Nơi nào khó khăn thì anh đến
Thời kỳ đánh Mỹ, khi tôi về Miền thì anh Sáu xuống Khu 9, nên thời gian ở cùng anh Sáu chủ yếu là ở Campuchia.
Về việc giúp bạn Campuchia, trước hết tôi nói rằng, ý chỉ đạo giúp bạn đầu tiên ở Quân khu 7 là đồng chí Thượng tướng Trần Văn Trà. Lúc đó anh Trà là Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng uỷ Quân khu 7. Thể theo yêu cầu của nhóm cán bộ Campuchia ly khai chế độ Pôn Pốt, anh Trà giao cho tôi làm Phó phòng K, nhưng thực tế không có trưởng phòng, để giúp đồng chí Hun Xen xây dựng lực lượng, bắt đầu từ tháng 4 - 1978. Ban đầu mở lớp huấn huấn luyện một đại đội làm nòng cốt rồi nhân lên, mở rộng ra, đến tháng 6 -1978 xây dựng cấp tốc được bốn tiểu đoàn. Đến tháng 9 -1978 thì tôi gặp anh Sáu về thay anh Trà làm Tư lệnh Quân khu 7. Lúc đó Quân khu 7 quyết định thành lập Đoàn 778 để giúp bạn xây dựng lực lượng. Tôi làm Chính uỷ, anh Tư Chu làm Đoàn trưởng, anh Tư Bản làm Phó đoàn trưởng, Ba Ban và Hai Lộ làm Phó chính uỷ.
Lần đầu gặp anh Sáu Nam, cũng là lúc Quân khu quyết định triển khai giúp đỡ đồng chí Hun Sen xây dựng 12 tiểu đoàn, tôi bảo lấy đâu ra cán bộ? Anh bảo - "Cậu về nghiên cứu kỹ, chọn rồi báo cáo Bộ Tư lệnh Quân khu". Lúc đó tôi nói ta chỉ là "so đũa rút cờ", chứ biết ai tốt, ai xấu. Trong hơn bốn vạn người Campuchia chạy lánh nạn diệt chủng sang ta thì có đủ loại người. Cứ dựa vào lý lịch tự khai rồi bố trí. Rồi quá trình sẽ chọn lựa đào thải. Anh Sáu nhất trí với tôi. Như vậy thấy anh cũng là người chịu nghe.
Nơi tập kết quân và huấn luyện cho bạn lúc đầu tập trung ở khu vực gần trường bắn Thủ Đức, nơi Quân khu xây dựng nhà để cấp cho gia đình cán bộ, giờ làm nơi tập kết và huấn luyện cho quân đội bạn Campuchia. Về sau lực lượng mở rộng chuyển về Long Giao. Quá trình phát triển từng bước, đơn vị đầu tiên thành lập tháng 9-1977. Quân khu tổ chức một bộ phận gọi là Đoàn 977 để đón tiếp cán bộ Campuchia ly khai tỵ nạn sang Việt Nam (trong số ly khai có đồng chí Hun Xen). Tháng 4-1978, Phòng K được thành lập phụ trách luôn 977, do tôi phụ trách chung và một số cán bộ giúp bạn trên các mặt: Về chính trị là đồng chí Thiếu tá Châu Ba, về tham mưu quân sự có đồng chí Thiếu tá Ba Hêng, nói tiếng Khơme rất giỏi, và hai cán bộ huấn luyện kỹ - chiến thuật là Đại uý Xích Hồng và Thượng uý Quách Đức Hưng. Về hậu cần cử đồng chí Thiếu tá Mười Phiên, nguyên đoàn trưởng 977, phụ trách; và Cục Hậu cần Quân khu cử cán bộ không chuyên trách ra giúp .
Trong huấn luyện, về kỹ - chiến thuật thì có bài vở sẵn để giảng dạy rồi. Chính trị thì lúc đầu tài liệu không có, ta phải dựa vào bài: "Tổ quốc ta giàu đẹp, nhân dân ta anh hùng và cần cù sáng tạo trong lao động... nhưng vì sao khổ?" là bài của ta trong chỉnh huấn cải cách ruộng đất trước đây, vận dụng vào tình hình thực tế Campuchia dưới ách thống trị của Pôn Pốt lúc bấy giờ để soạn ra đề cương, giúp bạn viết ra bài học. Đồng chí Hun Xen trực tiếp biên soạn giáo án giảng bài. Về tổ chức, Hun Xen phụ trách Trưởng đoàn kiêm Chính uỷ. Nútthon là Phó chính uỷ. Hem Xà Minh là Phó trưởng đoàn. Ungphon làm Chủ nhiệm Chính trị, Ngô Minh phụ trách Tham mưu, Pên Pách phụ trách Hậu cần (ngoài Ngô Minh là cán bộ người Campuchia chiến đấu trong hàng ngũ quân đội ta, còn những người khác là cán bộ của Pôn Pốt ly khai).
Ngày 12-5-1978 mở khoá đầu tiên. Quân khu phân công anh Đặng Quang Long, Đại tá, Phó chủ nhiệm Chính trị Quân khu theo dõi chỉ đạo, còn trực tiếp là tôi. Từ Thủ Đức chuyển xuống Long Giao, tiếp tục xây dựng đến tháng 12 1978 được 21 tiểu đoàn bộ binh, trong đó có một tiểu đoàn nữ và 98 đội công tác. Hai mươi tiểu đoàn xây dựng trước thì có sự lựa chọn, còn một tiểu đoàn thứ 21 xây dựng vét nên về sau khi trở về Campuchia thì có một số hư hỏng…
Đồng chí Lê Duẩn vào nghe báo cáo đã có 21 tiểu đoàn lực lượng vũ trang bạn do Quân khu 7 giúp xây dựng, đồng chí phấn khởi nói: "Thế là thắng rồi!".
Mùa khô năm 1981
Hôm đó tôi đại diện Mặt trận 779 về Phnôm Pênh họp chuyên gia. Trước đó, tôi xuống huyện Rồmihét thấy có một nhóm phản động chạy ra rừng lập đảng "Voi trắng ngà xanh" chống lại cách mạng. Anh Hà Mẫu, Đoàn trưởng 7703 (giúp bạn ở Soài Riêng) mở cuộc tiến công lực lượng phản động ẩn náu ở huyện này. Tôi vô thấy dân nói: Bộ đội tới, nó chạy; bộ đội đi, nó líp lại. Nếu bộ đội Việt Nam cho họ một tiểu đoàn, họ sẽ nuôi bộ đội ở đó để du kích dựa vào bộ đội mà truy quét, thì cứ vài tháng địch nó sẽ hết hơi và sẽ đầu hàng.
Tôi lên báo cáo trong cuộc họp sự việc này. Dân đề đạt, nguyện vọng có một tiểu đoàn, thiếu đủ gì cũng được. Hội nghị kết luận: sẽ thành lập "Tiểu đoàn địa bàn" ở mỗi huyện. Có huyện (như Ôrahau) chỉ có một trung đội nhưng cũng gọi là tiểu đoàn. Danh từ "Tiểu đoàn địa bàn" có từ đây.
Qua đó thấy rằng, anh Sáu là người nhạy bén và biết nghe cấp dưới những ý kiến đúng, từ đó có chủ trương đúng để đối phó với địch, và cũng từ đó cơ sở của ta vững vàng hơn hẳn. Khi họp không ai phát biểu cái đó, chỉ có tôi nói.
Về việc xử lý vụ Xiêm Riệp
Anh em 719 định làm tiếp ở Côngpongthom, vì ở đó cũng báo cáo là có "địch hai mặt". Lúc đó anh Sáu đang đi chữa mắt ở Liên Xô được Bộ Chính trị gọi về, anh liền điện cho tôi, đề nghị tôi báo cáo tình hình Côngpongthom. Tôi bàn với anh Sáu Hưng (thay chỉ huy trưởng đang đi họp) và trực tiếp đi nắm tình hình về báo cáo anh. Sau đó anh hỏi tôi: "Cậu báo cáo tình hình dựa vào nguồn tin nào?". Tôi trả lời là dựa vào ba nguồn tin:
- Ở dưới báo cáo lên qua giao ban hàng ngày.
- Tôi dựa vào đoàn cán bộ của Mặt trận cử xuống.
- Tôi trực tiếp làm việc với Huyện uỷ Ba Rày (Côngpongthom).
Anh hỏi: "Đoàn gồm những ai?". Tôi trả lời: "Tham mưu có: Tác chiến, Quân báo; Chính trị có Bảo vệ, Vận động quần chúng và Phòng K; Hậu cần không có". Anh bảo: "Chấp thuận! Nếu cậu chỉ cử mỗi Quân báo không thôi thì... cậu về!". Lúc đó tôi nghĩ, thật là may vì mình có rút kinh nghiệm, nên không bị anh đuổi về. Và tôi báo cáo với anh là chỉ có hai tên xâm nhập vào chính quyền, giờ ta bắt hai tên đó là yên ấm. Anh bảo "Ý kiến cậu đúng! Một huyện như huyện Ba Rày không thể có nhiều địch hoạt động ngầm được". Chỉ thị 53 do anh Lê Hai soạn thảo. Chỉ thị này tôi cho Quân khu 7 in thành sổ tay; huyện Ba Rày tổ chức học đã "chấm cơm" nên dân không sót một người nào. Tôi nói với anh Sáu là một huyện như thế thì địch không thể chui vào nhiều mà hoạt động ngầm được . Anh Sáu thường nói có ba tỉnh vững vàng là Côngpongthom, Soài Riêng và Brâyveng thì Campuchia vững (lúc đó Campuchia đã 1,6 triệu dân). Đó là ấn tượng thứ hai, tôi thấy anh Sáu là người rất thận trọng (từ cái chỉ thị đích danh).
Với công tác chiến đấu, tôi có cảm nhận đặc biệt là: nơi nào khó khăn anh đều đến tận nơi
Mặt trận 479 đánh Tà Tum hai ngày không mở được. Anh Năm Ngà, Tư lệnh Quân khu lên trực tiếp theo dõi. Anh Sáu quan tâm chỉ đạo đánh cho dứt điểm, đã đi trực thăng lên tiền phương trao đổi với anh Năm Ngà, chính hình ảnh này đã tăng thêm tin tưởng cho anh em.
Sau này khi Quân tình nguyện Việt Nam rút về nước, anh Sáu Nam và anh Đoàn Khuê ở ngoài Bộ quyết định tôi làm phái viên giúp bạn để đấu tranh lập chính quyền. Ta rút hết, chỉ để lại đoàn K88, gồm: anh Ba Trân, anh Trần Khuê - Phó Tư lệnh chính trị Quân khu 5, Lưu Hương - Phó chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật lo cả công tác hậu cần, Hồ Văn Thức - Cục phó cục Tổ chức, Phó chính trị Phùng Lộc phụ trách phát động quần chúng.
Bộ Chính trị giao cho anh Sáu đặc trách nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia, ngụ tại Phnôm Pênh. Tôi chính thức là đặc phái viên (kiêm phiên dịch) của anh Lê Đức Anh bên cạnh Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia.
Hai bên thoả thuận quy ước: Về mặt Nhà nước, ngoại giao thì qua Đại sứ Ngô Điền. Về chính trị, quân sự thì qua tôi. Hồi đó khi ở bên Campuchia anh Sáu với tôi ngủ cùng phòng, ăn cùng mâm. Tôi xin không làm đoàn trưởng, nhưng anh Sáu bảo là bạn tin anh, anh cứ làm. Tôi bảo nên để anh Ba Trân vì anh có cương vị cao hơn, lại nhiều tuổi hơn tôi, anh Sáu không đồng ý.
Anh Sáu chỉ đạo ở Campuchia có nhiều cái phù hợp, sáng suốt. Riêng việc anh giữ cơ chế Đảng uỷ là rất đúng. Hồi đó Chỉ thị 27 của Tổng cục Chính trị bỏ cơ chế Đảng uỷ các cấp, anh Sáu đề nghị chỉ áp dụng đối với các đơn vị trong nước, còn quân tình nguyện đang chiến đấu ở Mặt trận 719 vẫn cho giữ nguyên như cũ, do đó đã giữ vững và phát huy sức mạnh lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, còn bộ đội thì vững tin và rất hoan nghênh.
Khi anh Sáu đã làm Chủ tịch nước, hai lần anh cử anh Son, trợ lý của anh mang quà đến nhà tặng tôi. Anh là người rất tình nghĩa, thuỷ chung, kể cả với cấp dưới của mình.
Thiếu tướng Phùng Đinh Ấm
Sách Bảo vệ, xây dựng và đổi mới đất nước