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, trước cán bộ, chiến sĩ và trước cấp trên. Trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, lập trường cách mạng, cần có sự mềm dẻo, linh hoạt trong từng trường hợp cụ thể; năng động, sáng tạo để đạt hiệu quả cao nhất trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ.

Bốn là, luôn rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của người chiến sĩ cộng sản, có tinh thần “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, luôn đặt lợi ích cách mạng lên trên hết. Mọi suy nghĩ và hành động phải xuất phát từ lợi ích chung của Đảng, của nhân dân, của dân tộc.

Năm là, luôn giữ vững mối đoàn kết, coi đoàn kết là nền tảng sức mạnh của mọi thắng lợi, giữ vững đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đoàn kết nội bộ là nhân tố quyết định, là hạt nhân của sự đoàn kết toàn đơn vị tạo nên sức mạnh hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Trung tướng NGUYỄN DOÃN ANH