Quay lại

Bộ đội đặc công huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến đấu theo chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh

Cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Lê Đức Anh gắn liền với quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trải qua hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, Đại tướng đã có mặt trên nhiều chiến trường khó khăn gian khổ, ác liệt. Trên mỗi cương vị được giao, đồng chí Lê Đức Anh đều để lại những dấu ấn đậm nét trong lòng nhân dân và chiến sĩ cả nước, trong đó có Bộ đội Đặc công.
 

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trước sự ra đời của cách đánh đặc công ở miền Đông Nam Bộ được đánh dấu bởi trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên (19/3/1948) và sau đó là trận đánh đồng loạt 50 tháp canh dọc theo các trục lộ 15, 16 và quốc lộ 1 tại Biên Hòa. Giữa năm 1950, Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn mở Hội nghị tổng kết Chiến dịch Bến Cát - Chiến dịch do đồng chí Lê Đức Anh làm Tham mưu trưởng. Đồng chí Lê Đức Anh thay mặt Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn biểu dương thành tích của các địa phương, đơn vị và phát động phong trào thi đua diệt tháp canh, đồn bốt của địch bằng “cách đánh đặc công”. Sau hội nghị tổng kết và theo chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, cách đánh đặc công được tổ chức huấn luyện trong các đơn vị bộ đội và du kích, mở ra thời kỳ phát triển cách đánh đặc công ở các tỉnh Nam Bộ.

Giai đoạn 1955 - 1963, đồng chí đã tham mưu cho Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh nhiều vấn đề về duy trì và phát triển lực lượng đặc công để tăng cường cho miền Nam. Chỉ đạo tổ chức xây dựng các tiểu đoàn đặc công 5 và 323 tập kết ra miền Bắc thành những đơn vị huấn luyện có chất lượng cao, tăng cường cho miền Nam hàng trăm cán bộ làm nòng cốt trong việc xây dựng lực lượng đặc công ở miền Nam. Tham mưu cho Bộ và trực tiếp cùng Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu tổ chức hội nghị Tổng kết đặc công trong kháng chiến chống Pháp, đặt cơ sở lý luận đầu tiên về đặc công, làm cơ sở nghiên cứu, phát triển lực lượng và cách đánh đặc công, kịp thời phục vụ công tác huấn luyện của Bộ đội Đặc công trong giai đoạn mới; tham mưu cho Bộ tổ chức khung bổ túc cán bộ đặc công trinh sát trực thuộc Cục Nghiên cứu có nhiệm vụ bổ túc cán bộ cho toàn quân. Đây là số cán bộ đặc công đầu tiên được bồi dưỡng, đào tạo cơ bản về đặc công. Trong thời gian huấn luyện ở miền Bắc, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng với đoàn cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội đến thăm, động viên và chỉ đạo công tác huấn luyện chiến đấu. Đồng chí Lê Đức Anh luôn nhấn mạnh: Công tác huấn luyện chiến đấu phải sát thực tiễn chiến trường, lấy tăng cường bồi dưỡng nâng cao ý chí chiến đấu cho bộ đội làm căn cốt nhất.

Qua theo dõi và nắm kết quả huấn luyện của Bộ đội Đặc công, đồng chí Lê Đức Anh đề nghị Bộ Quốc phòng điều động nhiều đơn vị, cán bộ, chiến sĩ đặc công đã được huấn luyện cơ bản ở miền Bắc và đưa vào miền Nam chiến đấu. Chỉ trong hai năm 1961 - 1962 đã có 10 đại đội đặc công chuyên môn, 01 tiểu đoàn cơ động, tổng cộng 1.122 cán bộ, chiến sĩ tăng cường cho chiến trường Khu 5 và Nam Bộ.

Những năm 1963 - 1964, để phục vụ cho huấn luyện và chiến đấu trước tình hình mới, đồng chí Lê Đức Anh cùng các Thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Cục Nghiên cứu biên soạn các tài liệu: “Sáu tư tưởng chỉ đạo tác chiến đặc công”, “Tiếp cận bí mật và sử dụng bộc phá” và “Tổng kết chiến thuật đặc công”. Đây là những công trình nghiên cứu khoa học quân sự đầu tiên về Đặc công nhằm giới thiệu với các đơn vị những kinh nghiệm chiến đấu đặc công. 

Giai đoạn 1965 - 1968, đồng chí đã chỉ đạo sử dụng đặc công tiếp tục đánh phá hậu phương địch, tiến công các căn cứ, hậu cứ, cơ quan đầu não của địch... Lực lượng đặc công đã phát triển hết sức nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, sự trưởng thành đó đã được đánh dấu bởi quyết định thành lập Binh chủng Đặc công ngày 19/3/1967. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, tạo ra bước ngoặt trong lịch sử xây dựng và chiến đấu của Bộ đội Đặc công. Đồng thời, là bước phát triển nhảy vọt về tổ chức, xác định vai trò, vị trí của Bộ đội Đặc công với tư cách là một binh chủng đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam, tạo điều kiện cơ bản cho Bộ đội Đặc công hoàn thành mọi nhiệm vụ chiến đấu và công tác đặc biệt.

Giai đoạn 1974 - 1975, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng với các đồng chí trong Quân ủy và Bộ Tư lệnh Quân giải phóng chỉ đạo xây dựng lực lượng đặc công với quy mô lớn hơn trước, chuẩn bị mọi mặt cho đón thời cơ mới. Đến trước ngày Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, lực lượng Đặc công ở miền Nam có 01 sư đoàn (Sư đoàn 2), 01 lữ đoàn, 05 trung đoàn, 36 tiểu đoàn, 121 đại đội và hàng trăm trung đội, tiểu đội, tổ đặc công, biệt động của huyện, thị xã và xã... Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương và sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Đặc công, lực lượng đặc công trên chiến trường được bố trí ở các vùng chiến lược và các mục tiêu chiến lược ở các địa bàn trọng điểm.

Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, đồng chí Lê Đức Anh vẫn hết sức quan tâm tới xây dựng, phát triển và sử dụng lực lượng đặc công. 

Giai đoạn 1975 - 1979, đánh giá cao vị trí, vai trò, khả năng của Bộ đội Đặc công, đồng chí đề nghị với Bộ quyết định điều động các đơn vị đặc công có nhiều thành tích, kinh nghiệm chiến đấu vào tham gia các hoạt động Bộ giao. Đây là giai đoạn có nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của quốc tế, của đất nước, của quân đội, có ảnh hưởng tác động đến quá trình phát triển, trưởng thành của Bộ đội Đặc công. Đặc biệt, khôi phục và phát triển lực lượng đặc công tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và phía Bắc. 

Giai đoạn 1981 - 1987, đồng chí Lê Đức Anh đã đề nghị với Bộ Quốc phòng để Bộ Tư lệnh Đặc công thành lập các đoàn đặc công mạnh tham gia chiến đấu bảo vệ đất nước Campuchia như các đoàn A381, A382, A383, A5, A9. Sử dụng đặc công của Bộ Quốc phòng, của các quân khu, mặt trận thực hiện nhiệm vụ truy quét tàn quân, đánh phá các mục tiêu hiểm yếu, quan trọng ở hậu phương địch... Đồng thời, đồng chí cũng tham gia chỉ đạo hội nghị tổng kết đặc công tác chiến ở chiến trường Campuchia trong các năm 1982, 1984, 1986; rút ra những vấn đề lớn về tổ chức, xây dựng lực lượng, hoạt động tác chiến của đặc công ở chiến trường; những kinh nghiệm và bài học bổ ích.

Giai đoạn 1987 - 1992, đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Đại tướng Lê Đức Anh đã trực tiếp chỉ đạo Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Binh chủng Đặc công tinh giản lực lượng đặc công cùng các lực lượng khác xây dựng theo hướng “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”.

Quán triệt sâu sắc sự chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ đội Đặc công đã nỗ lực phấn đấu, xây dựng và phát triển lực lượng, cùng quân và dân cả nước lập nên những chiến tích anh hùng, gây tiếng vang trên trường quốc tế. Trong chiến tranh giải phóng, Bộ đội Đặc công đã lập được nhiều chiến công hiển hách: đánh 19.329 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng vạn tên địch (có hàng nghìn tên Mỹ, chư hầu, giặc lái, nhân viên kỹ thuật); tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng hàng trăm sở chỉ huy các cấp (trong đó có hàng chục sở chỉ huy cấp sư đoàn, lữ đoàn, quân đoàn và tương đương); phá hủy, phá hỏng hàng nghìn máy bay các loại, 11.494 xe quân sự (có 3.140 xe tăng, xe thiết giáp), 2.161 khẩu pháo từ 105 đến 175mm, 1.701 khẩu cối từ 60 đến 106,7 mm, 42 giàn tên lửa, 53 giàn rađar; phá hủy 3 triệu 80 vạn tấn bom đạn, đốt cháy gần 1 tỷ 700 triệu lít xăng dầu; đánh chìm, đánh cháy, đánh hỏng hàng nghìn tàu, xuồng chiến đấu, phá sập 326 (lần/chiếc) cầu giao thông quan trọng. Thu nhiều vũ khí, trang bị và vật chất, phương tiện chiến tranh. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Bộ đội Đặc công đánh trên 600 trận lớn, nhỏ; loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục nghìn tên địch; phá hủy và thu nhiều vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh của địch, góp phần cùng quân và dân cả nước bảo vệ vững chắc đất nước và làm tròn nhiệm vụ giúp nước bạn Campuchia.

Dù ở cương vị nào, đồng chí Lê Đức Anh vẫn luôn quan tâm đến quá trình phát triển, trưởng thành của Bộ đội Đặc công. Đồng chí đã theo dõi, chỉ đạo huấn luyện Bộ đội Đặc công nâng cao năng lực, trình độ; phát huy được vai trò, vị trí của đặc công trong chiến tranh, tạo điều kiện cho Bộ đội Đặc công lập công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Những chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh có thể khái quát trên một số vấn đề, đó là: Nghiên cứu, phát triển cách đánh đặc công; đưa cách đánh đặc công vào thực hiện rộng rãi trên chiến trường miền Nam; tổ chức huấn luyện và sử dụng lực lượng đặc công trong các trận đánh, các chiến dịch đạt hiệu suất chiến đấu cao, góp phần vào thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, đồng chí còn luôn coi trọng chỉ đạo nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm, tìm ra những bài học quý báu qua mỗi trận đánh, mỗi chiến dịch mà đặc công tham gia, từ đó Bộ đội Đặc công luôn được đánh giá là lực lượng đánh hiểm có hiệu suất cao; cách đánh đặc công đã được các đơn vị quân đoàn, sư đoàn nghiên cứu, vận dụng trong chiến đấu. Trong công tác xây dựng và phát triển lực lượng đặc công, đồng chí chỉ đạo: Đây là lực lượng đặc biệt nên cần phải “tinh, gọn” để luồn sâu vào trong hậu phương, phía sau đội hình địch, tiến công vào các mục tiêu hiểm yếu, quan trọng, tạo ra tác động lớn làm thay đổi tương quan lực lượng, thế trận có lợi cho ta; do đó, Bộ đội Đặc công cần phải lựa chọn và tổ chức huấn luyện chặt chẽ, chu đáo, toàn diện.

Hiện nay, trước những diễn biến khó lường của tình hình thế giới, khu vực và trong nước; những cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, vấn đề an ninh phi truyền thống diễn ra thường xuyên; tình trạng xâm lấn biên giới, biển, đảo, sự chống phá của một số phần tử phản động cấu kết với các đối tượng bất mãn trong nước đang là những thách thức đối với lực lượng vũ trang ta nói chung và Bộ đội Đặc công nói riêng. Là binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ đội Đặc công được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng như: Bảo vệ các mục tiêu trọng yếu của Đảng, Nhà nước; phối hợp cùng các lực lượng khác bảo vệ và giữ vững vùng biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc; sẵn sàng tiến công địch xâm lược, lấn chiếm biên giới, biển đảo, chống khủng bố; đặc biệt Binh chủng Đặc công còn được giao trọng trách là lực lượng đầu ngành chống khủng bố trong quân đội. Để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cao cả đó, Bộ đội Đặc công phải có đủ khả năng và sức mạnh chiến đấu. Phát huy những thành tích đã đạt được trong hai cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, đồng thời thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh trước đây, trong công tác huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến đấu, Bộ đội Đặc công cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, xây dựng Bộ đội Đặc công luôn vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Sức mạnh chiến đấu của Bộ đội Đặc công là tổng hợp của nhiều yếu tố: con người, vũ khí, trang bị, nghệ thuật tác chiến đặc công... Huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến đấu của Bộ đội Đặc công chính là xây dựng lực lượng đặc công thực sự “tinh nhuệ” sẵn sàng nhận và thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng giao.

Đặc thù tác chiến của Bộ đội Đặc công là tác chiến sâu trong “lòng” địch. Do đó, mỗi cán bộ, chiến sĩ đặc công đòi hỏi phải có tinh thần và ý chí đặc biệt vững vàng, phải tuyệt đội trung thành với Đảng, với Tổ quốc, vượt mọi gian khổ, ác liệt, sẵn sàng hy sinh thân mình để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Do đó, để bảo đảm cho Bộ đội Đặc công luôn vững vàng về chính trị, tư tưởng, làm cơ sở để nâng cao sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cần phải tập trung xây dựng Binh chủng đặc biệt tinh nhuệ về chính trị, 100% cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, có ý chí quyết tâm cao, không sợ gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Xây dựng Đảng bộ Binh chủng trong sạch, vững mạnh tiêu biểu, mẫu mực về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Phấn đấu hằng năm có trên 99,5% cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ trở lên, có trên 80% hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ; tỷ lệ lãnh đạo của Binh chủng trên 50%. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Binh chủng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong các nhiệm vụ; trọng tâm là nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, thực hành diễn tập ở những địa bàn có khả năng xảy ra những tình huống như: Quần đảo Trường Sa, nhà giàn DK1, các vùng biên giới của Tổ quốc; đồng thời chú trọng làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh mọi mặt; đề cao dân chủ, kỷ luật, kỷ cương, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất là cơ sở vững chắc để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của các đơn vị đặc công.

Lãnh đạo đột phá nâng cao chất lượng chính trị, tư tưởng. Coi trọng đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa 
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất cách mạng, truyền thống, nhiệm vụ của quân đội và Binh chủng; nhận thức đúng về đối tác, đối tượng, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, lực lượng phản động trong và ngoài nước, không để bị động, bất ngờ. Thường xuyên nắm, quản lý và dự báo chính xác tình hình tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ; xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Hai là, kiện toàn tổ chức biên chế, xây dựng lực lượng đặc công “tinh nhuệ, thiện chiến”, là lực lượng chiến đấu “đặc biệt” của quân đội ta.

Đây là vấn đề hết sức quan trọng, là đòi hỏi khách quan của tình hình thực tiễn nhằm xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nói chung và lực lượng đặc công nói riêng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại...”; bảo đảm các cơ quan, đơn vị trong Binh chủng Đặc công và lực lượng đặc công toàn quân có cơ cấu tổ chức hợp lý, chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đủ khả năng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Để kiện toàn tổ chức, xây dựng lực lượng đặc công thực sự tinh nhuệ, thiện chiến, là lực lượng chiến đấu “đặc biệt” của quân đội ta trong điều kiện hiện nay, cần phải xây dựng và phát triển lực lượng đặc công theo hướng tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt và thực hiện tốt chức năng đầu ngành chống khủng bố toàn quân. Xây dựng Binh chủng cách mạng, chính quy, đặc biệt tinh nhuệ, tiến lên hiện đại; huấn luyện giỏi, sẵn sàng chiến đấu cao và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống, xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ, trung thành của Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân; giữ vững và phát huy phẩm chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”, truyền thống vẻ vang của Binh chủng Đặc công hai lần Anh hùng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Ba là, bám sát thực tiễn, tích cực đổi mới nội dung, hình thức tổ chức, phương pháp huấn luyện.

Bám sát thực tiễn, nâng cao chất lượng huấn luyện cho Bộ đội Đặc công, trước hết phải bám sát các chủ trương, nghị quyết của các cấp ủy đảng, nhiệm vụ chính trị được giao, tình hình thực tiễn đơn vị và năng lực của bộ đội để vận dụng các hình thức tổ chức, phương pháp huấn luyện cho phù hợp. Đặc biệt chú trọng đến hiệu quả của nội dung huấn luyện, bảo đảm bộ đội vận dụng được ngay khi có tình huống xảy ra. Do đó, cấp ủy đảng, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong Binh chủng phải thường xuyên coi trọng, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Các cơ quan, đơn vị, nhà trường trong Binh chủng quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng; các chỉ thị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo của Binh chủng về công tác huấn luyện. Trong huấn luyện, thực hiện đúng các quan điểm, nguyên tắc, phương châm chỉ đạo; hoàn thành tốt nội dung, chương trình huấn luyện hằng năm, kết quả huấn luyện phải đạt loại giỏi và bảo đảm an toàn. Công tác giáo dục - đào tạo phải có nhiều đổi mới cả về nội dung, chương trình, sát với yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu. Coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu; tăng cường huấn luyện thực hành, huấn luyện theo nhiệm vụ, theo tình huống, nâng cao khả năng tác chiến trong mọi điều kiện địa hình, thời tiết phức tạp, địch sử dụng vũ khí công nghệ cao, tác chiến không gian mạng rộng rãi. Nâng cao chất lượng luyện tập, diễn tập theo phương án. Chuẩn bị tốt lực lượng, phương tiện, tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn.

Tập trung đột phá đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng huấn luyện, giáo dục - đào tạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tập trung huấn luyện theo nhiệm vụ và huấn luyện nâng cao cho lực lượng làm nhiệm vụ A2, chống khủng bố, đặc công nước; nâng cao chất lượng huấn luyện nhảy dù, đổ bộ đường không chống khủng bố các mục tiêu trên đất liền, trên biển. Tăng cường huấn luyện đêm, huấn luyện dã ngoại dài ngày trong điều kiện khắc nghiệt và điều kiện chiến tranh vũ khí công nghệ cao. Đẩy mạnh đổi mới hình thức tổ chức, phương pháp hội thi, hội thao, kiểm tra huấn luyện; tăng cường kiểm tra đột xuất, đánh giá thực chất công tác huấn luyện. Đổi mới quy trình, nội dung, chương trình giáo dục - đào tạo phù hợp với thực tế huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu ở đơn vị cơ sở. Chấp hành nghiêm quy chế giáo dục - đào tạo, quy chế tuyển sinh quân sự. Vận dụng hiệu quả phương pháp dạy học tích cực, thực hiện tốt phương châm dạy thực chất, học thực chất, đánh giá thực chất kết quả giáo dục -đào tạo. Xây dựng Trường Sĩ quan Đặc công theo mô hình “Nhà trường thông minh, tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên có đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, phấn đấu xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ cao đẳng, đại học đủ tiêu chí; đội ngũ cán bộ, giáo viên nhà trường có trình độ sau đại học đạt chuẩn theo yêu cầu đề ra.

Tổ chức huấn luyện chuyên ngành đặc công, đặc công chuyên trách chống khủng bố toàn quân theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, kết hợp truyền thống và hiện đại, đáp ứng yêu cầu tác chiến trong điều kiện chiến tranh hiện đại, cường độ cao. Phấn đấu đến năm 2025, cơ bản hoàn thành xây dựng Binh chủng “tinh, gọn, mạnh”; đến năm 2030, xây dựng lực lượng đặc công chống khủng bố, đặc công nước đạt trình độ hiện đại; từ năm 2030 xây dựng Binh chủng hiện đại.

Bốn là, từng bước hiện đại hóa phương tiện, vũ khí trang bị kỹ thuật cho Bộ đội Đặc công.

Trong những năm qua, được sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, Bộ đội Đặc công đã được trang bị nhiều loại vũ khí, khí tài, trang bị kỹ thuật tiên tiến; vũ khí, trang bị được cải tiến và đưa vào khai thác sử dụng, giúp nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của các đơn vị đặc công. Là một binh chủng chiến đấu tinh nhuệ của quân đội, Bộ đội Đặc công cần phải được biên chế và trang bị nhiều loại phương tiện, vũ khí hiện đại mới đáp ứng được yêu cầu của chiến tranh hiện đại. Tuy nhiên, để nâng cao được sức mạnh chiến đấu hơn nữa, cần phải trang bị và tổ chức huấn luyện cho Bộ đội Đặc công sử dụng thành thạo những phương tiện và vũ khí hiện đại như: Tàu ngầm chiến thuật, phương tiện bay không người lái (UAV), xuồng siêu tốc, súng bắn ở hai môi trường, v.v..

Để đáp ứng nhu cầu về phương tiện, vũ khí trang bị cho Bộ đội Đặc công trước hết cần sự đầu tư của Nhà nước, quân đội trong việc mua sắm các loại vũ khí hiện đại phù hợp với tác chiến của đặc công nhằm theo kịp với sự phát triển của quân đội các nước. Đồng thời các công ty, xí nghiệp trong nước và xưởng kỹ thuật của đặc công cần phải chủ động, tích cực phối hợp nghiên cứu, cải tiến, sản xuất các loại phương tiện, vũ khí trang bị kỹ thuật, nhất là vũ khí trang bị kỹ thuật đặc chủng cho lực lượng làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu thực hiện nhiệm vụ A2, A3, chống khủng bố và tác chiến bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Bảo đảm nâng cao khả năng chiến đấu và tiết kiệm được ngân sách nhà nước cũng như chủ động đáp ứng được các loại trang bị cho bộ đội mà không phải phụ thuộc vào nước ngoài. Duy trì nghiêm chế độ bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa; chú trọng làm chủ, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật thế hệ mới, bảo đảm hệ số kỹ thuật của vũ khí, trang bị kỹ thuật theo quy định.

Năm là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học quân sự, phát triển nghệ thuật tác chiến đặc công.

Xây dựng và phát triển lực lượng cần phải dựa trên tổ chức biên chế, quân số, vũ khí trang bị và nghệ thuật tác chiến của lực lượng đó; Binh chủng Đặc công đã được hình thành, phát triển và lớn mạnh như ngày nay cũng nhờ có nghệ thuật tác chiến đặc biệt. Từ trận đánh tháp canh cầu Ba Kiên đã mở ra một cách đánh mới, hình thành một lực lượng mới, lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, đó chính là Bộ đội Đặc công. Trải qua hai cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nghệ thuật tác chiến đặc công càng được “mài giũa” trở nên “sắc bén” và hiệu quả hơn, phù hợp hơn với từng loại mục tiêu, đối tượng địch. Từ tiêu diệt những tháp canh, Bộ đội Đặc công đã đánh được các mục tiêu địch có công sự vững chắc được bảo vệ bởi nhiều lớp hàng rào, tường bao, các loại mìn, bẫy của địch; đánh vào các sân bay, bến cảng, địch phòng ngự trên đảo; phá hủy các tàu thủy neo đậu trên sông, trên biển;... thậm chí còn đánh được cả máy bay của địch khi đã hạ cánh xuống sân bay ở nước ngoài. Từ độc lập chiến đấu, đặc công đã phối hợp với các quân, binh chủng khác trong các trận đánh lớn, các chiến dịch, các đợt hoạt động; đặc biệt, Bộ đội Đặc công đã tham gia trong Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968 và Tổng tiến công, nổi dậy mùa Xuân năm 1975, góp phần to lớn vào chiến thắng chung của cả nước.

Trong những năm tháng ở chiến trường, trước những mục tiêu mới của địch, đồng chí Lê Đức Anh cũng đã thường xuyên cùng tập thể nghiên cứu tìm ra cách đánh phù hợp, trong đó có cách đánh của Bộ đội Đặc công. Trải qua gần 50 năm gắn bó với quân đội, đồng chí vẫn luôn tâm huyết với công việc “tổng kết kinh nghiệm chiến tranh cách mạng”. 

Để góp phần vào công tác huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến đấu, Bộ đội Đặc công cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu các đề tài, chuyên đề, bài viết, biên soạn các tài liệu huấn luyện,... Thực hiện tốt tâm nguyện của Đại tướng, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong Binh chủng và những người làm công tác khoa học cần phải tăng cường công tác tổng kết các kinh nghiệm trong kháng chiến, tìm ra các bài học có giá trị thực tiễn để vận dụng có hiệu quả trong quá trình tác chiến sau này. Đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu khoa học quân sự, nhất là nghiên cứu, phát triển nghệ thuật tác chiến đặc công trong điều kiện địch sử dụng không gian mạng và tác chiến điện tử rộng rãi; sử dụng đặc công trong tác chiến trên biển, trên bộ, ở vùng ngoại biên... làm cơ sở để Thủ trưởng Bộ, Bộ Tư lệnh và các cơ quan chỉ đạo, sử dụng đặc công cho phù hợp, đồng thời cũng là cơ sở để biên soạn các tài liệu huấn luyện cho bộ đội.

Củng cố, hệ thống lại những đề tài, tài liệu đã được biên soạn; thực hiện số hóa và bảo mật để vừa tiện tra cứu, nghiên cứu và học tập, vừa bảo đảm bí mật của nghệ thuật tác chiến đặc công. Tích cực giao lưu, học tập với quân đội các nước, đặc biệt trong xây dựng, phát triển lực lượng và nghệ thuật quân sự, qua đó củng cố và làm phong phú nghệ thuật tác chiến của Binh chủng.

Cả cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, gần 50 năm gắn bó với quân đội, có mặt trên các chiến trường gian khổ, ác liệt, luôn bám sát bộ đội, Đại tướng Lê Đức Anh đã để lại nhiều kinh nghiệm quý về chỉ đạo xây dựng, phát triển lực lượng, kế hoạch tác chiến, huấn luyện bộ đội, nghệ thuật quân sự... Trong đó, có tầm ảnh hưởng lớn đến sự hình thành, phát triển lực lượng; cách thức tổ chức, phương pháp huấn luyện và nghệ thuật tác chiến đặc công. Đây thực sự là những bài học vô cùng quý giá để mỗi cán bộ, chiến sĩ đặc công nghiên cứu, học tập. Trong tình hình hiện nay, thực hiện tốt những chỉ thị của Đại tướng sẽ là cơ sở vững chắc để Binh chủng làm tốt công tác huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến đấu cho bộ đội đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Đại tướng, bài viết này là lời tri ân của những người đã và đang công tác trong Binh chủng Đặc công tưởng nhớ tới Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Quân đội nhân dân Việt Nam - vị Chủ tịch nước kính yêu của đất nước.

Thiếu tướng Phan Thế Ba