Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh và công tác chính sách đối với quân đội, hậu phương quân đội
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng hơn 80 năm, Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã có nhiều công lao, cống hiến to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và sự trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Là người cán bộ trưởng thành trong thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc, thấu hiểu những gian khổ, hy sinh của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ quân đội... nên trên bất kỳ cương vị nào, từ người chỉ huy trong quân đội đến khi làm Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh luôn dành những tình cảm sâu nặng và quan tâm sâu sắc đến công tác chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội, nhất là việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với cán bộ, chiến sĩ; thực hiện chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ; chính sách khen thưởng, động viên chiến trường, v.v..

Trong thời gian đảm nhiệm trọng trách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành và triển khai thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, chính sách lớn đối với quân đội, thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và hậu phương quân đội; góp phần động viên tinh thần, giảm bớt khó khăn cho các đối tượng chính sách; đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế.
Quán triệt quan điểm “Toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước” do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra; trong điều kiện đất nước bị bao vây cấm vận, nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng, quân số thường trực của quân đội lúc cao nhất trên một triệu người, vượt quá khả năng bảo đảm của hậu cần quân đội, Đại tướng Lê Đức Anh cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương đã đề xuất và được Bộ Chính trị đồng ý về chủ trương điều chỉnh tổ chức, biên chế, bố trí chiến lược của quân đội và một số chính sách đối với quân đội, hậu phương quân đội.
Để giải quyết chế độ, chính sách đối với số lượng lớn cán bộ, chiến sĩ thuộc diện giảm quân số trong quá trình thực hiện điều chỉnh tổ chức, biên chế quân đội, Đại tướng Lê Đức Anh đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương đề xuất và được Trung ương nhất trí, các bộ, ban, ngành ủng hộ việc ưu tiên bộ đội xuất ngũ đi hợp tác lao động ở nước ngoài. Theo đó, số lượng lớn cán bộ, chiến sĩ xuất ngũ do giảm quân số thường trực đã được giải quyết việc làm. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử quân đội ta có những đợt ra quân lớn, cán bộ, chiến sĩ ở các đơn vị và cơ quan quân đội đi lao động ở nước ngoài. Tính từ năm 1987 đến năm 1990, quân đội đã tổ chức cho 37.338 người đi lao động xuất khẩu, bảo đảm khi về nước vừa có nghề, vừa được giải quyết chính sách thỏa đáng, vừa có một khoản thu nhập đáng kể để cải thiện kinh tế và ổn định đời sống gia đình, tiếp tục đầu tư vào sản xuất kinh doanh, nâng cao mức sống và làm giàu chính đáng, góp phần giải quyết khó khăn chung cho đất nước.
Việc bảo đảm chế độ, chính sách đối với bộ đội tại ngũ trong giai đoạn này cũng được Đại tướng Lê Đức Anh và Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện; trong đó, tập trung vào nghiên cứu, đề xuất ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước về cải cách chế độ tiền lương của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới. Mặt bằng tiền lương của sĩ quan và những người hưởng lương trong quân đội được nâng lên gấp 1,5 lần so với trước năm 1986, góp phần chăm lo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội. Đối với cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ trên quần đảo Trường Sa được hưởng thêm một số loại phụ cấp như: phụ cấp đặc biệt mức 50%, phụ cấp chiến đấu mức 20%, phụ cấp thu hút mức 15%, phụ cấp thâm niên quần đảo Trường Sa, v.v.. Cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia được bảo đảm đầy đủ sách, báo, trang bị sinh hoạt văn hóa, tinh thần; được cấp thêm tiền để mua thực phẩm, thuốc điều trị, v.v.. Lực lượng phi công làm nhiệm vụ thường trực sẵn sàng chiến đấu và các nhiệm vụ khác trên khu vực quần đảo Trường Sa được hưởng phụ cấp chiến đấu, phụ cấp thu hút, v.v.. Thông qua đó, đã cải thiện đời sống của bộ đội, động viên cán bộ, chiến sĩ yên tâm công tác, chiến đấu, khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Ngoài chăm lo phụ cấp, tiền lương cho bộ đội, Đại tướng Lê Đức Anh còn cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng đặc biệt quan tâm chăm lo đời sống cán bộ, xây dựng và phân phối nhà ở cho cán bộ trong quân đội, đáp ứng nhu cầu bức thiết của cán bộ, công nhân viên quốc phòng. Lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc triển khai tổ chức thực hiện chủ trương trích một phần quỹ đất quốc phòng ở doanh trại còn bỏ hoang để chia và cấp cho bộ đội tự xây nhà ở, đơn vị lo phần cơ sở hạ tầng như đường, điện, nước, v.v. cho cả khu hộ gia đình; trong đó, ưu tiên cho số cán bộ được giải quyết ra quân (về hưu, nghỉ mất sức), cán bộ diện chính sách (thương binh, con gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng). Số cán bộ không có gia đình ở đô thị, trở về sinh sống ở nông thôn thì được cấp một khoản tiền cùng với doanh cụ, vật liệu xây dựng để họ có thể xây dựng được căn nhà cấp 4. Với sự quan tâm đó, sau một thời gian, việc ăn ở, định cư của các hộ gia đình cán bộ, công nhân viên quốc phòng đã được giải quyết một cách căn bản.
Để củng cố hậu phương quân đội và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ cũng như giải quyết những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh, Đại tướng Lê Đức Anh cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Đảng, Chính phủ, Bộ Quốc phòng ban hành nhiều văn bản, như: Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 23/3/1988 của Ban Bí thư về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo chấp hành tốt chính sách hậu phương quân đội; Chỉ thị số 39/CT-TW ngày 21/5/1988 của Ban Bí thư hướng dẫn thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia Việt Nam ở Campuchia; Quyết định số 221/CT ngày 13/7/1987 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc tặng quà cho thương binh, bệnh binh hạng 1 nhân ngày 27/7/1987; Chỉ thị số 105-CT, ngày 29/4/1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc thực hiện một số chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội; Chỉ thị số 960/QP ngày 01/7/1987 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc chấp hành tốt hơn nữa chính sách thương binh, liệt sĩ và hậu phương quân đội; Quyết định số 992/QP ngày 06/7/1987 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc điều chỉnh, bổ sung một số điểm về chính sách, chế độ đối với thương binh, bệnh binh ở đoàn an dưỡng thương binh; Chỉ thị số 1069/QP ngày 15/7/1987 của Bộ Quốc phòng về củng cố tổ chức, quản lý, giáo dục, nuôi dưỡng thương binh, bệnh binh ở các đoàn an dưỡng thương binh; Chỉ thị số 50/CT-QP ngày 17/02/1990 của Bộ Quốc phòng về tăng cường lãnh đạo và chỉ đạo giải quyết xong gọn những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh; Chỉ thị số 89/CT-QĐ ngày 15/3/1991 của Bộ Quốc phòng về việc tiếp tục giải quyết tồn đọng về chính sách sau chiến tranh, v.v.. Những chủ trương, chính sách trên đã thực sự phát huy hiệu quả, góp phần bảo đảm cho thương binh, bệnh binh có điều kiện sinh hoạt ổn định và từng bước được cải thiện; giúp đỡ thiết thực những gia đình đang gặp khó khăn về đời sống, gia đình có quân nhân đang làm nhiệm vụ ở biên giới, đảo xa và làm nhiệm vụ quốc tế; giải quyết một bước cơ bản những vấn đề tồn đọng trong chiến tranh như quy tập mộ liệt sĩ, khen thưởng trong kháng chiến.
Có thể khẳng định, trong thời gian đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, công tác chính sách đối với quân đội, hậu phương quân đội được Đại tướng Lê Đức Anh và tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Những chủ trương, chính sách đối với quân đội, hậu phương quân đội được ban hành và triển khai thực hiện trong thời gian này đã giúp cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội; góp phần để cán bộ, chiến sĩ toàn tâm, toàn ý chiến đấu và công tác; tạo sự ổn định về tư tưởng, tổ chức trong quá trình điều chỉnh chiến lược và chấn chỉnh tổ chức lực lượng của quân đội; đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng - an ninh của quốc gia những năm đầu đất nước bước vào sự nghiệp đổi mới đầy khó khăn, thách thức.
Năm 1992, Đại tướng Lê Đức Anh được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bầu giữ chức vụ Chủ tịch nước. Trong nhiệm kỳ làm Chủ tịch nước, đồng chí đã cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng trong công tác đối nội, đối ngoại, góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, quốc phòng, an ninh được giữ vững và củng cố; đồng thời, đưa công cuộc đổi mới (được khởi xướng từ năm 1986) đi vào hiện thực. Với cương vị và trách nhiệm của mình, Chủ tịch nước Lê Đức Anh thường xuyên đề xuất nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc, có tầm chiến lược sâu rộng về công tác quân sự, quốc phòng cho Đảng và Nhà nước ta, nhất là trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh. Thời kỳ này, các chủ trương, chính sách lớn như: Chế độ tiền lương mới, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, Pháp lệnh về Dân quân tự vệ, Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên, Pháp lệnh Bộ đội biên phòng, v.v., được ban hành và triển khai thực hiện đã góp phần quan trọng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Đặc biệt, chính sách đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và chính sách hậu phương quân đội luôn được Chủ tịch nước Lê Đức Anh quan tâm sâu sắc. Bởi theo đồng chí, đây là sự ghi nhận, tri ân của Đảng, Nhà nước đối với những người đã cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; đồng thời, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng cho các thế hệ mai sau. Ngày 10/9/1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng. Ngay sau khi hai pháp lệnh trên ban hành, toàn dân, toàn quân, các cấp, các ngành trong cả nước đã trân trọng đón nhận và tích cực triển khai tổ chức thực hiện. Cũng từ đây đã xuất hiện phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, xây tặng “Nhà tình nghĩa” và phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Phong trào xây dựng “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”, “Toàn dân chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với nước” trong các cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân đã trở thành nếp sống mang đậm tính nhân văn và truyền thống văn hóa “Uống nước nhớ nguồn” của các tầng lớp nhân dân trong cả nước.
Có thể thấy rằng, những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với quân đội, hậu phương quân đội do Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tham mưu, đề xuất ban hành trong thời gian đồng chí Lê Đức Anh đảm nhiệm trọng trách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Chủ tịch nước có ý nghĩa chính trị - xã hội to lớn, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội và củng cố hậu phương quân đội; kịp thời động viên cán bộ, chiến sĩ yên tâm công tác, chiến đấu, khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đồng thời, góp phần thắt chặt mối quan hệ đoàn kết quân - dân, ổn định tình hình chính trị - xã hội ở từng địa phương và trong cả nước.
Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh, chúng ta càng thêm tự hào về một vị tướng tài ba, một nhà lãnh đạo xuất sắc, một nhân cách đức độ, giản dị, gần gũi nhân dân. Những đóng góp to lớn của Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh về công tác chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội là những bài học kinh nghiệm quý báu; là cơ sở để chúng ta tiếp tục nghiên cứu, vận dụng thực hiện tốt hơn nữa trong thời gian tới.
Hiện nay, trước yêu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, ngành chính sách quân đội phải luôn quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, bám sát thực tiễn tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, hoạt động của quân đội, chủ động nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng ban hành đồng bộ và ngày càng hoàn thiện hệ thống chế độ, chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội, phù hợp với sự phát triển chung của đất nước; ưu tiên các chính sách động viên, khuyến khích đối với các lực lượng mới, làm nhiệm vụ đặc thù, lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, làm nhiệm vụ ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, biển, đảo, v.v.. Chú trọng đề xuất và thực hiện các chính sách phục vụ cho quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; thu hút, tuyển dụng và trọng dụng nhân tài trong quân đội; chính sách phục vụ chủ trương xây dựng quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân chăm lo thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. Thực hiện tốt chính sách đối với người có công với cách mạng, người tham gia kháng chiến; huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội; đẩy mạnh các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa” bằng nhiều hình thức, cách làm thiết thực, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các đối tượng chính sách và người có công với cách mạng. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác tìm kiếm, quy tập và xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, giải quyết tồn đọng chính sách sau chiến tranh nhằm đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và đối tượng chính sách.
Nâng cao chất lượng thực hiện các chính sách xã hội trong quân đội. Tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách đãi ngộ đối với gia đình quân nhân, những người làm nhiệm vụ quân sự, quốc phòng ở địa phương; đào tạo, hỗ trợ và giải quyết tốt việc làm cho quân nhân xuất ngũ; các chế độ hỗ trợ đối với cán bộ cấp cao, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, những người có nhiều công lao, cống hiến cho cách mạng, quân đội và gia đình cán bộ, chiến sĩ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, v.v.; đồng thời, tiếp tục kiện toàn cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác chính sách trong quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, đủ sức tham mưu cho cấp ủy, chỉ huy các cấp lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện tốt hơn nữa chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội trong tình hình mới.
Thiếu tướng TRẦN QUỐC DŨNG