Hoạt động của đồng chí Lê Đức Anh trong tổ chức các nghiệp đoàn cao su Lộc Ninh và đấu tranh giành chính quyền tháng Tám năm 1945
1. Gây dựng lực lượng đầu tiên cho cách mạng ở Lộc Ninh
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (01/9/1939), thực dân Pháp ở Đông Dương tăng cường áp bức, bóc lột và đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta. Trước tình hình nhiều đảng viên và người yêu nước bị bắt, tổ chức Đảng địa phương chủ trương rút vào hoạt động bí mật và chỉ thị các cán bộ, đảng viên tạm lánh đi để bảo toàn lực lượng. Tháng 10/1939, thực dân Pháp huy động lực lượng thực hiện cuộc khủng bố lớn ở Thừa Thiên, hầu hết các đồng chí đảng viên huyện Phú Vang bị bắt. Để tránh sự truy lùng của địch, cuối năm 1939, đồng chí Lê Đức Anh tạm thời lánh vào Hội An (Quảng Nam), đầu năm 1940 đến Phan Rang (Ninh Thuận) và đi xe lửa lên Đà Lạt (Lâm Đồng), ở nhà chị gái Lê Thị Trĩ. Sau một tháng, đồng chí xin vào làm công tại khu nghỉ mát của sở Nam Kỳ. Đầu năm 1942, đồng chí rời Đà Lạt xuống Lộc Ninh. Tại đây, đồng chí được một người Pháp giới thiệu làm xúc xích và dăm bông ở đồn điền cao su Lộc Ninh với mức thu nhập đều đặn 45 đồng/tháng. Điều kiện làm việc thuận lợi đã giúp cho đồng chí có cơ hội từng bước tham gia hoạt động cách mạng ở Lộc Ninh. Theo đồng chí Lê Đức Anh, nhờ “Có tiền dư dật, công việc lại không bị quản chặt như phu cạo mủ cao su nên tôi có điều kiện đến các làng tiếp xúc với phu cao su vận động, xây dựng phong trào của phu cao su và tôi cũng bắt đầu nghĩ đến việc tìm và bắt liên lạc với tổ chức cách mạng”.
Những năm trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nạn đói ở Bắc Kỳ đã khiến hàng chục vạn người từ miền Bắc di cư vào phía Nam để kiếm sống. Từ chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, những người nông dân bị bần cùng hóa đã trở thành những lao công bán sức lao động một cách rẻ mạt và cơ cực. Phần lớn dân ở đồn điền cao su Lộc Ninh là người đến từ các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Hà Đông, Nam Định, Thái Bình... Họ bị bóc lột sức lao động, phải làm việc vất vả, ai lơ là sẽ bị đánh chửi; nếu bỏ trốn mà bị bắt lại bọn cai sẽ đánh cho đến chết. Lao động thì cực nhọc nhưng thường phải ăn gạo đã để lâu, thịt rất ít, chủ yếu là đậu phụ và cá biển khô đã mục.
Đồng chí Lê Đức Anh đã tìm hiểu tình hình, biết rõ thực trạng cuộc sống của những người lao động trong từng lô cao su và tranh thủ bàn bạc với họ làm sao giúp đỡ nhau để bảo đảm đời sống của người phu cao su đỡ cực khổ: “Tôi nói chuyện với các thầy xu và bàn với họ: Phải làm sao để chủ Tây không chửi mắng, không khinh người Việt ta quá thể...”.
Đồng chí đã chỉ cho thầy xu cách làm thế nào để tăng năng suất, chất lượng của công việc: khi tới kỳ cạo mủ, bón phân, làm cỏ, thầy xu phân ra cho từng tốp 10 người một, rồi trong từng tốp lại phân ra cho từng người, cứ khoán cho họ làm, làm xong thì được nghỉ. Đầu tiên làm thử ở một làng để rút kinh nghiệm, sau đó phổ biến ra các nơi khác. Kết quả, các phu chăm bón cây cao su tốt và làm đúng quy trình kỹ thuật. Chủ Tây khen thầy xu quản phu làm tốt. Nhờ lao động có hiệu quả, chủ Tây không chê, không chửi mắng nữa, người phu thấy đỡ căng thẳng, không khí lao động dễ chịu hơn. Đồng chí nói với các thầy xu phải làm sao những thứ chủ Tây cấp cho từng người lao động được đưa xuống đủ để họ có sức làm việc, hướng dẫn họ cách cải thiện thêm bữa ăn; quan trọng hơn cả là người Việt phải đối xử với nhau cho tốt và cố gắng không đánh mắng nhau. Đọc báo, đồng chí thấy bên Pháp có tổ chức Nghiệp đoàn thợ thuyền và được luật pháp quy định, nên đã xin chủ Tây cho phu cao su tổ chức Nghiệp đoàn cao su và được đồng ý. Sau đó, việc này lan tỏa ra cả khu đồn điền cao su Lộc Ninh.
Bằng cách đó, đồng chí đã nối được quan hệ giữa thầy xu với các phu đồn điền, họ đã có sự thông cảm, chia sẻ, biết quan tâm đến nhau hơn trong lúc lao động cực nhọc hay đau ốm. Thông qua việc vận động các thầy xu, đồng chí đã thực hiện được ý định đầu tiên là tổ chức, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho những người phu cao su. Từ những kết quả khả quan đó, đồng chí đã “nghĩ đến việc chọn những người tiêu biểu để giác ngộ và gây dựng lực lượng đầu tiên cho cách mạng ở vùng này. Nhưng muốn tiến hành việc đó, trước hết phải tìm cách bắt được liên lạc với tổ chức của Đảng”. Từ khi cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ và bị thất bại (11/1940), thực dân Pháp tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt ở nhiều nơi. Cơ sở của ta bị vỡ, nhiều cán bộ bị bắt, bị tù đày, tử hình, tổ chức cách mạng tan rã. Một số chạy lên các đồn điền cao su để tránh sự khủng bố ráo riết của thực dân Pháp. Năm 1942, sau khi bắt được liên lạc với tổ chức cách mạng tại Sài Gòn - Gia Định, đồng chí Lê Đức Anh được phân công nhiệm vụ lãnh đạo phong trào công nhân cao su, chờ thời cơ chín muồi sẽ đẩy mạnh đấu tranh. Năm 1943, trong vai thầy xu đồn điền cao su Lộc Ninh, đồng chí đã tiếp cận, tìm hiểu đời sống của công nhân từ làng Công Tra (làng do Pháp đặt tên ở Lộc Ninh như: Làng Hai (Lộc Thuận); làng Một, làng Mười (Lộc Thiện); làng Bốn, làng Bảy (Lộc Tấn); làng Chín (Lộc Thạnh)...) đến nhà máy chọn những người tiêu biểu để giác ngộ lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc và gây dựng lực lượng đầu tiên cho cách mạng ở Lộc Ninh.
Đầu năm 1943, Tỉnh ủy lâm thời (gọi là Ban Cán sự Đảng) tỉnh Thủ Dầu Một được tái lập, đồng chí Văn Công Khai làm Bí thư, đồng chí Lê Đức Anh được chỉ định làm Ủy viên và được giao cùng với đồng chí Nguyễn Văn Trung chỉ đạo trực tiếp phong trào cách mạng Lộc Ninh và toàn bộ vùng phía Bắc tỉnh Thủ Đầu Một. Qua thực tiễn xây dựng phong trào ở Lộc Ninh, đồng chí đã bồi dưỡng, báo cáo với tổ chức Đảng kết nạp được một số đảng viên. Được sự đồng ý của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, tháng 02/1944, Chi bộ Đảng Cộng sản được thành lập ở Lộc Ninh gồm 5 đảng viên, do đồng chí Lê Đức Anh, Ủy viên Ban Cán sự Đảng tỉnh Thủ Dầu Một, kiêm Bí thư chi bộ và phụ trách vấn đề dân tộc thiểu số. Theo chỉ thị của Tỉnh ủy, Chi bộ Lộc Ninh trước mắt khẩn trương gây dựng phát triển lực lượng, đẩy mạnh tuyên truyền cách mạng trong công nhân và nhân dân vùng Hớn Quản, chuẩn bị đón thời cơ phát động quần chúng công nhân và đồng bào các dân tộc trong vùng sẵn sàng đứng lên khởi nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, thông qua hoạt động của các đảng viên, phu cao su ở các đồn điền Lộc Ninh, Hớn Quản, Bù Đốp... nhanh chóng được giác ngộ.
Đến giữa năm 1944, Xứ ủy Nam Kỳ chủ trương xúc tiến việc thành lập các đoàn thể Mặt trận Việt Minh ở Nam Bộ. Tỉnh Thủ Dầu Một đề ra phương châm nơi nào đã phục hồi cơ sở đảng thì tổ chức các hội cứu quốc (Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc), sau đó phát triển đến các nơi khác. Ở Lộc Ninh, sau một thời gian gây dựng cơ sở Chi bộ Đảng đã thành lập nhóm trung kiên gồm các ông Mé, Kỳ Trinh, Khiêm, Ba Đèn, Cai Loại và Hai Định làm nòng cốt vận động phong trào Việt Minh; các tổ chức cách mạng của quần chúng dưới hình thức hội được thành lập, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Với vai trò là Bí thư Chi bộ Lộc Ninh, đồng chí Lê Đức Anh đã tăng cường công tác vận động quần chúng, đưa Điều lệ Việt Minh vào phong trào công nhân và nhân dân trong vùng, đẩy mạnh tuyên truyền cách mạng trong nhân dân và công nhân các đồn điền cao su, chuẩn bị đón thời cơ để phát động quần chúng đứng lên khởi nghĩa.
2. Tham gia lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Đêm 09/3/1945, phát xít Nhật đảo chính thực dân Pháp, giành quyền cai trị Việt Nam, Đông Dương. Lực lượng Nhật chiếm đóng ở Lộc Ninh do một sĩ quan chỉ huy. Chúng sử dụng các đơn vị bộ binh giữ những vị trí quan trọng ở thị trấn, các đồn điền cao su Lộc Ninh, Hớn Quản và Bù Đốp. Cùng với việc thiết lập bộ máy cai trị, chúng thiết lập hệ thống kho tàng phục vụ cho hoạt động quân sự trong các đồn điền cao su. Thực tế, việc quản lý xã hội của phát xít Nhật ở đây rất lỏng lẻo. Đây là thời cơ tốt để ta phát triển lực lượng cách mạng. Về lực lượng, ta tổ chức và phát triển lực lượng hợp pháp là chủ yếu, hoạt động công khai, có một bộ phận hoạt động bí mật. Lúc này, Thanh niên cứu quốc và Phụ nữ cứu quốc là hai tổ chức hoàn toàn bí mật, còn tổ chức Thanh niên Tiền phong lấy biểu tượng cờ vàng, sao đỏ thì hoạt động công khai, hợp pháp.
Đầu năm 1945, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng trung kiên trong các nghiệp đoàn, chuẩn bị đấu tranh võ trang. Ở vùng đồn điền cao su, lực lượng nòng cốt của cách mạng là các nghiệp đoàn công nhân do Chi bộ Đảng vận động và tổ chức. Ở đồn điền cao su Lộc Ninh có 12 làng là 12 nghiệp đoàn, cùng với các nghiệp đoàn thợ cơ khí, thợ điện, thợ xây, thợ mộc,... tích cực hoạt động. Lúc đầu, ta chưa tổ chức đội vũ trang nhưng tất cả đã thống nhất với nhau, bí mật chuẩn bị vũ khí gồm gậy tầm vông vót nhọn, giáo mác, thanh niên người dân tộc Xtiêng thì sử dụng cung nỏ. Nhận thấy không thể chỉ nổi dậy khởi nghĩa bằng biểu tình mà phải có vũ khí, có đội vũ trang làm nòng cốt, đồng chí Lê Đức Anh đã trực tiếp sang tỉnh Kratie của Campuchia để mua súng rồi vận chuyển về. Tổ chức Việt kiều yêu nước ở Campuchia cũng tự động mua súng gửi về trong nước. Sau khi dự cuộc họp lần thứ 3 Ban Cán sự Đảng tỉnh Thủ Dầu Một trở về, từ tháng 3/1945, đồng chí Lê Đức Anh khẩn trương thúc đẩy các hoạt động chuẩn bị khởi nghĩa trên tất cả các làng Lộc Ninh, Đa Kia...
Trong thời gian này, cùng với các Hội cứu quốc người Kinh, đồng chí Lê Đức Anh tổ chức “Hội người Việt Nam mới”; đồng thời cũng là đội bán vũ trang ở các quận Hớn Quản, Bù Đốp, trong đó có hơn 40 người dân tộc Stiêng, sẵn sàng đứng lên khởi nghĩa khi thời cơ thuận lợi.
Nhận thấy thời cơ cách mạng đã đến, ngày 14/8/1945, Trung ương Đảng tiến hành Hội nghị toàn quốc ở Tân Trào, châu Tự Do (nay là huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang), kịp thời đưa ra chủ trương lãnh đạo toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Tiếp đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh ra lời hiệu triệu đồng bào và chiến sĩ cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền: “Giờ quyết định vận mệnh cho dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[103].
Hòa chung khí thế cách mạng sôi nổi trong cả nước, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Đảng bộ địa phương, đến tháng 8/1945, ở Lộc Ninh, lực lượng quần chúng đã hình thành các hội cứu quốc (Việt Minh), thanh niên tiền phong, các đội thanh niên bán vũ trang, đội tự vệ. Lực lượng này đứng chân trên địa bàn phía Bắc, góp phần đáng kể cho toàn tỉnh “hình thành một lực lượng bán vũ trang đông đảo gồm 150 đoàn thanh niên tiền phong, thanh niên cứu quốc có hơn 2 vạn đoàn viên”, sẵn sàng chờ lệnh đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền.
Sau khi dự Hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ về, đồng chí Văn Công Khai tổ chức cuộc họp Tỉnh ủy Thủ Dầu Một mở rộng (từ ngày 21 đến 23/8/1945), Hội nghị quyết định tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lỵ vào ngày 25/8/1945, giành chính quyền ở các quận và thị trấn vào ngày 24, hoặc 25 tháng 8/1945; không được chậm trễ. Hội nghị cũng quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Thủ Dầu Một, do đồng chí Văn Công Khai làm Chủ tịch. Khi kết thúc cuộc họp, đồng chí Văn Công Khai phân công từng người về triển khai các biện pháp thực hiện. Đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ phụ trách chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền ở các đồn điền cao su, hai huyện Hớn Quản, Bù Đốp, tỉnh Bình Phước và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Sau khi tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, đồng chí Lê Đức Anh tiếp tục tổ chức lực lượng chi viện cho thị xã Thủ Dầu Một và thành phố Sài Gòn khởi nghĩa giành chính quyền.
Tại Lộc Ninh, đồng chí Lê Đức Anh triệu tập cuộc họp bàn việc giành chính quyền và đề nghị phải thành lập ngay lực lượng vũ trang. Với vai trò là Ủy viên Ban Cán sự Đảng tỉnh Thủ Dầu Một, kiêm Bí thư Chi bộ Lộc Ninh, đồng chí Lê Đức Anh đã trực tiếp lãnh đạo công nhân, nhân dân, đồng bào dân tộc thiểu số đứng lên giành chính quyền. Thực hiện kế hoạch khởi nghĩa, sáng ngày 24/8/1945, hàng nghìn công nhân các làng, đồn điền cao su Lộc Ninh - Đa Kia cùng nông dân các địa phương nhất tề nổi dậy. Từng đoàn người tay cầm gậy, tầm vông vạt nhọn, xà beng, giáo mác, cung tên tiến vào các nhà máy, xí nghiệp đồn điền cao su. Làn sóng người vượt rào, leo tường, trương cờ đỏ, sao vàng hô vang khẩu hiệu: “Chính quyền về tay Việt Minh”, “Việt Nam độc lập muôn năm!”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!”.
Quần chúng biểu tình tiến vào chiếm các trụ sở hành chính, trụ sở cảnh sát trong thị trấn, các bốt canh, nơi ở và làm việc của bọn chủ sở đồn điền... Cùng lúc, một đội quân cảm tử, do đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy, đánh chiếm các mục tiêu của địch ở Lộc Ninh. Quân Nhật trong các đồn bốt bị quần chúng và lực lượng vũ trang áp đảo. Nhiều tên ngoan cố bị tiêu diệt, số còn lại buộc phải đầu hàng, toàn bộ vũ khí của chúng bị thu giữ; quân khởi nghĩa giành toàn thắng. Tại Bù Đốp, lực lượng khởi nghĩa thu được kho súng máy của địch.
Cùng với Lộc Ninh, nhân dân ở các quận Tân Uyên, Lái Thiêu, Bến Cát nổi dậy giành chính quyền trong buổi sáng ngày 24/8/1945. Lộc Ninh là một trong những địa phương giành chính quyền sớm trong tỉnh. Ngay tối hôm đó, đồng chí Lê Đức Anh tổ chức lực lượng gồm 300 người, trang bị vũ khí vừa thu được của địch và giáo mác, tầm vông... kéo xuống thị xã Thủ Dầu Một tham gia khởi nghĩa. Đến 7 giờ sáng ngày 25/8/1945, cuộc mít tinh lớn được tổ chức trọng thể trước tòa thị chính quận Châu Thành. Sau khi làm lễ chào cờ, đồng chí Văn Công Khai, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa đọc diễn văn tuyên bố chính quyền của địch đã về tay nhân dân.
Từ một thanh niên ở miền quê nghèo khó dưới ách thống trị của đế quốc, thực dân, sớm được giác ngộ lý tưởng cách mạng và trở thành đảng viên cộng sản trẻ tuổi, đồng chí Lê Đức Anh đã thể hiện chí khí cách mạng kiên cường của người chiến sĩ cộng sản kiên trung, bất khuất. Đồng chí tham gia hoạt động trong các hội Ái hữu, trong các nghiệp đoàn cao su Lộc Ninh, Quản Lợi, Xa Can, Xa Cát. Đồng chí lần lượt được giao: lãnh đạo phong trào công nhân cao su Lộc Ninh (năm 1942), Ủy viên Ban Cán sự Đảng tỉnh Thủ Dầu Một (năm 1943), kiêm Bí thư Chi bộ Đảng ở Lộc Ninh (năm 1944), tổ chức lực lượng trung kiên trong các nghiệp đoàn, chuẩn bị đấu tranh vũ trang (đầu năm 1945) và được phân công phụ trách chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền ở các đồn điền cao su Lộc Ninh và hai huyện Hớn Quản, Bù Đốp, tỉnh Bình Phước (8/1945). Dù ở bất cứ cương vị công tác, điều kiện, hoàn cảnh nào, đồng chí Lê Đức Anh luôn trung thành với Đảng, với Tổ quốc, giữ vững và phát huy phẩm chất đạo đức cách mạng của người đảng viên cộng sản, làm hết sức mình, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ và trọng trách được giao. Thắng lợi của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bình Phước nói chung, Lộc Ninh nói riêng trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có phần đóng góp quan trọng của đồng chí Lê Đức Anh, với vai trò tổ chức và trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy. Đây là cống hiến đầu tiên của đồng chí Lê Đức Anh, để lại dấu ấn quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Thiếu tá, ThS. PHAN ÁNH TUYẾT