Quay lại

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh với chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc những năm 1987 - 1991

Cuộc đời hoạt động cách mạng của Đại tướng, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.

Khi mới 17 tuổi, đồng chí đã tham gia vào phong trào dân chủ ở Phú Vang, Thừa Thiên Huế; 25 tuổi tham gia quân đội, bắt đầu con đường binh nghiệp đầy gian khổ, hy sinh và oanh liệt. Suốt quá trình học tập, chiến đấu và trưởng thành trong lực lượng vũ trang, đồng chí đã lần lượt được bổ nhiệm giữ nhiều chức vụ quan trọng, từ Chính trị viên Chi đội 1, đến Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Đặc biệt, đồng chí còn là một trong hai sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được phong hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng vào tháng 4/1974.

Đại tướng Lê Đức Anh, Lê Đức Anh

Đại tướng Lê Đức Anh là một chiến sĩ cách mạng kiên cường, một vị tướng tài ba, người đã được tôi luyện, trưởng thành trong đấu tranh cách mạng, có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Trong suốt 30 năm chiến tranh giải phóng, đồng chí Lê Đức Anh đã lăn lộn trên khắp các chiến trường, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; tham gia chống chiến tranh xâm lược ở hai đầu biên giới của Tổ quốc. Trên cương vị chỉ huy cao cấp, đồng chí đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hồi sinh đất nước.

Trong suốt cuộc đời công tác, Đại tướng là người luôn coi trọng nhân, nghĩa (ngay cả đối với kẻ thù); là người lãnh đạo chỉ huy luôn thương yêu, tìm mọi biện pháp để giảm thiểu hy sinh xương máu của cán bộ, chiến sĩ và khó khăn, mất mát của đồng bào. Ông thường xuyên đến thăm, kiểm tra công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị trong toàn quân, đồng thời chỉ đạo rất quyết liệt vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng và là một trong những người đưa ra ý tưởng xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, các khu kinh tế - quốc phòng trên địa bàn chiến lược, bảo đảm cho người dân vừa đánh giặc, vừa sản xuất phát triển kinh tế - xã hội. Đó là cơ sở, tiền đề để chúng ta hiện nay đã và đang triển khai thực hiện. Trong xây dựng quân đội, Đại tướng cũng hết sức chú trọng đến việc bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị của Quân đội và đời sống của cán bộ, chiến sĩ.

Là một vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước xuất sắc, đồng chí luôn có tư duy đổi mới, quyết đoán, nhanh nhạy, bám sát thực tiễn, dám chịu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, nhưng lại có một cuộc sống rất giản dị, sâu sắc và nhân văn, được đồng chí, đồng đội và nhân dân yêu mến, bạn bè quốc tế đánh giá cao. Trên cương vị là Tổng Tham mưu trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí đã cùng Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thu được nhiều thành tựu quan trọng.

Trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) là thời điểm sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đứng trước những khó khăn gay gắt: Mỹ tiếp tục bao vây, cấm vận, “chiến tranh ở hai đầu biên giới” vẫn chưa chấm dứt. Vấn đề “giá - lương - tiền” đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân lao động; niềm tin của nhân dân vào các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đã có những dấu hiệu giảm sút. Trước khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra, ngày 07/12/1986, đồng chí Lê Đức Anh được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký quyết định bổ nhiệm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Trong chuyến đi thị sát biên giới phía Bắc, khi tình hình chiến sự vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt, với tư duy quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm, trên cương vị Tổng Tham mưu trưởng, đồng chí đặt ra yêu cầu phải tăng cường sức mạnh tư tưởng tinh thần, vật chất cho lực lượng vũ trang; chuyển đổi thế trận và lực lượng về chiến lược ở biên giới phía Bắc, phía Tây Nam, chỉ có vậy mới có khả năng phòng thủ vững chắc để bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề nan giải, phức tạp và hết sức khó khăn liên quan đến các vấn đề chiến lược trước mắt cũng như lâu dài; không thể do một người quyết định. Để khẩn trương giải quyết những vấn đề do thực trạng mới đặt ra, tại biên giới, đồng chí đã trao đổi với một số tướng lĩnh và sau đó đã báo cáo với các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Bộ Quốc phòng và nhận được rất nhiều ý kiến; trong đó có cả “chiều thuận” và “chiều nghịch”.

Nhiệm vụ chiến lược ấy vừa cấp bách trước mắt, vừa mang tính lâu dài. Vì vậy, nhiều đêm đồng chí đã thức trắng cùng các tướng lĩnh trong Bộ Tổng Tham mưu để bàn bạc từng nhiệm vụ, công việc cụ thể với yêu cầu giảm biên chế lực lượng thường trực với số lượng lớn, nhưng lực lượng nghiên cứu khoa học cần phải tăng. Giảm quân số để bảo đảm đánh lâu dài và trực tiếp giảm chi phí quốc phòng. Chủ trương là thế, vấn đề gay cấn, nan giải lại là giảm như thế nào? Giảm bao nhiêu, ở đâu? Bao giờ bắt đầu? Số quân nhân giảm sẽ làm gì để không ảnh hưởng chung đến chủ trương, chính sách của Đảng và không ảnh hưởng đến đời sống của những gia đình quân nhân này? Với nhiều phương án đề xuất, đồng chí Lê Đức Anh đề xuất giảm 60% quân thường trực và xin ngân sách quốc phòng từ 15 đến 18%, đầu tiên là tổng ngân sách, tiến tới là ngân sách thu trong nước. Từ những đề xuất của Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ Chính trị đã thông qua kế hoạch điều chỉnh chiến lược và giảm mạnh quân số quân đội, quân thường trực từ 1,5 triệu xuống còn 45 vạn, bước đầu để 5 vạn quân dự bị, 9 quân đoàn xuống còn 4 quân đoàn, nhưng sức mạnh chiến đấu không giảm mà càng được tăng cường, gánh nặng ngân sách quốc phòng đã được giải quyết một cách cơ bản. Như vậy, sự điều chỉnh về chiến lược đối với lực lượng vũ trang, xây dựng thế trận, xây dựng tiềm lực quốc phòng trong tình hình mới đã được tổ chức triển khai trong thực tiễn, tạo nên bước đột phá trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Đây là một trong những đóng góp của đồng chí Lê Đức Anh.

Bên cạnh đó, vấn đề điều chỉnh, bố trí lại lực lượng của từng đơn vị, từng cơ quan, đặc biệt là các đơn vị cơ động chiến lược của Bộ, của các quân khu, lực lượng phòng không, lực lượng không quân, hải quân, lực lượng phòng thủ trên các hướng, các địa bàn chiến lược quan trọng, vùng biển đảo và biên giới đất liền... tiếp tục đặt ra những yêu cầu mới. Với những đề xuất của đồng chí Lê Đức Anh, Bộ Chính trị đã quyết định di chuyển vị trí đứng chân của Quân đoàn 3 từ miền Bắc vào Tây Nguyên, đồng thời tăng cường lực lượng ở Cam Ranh và một số vùng biển, đảo trọng yếu khác. Cơ cấu biên chế, tổ chức và nhiệm vụ, chức năng của các học viện, nhà trường trong toàn quân cũng được điều chỉnh phù hợp.

Từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội. Trước thực trạng của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, vấn đề trung tâm của Đại hội Đảng lần thứ VI là phải “đổi mới tư duy” phải nghiên cứu một cách kịp thời, nghiêm túc nhất. Ngày 16/02/1987, Đại tướng Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Với cương vị Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, được sự tin tưởng, ủng hộ của Bộ Chính trị, đồng chí đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, chỉ đạo tập trung nghiên cứu, điều chỉnh tổ chức, biên chế, bố trí của các đơn vị địa phương, các đơn vị chiến dịch, chiến lược trong lực lượng vũ trang theo hướng vừa phù hợp với tình hình mới, phù hợp với khả năng của nền kinh tế, vừa phát huy được sức mạnh của toàn dân, toàn diện, tạo sức mạnh quốc phòng để phòng thủ đất nước, sẵn sàng chống lại mọi tình huống chiến tranh... Đồng chí là người trực tiếp thị sát, chỉ đạo và đóng góp quan trọng trong xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Sau khi được Bộ Chính trị nhất trí, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo các cơ quan Bộ Quốc phòng, nòng cốt là Bộ Tổng Tham mưu tiến hành song song hai việc: Một là, xây dựng kế hoạch và triển khai kế hoạch điều chỉnh bố trí chiến lược và giảm quân số. Hai là, soạn thảo các văn bản, tài liệu, giáo trình và triển khai trên toàn quốc “Thế trận chiến tranh nhân dân” và nhiệm vụ “Quốc phòng toàn dân”. Đây cũng là một trong những cơ sở lý luận và thực tiễn để Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 02/NQ-BCT về xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố và xác định nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo. Nghị quyết được triển khai thực hiện từ Trung ương đến cơ sở, nhanh chóng đi vào cuộc sống; thế trận và sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân được củng cố; các khu vực phòng thủ từ tỉnh, thành phố đến cơ sở xã, phường, thị trấn từng bước hình thành tạo nên sức mạnh tại chỗ của nền quốc phòng. Đây là một sự đổi mới trong tư duy, dám chịu trách nhiệm với dân, với Đảng của người đứng đầu lực lượng vũ trang, vừa mang tính kế thừa, vận dụng và sáng tạo phù hợp với thực tiễn mới.

Sau sự “mở đường” để “đổi mới tư duy” về xây dựng lực lượng vũ trang, về xây dựng thế trận chiến lược trên đất liền, vấn đề phòng thủ, bảo vệ biển, đảo cũng là vấn đề rất cấp bách đặt ra lúc này. Đại tướng Lê Đức Anh đã đề xuất: Phải nỗ lực cao nhất để bảo vệ quần đảo Trường Sa, tăng cường khả năng phòng thủ tại chỗ, giữ vững các đảo, coi trọng việc chi viện từ bờ ra. Vừa qua quốc phòng làm chưa hết sức. Nay ta phải làm, làm cho ngày nay và thế hệ mai sau. Sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của Đại tướng Lê Đức Anh đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, trách nhiệm rất cao trước dân, trước Đảng trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Thực hiện chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, cuối năm 1987 đến năm 1988, Bộ Tổng Tham mưu và Tổng cục Chính trị đã tổ chức Hội nghị giao nhiệm vụ cho các quân chủng: Hải quân, Phòng không và Không quân, tổ chức kế hoạch hiệp đồng tác chiến để bảo vệ quần đảo Trường Sa và vùng biển Cam Ranh. Đồng chí Lê Đức Anh đã gửi báo cáo lên Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng và Bộ Ngoại giao đề nghị giải quyết một loạt vấn đề cấp bách như: Sử dụng tàu vận tải hàng hoá ra Trường Sa, xét duyệt cấp kinh phí, vật tư cho Hải quân... Trên cơ sở đề xuất của Bộ Quốc phòng, ngày 22/02/1988, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ký quyết định giải quyết những vấn đề cấp bách mà nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo đặt ra. Ngày 16/3/1988, Bộ Chính trị họp và có kết luận về nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa.

Song song với vấn đề chiến lược bảo vệ biển, đảo là vấn đề vùng vịnh Cam Ranh và cảng Cam Ranh. Quan điểm, tư duy của Đại tướng Lê Đức Anh về vấn đề này là dứt khoát, kiên quyết, rõ ràng, hợp lý, hợp tình cả trước mắt và lâu dài. Đặc biệt, là khi giải quyết vấn đề vùng vịnh Cam Ranh và cảng Cam Ranh với Liên Xô, đồng chí đã đề xuất và chỉ đạo dứt khoát: Những gì đã ký kết trong Hiệp định trước đây thì phải tôn trọng hai bên đều có trách nhiệm phải thực hiện nghiêm túc. Những vấn đề bổ sung ngoài nội dung đã ký kết thì phải trao đổi, theo thẩm quyền của từng cấp, khi hai bên đồng thuận mới được thực hiện. Đại tướng Lê Đức Anh cho rằng: Khi xuất hiện tàu ngầm và chiến hạm mang đầu đạn hạt nhân tại đây sẽ rất phức tạp cho các bên liên quan cũng như khu vực; không những không giải quyết được vấn đề ổn định, hoà bình, mà còn đẩy tình hình đến sự căng thẳng mới khi chúng ta vẫn đang bị cấm vận; sau chiến tranh biên giới ở phía Bắc, chúng ta vẫn chưa tái lập lại ngoại giao với Trung Quốc. Vì vậy, đồng chí đã trình Bộ Chính trị hai vấn đề về vùng vịnh Cam Ranh và cảng Cam Ranh: Một là, kiên quyết không đưa tàu ngầm và chiến hạm mang đầu đạn hạt nhân vào Cam Ranh; Hai là, không cho khai thác cát và đá trong vịnh Cam Ranh. Từ những chỉ đạo chiến lược của Đại tướng, vấn đề vịnh Cam Ranh và cảng Cam Ranh được giải quyết ổn thỏa giữa các bên trong hoà bình. Tình đoàn kết hữu nghị giữa Liên Xô và Việt Nam vẫn diễn ra tốt đẹp. Sau này, khi Liên Xô tan rã, Nga tiếp quản thực thi Hiệp định đã ký kết với Việt Nam về vấn đề vịnh Cam Ranh và cảng Cam Ranh, Hiệp định có hiệu lực đến năm 2004.

Những năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX, tình hình thế giới, khu vực diễn biến hết sức phức tạp, nhất là sự sụp đổ, tan rã của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô. Ở trong nước, các thế lực thù địch tăng cường chống phá cách mạng nước ta. Chúng ráo riết thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú, tư duy nhạy bén, trước khi Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, đồng chí Lê Đức Anh nhận thấy một khi “Diễn biến hoà bình” có chỗ đứng chân vững chắc sẽ là cơ hội, thời cơ để kẻ địch chống phá hoà bình, ổn định trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của ta.

Trước tình hình đó, đồng chí Lê Đức Anh đã đề xuất với Bộ Chính trị phải thực hiện đúng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tập trung vào hai vấn đề: Thứ nhất, phải củng cố lại Đảng để xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp công nhân. Thứ hai, phải chăm sóc lợi ích và đời sống nhân dân cả nước. Đây là hai thành phần nền tảng, cốt lõi nhất trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn đã chứng minh: Công tác xây dựng Đảng chưa bao giờ, không bao giờ “kết thúc”. Đây là nhiệm vụ thường xuyên, trọng yếu của Đảng. Mặt khác, mục tiêu cách mạng của Đảng ta là đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp Nhân dân. Vì vậy, chăm sóc lợi ích và đời sống Nhân dân cũng không bao giờ là “kết thúc”.

Trước yêu cầu phát triển đất nước, hội nhập quốc tế, Đại tướng Lê Đức Anh đã cùng Bộ Chính trị chủ trương đã đến thời điểm cần phải phá bao vây cấm vận của Mỹ, bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, tìm cách gia nhập ASEAN. Đây là nhiệm vụ đối ngoại chiến lược rất khó khăn, lâu dài đã được đồng chí Lê Đức Anh đề xuất với Bộ Chính trị, sau đó được thông qua và giao cho Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao tổ chức thực hiện. Bộ Chính trị giao cho Bộ Quốc phòng, trực tiếp là đồng chí Lê Đức Anh suy nghĩ cách làm, biện pháp cụ thể và tổ chức thực hiện bước “mở đầu” của nhiệm vụ chiến lược này. Bằng phương pháp tiếp cận đúng đắn, đồng chí đã hoàn tất thắng lợi nhiệm vụ đối ngoại chiến lược này trước Đảng, trước dân.

Cuối tháng 7/1991, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ làm phái viên của Bộ Chính trị sang Trung Quốc để bàn bạc về những vấn đề cụ thể tiến tới bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Những cuộc đối thoại của đoàn cán bộ phái viên của ta, đứng đầu là đồng chí Lê Đức Anh với lãnh đạo Đảng, Nhà nước Trung Quốc đã thành công tốt đẹp, đã trực tiếp tạo ra những thuận lợi mới về ngoại giao để các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ ta sang thăm Trung Quốc sau này, mở đường cho việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Tháng 11/1991, ta đã ký thông cáo chung, tuyên bố bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và Hiệp định thương mại, Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc vùng biên giới giữa hai nước.

Thực tiễn hơn 80 năm hoạt động cách mạng của đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh đã để lại cho chúng ta hôm nay những bài học sâu sắc về đạo đức cách mạng và phong cách lãnh đạo, chỉ đạo. Đồng chí là người luôn học tập, rèn luyện không ngừng để nâng cao tri thức mọi mặt; đặc biệt là việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và lối sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh; luôn rèn luyện đạo đức cách mạng của người chiến sĩ cộng sản, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân, trước cấp trên; luôn đặt lợi ích cách mạng lên trên hết.
 

Thiếu tướng, PGS.TS. VŨ CƯƠNG QUYẾT