Quay lại

Dấu ấn của đồng chí Lê Đức Anh trên chiến trường miền Đông Nam Bộ trong sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)

Trong những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến, đồng chí Lê Đức Anh là Trung đội trưởng vũ trang công nhân cao su với hơn 100 người. “Đội quân áo nâu” hay “Đội quân cung tên” theo cách gọi thân thuộc của nhân dân dưới sự chỉ huy của ông đã kéo quân từ Lộc Ninh, Hớn Quản về tham gia chiến đấu tại Mặt trận số 2 (còn gọi là mặt trận phía Bắc), góp phần giam chân quân Pháp suốt hơn một tháng, làm thất bại ý đồ “đánh nhanh, thắng nhanh” của chúng.
 

Cuối năm 1945, trên cương vị Chính trị viên Tiểu đoàn 1, ông đã cùng với các đồng chí Nguyễn Văn Ngọ, Lê Danh Cát chỉ huy đơn vị bảo vệ an toàn căn cứ Sở Chỉ huy Nam Bộ kháng chiến ở Thuận Lợi, Lạc An (Biên Hòa); tổ chức tập kích quận lỵ Hớn Quản giành thắng lợi, khiến cho địch vùng này phải co lại, không dám mạo hiểm càn quét tràn lan như trước, nhân dân vô cùng phấn khởi, các nghiệp đoàn cao su ở đây được gây dựng lại.

Sau Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ mở rộng họp ngày 10/12/1945 tại Bình Hòa Nam (nay thuộc huyện Đức Huệ, tỉnh Long An), lực lượng vũ trang của Nam Bộ, từ các đơn vị tự vũ trang được tổ chức thành các chi đội. Cả Nam Bộ có 25 chi đội. Mỗi chi đội đứng chân và hoạt động trên địa bàn một tỉnh. Đầu năm 1946, đồng chí Lê Đức Anh được Tỉnh ủy Thủ Dầu Một điều về làm Chính trị viên Chi đội 1, khi đó đang đứng chân tại quận Lái Thiêu. Chi đội 1 hoạt động trên địa bàn trải dài từ Lái Thiêu đến các huyện Châu Thành, Tân Uyên, Bến Cát, Dầu Tiếng, Hớn Quản. Đến cuối tháng 3/1946, thực dân Pháp cơ bản chiếm đóng được toàn bộ Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, đồng chí Chính trị viên Chi đội 1 Lê Đức Anh, thời điểm này được chỉ định là Tỉnh ủy viên tỉnh Thủ Dầu Một, cuối năm 1946 được Tỉnh ủy phân công làm Bí thư Quận ủy lâm thời Hớn Quản, đã cùng Ban Chỉ huy Chi đội và cán bộ các ngành tăng cường giáo dục, động viên cán bộ, chiến sĩ, nhân dân vượt qua khó khăn; chỉ đạo gấp rút củng cố, phát triển thực lực mọi mặt; dựa chắc vào nhân dân, kiên quyết chống lại mưu đồ “bình định” Nam Bộ và thủ đoạn hòng tiêu diệt các lực lượng kháng chiến, tách Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam của thực dân Pháp. Chi đội 1 do đồng chí Lê Đức Anh làm Chính trị viên nổi tiếng đánh giặc giỏi và có kỷ luật dân vận tốt. Khẩu hiệu “Không ra đi khi chưa trồng rau để lại cho người đến sau; không được đi khi chưa múc đầy ang nước; không đi khi nhà cửa chưa quét dọn sạch sẽ” đã trở thành nếp sống của bộ đội Chi đội 1.

Nhờ phương hướng xây dựng, phát triển đúng, Chi đội 1 phát triển mạnh cả về chính trị, tư tưởng, lực lượng trang bị, vũ khí cũng như kinh nghiệm và khả năng chiến đấu. Quân số Chi đội 1 lên tới 1.500 người, 1.350 súng trường, 28 tiểu liên, 18 trung liên, 10 đại liên. Chiến lợi phẩm thu được, ngoài trang bị cho đơn vị trong Chi đội, Ban Chỉ huy Chi đội còn hỗ trợ cho các xã chiến đấu. Nhiều trận đánh như: trận chống càn tại xã An Tây (Bến Cát, tháng 8/1947), trận bến Ông Khương (ngày 30/10/1947), trận chống địch càn quét vào căn cứ Vĩnh Lợi - Bình Chánh (ngày 18/11/1947), trận tiêu diệt “Chiến khu quốc gia” Quới Bình Tây ngày 10/12/1947 đã toàn thắng, gây ảnh hưởng lớn đối với chiến trường miền Đông Nam Bộ. Qua những trọng trách được giao, đồng chí Lê Đức Anh luôn luôn thể hiện bản lĩnh, sự năng động và linh hoạt của tuổi trẻ, đã cùng với tập thể Ban Chỉ huy các cấp vạch ra phương hướng hoạt động cho đơn vị sát, đúng, kịp thời.

Ngày 27/3/1948, Khu ủy Khu 7 họp hội nghị quyết định trên cơ sở các chi đội trên chiến trường miền Đông Nam Bộ phát triển thành 10 trung đoàn bộ binh chủ lực Miền. Theo đó, Chi đội 1 của Tỉnh Thủ Dầu Một được đổi tên thành Trung đoàn 301 (ngày 14/6/1948) do đồng chí Huỳnh Kim Trương làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Lê Đức Anh làm Chính trị viên. Trung đoàn gồm 3 tiểu đoàn và một số đại đội trực thuộc. Đại đội 1 thành Tiểu đoàn 901 hoạt động ở vùng Lái Thiêu, Thủ Dầu Một; Đại đội 2 thành Tiểu đoàn 902 hoạt động ở quận Châu Thành; Đại đội 3 thành Tiểu đoàn 903 và ba đại đội 2707, 2708, 2709 hoạt động ở Bến Cát, Hớn Quản, Lộc Ninh.

Tháng 10/1948, do yêu cầu chống địch bình định, đồng chí Lê Đức Anh được điều về làm Tham mưu trưởng Khu 8. Cuối năm 1948, thấy được tố chất và năng lực tham mưu quân sự của đồng chí Lê Đức Anh, Xứ ủy Nam Bộ điều ông về làm Tham mưu trưởng Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, một địa bàn trọng điểm, nơi diễn ra những trận đánh quyết liệt giữa quân và dân ta với quân đội thực dân Pháp. Từ đây, đồng chí Lê Đức Anh chuyển từ cán bộ chính trị sang làm cán bộ quân sự, chuyên lo xây dựng lực lượng, tổ chức chiến dịch, xây dựng và phát triển chiến thuật cho bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương. Dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh và cá nhân ông, lực lượng vũ trang Khu Sài Gòn - Chợ Lớn không ngừng được kiện toàn về tổ chức và đẩy mạnh hoạt động tác chiến, thực hiện nhiều trận đánh hiệu suất cao, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch. Lực lượng nội thành gồm 5 ban công tác trực thuộc Bộ Tư lệnh Khu do Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ huy. Các chi đội phát triển thành các trung đoàn 300, 301, 304, 306, 307, 308, 310, 311, 312. Hệ thống dân quân thành được củng cố lại, mỗi khu vực đều có công binh xưởng.

Tháng 9/1949, sau Hội nghị quân sự Nam Bộ do Xứ ủy Nam Bộ triệu tập, Bộ Tư lệnh Nam Bộ tổ chức phân bố lại chiến trường, củng cố lại nhân sự chủ chốt ở cấp khu và cấp tỉnh. Đồng chí Lê Đức Anh tiếp tục được chỉ định làm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Khu Sài Gòn - Chợ Lớn lúc này mở rộng thêm hai tỉnh Gia Định và Tây Ninh.

Tháng 11/1949, chấp hành chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 18/8/1949 về xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân trong giai đoạn tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công, Bộ Tư lệnh Nam Bộ chỉ đạo tổ chức lại lực lượng vũ trang theo hướng thành lập các liên trung đoàn, tiểu đoàn tập trung, đại đội độc lập. Theo đó, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn được mở rộng về phía Tây Bắc, thêm toàn bộ tỉnh Tây Ninh. Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đã chỉ đạo các trung đoàn tổ chức lại lực lượng, mỗi trung đoàn xây dựng 1 tiểu đoàn chủ lực cơ động và các đại đội độc lập hoạt động trên từng địa bàn được phân công. Trung đoàn 300 hoạt động ở Nhà Bè, Cần Giuộc; Trung đoàn 308 hoạt động tại Chợ Lớn; Trung đoàn 311 hoạt động tại Tây Ninh; sáp nhập Trung đoàn 306 và Trung đoàn 312 thành liên trung đoàn 306-312... Ngoài ra, còn thành lập Tiểu đoàn chủ lực cơ động 870. Lực lượng dân quân, du kích cũng được chú trọng xây dựng. Tính đến cuối năm 1949, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn có 3.505 đội viên du kích xã, 36 tiểu đội không thoát ly; lực lượng du kích các huyện Hóc Môn, Thủ Đức, Nhà Bè độc lập tác chiến 207 trận, phối hợp tác chiến 171 trận, đánh quấy rối 288 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 862 tên, phá hủy 17 xe, thu 66 súng, 38 lựu đạn,...

Chiến trường Nam Bộ bước vào năm 1950 ngày càng trở lên khốc liệt do thực dân Pháp ráo riết áp dụng chiến thuật “bình định” 5 điểm của viên tướng De Latour (rút bỏ những khu vực hẻo lánh khó giữ, dùng giáo dân vũ trang để chống phá kháng chiến của Việt Minh, hợp tác với giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo để chống phá kháng chiến của Việt Minh, dùng chiến thuật đồn bốt tháp canh; bao vây căn cứ địa Đồng Tháp Mười, căn cứ Chiến khu Đ, kiểm soát vùng kinh tế trù phú Hậu Giang). Quân Pháp liên tục mở các cuộc hành quân càn quét, uy hiếp vùng giải phóng phía Đông và Đông Bắc Sài Gòn - Gia Định. Trên cương vị là Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, ông đề xuất với Bộ Tư lệnh hạ quyết tâm tìm mọi biện pháp phá chiến thuật De Latour của thực dân Pháp; mở một chiến dịch tiến công trên địa bàn Bến Cát nhằm tiêu diệt sinh lực địch bằng cách đánh giao thông kết hợp với công đồn diệt tháp canh để đánh viện binh; tác chiến kết hợp với phá hoại để mở rộng khu căn cứ của ta.

Đề xuất của ông đã được chấp thuận. Ngày 21/01/1950, Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn quyết định mở chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát và giao cho ông làm Tham mưu trưởng chiến dịch nhằm tiêu diệt các đoàn convoy, đồn Bến Súc, lực lượng tiếp viện của địch; phá đường sá, cầu; bao vây bức rút đồn, tháp canh Bến Cát, Suối Rứa, Cần Nôm, Ông Cộ, Xi Nô, Rạch Kiến, Xóm Bưng. Sở chỉ huy chiến dịch, lúc đầu đặt ở Thanh Tuyền và về cuối chuyển sang An Thành. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm một tiểu đoàn chủ lực của liên Trung đoàn 306-312, một tiểu đoàn chủ lực và một đại đội độc lập của liên Trung đoàn 301-310, một đại đội độc lập của huyện Bến Cát, lực lượng dân quân du kích hai huyện Hóc Môn, Gò Vấp và lực lượng công đoàn cao su đồn điền Dầu Tiếng. Chiến dịch thu được thắng lợi lớn, loại khỏi chiến đấu gần 100 tên địch, phá hủy 3 xe bọc thép, làm gián đoạn giao thông của địch trong khoảng thời gian dài, thậm chí, chúng còn phải sử dụng trực thăng tiếp tế cho đồn điền cao su Dầu Tiếng, quân ta phá cầu Bến Cát. Ngoài ra, riêng trong tháng 01/1950, lực lượng vũ trang nội thành Sài Gòn tổ chức 42 trận tác chiến đánh địch, 7 lần vũ trang tuyên truyền, loại khỏi vòng chiến đấu 81 tên địch, thiêu hủy 3 xe cơ giới, 6 tàu ghe, 600 vỏ xe hơi. Tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ đã khẳng định: “Chiến dịch Bến Cát đánh dấu một bước trưởng thành quan trọng của lực lượng vũ trang Quân khu 7, đưa phong trào kháng chiến của quân dân miền Đông Nam Bộ hòa nhập với cuộc kháng chiến trên chiến trường cả nước”1. Chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát và chiến dịch Cầu Kè, Trà Vinh (từ ngày 7 đến ngày 26/12/1949) là hai chiến dịch tiến công đầu tiên của lực lượng vũ trang Nam Bộ làm thay đổi cục diện chiến trường, từ chỗ ta bị động đối phó với các cuộc hành quân càn quét của địch sang chủ động tổ chức những trận tiến công quy mô chiến dịch. Tài năng quân sự của đồng chí Lê Đức Anh ngày càng được thực tiễn chiến trường khẳng định, sau chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát, ông được bổ nhiệm làm Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ.

Tháng 8/1950, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn giải thể để thành lập Đặc khu, gồm thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và một phần các huyện Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè, Trung Huyện, nhằm tăng cường lực lượng cho Khu 7, Xứ ủy điều đồng chí Lê Đức Anh về làm Tham mưu trưởng Khu 7.

 Tháng 5/1951, Trung ương Cục quyết định phân chia lại chiến trường, giải thể ba khu 7, 8, 9, sáp nhập 20 tỉnh của Nam Bộ thành 11 tỉnh ghép, chia Nam Bộ thành hai phân liên khu và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Đồng chí Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Phân liên khu miền Đông Nam Bộ gồm 5 tỉnh Gia Ninh, Thủ Biên, Bà Lớn, Mỹ Tho, Long Châu Sa. Ông tiếp tục cùng với các đồng chí Trần Văn Trà, Phạm Hùng chỉ đạo quân và dân Phân liên khu miền Đông Nam Bộ đẩy mạnh hoạt động chống lại chính sách “bình định” của thực dân Pháp, xây dựng bộ đội chủ lực Khu và lực lượng du kích vũ trang.

Tháng 12/1952, đồng chí Lê Đức Anh được Xứ ủy Nam Bộ giao nhiệm vụ tổ chức một đoàn 12 cán bộ, trong đó có ông tham gia, do đồng chí Lê Duẩn làm trưởng đoàn xuất phát từ Nam Bộ ra Trung ương họp tại Việt Bắc, kết hợp với báo cáo kinh nghiệm đánh đồn, diệt tháp canh của địch trên chiến trường Nam Bộ. Khi qua Khu 6, Khu 5, đoàn để lại tổ ba người phổ biến kinh nghiệm và cùng bộ đội khu thực hành đánh đồn. Ngày 13/5/1953, đoàn công tác ra tới Tân Trào, được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham gia “Lớp chỉnh đảng” do đồng chí Lê Văn Lương phụ trách. Tháng 12/1953, Đoàn lên đường quay trở vào Nam Bộ. Đang trên đường vào Nam Bộ thì được tin trên chiến trường Tây Bắc diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ, quân và dân ta giành được toàn thắng trong chiến dịch lớn nhất này.

 Như vậy, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng chí Lê Đức Anh lần lượt trải qua những cương vị từ Trung đội trưởng, Chính trị viên Tiểu đoàn, Chi đội, Trung đoàn, Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ, Tham mưu trưởng Phân liên khu miền Đông Nam Bộ. Ông chủ yếu hoạt động chỉ đạo, chỉ huy trên chiến trường miền Đông Nam Bộ - chiến trường chống thực dân Pháp cam go quyết liệt nhất ngay từ những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến. Đồng chí Lê Đức Anh đã chủ động tham mưu và trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh, chiến dịch mang lại hiệu suất cao, góp phần căng kéo, phân tán, tiêu hao, tiêu diệt một khối binh lực lớn quân đội viễn chinh Pháp trên chiến trường ba nước Đông Dương. Tài năng quân sự của ông ngày càng được khẳng định và được thực tiễn chiến tranh kiểm nghiệm. Chiến trường Nam Bộ trong những năm 1951 - 1954 dưới sự chỉ huy của cá nhân ông và tập thể Bộ Tư lệnh đã thực sự trở thành một chiến trường sôi động, chia lửa đắc lực với chiến trường chính Bắc Bộ mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi lẫy lừng năm châu chấn động địa cầu, góp phần đưa sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Việt Nam toàn thắng.

Có thể nói, đồng chí Lê Đức Anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên cương vị, chức trách mà Đảng, quân đội và nhân dân tin cậy giao cho ông. Những chiến công quan trọng về quân sự trên chiến trường miền Đông Nam Bộ những năm 1945 - 1954 mãi mãi ghi đậm dấu ấn của ông - một trí tuệ lớn mang tầm chiến lược.

Đại tá, TS. Nguyễn Văn Quyền