Học tập tấm gương Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Đảng bộ và nhân dân Tỉnh Thừa Thiên Huế quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh
1. Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh - người chiến sỹ cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo tài năng đã cống hiến trọn cuộc đời vì sự nghiệp cách mạng
Đồng chí Lê Đức Anh (1920 - 2019) sinh ra trong một gia đình, dòng tộc có truyền thống hiếu học, có nhiều đời làm quan dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, ở xã Lộc An, huyện Phú Lộc - một làng quê có truyền thống văn hóa và lịch sử lâu đời ở Huế. Thân phụ từng là sỹ phu tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp. Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, phải chứng kiến và thấu hiểu sự nghèo đói, lam lũ của người dân, gia đình dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, phong kiến; cùng với đó, do ảnh hưởng từ các phong trào đấu tranh cách mạng trên quê hương Phú Lộc của các thế hệ tiền bối, của các bậc cha chú, đồng chí Lê Đức Anh đã sớm giác ngộ cách mạng và tích cực tham gia các phong trào đấu tranh yêu nước.
Năm 1938, sau quá trình tham gia phong trào đấu tranh dân chủ ở Phú Vang, đồng chí Lê Đức Anh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1939, trước sự khủng bố ráo riết của kẻ thù, hệ thống cơ sở Đảng ở Huế bị tổn thất hết sức nặng nề, để bảo toàn lực lượng theo chủ trương của tổ chức, đồng chí đã bí mật rời quê hương vào Đà Lạt hoạt động và tham gia xây dựng tổ chức cách mạng.
Thời kỳ từ năm 1939 - 1944, đồng chí hoạt động trong các hội Ái hữu ở Đà Lạt, Lộc Ninh, Thủ Dầu Một và các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh, Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch.
Trong Cách mạng Tháng 8 năm 1945, với vai trò là Ủy viên Ban cán sự Đảng tỉnh Thủ Dầu Một kiêm Bí thư Chi bộ Lộc Ninh, đồng chí Lê Đức Anh đã lãnh đạo công nhân, nhân dân và đồng bào dân tộc thiểu số giành chính quyền thắng lợi ở các quận Hớn Quản, Bù Đốp và chi viện cho Thủ Dầu Một, đóng góp quan trọng vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám ở Thủ Dầu Một.
Sau Cách mạng Tháng Tám, đồng chí Lê Đức Anh tham gia quân đội và bắt đầu gắn bó với cuộc đời binh nghiệp. Cuộc đời gắn với nhiều chiến trường từ Nam ra Bắc, đồng chí được tin tưởng giao những trọng trách quan trọng: Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8, Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn, Tham mưu Phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ; từ năm 1955 đến năm 1963, đồng chí là Phó Cục trưởng Cục Tác chiến, rồi Cục phó, Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu và trở thành Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; từ đầu năm 1964, đồng chí lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Tham mưu trưởng, Tư lệnh Khu 9, Phó Bí thư Khu ủy; Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Miền, Ủy viên Quân ủy Miền.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng chí được phân công chỉ huy bộ đội ở hướng Tây Sài Gòn, từ Long An đánh vào Tổng nha Cảnh sát và Cảnh sát Đô thành. Quá trình diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, trên cơ sở phân tích, đánh giá thấu đáo tình hình, đồng chí đã có những đề xuất quan trọng về chuyển hướng tiến công. Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã có ý nghĩa quan trọng, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh.
Sau khi Hiệp định Pari được ký kết (27/01/1973), chính quyền và quân đội Sài Gòn ngang nhiên vi phạm Hiệp định, ráo riết thực hiện kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ”, đẩy mạnh bình định lấn chiếm. Trước tình hình đó, mặc dù chưa có chủ trương của trên về tiến công quân sự, song dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, sự chỉ huy trực tiếp, quyết đoán và dám chịu trách nhiệm của Tư lệnh Lê Đức Anh, quân và dân Quân khu 9 đã chiến đấu ngoan cường, bẻ gãy các cuộc hành quân lấn chiếm quy mô cấp quân đoàn của địch đánh vào Chương Thiện, lần lượt đánh bại 75 tiểu đoàn cùng với kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” của chúng.
Với những thành tích trong chỉ huy chống địch lấn chiếm, phá hoại Hiệp định Pari năm 1973 trên địa bàn Quân khu 9 và những thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1964 - 1974; ngày 16/4/1974, đồng chí Lê Đức Anh được Chủ tịch nước ký quyết định phong quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng chí Lê Đức Anh đảm nhiệm cương vị Phó Tư lệnh Chiến dịch kiêm Tư lệnh cánh quân tiến công trên hướng tây - tây nam đánh vào Sài Gòn. Với tài thao lược và kinh nghiệm trận mạc được tích lũy trong suốt hai cuộc chiến tranh giải phóng, đồng chí Lê Đức Anh đã tổ chức lực lượng, chỉ huy các cánh quân đánh chiếm các mục tiêu theo kế hoạch tác chiến, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt của dân tộc.
Tư lệnh Quân tình nguyện làm nghĩa vụ quốc tế cao cả giúp bạn Campuchia và Trưởng ban Lãnh đạo các chuyên gia tại Campuchia, đồng chí Lê Đức Anh đã trực tiếp chỉ huy chiến trường và giành nhiều thắng lợi quan trọng, góp phần bảo vệ biên giới thiêng liêng của Tổ quốc, giúp dân tộc Campuchia khỏi họa diệt chủng và hồi sinh đất nước. Những việc làm của đồng chí được nhân dân Campuchia quý trọng và nhân dân tiến bộ trên thế giới đánh giá cao sự giúp đỡ to lớn của quân và dân Việt Nam đối với nhân dân Campuchia. Với việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đồng chí Lê Đức Anh được thăng quân hàm từ Trung tướng lên Thượng tướng (tháng 01/1981) và lên Đại tướng (tháng 12/1984).
Tháng 12/1986, Đại tướng Lê Đức Anh là Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, từ năm 1987 là Bộ trưởng Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. Đồng chí là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 1992 - 1997. Đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng khóa VII; Ủy viên Bộ Chính trị khóa V, VI, VII, VIII; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ năm 1997 đến tháng 4 năm 2001; đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII, IX.
Hơn 80 năm tham gia hoạt động cách mạng, gần 30 năm chỉ huy chiến đấu trên chiến trường Nam Bộ - Thành đồng Tổ quốc, gần 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia, Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng dày dạn trận mạc, một nhà chỉ huy xuất sắc, có tầm nhìn chiến lược, có chiến thuật tài tình và linh hoạt xử lý các tình huống phức tạp. Đồng chí luôn có mặt trên các chiến trường ác liệt nhất, trong những thời điểm gay go nhất với nhiều trận đánh mang tính lịch sử, tạo ra những bước ngoặt lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trên lĩnh vực chính trị và đối ngoại, thực hiện nhiệm vụ của Bộ Chính trị giao và xuất phát từ lòng nhân ái, từ truyền thống hoà hiếu của dân tộc, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã góp một phần quan trọng trong quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, nổi bật là quá trình xúc tiến việc bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc; ký kết nhiều hiệp định, điều ước quốc tế, để lại những dấu ấn quan trọng và tình cảm tốt đẹp với các quốc gia, cộng đồng quốc tế. Thông qua đó, ta đã tranh thủ được sự giúp đỡ, khai thác được thế mạnh của từng quốc gia, từng tổ chức quốc tế vào công cuộc tái thiết và xây dựng đất nước, từng bước nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế.
Trưởng thành từ một người lính, người chỉ huy qua nhiều trận đánh, rồi sau này khi là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Lê Đức Anh thấu hiểu hơn ai hết những mất mát, hy sinh để có ngày toàn thắng. Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã đề xuất việc phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và được Bộ Chính trị đồng ý. Ngày 29/12/1994, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, hàng trăm Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở tuổi ngoài 70 đã cùng duyệt hàng quân danh dự với người đứng đầu Nhà nước Việt Nam - Chủ tịch nước Lê Đức Anh trong khuôn viên Phủ Chủ tịch.
Không chỉ là một nhà lãnh đạo tài năng, một chiến sĩ quân đội có tầm nhìn chiến lược, sắc sảo, thận trọng và quyết đoán, đồng chí Lê Đức Anh còn giàu lòng nhân ái, chân tình, độ lượng, luôn dành tình cảm thương yêu và quan tâm chăm lo đời sống của đồng bào, đồng chí, chiến sĩ.
Với 99 tuổi đời, hơn 80 năm tuổi Đảng, Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã dành trọn cuộc đời cống hiến vì sự nghiệp cách mạng. Luôn gánh vác những trọng trách quan trọng trong suốt chiều dài đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dù ở cương vị nào, đồng chí cũng luôn dành trọn tâm huyết, trí tuệ và tài năng, làm tròn nhiệm vụ của mình với tình cảm cách mạng trong sáng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đồng chí đã đi xa nhưng sự hy sinh, cống hiến của đồng chí sẽ mãi là những trang sử vàng sáng chói, trường tồn với thời gian.
2. Học tập tấm gương Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh, Đảng bộ và nhân dân Thừa Thiên Huế quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh
Thừa Thiên Huế là quê hương, nơi lưu giữ nhiều kỷ niệm thời thơ ấu của Đại tướng, cũng là nơi đã nuôi dưỡng, hun đúc tinh thần, ý chí cách mạng của đồng chí Lê Đức Anh. Chính tình yêu quê hương là động lực, là sức mạnh để đồng chí hăng hái tham gia hoạt động cách mạng, cùng đồng bào cả nước đứng lên chống lại ách áp bức của thực dân, đế quốc, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Mặc dù sớm thoát ly gia đình và quê hương để tham gia hoạt động cách mạng, đến khi trở thành người lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và lúc nghỉ công tác, đồng chí vẫn luôn dành thời gian và tình cảm đặc biệt đối với Thừa Thiên Huế. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đồng chí nhiều lần trở lại Thừa Thiên Huế và gợi mở giúp quê hương khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội; gợi ý cho lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế xin phép Chính phủ xây dựng cảng Chân Mây để vừa phục vụ kinh tế, vừa phục vụ quốc phòng. Trong những năm 2004 - 2007, đồng chí đã nhiều lần cùng với các bộ, ban, ngành Trung ương về làm việc với lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế và đặc biệt quan tâm đề xuất để tỉnh triển khai thực hiện các đề án lớn như: Đề án công trình thủy lợi hồ Tả Trạch; Đề án nâng cấp thành phố Huế từ đô thị loại 2 lên đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh; Đề án nâng cấp sân bay Phú Bài.
Là một người con sâu nặng nghĩa tình với quê hương, đồng chí vui mừng và phấn khởi trước những khởi sắc của Thừa Thiên Huế, đồng chí luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải không ngừng chăm lo cho đời sống, học tập và lao động sản xuất của nhân dân, của đồng bào, chiến sĩ, luôn đoàn kết, đồng lòng tích cực xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, giàu mạnh. Trong ký ức của mỗi người dân Thừa Thiên Huế, đồng chí Lê Đức Anh là một vị Chủ tịch nước, vị Đại tướng gần gũi, giản dị và thân thương, một nhân cách đức độ với tài - đức vẹn toàn. Đồng chí Lê Đức Anh là một tấm gương sáng để Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế tri ân, học tập và noi theo.
Với niềm tự hào và kính trọng đối với Chủ tịch nước, Đại tướng, trong những năm qua, Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế vẫn luôn khắc ghi sâu sắc những lời căn dặn, dạy bảo của đồng chí, luôn nêu cao ý chí, lòng kiên trung cách mạng, đoàn kết, đồng lòng vượt qua những khó khăn, thử thách, quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và đã đạt được những kết quả quan trọng và toàn diện. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn bởi thiên tai, dịch bệnh, Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế đã nỗ lực phấn đấu, vững bước đi lên và đạt những thành quả quan trọng trên các lĩnh vực. Tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức khá, cao hơn bình quân chung của cả nước và một số tỉnh trong khu vực miền Trung. Thu ngân sách nhà nước tăng bình quân gần 8%/năm. Thu nhập bình quân đầu người đứng thứ 3 Vùng duyên hải miền Trung. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt trên 100.000 tỷ đồng. Kết cấu hạ tầng, bộ mặt đô thị, nông thôn ngày càng khang trang, hiện đại. Nhiều công trình, dự án quan trọng được hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đề án di dời dân cư, giải phóng mặt bằng khu vực I di tích Kinh thành Huế được triển khai quyết liệt, có ý nghĩa lớn về mặt xã hội và kinh tế. Vị trí đô thị “di sản, văn hóa, sinh thái, cảnh quan, thân thiện môi trường và thông minh” của tỉnh được xác lập và khẳng định. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Quan hệ đối ngoại tiếp tục được mở rộng. Khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày càng đi vào chiều sâu. Bộ máy hành chính từng bước được đổi mới theo hướng tinh gọn, hiện đại, hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả.
Những thành tựu mà Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế đã đạt được trong thời gian qua thể hiện tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trong tỉnh, là kết quả của quá trình phấn đấu đầy năng động và sáng tạo; là dấu ấn của sự đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện của các cấp ủy Đảng và chính quyền; sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương nhưng cao hơn hết, đây là sản phẩm của sức mạnh tinh thần to lớn được xây dựng và vun đắp của đồng bào, chiến sĩ, những người con ưu tú của quê hương đã không quản ngại khó khăn, gian khổ hy sinh trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những kết quả đạt được là hết sức quan trọng và toàn diện, song phía trước còn rất nhiều khó khăn, thách thức. Với tinh thần kế thừa, phát huy những kết quả đã đạt được và quyết tâm khắc phục những khó khăn, hạn chế, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ XVI đã xác định phương châm: “Đoàn kết - Dân chủ - Sáng tạo - Phát triển” với 15 chỉ tiêu kinh tế - xã hội đặt ra trong nhiệm kỳ mới (2020 - 2025) và 6 chương trình trọng điểm tập trung thực hiện. Đại hội cũng đã xác định tập trung triển khai 4 nhóm giải pháp đột phá chiến lược, gồm có: cơ chế, chính sách đặc thù để xây dựng đô thị di sản và phát triển kinh tế; phát triển nguồn nhân lực; đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng, phát triển và chuyển giao khoa học - công nghệ, tạo động lực mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; bồi đắp, phát huy giá trị văn hóa và con người Huế.
Tiếp tục phát huy ý chí, nghị lực của một vùng đất giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, là cái nôi đã sản sinh và nuôi dưỡng biết bao thế hệ lãnh đạo tài năng, tinh hoa của dân tộc, Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế khẳng định quyết tâm tiếp tục nỗ lực, đoàn kết, sáng tạo, biến chủ nghĩa anh hùng thành sức mạnh tinh thần và hành động; đem tất cả tâm huyết, tài năng và trí tuệ, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa Thừa Thiên Huế ngày càng đổi mới, hội nhập và phát triển, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 54-NQ/TW, ngày 10/12/2019 của Bộ Chính trị về xây dựng phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; góp phần đáp ứng nguyện vọng và lòng mong mỏi của Đảng, Bác Hồ vĩ đại, của các thế hệ tiền bối, của Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh - người con ưu tú của quê hương và dân tộc.
LÊ TRƯỜNG LƯU