Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh - Nhà lãnh đạo chiến lược xuất sắc của Đảng
Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là một vị tướng trận mạc, nhà lãnh đạo tài năng, đức độ, có nhiều cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc và sự trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam. Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Lê Đức Anh gắn liền với những giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, qua các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng hồi sinh đất nước; đổi mới và hội nhập quốc tế.

Dù ở cương vị nào, đồng chí cũng “không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn thể hiện rõ phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc và nhân dân lên trên hết”; là nhà lãnh đạo chiến lược xuất sắc của Đảng; là tấm gương về phẩm chất đạo đức cách mạng. Sự hòa quyện giữa đạo đức, chính trị với tư tưởng, trí tuệ, bản lĩnh của đồng chí Lê Đức Anh đã làm lên một nhân cách lớn, một năng lực lãnh đạo mang tầm chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương, có ảnh hưởng và tác động đối với sự ổn định, phát triển đất nước.
Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh - người cộng sản kiên trung, vị tướng trận mạc, nhà chỉ huy xuất sắc, nhà lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân Việt Nam.
Trong những năm 1935-1939, được tiếp cận với nhiều tài liệu viết về chính quyền Xôviết, về lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng chí Lê Đức Anh thấm nhuần tư tưởng cách mạng và tự giác, tích cực đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày 01/5/1938, đồng chí Lê Đức Anh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong hồi ký của mình, đồng chí Lê Đức Anh kể lại “Tôi tham gia hoạt động cách mạng bắt đầu từ việc đọc sách, báo, tuyên truyền cho dân chúng, trao đổi với nhau về tình hình đất nước, bàn cách đấu tranh đòi giảm sưu thuế hà khắc của thực dân, phong kiến, đòi tự do, dân chủ... ở làng quê”.
Năm 1939, thực dân Pháp tăng cường đàn áp các phong trào cách mạng trong cả nước. Đồng chí Lê Đức Anh phải lánh vào Hội An, Phan Rang, Đà Lạt, Thủ Dầu Một và tham gia vào các hội ái hữu. Sau khi kết nối liên lạc với tổ chức, đồng chí được giao nhiệm vụ tổ chức các nghiệp đoàn nghề nghiệp (bên ngoài là Hội Nghề nghiệp ái hữu, nhưng thực chất là tổ chức phong trào công nhân) chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Tháng 8/1945, đồng chí được phân công phụ trách chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền ở các đồn điền cao su thuộc địa phận hai huyện Hớn Quản và Bù Đốp của tỉnh Bình Phước.
Tháng 8/1945, thời cơ cách mạng đến, được sự phân công của tổ chức, đồng chí đã tham gia chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền thành công ở Hớn Quản và Bù Đốp vào đêm 24 rạng sáng 25/8/1945. Sau này, đồng chí nhận định: “Thắng lợi ấy là kết quả của 15 năm đấu tranh kiên cường, bất khuất của những người cộng sản và quần chúng cách mạng, trải qua những thăng trầm và bao hy sinh mất mát và là kết quả trực tiếp của cuộc vận động giải phóng dân tộc trong những tháng ngày khẩn trương chuẩn bị khởi nghĩa và khởi nghĩa giành chính quyền”.
Trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí Lê Đức Anh được phân công nhiều nhiệm vụ quan trọng trong quân đội. Trên các cương vị khác nhau, đồng chí Lê Đức Anh luôn thể hiện bản lĩnh, sự năng động và linh hoạt, đã cùng với tập thể cấp ủy, chỉ huy xác định phương hướng hoạt động cho đơn vị bảo đảm sát đúng, kịp thời. Đồng chí đã phát huy tốt vai trò tham mưu và trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch, trận đánh có hiệu suất chiến đấu cao. Từ thực tiễn các trận đánh ở Hớn Quản, Xa Cam, Xa Cát, La Ngà, Cầu Bà Kiên trên quốc lộ 16, tháp canh Vàm Giá trên đường 14, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo các đơn vị khái quát, sáng tạo ra cách đánh đặc công, được phổ biến rộng rãi trong các đơn vị bộ đội. Trong chỉ huy chiến đấu, đồng chí luôn bám sát thực tiễn, vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa bàn nên đã giành nhiều thắng lợi quan trọng trong các chiến dịch, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Sau Hiệp định Giơnevơ (7/1954), đồng chí Lê Đức Anh tập kết ra Bắc, được phân công đảm nhiệm các cương vị: Cục phó Cục Tác chiến, Cục phó thứ nhất Cục Quân lực, Cục trưởng Cục Quân lực, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm 1964, khi chiến trường miền Nam trở nên khốc liệt, đồng chí lại được Trung ương cử vào Nam. Đồng chí đã đảm nhiệm vị trí lãnh đạo, chỉ huy: Tham mưu trưởng, Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Miền, Ủy viên Quân ủy Miền; Tư lệnh Khu 9, Phó Bí thư Khu ủy; Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh.
Trên các cương vị lãnh đạo, đồng chí Lê Đức Anh luôn thể hiện là tấm gương sáng ngời, mẫu mực về lời nói và việc làm với chiến sĩ và đồng bào. Trong công tác, đồng chí luôn tận tâm, tận lực đóng góp vào sự nghiệp của Đảng, của dân tộc với mục tiêu củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang và giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đồng chí cùng với Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền đã có những đóng góp to lớn trong củng cố vững chắc niềm tin cho chiến sĩ và nhân dân dám đánh Mỹ và đánh thắng Mỹ. Đồng chí quyết tâm chỉ đạo quân và dân Quân khu 9 kiên quyết giáng trả kịp thời các hành động nống lấn của địch sau Hiệp định Pari, trong bối cảnh chiến trường toàn miền ngưng chiến. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, được giao trọng trách Phó Tư lệnh chiến dịch kiêm Tư lệnh cánh quân tây nam, đồng chí Lê Đức Anh có đóng góp quan trọng cho thắng lợi của chiến dịch, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau ngày thống nhất đất nước, đồng chí Lê Đức Anh được cử làm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Trong 10 năm, đồng chí Lê Đức Anh cùng Ban lãnh đạo Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia đã chỉ huy kiên quyết giáng trả những hành động gây chiến của bọn phản động Pôn Pốt, phối hợp chặt chẽ với quân và dân Campuchia đánh đổ chế độ phản động Pôn Pốt, giúp dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hồi sinh đất nước.
Trong suốt cuộc đời binh nghiệp của mình, nhất là trong các chiến dịch, đồng chí Lê Đức Anh luôn quyết liệt, dứt khoát, quyết tâm giữ vững mục tiêu đã lựa chọn, thể hiện những năng lực chính yếu nhất của một nhà lãnh đạo tài ba: năng lực tư duy - năng lực xây dựng kế hoạch - năng lực hành động.
Bên cạnh đó, đồng chí Lê Đức Anh còn là một vị tướng luôn coi trọng nhân nghĩa, ngay cả đối với kẻ thù; là nhà lãnh đạo chỉ huy luôn thương yêu, tìm mọi cách giảm thiểu hy sinh xương máu cho cán bộ, chiến sĩ và khó khăn, mất mát của người dân. Trong hồi ký, đồng chí viết: Thắng lợi trọn vẹn của chúng ta có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân to lớn nhất, cơ bản nhất, gốc rễ nhất là tư tưởng “nhân ái”. Tư tưởng “nhân nghĩa” của thời đại Hồ Chí Minh là bắt nguồn từ truyền thống chí nhân, chí nghĩa của dân tộc, như Nguyễn Trãi từng viết trong >Đại cáo Bình Ngô: >Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo>. Sự kết hợp hài hòa giữa phẩm chất đạo đức cao quý với năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện của đồng chí Lê Đức Anh đã hình thành nhân cách lớn của nhà lãnh đạo chiến lược xuất sắc về cả quân sự và chính trị.
Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh - tấm gương sáng về cống hiến, hy sinh vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia, ở cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng rồi Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng trong công tác đối nội, đối ngoại, thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; kinh tế phát triển, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố và tăng cường. Tâm huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, đồng chí Lê Đức Anh đã đề xuất, đưa ra nhiều quyết định và chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, tái thiết đất nước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phá thế bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại.
Với vai trò là Chủ tịch nước, đồng chí luôn đổi mới, quyết đoán, nhanh nhạy, bám sát thực tiễn, dám chịu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành và cũng rất giản dị, sâu sắc, nhân văn trong cuộc sống, được nhân dân yêu mến, bạn bè quốc tế đánh giá cao. Đồng chí luôn suy nghĩ tìm tòi nâng cao đời sống nhân dân; nơi nào không có nước thì tìm cách hỗ trợ đào giếng khoan cấp nước, vùng nào còn thiếu ăn thì tìm cách phát triển nông nghiệp..., bằng các chính sách phù hợp để đời sống người dân khá lên. Đồng chí Lê Đức Anh rất quan tâm công tác chính sách hậu phương quân đội, giải quyết các vấn đề tồn đọng về chính sách sau chiến tranh. Ngày 10/9/1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh Quy định danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” để tặng và truy tặng những người mẹ đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; đồng thời để giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng cho các thế hệ mai sau.
Nhằm tăng cường quốc phòng, an ninh, đồng chí Lê Đức Anh thường xuyên đến thăm, kiểm tra công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị quân đội, công an. Đồng chí chỉ đạo quyết liệt vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng và là một trong những người đưa ra ý tưởng xây dựng khu vực phòng thủ, các khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược. Đồng thời, đồng chí cũng hết sức chú trọng đến tình hình bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị của quân đội và đời sống của cán bộ, chiến sĩ.
Trong ngoại giao quốc tế, thực hiện nhiệm vụ Bộ Chính trị giao, đồng chí đã nghiên cứu, đề xuất cách thức, phương pháp, bước đi để thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ với một số nước, đối tác, góp phần đặt nền móng cho chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Đảng, Nhà nước ta. Việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ có vai trò to lớn của đồng chí Lê Đức Anh. Trên cương vị Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh đã nhiều lần dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến thăm các nước, các tổ chức quốc tế và ký kết nhiều hiệp định, điều ước, để lại những dấu ấn quan trọng và tình cảm tốt đẹp với các quốc gia, cộng đồng quốc tế.
Là nguyên thủ quốc gia, đồng chí Lê Đức Anh là một tấm gương sáng về phẩm chất của người cán bộ cách mạng, “tận trung với nước, tận hiếu với dân”. Đồng chí Lê Đức Anh luôn phấn đấu, học tập không ngừng, nâng cao tri thức về mọi mặt; thường xuyên rèn luyện bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, trước cán bộ, chiến sĩ và trước cấp trên.
Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã kinh qua nhiều cương vị công tác, nhưng dù ở đâu và trong bất cứ hoàn cảnh nào đồng chí luôn thể hiện đức hy sinh, lòng dũng cảm, trí thông minh; toàn tâm cống hiến cho Đảng, cho dân tộc; giữ trọn danh hiệu cao quý của người cộng sản, luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Những phẩm chất cao đẹp và những cống hiến của đồng chí Lê Đức Anh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước, quân đội luôn là tấm gương sáng ngời cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, nhân dân học tập. Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh là dịp để tưởng nhớ, hiểu thêm công lao đóng góp của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Đây cũng là dịp để tri ân sự hy sinh của các thế hệ cha anh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc, ấm no của nhân dân. Qua đó, thêm suy ngẫm về trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của mình đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
TS. Đinh Thị Mai