Nhớ về người chiến sĩ cách mạng kiên trung
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đại tướng Lê Đức Anh luôn thể hiện là một vị Tướng tài ba, quyết đoán, đầy bản lĩnh. Trong thời bình, đồng chí Lê Đức Anh trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch nước và Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ông cũng để lại nhiều dấu ấn quan trọng trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Dù đảm nhận cương vị nào, ông cũng luôn là nhà lãnh đạo xuất sắc, sáng suốt và có tầm nhìn xa trông rộng.
Sinh ra và lớn lên tại xã Trường Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên -Huế, trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước. Trước cảnh nước mất, nhà tan, người dân sống cơ cực dưới gót giày thực dân, phong kiến, đã hun đúc trong đồng chí Lê Đức Anh lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh cách mạng. Ngay từ khi còn trẻ tuổi, đồng chí Lê Đức Anh đã giác ngộ và bước vào hoạt động cách mạng bằng việc tham gia các tổ chức quần chúng lao động ở huyện Phú Vang và Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Năm 1937, khi còn là công nhân làm việc ở nghiệp đoàn cao su Lộc Ninh, đồng chí đã tham gia đấu tranh và hoạt động hăng hái trong phong trào dân chủ do Đảng Cộng sản Đông Dương phát động, nhằm chống chế độ bóc lột hà khắc của thực dân Pháp và đòi các quyền dân chủ, dân sinh của người lao động. Với bầu nhiệt huyết cách mạng và chí khí đấu tranh cùng năng lực tổ chức hoạt động đã được tôi luyện trong phong trào công nhân, năm 1938, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, khi mới 18 tuổi.
Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí trực tiếp chỉ đạo quân đội tỉnh Thủ Dầu Một chuẩn bị khởi nghĩa và tham gia giành chính quyền ở tỉnh Thủ Dầu Một. Sau đó, đồng chí tham gia quân đội, bắt đầu cuộc đời binh nghiệp. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng chí được cử giữ các chức: Tham mưu trưởng Quân khu 7, Quân khu 8, Quân khu Sài Gòn-Chợ Lớn; Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Đồng chí đã bám sát thực tiễn, vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa bàn, theo phương châm “Dựa vào dân mà chiến đấu” và giành nhiều thắng lợi quan trọng trong các chiến dịch, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí được Đảng giao các chức vụ: Cục phó Cục Tác chiến; Cục trưởng Cục Quân lực Bộ Tổng Tham mưu; Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh miền Nam; Phó Bí thư Khu ủy, Tư lệnh Quân khu 9; Phó Bí thư Bộ Tư lệnh miền Nam; Phó Tư lệnh chiến dịch HCM. Trên các cương vị này, với tư chất của một nhà chỉ huy quân sự mưu lược, quyết đoán và dũng cảm, đồng chí đã cùng với các đồng chí trong Tổng Quân ủy, Bộ Tư lệnh miền, hoạch định và tổ chức thực hiện thành công nhiều kế hoạch tác chiến chiến lược, như: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968); cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và cuộc Tổng tiến công chiến lược năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Qua đó, đồng chí đã tỏ rõ là một tài năng quân sự, nhà tham mưu chiến lược tài ba.
Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí đảm nhiệm các chức vụ: Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh Bộ đội tình nguyện Việt Nam tại Campuchia; Trưởng Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia giúp Campuchia; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. Trước những biến động phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực, đồng chí đã cùng Quân ủy Trung ương, tham mưu cho Đảng, Nhà nước vận dụng đúng đắn đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng, từng bước xây dựng kế sách giữ nước một cách toàn diện, củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân; chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp đúng đắn về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc, làm tốt nhiệm vụ quốc tế, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Là Tư lệnh Bộ đội tình nguyện Việt Nam tại Campuchia; Trưởng Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia giúp Campuchia, đồng chí đã quán triệt nghiêm túc đường lối đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam “giúp bạn tức là tự giúp mình”; chuẩn bị mọi mặt chu đáo trong các cuộc tiếp xúc với nước bạn; coi trọng công tác chuyên gia, luôn chỉ đạo bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần và phát huy trình độ, kiến thức, kinh nghiệm của đội ngũ này, thường xuyên rèn luyện cho cán bộ, bộ đội tình nguyện tính tổ chức kỷ luật cao trong chấp hành các mệnh lệnh, nguyên tắc. Kết quả hoạt động đối ngoại của đồng chí đã góp phần tích cực vào việc tăng cường quan hệ hữu nghị quốc tế Việt Nam-Campuchia.
Vượt qua bao cam go, thử thách khốc liệt của chiến tranh, đồng chí Lê Đức Anh luôn trung thành với lý tưởng cách mạng, với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đồng chí là một đảng viên cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo quân sự tài ba trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, một trong những vị tướng chỉ huy xuất sắc có uy tín lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nói: “Đồng chí Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng ta, Nhà nước ta, của nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam”.
Bản Sa