Quay lại

Đại tướng Lê Đức Anh với tư tưởng cách mạng tiến công, góp phần đánh bại kế hoạch "Tràn ngập lãnh thổ" của địch sau Hiệp định Pari

Trong suốt cuộc đời binh nghiệp và sự nghiệp hoạt động cách mạng, nhiều gian khổ, hiểm nguy nhưng cũng đầy vinh quang và oanh liệt, dù ở cương vị nào, Đại tướng, Chủ tịch nước Lê Đức Anh cũng luôn nỗ lực hết mình, hết lòng, hết sức “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”; đặc biệt là luôn có tư tưởng cách mạng tiến công, sự nhạy bén, ý chí kiên cường, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
 

Tư tưởng đó thể hiện rõ nét nhất trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thời điểm sau Hiệp định Pari (01/1973), góp phần đánh bại kế hoạch lấn chiếm “tràn ngập lãnh thổ” của chính quyền Sài Gòn trên địa bàn Quân khu 9.

Chương Thiện là một tỉnh do địch ra sắc lệnh thành lập ngày 24/12/1961. Đây là một địa bàn chiến lược quan trọng, là trung tâm của các tỉnh nam sông Hậu, bao bọc xung quanh bởi hệ thống kênh rạch chằng chịt, đất đai phì nhiêu, nhiều lúa, đông dân; là đầu mối giao thông thủy bộ trọng yếu đi các tỉnh: Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, U Minh, Rạch Giá và hành lang biên giới Tây Nam. Do vậy, Chương Thiện trở thành vị trí quân sự quan trọng, có tính chiến lược trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ta và địch tranh chấp ác liệt địa bàn này.

Trở lại lịch sử, sau Hiệp định Giơnevơ (7/1954), Mỹ từng bước thay chân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau thất bại của các chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”, từ năm 1969, Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Chính quyền của Tổng thống Richard Nixon lúng túng, bế tắc trước áp lực của nhân dân Mỹ và thế giới đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Tình hình đó buộc Mỹ phải thực hiện đàm phán tại Hội nghị Pari về chiến tranh Việt Nam. Do sự ngoan cố của Mỹ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, Hội nghị Pari kéo dài hơn 4 năm mà vẫn chưa có kết quả. Thất bại trên chiến trường miền Nam Việt Nam năm 1972 và cuộc tập kích chiến lược bằng không quân ra miền Bắc mang tên “Chiến dịch Linerbacker II” buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27/01/1973. Hiệp định có hiệu lực bắt đầu từ 07 giờ ngày 28/01/1973. Trong đó điều khoản quan trọng nhất là quân Mỹ rút hết khỏi miền Nam Việt Nam, trong khi Quân đội nhân dân Việt Nam ở lại các vị trí tại miền Nam, điều mà Mỹ trước đó từ chối ký kết.

Tại thời điểm ấy, lực lượng vũ trang của chính quyền Sài Gòn có 1,1 triệu người với 13 sư đoàn chủ lực, tiếp tục được Mỹ viện trợ về quân sự và kinh tế. Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu trắng trợn phản đối, đưa ra khẩu hiệu 4 không: không có hòa bình; không có ngừng bắn; không có giải pháp chính trị; không có tổng tuyển cử; đồng thời quyết tâm thực hiện chủ trương: Trên hòa bình, dưới chiến tranh, ngoài hòa hợp, trong bình định. Chúng triển khai ngay kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” với mục tiêu: cắm cờ, giành đất, giành dân, thi hành 48 giờ trước khi Hiệp định có hiệu lực, đồng thời đẩy mạnh bình định lấn chiếm.

Sau khi Hiệp định Pari được ký kết, ta chủ trương đẩy mạnh và kết hợp các hoạt động chính trị - quân sự - ngoại giao, đấu tranh buộc địch phải thi hành các điều khoản đã ký, sách lược trước mắt là cố gắng đưa cách mạng miền Nam tiến lên bằng con đường hòa bình. Chủ trương đó là hoàn toàn đúng đắn, với mong muốn không đối đầu về quân sự, nhằm tránh tổn thất xương máu của cả hai bên. Nhưng, lúc đầu một số lãnh đạo chưa nhận thức đầy đủ âm mưu, thủ đoạn và sự ngoan cố của địch; vì vậy có nơi còn coi giữ vững hòa bình là nhiệm vụ trọng tâm số một; có nơi thực hiện “5 cấm chỉ” của cấp trên.

Tình hình Nam Bộ khi ấy khá phức tạp, nhận thức chưa thống nhất về âm mưu của địch và chủ trương của Trung ương Đảng; một số hy vọng có hòa bình thông qua thực hiện Hiệp định Pari, một số có tư tưởng muốn lui vào hậu cứ nghỉ xả hơi sau những ngày đã quá căng thẳng, ác liệt dẫn đến tình trạng có nơi phân vân, không dám đánh địch, sợ vi phạm Hiệp định; có đơn vị thực hiện rút khỏi vị trí. Trong khi đó, địch lợi dụng tình hình hòa hoãn của ta, chúng tập trung binh lực, hỏa lực tăng cường tấn công, lấn chiếm, đã gây cho ta nhiều khó khăn, thiệt hại về người, của và mất một số căn cứ, một số vùng dân cư ta giành được trước khi Hiệp định được ký. Điều đó đã tác động đến tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên và quần chúng. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã nghiêm khắc kiểm điểm: “Vì sao từ đầu năm 1973, quân Mỹ đã rút ra, lực lượng địch trên chiến trường đã giảm một bộ phận quan trọng cả về bộ binh và binh chủng kỹ thuật, mà địch vẫn giành được chủ động tiến công, ta phải bị động đối phó, có nơi mất đất, mất dân như vậy? Đó là do ta có khuyết điểm chứ không phải do địch mạnh...; lúc đầu ta đánh giá không hết khả năng thực hiện âm mưu của địch...; lại thiếu chủ trương nhất quán từ đầu về vị trí, nội dung của tiến công quân sự. Địch tiến công mà ta cứ ngồi yên, có nơi còn rút lui, thì rõ ràng là địch mạnh lên, mà ta yếu đi...”.

Trong Hồi ký của mình, đồng chí Lê Đức Anh viết: “khi chúng tôi đang tổ chức đánh đối phương bình định, lấn chiếm “tràn ngập lãnh thổ” thì Trung ương Cục có Chỉ thị 02, với phương châm “kết hợp chặt giữa đấu tranh chính trị, võ trang và pháp lý, lấy đấu tranh chính trị là cơ sở, đấu tranh võ trang là hậu thuẫn...” và chỉ thị rút một phần (cụ thể là rút 2 trung đoàn) về căn cứ U Minh để chỉnh huấn. Trung ương Cục còn hai lần điện yêu cầu T3 (mật danh Quân khu 9 lúc đó) phải thấy tình hình mới, phải có biện pháp mới (Điện số 05 và 07), còn Bộ Chỉ huy Miền thì điện phê bình T3 không thi hành chủ trương của Trung ương Cục và thông báo cho toàn Miền. Lúc đó dư luận chung cho rằng Tây Nam Bộ chúng tôi “xé Hiệp định Pari. Có đồng chí Khu ủy viên đi họp trên Miền (R) về còn nói: “Trên R có người đề nghị anh ra tòa vì anh không chấp hành Hiệp định, phá hoại Hiệp định”. Tôi bảo: “Được, anh yên tâm đi! Nhưng anh không được nói với ai chuyện này. Tôi phải đánh đã. Nếu thua thì tôi ra tòa luôn một thể”2.

Khu ủy Khu 9 chỉ thị: “Địch vi phạm Hiệp định, chúng ta phải trừng trị. Tư tưởng cách mạng tiến công vẫn là nguyên tắc chỉ đạo vận dụng cho thích hợp với tình hình có Hiệp định Pari. Phải tiếp tục tiến công để giành đất, giành dân, giành quyền làm chủ, để tiếp tục tiến công mạnh hơn, đạt yêu cầu cao hơn. Kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được, đưa phong trào nổi dậy của quần chúng phát triển mạnh mẽ, vững chắc hơn”3. Quân khu chỉ thị cho các trung đoàn chủ lực đứng nguyên tại chỗ, phối hợp cùng lực lượng vũ trang địa phương và dân quân du kích kiên quyết tiến công, đánh trả quyết liệt, không để chúng lấn đất giành dân.

Đúng vào thời điểm Hiệp định Pari có hiệu lực, tại Vùng 4 chiến thuật có sự chi viện tăng cường lực lượng, Quân đội Sài Gòn đồng loạt mở hàng trăm cuộc càn quét quy mô lớn, tiếp tục kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, với đủ quân binh chủng hải, lục, không quân đánh vào các vùng giải phóng của ta ở Phụng Hiệp, Phước Long..., lấn chiếm trên diện rộng khắp đồng bằng sông Cửu Long. Tại vùng trọng điểm Chương Thiện, chúng tổ chức phản kích quyết liệt ở tây Vị Thanh và đông bắc Long Mỹ. Địch tập trung 30 tiểu đoàn vào các trọng điểm gồm 12 xã (Gò Quao: 4 xã, Giồng Riềng: 4 xã, Long Mỹ: 4 xã). Nhưng ngay từ đầu, chúng đã vấp phải sự chiến đấu quyết liệt, kiên cường của quân và dân Khu 9. Ta bố trí lực lượng vũ trang làm nòng cốt, gồm Trung đoàn 1 chủ lực Quân khu, tiểu đoàn địa phương của Cần Thơ ở cánh Long Mỹ, Phụng Hiệp, Trung đoàn 2 ở cánh Ba Hồ và du kích của 12 xã nói trên, cùng lực lượng đấu tranh chính trị, binh vận của đông đảo quần chúng. Ta đánh địch quyết liệt trong 4 tháng trời. Thoạt đầu chúng đụng ngay lực lượng du kích và chiến tranh nhân dân với chông, bẫy, mìn, chất nổ làm cho từng mũi tấn công của địch bị chựng lại, tiếp đó là những đòn giáng trả của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương tạo thành thế trận liên hoàn, bẻ gãy từng mũi quân địch, buộc chúng phải co cụm. Trong thế giằng co, giành đi, giật lại, ta cũng gặp không ít khó khăn, nhưng địch bị tiêu diệt, tiêu hao nhiều lực lượng, không đóng thêm được đồn bốt, không kiềm thêm được dân mà còn mất thêm đồn bốt và như vậy, bước đầu ta đã đánh bại kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của chúng.

Từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1973, tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Vùng 4 chiến thuật quân đội Sài Gòn triển khai bước hai bình định, lấn chiếm Chương Thiện trong kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, nhằm tiếp tục thực hiện mục tiêu của bước một, bình định những nơi chưa làm được, lấn chiếm bằng được Chương Thiện để cô lập U Minh. Cách đánh của chúng là dùng bom pháo để dọn bãi cho trực thăng đổ quân, cày ủi địa hình, kiềm giữ dân, tiến hành đóng đồn bốt, kết hợp với các điểm dã ngoại, lấy đó làm điểm để loang dần ra. Những trận chiến đấu ác liệt diễn ra liên tục. Địch bình định kiềm dân, ta trừng trị địch, phá bình định, giải phóng dân. Địch đóng đồn, ta nhổ. Địch lấn chiếm, tái chiếm, ta mở mảng, mở vùng. Nơi nào ta đánh mạnh, địch dao động, co lại; nơi nào ta hữu khuynh, chần chờ, địch lấn tới. Đến hết tháng 10 năm 1973, địch vẫn không thể thực hiện được kế hoạch.

Đầu tháng 11 năm 1973, địch điều thêm lực lượng hải quân từ căn cứ Cát Lái (Sài Gòn) tăng cường cho hải quân Vùng 4 chiến thuật. Đối phương tập trung lực lượng, nâng tổng số quân ở khu vực Chương Thiện lên đến 75 tiểu đoàn (gồm 2 sư đoàn bộ binh, 1 liên đoàn biệt động quân, 2 thiết đoàn, 6 đến 8 giang đoàn và các lực lượng bảo an của các tỉnh thuộc Vùng 4 chiến thuật). Ngoài ra, địch còn tăng thêm dự trữ đạn pháo vào U Minh, Sóc Trăng và Bạc Liêu. Quân khu 9 phải đương đầu với thử thách mới hết sức nặng nề và quyết liệt.

Dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh Quân khu 9, trực tiếp là đồng chí Tư lệnh Lê Đức Anh, lực lượng vũ trang ba thứ quân trên địa bàn Quân khu đã anh dũng chiến đấu với những trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt, giành giật nhau từng khu vực, từng đoạn sông. Tư lệnh Quân khu ra lệnh cho tất cả các lực lượng trên chiến trường toàn khu đẩy mạnh hoạt động, nhất là các cánh quân ở Lái Hiếu, nam - bắc sông Măng Thít thuộc Vĩnh Long, Trà Vinh hỗ trợ cho trọng điểm Chương Thiện. Bị tiêu hao, tiêu diệt nặng mà không đạt được kết quả, địch buộc phải rút khỏi Chương Thiện. Cuộc hành quân bình định lấn chiếm Chương Thiện bị bẻ gãy hoàn toàn. Kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của quân đội và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu trên địa bàn Khu 9 đã bị phá sản.

Như vậy, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Khu ủy Khu 9, sự chỉ đạo quyết liệt, kiên quyết tiến công của Bộ Tư lệnh Quân khu 9, trực tiếp là đồng chí Tư lệnh Lê Đức Anh, quân và dân trên địa bàn đã lần lượt đánh bại 75 tiểu đoàn địch, giữ vững địa bàn trọng điểm Chương Thiện. Xây dựng và củng cố lực lượng của ta về mọi mặt, đóng góp kinh nghiệm thiết thực cho các chiến trường Nam Bộ, làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền và Trung ương đánh giá đúng địch - ta, có chủ trương chỉ đạo đúng đắn, liên tục tiến công giành thắng lợi. Tháng 7/1973, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21 họp, khẳng định: “Cách mạng miền Nam phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, nhưng phải căn cứ vào từng thời kỳ, hoàn cảnh cụ thể từng vùng, thậm chí từng cuộc đấu tranh mà vận dụng hình thức đấu tranh và chiến thuật tiến công hoặc phòng ngự một cách linh hoạt, sắc bén,...”. Nghị quyết xác định rõ: “Cách mạng miền Nam có thể phải trải qua nhiều bước quá độ và chỉ có thể giành được thắng lợi bằng con đường bạo lực cách mạng: tiến hành khởi nghĩa dựa trên lực lượng chính trị và lực lượng quân sự, hoặc là trong trường hợp chiến tranh lớn trở lại thì tiến hành chiến tranh cách mạng để giành thắng lợi hoàn toàn. Trong bức điện ngày 10/10/1974, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã biểu dương tư tưởng chủ động tiến công: “... Ở Khu 9, tỷ lệ ta địch là 1/8; nhưng do nắm chắc chỗ mạnh của ta, chỗ yếu của địch, ta biết chủ động tiến công thì vẫn giành được thắng lợi. Ngược lại, ở Trị - Thiên, tỷ lệ ta, địch là 1/2, nhưng do đánh giá quá cao chỗ mạnh của địch, không thấy chỗ mạnh của ta nên các đồng chí địa phương thiên về phòng ngự, co thủ, làm ta bị động thất thế, để địch lấn tới...”.

Trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9, quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, ý chí kiên cường, quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong thời điểm nhạy cảm, phức tạp, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng với Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy quân và dân Khu 9 đánh bại kế hoạch lấn chiếm “tràn ngập lãnh thổ” của chính quyền Sài Gòn sau Hiệp định Pari năm 1973. Chiến thắng đó đã tạo ra thế và lực mới, góp phần cùng với quân và dân cả nước tiến tới thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Gần 50 năm đã trôi qua, những bài học quý từ thực tế lãnh đạo của đồng chí Lê Đức Anh, cùng quân và dân Quân khu 9 đánh bại kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” trên địa bàn có ý nghĩa lịch sử và giá trị hiện thực cần phát huy, vận dụng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn cách mạng hiện nay. Đó là:

Một là, nghiêm chỉnh chấp hành các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, sâu sát cơ sở, nắm chắc tình hình, vận dụng phù hợp với thực tiễn chiến trường. Trong hoàn cảnh cụ thể, điều kiện cụ thể, khi có những vấn đề chưa thông suốt với cấp trên, phải cân nhắc kỹ, thống nhất trong tập thể lãnh đạo cấp mình, đồng thời báo cáo xin ý kiến cấp trên. Đặc biệt, trong trường hợp chủ trương của trên không sát với thực tiễn, thì một mặt xin ý kiến, mặt khác phải dám chịu trách nhiệm thi hành chủ trương mà tập thể lãnh đạo cấp mình đã thống nhất, bảo đảm phù hợp với thực tiễn, bảo vệ được phong trào, bảo vệ được nhân dân và hạn chế hy sinh xương máu của bộ đội.

Hai là, trong thực hiện nhiệm vụ phải luôn nghiên cứu, đánh giá đúng tình hình; đặc biệt trong đấu tranh cách mạng đánh giá đúng địch, ta là yếu tố quyết định để đề ra đường lối, chủ trương phù hợp. Trường hợp cụ thể, khi thi hành Hiệp định Pari thì có cả hai phía, ta và Mỹ cùng chính quyền Sài Gòn. Ta muốn thi hành nhưng địch kiên quyết chống phá, dùng súng đạn để đàn áp phong trào cách mạng, tiến hành bình định lấn chiếm, giành đất, giành dân. Nếu ta vẫn dùng đấu tranh chính trị đơn thuần, tay không đòi chúng thi hành Hiệp định thì sẽ gây tổn thất lớn. Khu ủy Khu 9 đã vận dụng linh hoạt, một mặt phát huy thắng lợi của Hiệp định Pari, kết hợp đấu tranh chính trị, binh vận, pháp lý và ngoại giao, mặt khác chủ trương củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang, chủ động tiến công và kiên quyết trừng trị địch vi phạm Hiệp định.

Ba là, trong đấu tranh với địch, bất cứ tình huống nào, hoàn cảnh nào cũng phải đề cao tư tưởng cách mạng tiến công, nắm chắc bạo lực cách mạng, không mơ hồ, ảo tưởng trước mọi âm mưu, thủ đoạn của địch; kiên quyết đánh địch, đánh bại chúng từng bước, tiến tới đánh bại chúng hoàn toàn.

Bốn là, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, hành động quyết đoán, kiên quyết, kịp thời, táo bạo, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn; phân tích, đánh giá đúng tình hình, nắm vững lý luận nhưng phải biết tôn trọng thực tế lịch sử khách quan, vận dụng linh hoạt, sáng tạo, góp phần bổ sung, phát triển lý luận.

Đại tá, ThS. ĐÀM VĂN PHƯƠNG