Quay lại

Dấu ấn của Đại tướng Lê Đức Anh trên vùng Lộc Ninh

Quê ở huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế nhưng cuộc đời hoạt động cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước đều gắn bó với vùng đất và con người Lộc Ninh ở điểm mốc lịch sử chói lọi của dân tộc. Đó là lãnh đạo công nhân cao su, nhân dân Lộc Ninh trong Cách mạng tháng Tám 1945 và Tham mưu trưởng Chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng mùa xuân 1975.
 

Ngày 19-8-2015, tại buổi gặp mặt với chủ đề “Ký ức cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám 1945” do Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức, Đại tướng Lê Đức Anh ở tuổi 95 nhưng vẫn sáng suốt khẳng định: “Chọn thời cơ, chớp thời cơ của Cách mạng tháng Tám là bài học kinh nghiệm sâu sắc trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của tôi”.
 

LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CÔNG NHÂN CAO SU LỘC NINH

Năm 1937, Đại tướng Lê Đức Anh lúc này đang ở tuổi đẹp nhất của đời người (17 tuổi) tham gia cách mạng và trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1938. Năm 1939, để tránh sự truy lùng của địch, ông bắt đầu ly hương để hoạt động cách mạng. Tháng 2-1940, ông đến Đà Lạt vào vai cu li phục vụ quan chức Pháp và học nghề làm thức ăn nguội. Nghề này đã giúp ông xâm nhập vào đồn điền cao su Pháp thuộc ở Lộc Ninh, để tiếp cận và giác ngộ công nhân, nhân dân chờ thời cơ làm khởi nghĩa.


Đại tướng Lê Đức Anh chụp ảnh lưu niệm cùng lãnh đạo, cán bộ, công nhân viên, lao động Công ty TNHH MTV cao su Lộc Ninh


Năm 1942, sau khi bắt được liên lạc với tổ chức cách mạng tại Sài Gòn - Gia Định, ông được phân công nhiệm vụ lãnh đạo phong trào công nhân cao su, chờ thời cơ chín muồi cho tổng khởi nghĩa. Năm 1943, trong vai thầy xu đồn điền ở Lộc Ninh, ông đã tiếp cận, tìm hiểu đời sống của công nhân từ làng Công tra (làng do Pháp đặt tên ở Lộc Ninh như: Làng Hai (Lộc Thuận); làng Một, làng Mười (Lộc Thiện); làng Bốn, làng Bảy (Lộc Tấn); làng Chín (Lộc Thạnh)...) đến nhà máy chọn những người tiêu biểu để giác ngộ lòng yêu nước, tự hào dân tộc và gây dựng lực lượng đầu tiên cho cách mạng.

Tháng 2-1944, Chi bộ Đảng Cộng sản được thành lập ở Lộc Ninh gồm 3 đảng viên. Ông là Ủy viên Ban cán sự Đảng tỉnh Thủ Dầu Một kiêm Bí thư Chi bộ Lộc Ninh và phụ trách vấn đề dân tộc thiểu số. Chi bộ lấy nhà thầy giáo Nhuận (chợ Lộc Ninh) làm nơi cất giấu tài liệu mật của Đảng và nhận tài liệu từ cấp trên chỉ đạo xuống. Ngày 23-8-1945, tin thắng lợi của cuộc đấu tranh chính trị ở Sài Gòn và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Tân An cùng nhiều địa phương khác trên cả nước nhanh chóng dội đến Thủ Dầu Một, càng thôi thúc các địa phương sục sôi nổi dậy.

Sáng 24-8-1945, hàng ngàn công nhân các làng, đồn điền cao su Lộc Ninh - Đa Kia cùng nông dân các địa phương nhất tề nổi dậy. Từng đoàn người cầm gậy tầm vông vạt nhọn, xà beng, giáo mác, cung tên tiến vào các nhà máy, xí nghiệp đồn điền cao su. Làn sóng người biểu tình ào ào vượt rào, leo tường, giương cờ đỏ sao vàng hô vang khẩu hiệu “Chính quyền về tay Việt Minh”, “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm”. Đoàn người biểu tình chiếm các trụ sở cảnh sát. Binh lính địch nộp vũ khí và được cách mạng khoan hồng.

Lộc Ninh là địa phương giành chính quyền sớm nhất trong tỉnh và đã có 22 người hy sinh. Đêm 24-8-1945, công nhân và nhân dân các làng cùng Chi bộ Đảng đã tổ chức lễ mừng chiến thắng, đồng thời cử hành truy điệu những chiến sĩ đã hy sinh. Lực lượng Việt Minh mới cũng được thành lập gồm 300 người do đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy, trang bị thêm vũ khí vừa thu được và giáo mác, tầm vông vạt nhọn kéo xuống tỉnh Thủ Dầu Một tham gia tổng khởi nghĩa.

Rạng sáng 25-8-1945, đoàn Lộc Ninh hòa trong biển người gồm 5 vạn người mít tinh ở trung tâm thị xã với rừng cờ đỏ và biểu ngữ rợp trời... Cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi lúc 14 giờ cùng ngày. Chính quyền cách mạng được thành lập.
 

DẤU ẤN CỦA VỊ TƯỚNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG XƯA 

Một buổi sáng tháng 5-2012, Đại tướng Lê Đức Anh và phu nhân đã về thăm di tích Bộ chỉ huy Miền Tà Thiết ở xã Lộc Thành (Lộc Ninh) và xưởng chế biến mủ tờ, Nhà máy chế biến Lộc Ninh, Công ty TNHH MTV cao su Lộc Ninh.

Cùng đi có các đồng chí làm công tác nghiên cứu lịch sử Quân khu 7 và đoàn làm phim tư liệu về cuộc đời hoạt động cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh. Lúc này, Đại tướng vừa trải qua cơn bạo bệnh tai biến rất yếu phải ngồi trên xe lăn và phát âm khó khăn.

Hồi ký của Đại tướng Lê Đức Anh về Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử viết: “Thực hiện lời căn dặn của anh Lê Duẩn “phải giải phóng nhanh nhất”, sau khi đánh được Phước Long, Bộ chỉ huy Miền bắt tay vào làm kế hoạch tiến công giải phóng Sài Gòn. Chúng tôi thảo phương án sử dụng lực lượng, lấy lực lượng tại chỗ làm chủ yếu, tính toán kỹ thấy thiếu 1 quân đoàn. Anh Phạm Hùng và anh Trà thống nhất trong Bộ chỉ huy Miền, điện xin Trung ương đưa Quân đoàn 3 vào tăng cường cho B2. Cả Bộ chỉ huy Miền gần như thống nhất: sẽ tiến công giải phóng Sài Gòn vào tháng 4-1975, vì sang tháng 5 đã là đầu mùa mưa...”

Năm 1974, ông là Phó tư lệnh Quân giải phóng miền Nam được phong hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng; trong Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975, là Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng, kiêm Tư lệnh cánh quân tây nam đánh vào Sài Gòn. Năm 1984, ông được phong Đại tướng. Đại tướng Lê Đức Anh đã được thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh và các Huân chương Hạng Nhất: Quân công, Chiến công,  chiến thắng.  


Ngày 8-4-1975, Bộ chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định (sau đổi tên thành Chiến dịch Hồ Chí Minh) được thành lập. Tư lệnh: Đại tướng Văn Tiến Dũng; Chính ủy: Phạm Hùng; Phó tư lệnh: Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê Đức Anh, Trung tướng Đinh Đức Thiện (ngày 22-4 bổ sung Trung tướng Lê Trọng Tấn - Phó tư lệnh; Trung tướng Lê Quang Hòa, Phó chính ủy). Trước khi tổng công kích vào Sài Gòn, Trung ương Cục cùng Bộ chỉ huy chiến dịch về cơ bản đã cài xong thế trận cô lập Sài Gòn - Gia Định.

Ngày 26-4-1975, ta bắt đầu Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tiến công giải phóng Sài Gòn - Gia Định, buộc Tổng thống chính quyền Sài Gòn cũ phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975. Lần này, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tự lực giải phóng địa bàn, góp phần cùng cả nước chấm dứt chiến tranh giải phóng kéo dài 30 năm...

Tại di tích lịch sử Tà Thiết, đoàn đưa ông đi dưới tán rừng xưa đến thăm nơi ở của mình (nhà tưởng niệm đồng chí Lê Đức Anh) và Hội trường Bộ chỉ huy Miền, Nhà lưu niệm... Tuy không nói được nhưng tất cả đều nhận thấy trong ánh mắt của Đại tướng như sống lại những ngày tháng hào hùng của dân tộc, khi Bộ chỉ huy Miền chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng mùa xuân năm 1975. Có lẽ những gì ông muốn nói, đang nghĩ chỉ có Đại tá Sơn Đài - giáo sư, tiến sĩ, nhà nghiên cứu lịch sử quân sự hàng đầu Việt Nam mới hiểu được qua ánh mắt, cử chỉ của ông. Trong các vị lãnh đạo Bộ chỉ huy Miền chỉ còn duy nhất Đại tướng Lê Đức Anh còn sống và ông là nhân chứng lịch sử bước ra từ cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, kết thúc bằng chiến thắng vẻ vang của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Thăm xưởng mủ tờ, Công ty cao su Lộc Ninh, Đại tướng Lê Đức Anh và phu nhân được lãnh đạo Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam, lãnh đạo công ty và công nhân cao su tiếp đón với tình cảm ấm áp, chân tình như đón người cha, người anh cả về nhà. Không nói được nhưng ông bỗng mỉm cười rớm lệ với tay sờ vào khối mủ tờ khi nghe công ty tự hào báo cáo, đây chính là sản phẩm được sản xuất từ lò xông của đồn điền cao su Lộc Ninh những năm 1925-1930. Từ năm 2001 đến nay, mỗi năm xưởng sản xuất khoảng 2.000-3.000 tấn theo đơn đặt hàng của Công ty Michenlin (Pháp). Mủ tờ Lộc Ninh cũng là sản phẩm “độc” giữ vị trí top đầu cao su Việt Nam.

Phương Hà
(Bài viết có tham khảo tư liệu lịch sử về Đại tướng Lê Đức Anh)