Chủ tịch nước Lê Đức Anh với lực lượng công an nhân dân
Đồng chí Lê Đức Anh (bí danh Nguyễn Phú Hòa; Sáu Nam) sinh ngày 01/12/1920, quê quán tại xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Được thừa hưởng truyền thống yêu nước của quê hương và gia đình, đồng chí đã sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1937, đồng chí tham gia phong trào dân chủ ở Phú Vang, Thừa Thiên Huế.
Tháng 5/1938, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 8/1945, đồng chí tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, đồng chí Lê Đức Anh là nhà chỉ huy quân sự tài ba, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, dày dạn kinh nghiệm trận mạc, có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và làm nhiệm vụ quốc tế cao cả.
Sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất, đồng chí được Đảng, Nhà nước giao nhiều trọng trách. Đặc biệt, những năm tháng giữ cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước, đồng chí luôn trăn trở, tìm tòi, tâm huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng để tái thiết đất nước, khởi xướng công cuộc đổi mới, phá thế bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước; cùng Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng thế trận “chiến tranh nhân dân” và nền quốc phòng toàn dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Với lực lượng Công an nhân dân, đồng chí luôn gắn bó và chỉ đạo chặt chẽ.
Những năm tháng chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, đồng chí trực tiếp chỉ huy chiến trường và giành được nhiều thắng lợi quan trọng, góp phần bảo vệ biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. Tháng 8/1979, đồng chí Lê Đức Anh là Phó Trưởng ban thứ nhất phụ trách công tác K (Campuchia) và tháng 8/1980 đồng chí là Trưởng ban. Ban này đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị. Tháng 6/1982, Bộ Chính trị ra Quyết định số 132 về việc thành lập Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia tại Campuchia thay Ban Phụ trách công tác Campuchia. Theo đó, Ban lãnh đạo gồm 7 đồng chí do đồng chí Lê Đức Anh làm Trưởng ban. Trong hai năm 1979, 1980, với tinh thần “giúp bạn là mình tự giúp mình”, Đảng và Nhà nước ta đã điều động một số lượng lớn cán bộ sang làm chuyên gia giúp bạn. Đoàn chuyên gia Bộ Nội vụ Việt Nam (bí số là K79) do đồng chí Viễn Chi, Thứ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) làm Trưởng đoàn và các đồng chí Lê Đình Thảo, Trần Mão, Tư Hoàng, Vy Hồng Phong, Nguyễn Tâm giúp bạn xây dựng lực lượng an ninh. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, Đoàn chuyên gia Bộ Nội vụ Việt Nam cùng với các đoàn khác đã hoàn thành tốt nghĩa vụ quốc tế, đóng góp tích cực trong việc giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng của tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary, xây dựng lại đất nước Campuchia.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Công an và quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng, của Chính phủ, của vô sản chuyên chính. Vì vậy, càng phải đoàn kết chặt chẽ với nhau, giúp đỡ lẫn nhau”, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo cụ thể lực lượng Quân đội nhân dân phối hợp với lực lượng Công an nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, nhất là trong thời kỳ giúp đỡ Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng và trong thời kỳ đồng chí giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, phát huy những kết quả đã đạt được trong thực hiện nhiệm vụ của hai lực lượng, từ năm 1987 đến năm 1992 trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí tiếp tục quan tâm, chỉ đạo, phát huy và đẩy mạnh quan hệ phối hợp, hiệp đồng chiến đấu giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Nhờ đó, hai lực lượng luôn đoàn kết, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ; thường xuyên trao đổi thông tin, nắm tình hình trong nước, khu vực và trên thế giới; chủ động làm tốt công tác tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về các chủ trương, đường lối lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; đồng thời là lực lượng nòng cốt, trực tiếp triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối đó. Cùng với Quân đội nhân dân, lực lượng Công an nhân dân đã tích cực đổi mới, phối hợp đảm bảo an ninh, trật tự trên địa bàn, đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động xâm nhập phá hoại từ bên ngoài của các tổ chức phản động, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và Nhân dân. Kết quả phối hợp giữa hai lực lượng đã trở thành cơ sở, điều kiện để ngày 17/11/1992, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ ban hành Chỉ thị số 18/CT-LB về phối hợp giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình hình mới. Từ đây, công tác phối hợp giữa công an và quân đội ngày càng đi vào chiều sâu và đạt hiệu quả cao hơn. Sau này, khi đã nghỉ hưu và cả khi sức khỏe đã yếu nhưng mỗi khi lãnh đạo Bộ Công an, Bộ Quốc phòng đến thăm, ông vẫn căn dặn phải thường xuyên phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ vì quân đội với công an đều là lực lượng vũ trang.
Tháng 9/1992, đồng chí được Quốc hội tín nhiệm bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên cương vị mới, với tầm nhìn chiến lược, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tác phong sâu sát, đồng chí đã cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước đề ra và chỉ đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đưa đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong hồi ký của mình, đồng chí Lê Đức Anh viết: “Với cương vị và trách nhiệm của mình, tôi thường xuyên gặp gỡ trao đổi, bàn bạc với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao về những chủ trương, công việc lớn mang tầm chiến lược, những việc trước mắt đang đặt ra bức thiết phải giải quyết để bảo đảm công tác an ninh - quốc phòng và công tác đối ngoại hoạt động tốt, nhằm ổn định chính trị, quốc phòng - an ninh”.
Với cương vị là Chủ tịch nước, Ủy viên Bộ Chính trị, đồng chí đã cùng với Bộ Chính trị thảo luận, ban hành và chỉ đạo thực hiện hiệu quả nhiều chủ trương, chỉ thị, nghị quyết quan trọng về bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh; đồng thời, chỉ đạo hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ an ninh trật tự. Trong nhiệm kỳ công tác, theo quy định của Hiến pháp, đồng chí Lê Đức Anh đã ký lệnh công bố nhiều văn bản luật, pháp lệnh đã được Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua, trong đó, có nhiều văn bản liên quan đến lĩnh vực công tác bảo đảm an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng Công an nhân dân. Đồng thời, xuất phát từ nhận thức sâu sắc về hội nhập quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí đã chỉ đạo đàm phán, ký kết và phê chuẩn một số Công ước quốc tế về vấn đề an ninh, trật tự như: Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Ba Lan (1994), Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, ba Công ước về kiểm soát ma túy của Liên hợp quốc (Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961, Công ước về các chất ma túy năm 1971, Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và các chất hướng thần năm 1988). Những văn bản này đã tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho công tác phòng, chống tội phạm và hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả cao.
Bằng tình cảm sâu nặng cùng ý thức trách nhiệm lớn lao, trong thời gian làm Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng quốc phòng - an ninh, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, đồng chí Lê Đức Anh đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, trực tiếp chỉ đạo đối với các lực lượng nghiệp vụ, các mặt công tác và sự trưởng thành, phát triển của lực lượng Công an nhân dân, nhất là đối với công tác của lực lượng an ninh, tình báo.
Giữa những năm 1990, lực lượng công an xây dựng Pháp lệnh Tình báo. Trên cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước và phụ trách các vấn đề quốc phòng, an ninh, đối ngoại, khi Bộ Công an báo cáo, đồng chí đã trực tiếp cho ý kiến chỉ đạo về nhiều vấn đề, nhất là vấn đề hợp tác quốc tế về an ninh, tình báo. Sau khi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua, ngày 22/12/1996, Chủ tịch nước Lê Đức Anh ký Lệnh số 53L/CTN công bố Pháp lệnh Tình báo. Đây là văn bản quan trọng làm cơ sở cho hoạt động của lực lượng tình báo, trong đó có lực lượng Tình báo Công an nhân dân. Việc ban hành Pháp lệnh Tình báo không chỉ thể hiện sự đánh giá cao của Đảng, Nhà nước về vai trò, vị trí và những đóng góp quan trọng của Tình báo Công an nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, mà còn đặt ra cho lực lượng Tình báo Công an nhân dân nhiệm vụ chính trị nặng nề trong thời kỳ mới. Qua hơn 20 năm thực hiện, thực tiễn đã cho thấy những ý kiến chỉ đạo và quyết định của Chủ tịch nước Lê Đức Anh khi đó là vô cùng xác đáng, có tầm chiến lược, nhìn xa, khoa học và thực tiễn sâu sắc.
Đối với công tác an ninh, đồng chí cho rằng phải rất chủ động, phải nắm tình hình, phải đánh địch từ xa, phải tạo cho được các tuyến phòng thủ liên hoàn, chặt chẽ từ trong ra ngoài. Những lời căn dặn của Chủ tịch nước Lê Đức Anh thể hiện tầm nhìn, sự bao quát đối với công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Những lời căn dặn ấy đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị. Không chỉ chỉ đạo thấu suốt về mặt chủ trương, chiến lược về vấn đề bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đồng chí Lê Đức Anh còn trực tiếp chỉ đạo một số vụ án lớn, phức tạp.
Điển hình là năm 1989, lực lượng an ninh phát hiện một số đối tượng phản động người Việt lưu vong liên kết hình thành tổ chức phản động với danh xưng “Liên đảng cách mạng Việt Nam” để chống phá cách mạng nước ta. Các đối tượng ráo riết chuẩn bị thực hiện âm mưu phá hoại tại một số mục tiêu ở trong nước, kích động biểu tình, bạo loạn lật đổ chế độ. Với tinh thần chủ động, lực lượng an ninh đã nắm được toàn bộ kế hoạch và di biến động của các đối tượng trong nước. Trước tính chất nghiêm trọng, phức tạp của vụ án, sau khi nghe báo cáo diễn biến hằng ngày, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã trực tiếp kiểm tra, chỉ thị lực lượng quân đội phối hợp với lực lượng Công an nhân dân triển khai các biện pháp ngăn chặn kịp thời âm mưu, hoạt động của nhóm phản động này; góp phần giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam.
Là cán bộ lão thành cách mạng, được tôi luyện, vào sinh ra tử, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí luôn giữ vững ý chí, phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, không ngừng rèn luyện, nâng cao tri thức, sáng tạo, quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong mọi công việc. Là một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt tiêu biểu, đồng chí đã mang hết tâm huyết, đóng góp nhiều ý kiến quan trọng vào những vấn đề lớn của đất nước, luôn đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc và nhân dân lên trên hết. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, với bao hiểm nguy, khó khăn, thử thách, đồng chí Lê Đức Anh luôn hoàn thành xuất sắc trọng trách trước Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân; đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Suốt cuộc đời, đồng chí sống giản dị, thanh bạch dù ở bất kỳ hoàn cảnh, môi trường nào. Đồng chí Lê Đức Anh là tấm gương sáng để đồng bào, đồng chí, cán bộ, chiến sĩ, trong đó có cán bộ, chiến sĩ lực lượng Công an nhân dân yêu quý, học tập và noi theo. Đánh giá về đồng chí, Đảng, Nhà nước khẳng định: “Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà chính trị, quân sự tài năng, một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của đồng chí Lê Đức Anh (01/12/1920 - 01/12/2020), lực lượng Công an nhân dân luôn khắc ghi những công lao, đóng góp to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và của dân tộc. Trong điều kiện và hoàn cảnh mới, lực lượng Công an nhân dân nguyện kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của các thế hệ cha anh, của đồng chí Lê Đức Anh, tiếp tục phấn đấu, rèn luyện theo tấm gương của đồng chí để ngày càng đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Đại tướng, GS.TS. Tô Lâm
Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an