Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh - Người tôn vinh Mẹ Việt Nam anh hùng
Theo tin từ Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã từ trần vào hồi 20h10, ngày 22/4 tại nhà công vụ số 5A, phố Hoàng Diệu, Hà Nội.
Đại tướng Lê Đức Anh - nguyên Chủ tịch nước. Ảnh: TTXVN.
Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương cho biết nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh do tuổi cao, sức yếu nên đã ra đi sau một thời gian lâm bệnh, dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc.
Lễ viếng, lễ truy điệu và an táng nguyên Chủ tịch nước, đại tướng Lê Đức Anh sẽ được thông báo sau.
Trong sự nghiệp của mình, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh Quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” vào ngày 10/9/1994. Ngày 17/12/1994, ông đã ký quyết định tặng và truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” đợt đầu tiên cho 19.879 bà mẹ trong cả nước.
Ngày 29/12/1994, hàng trăm Mẹ Việt Nam Anh hùng đã cùng duyệt hàng quân danh dự với Chủ tịch nước Lê Đức Anh, trong khuôn viên Phủ Chủ tịch.
Nhân dịp kỉ niệm 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/2015), chia sẻ với phóng viên Báo Quân đội nhân dân về những trăn trở của mình, Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước đã nói rằng, chỉ mong sao đời sống dân ta ngày càng đầy đủ, đất nước có hòa bình, ngày càng giàu mạnh, phát triển…
Chủ tịch nước Lê Đức Anh cùng các mẹ Việt Nam Anh hùng duyệt hàng quân danh dự trong khuôn viên Phủ Chủ tịch. Ảnh tư liệu
“Là người đã đi qua chiến tranh, tôi thấu hiểu những mất mát, hy sinh của nhân dân. Dân tộc ta anh hùng nhưng chịu nhiều đau thương. Những mất mát hy sinh để giành được độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta vô cùng to lớn”, Đại tướng nói.
Đại tướng Lê Đức Anh luôn dành sự quan tâm đặc biệt tới các gia đình chính sách, những người bị thiệt thòi, nghèo khó do hậu quả và di chứng chiến tranh để lại.
Trên cương vị Chủ tịch nước khi đi thăm nhiều nơi, ông phát hiện ra một hiện tượng khá phổ biến, có nhiều bà mẹ có các con đã đi chiến đấu và hy sinh hết, bản thân mẹ thì nghèo đói, không nơi nương tựa.
Do đó, với cương vị Chủ tịch nước chính ông đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng và Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng.
Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tại lễ mittinh kỷ niệm 33 năm Ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam tại Trường Sa tháng 5-1988: "… Chúng ta xin thề trước hương hồn của tổ tiên, trước hương hồn của các cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc. Xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau: Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta". Ảnh: Nguyễn Viết Thái/Tuổi Trẻ
Tiểu sử nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh
- Đại tướng Lê Đức Anh sinh năm 1920, bí danh Sáu Nam. Ông quê ở xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1937, sau đó, từ năm 1945, ông tham gia quân đội, giữ các chức vụ từ Trung đội trưởng đến Chính trị viên Tiểu đoàn và Trung đoàn.
- Từ 10/1948 đến 1950, ông Lê Đức Anh là Tham mưu trưởng các Quân khu 7, Quân khu 8 và đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Giai đoạn 5 năm sau đó, ông giữ cương vị Tham mưu phó, quyền Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ.
- Từ 8/1963 đến 2/1964, ông là Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, sau đó trở thành Phó tư lệnh, kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Miền Nam, Tư lệnh Quân khu 9 (năm 1969).
- Tháng 6/1974, ông được thăng quân hàm vượt cấp từ đại tá lên trung tướng, giữ cương vị Phó tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh. Trong lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông Lê Đức Anh là một trong hai trường hợp đặc biệt được thăng hàm vượt cấp từ đại tá lên trung tướng.
- Từ 1976 đến 1980, ông Lê Đức Anh trở thành Tư lệnh Quân khu 9, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, kiêm chỉ huy trưởng Cơ quan tiền phương của Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam. Ông được thăng quân hàm thượng tướng năm 1980 và 4 năm sau đó được thăng quân hàm đại tướng.
- Từ 1981 đến 1986, ông giữ cương vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.
- Từ tháng 2/1987 đến tháng 8/1991, ông là Ủy viên Bộ Chính Trị, Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Quốc phòng.
- Giai đoạn 1992-9/1997, ông giữ cương vị Chủ tịch nước và là Ủy viên cố vấn Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ 12/1997-4/2001. Sau đó, ông chính thức nghỉ hưu.
Đại tướng Lê Đức Anh được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất,... Năm 2008, ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tặng Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng. Năm 2013, ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tặng Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng.Năm 2018,ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tăng Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng tại bệnh viện quân đội 108.
Đại tướng Lê Đức Anh là đại biểu quốc hội 4 khóa (từ khóa VI đến khóa IX); là Ủy viên Trung ương Đảng 5 khóa (từ khóa IV đến khóa VIII), và là Ủy viên Bộ Chính trị các khóa V, VI, VII và VIII.