Đại tướng Lê Đức Anh với sự phát triển và trưởng thành của Quân đoàn 2
Ông còn là một vị chỉ huy quân đội, là một nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, Nhà nước, có tư duy sáng tạo, đổi mới, quyết đoán, linh hoạt; luôn bám sát thực tiễn, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành các hoạt động quân sự, quốc phòng; là người con trung hiếu của xứ Huế, giản dị, sâu sắc, nhân văn trong cuộc sống, được đồng chí, đồng đội và nhân dân yêu mến, bạn bè quốc tế đánh giá cao. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười nhận xét: “Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta”. Cuộc đời cách mạng của Đại tướng gắn liền với những chiến thắng trên chiến trường miền Nam, biên giới Tây Nam, khi làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, trong đấu tranh bảo vệ biên giới phía Bắc và sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đoàn 2, những chỉ đạo về chiến dịch, chiến lược của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh đã góp phần giúp Quân đoàn có bước phát triển lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong tình hình mới.
Sau thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, ở miền Nam toàn bộ bộ máy chiến tranh xâm lược của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã sụp đổ, các tổ chức chính trị và lực lượng phản động cơ bản đã bị đập tan, nhưng đế quốc Mỹ và bọn phản động, nhất là bọn đầu sỏ ác ôn, chưa chịu ngồi yên. Chúng tiếp tục chống đối phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Vì vậy lúc này, nhiệm vụ đang đặt ra đối với quân và dân ta là phải nhanh chóng củng cố các vùng mới giải phóng, khắc phục những hậu quả do chế độ cũ để lại, ổn định tình hình, tạo điều kiện đưa sự nghiệp cách mạng tiến nhanh trong giai đoạn mới. Trên tinh thần đó, cùng với một số đơn vị bạn, Quân đoàn 2 được Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ ở lại tham gia bảo vệ và củng cố, xây dựng vùng giải phóng Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Sau 30 năm đoàn kết chiến đấu “cọng rau bẻ nửa, hạt gạo cắn đôi”, nhân dân ba nước anh em Việt Nam, Lào, Campuchia đã cùng nhau giành được thắng lợi hoàn toàn. Lẽ ra từ đây nhân dân ba nước được hưởng hoà bình, độc lập, tự do, tập trung sức lực và trí tuệ xây dựng đất nước giàu mạnh, cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong tình đoàn kết hữu nghị, nhưng trên đất nước Campuchia, tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary đã dựng lên một chế độ được gọi là “chủ nghĩa xã hội trong sạch”. Thực chất đây là một chế độ độc tài tàn bạo có một không hai trong lịch sử, nhằm thực hiện mưu đồ ngông cuồng của chúng. Chính sách phản động của bè lũ Pôn Pốt - Iêng Xary đã làm cho nhân dân Campuchia phải chịu những thảm họa khủng khiếp của nạn diệt chủng. Thành quả cách mạng của nhân dân Campuchia đã bị thủ tiêu. Với nghĩa tình thuỷ chung, truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời của hai dân tộc, tháng 12/1978, Quân đoàn 2 (thiếu Sư đoàn 306 do mới thành lập tháng 11/1978) chính thức nhận mệnh lệnh hành quân chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, phối hợp với Quân khu 9 tiến công tiêu diệt lực lượng phản động Pôn Pốt - Iêng Xary. Quân đoàn được phối thuộc Sư đoàn bộ binh 8 - Quân khu 9, tổ chức tiến công trên hướng tây nam, tiêu diệt các lực lượng chủ lực tinh nhuệ của Quân khu Đông Nam (gồm 5 sư đoàn); sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nhanh chóng củng cố lực lượng, điều chỉnh đội hình đánh chiếm cảng Kôngpôngxom và Rêam. Quân đoàn đã tổ chức hiệp đồng chặt chẽ với Quân khu 9, thực hiện nhiệm vụ chiến dịch. Trong quá trình xây dựng quyết tâm tác chiến, do chưa có kinh nghiệm chiến đấu trên đất bạn, cán bộ, chiến sĩ còn nhiều băn khoăn, trăn trở về việc bố trí, sử dụng lực lượng. Thấy rõ những khó khăn ấy của Quân đoàn, sau khi đáp máy bay đi thị sát về, Trung tướng Lê Đức Anh, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, kiêm Chỉ huy trưởng Cơ quan tiền phương của Bộ Quốc phòng ở Mặt trận Tây Nam đã đồng ý với đề nghị của Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, chỉ để Trung đoàn 111/Sư đoàn 325 ở lại cùng lực lượng Quân khu 9 phối hợp với bạn tiêu diệt lực lượng địch co cụm trong phạm vi đảm nhiệm trên đất Campuchia; Sư đoàn 304 (đang làm lực lượng dự bị cho Bộ Chỉ huy liên quân tiến công giải phóng Phnôm Pênh) trở về đội hình của Quân đoàn để tập trung đánh chiếm khu vực cảng Kôngpôngxom. Rút kinh nghiệm từ cuộc chiến đấu của Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 126 trước đó, tiến công chính diện vào khu vực cảng, bộ đội bị thương vong lớn và chưa dứt điểm được mục tiêu; Trung đoàn 66 - Sư đoàn 304 nhanh chóng đánh chiếm các điểm cao có lợi khống chế khu vực cảng, sau đó phối hợp cùng bộ đội Vùng 5 Hải quân đổ bộ từ hướng biển lên, giải phóng toàn bộ khu vực cảng Kôngpôngxom - hải cảng quan trọng nhất của Campuchia. Trung tướng Lê Đức Anh trực tiếp chỉ đạo lực lượng Quân khu 9, Quân đoàn 2, Quân đoàn 3 tham gia chiến dịch. Trung tướng kịp thời biểu dương thành tích và cách đánh sáng tạo của Trung đoàn 66, chỉ thị cho Trung đoàn tiếp tục tiến công, giải phóng cảng Rêam. Tiếp đó, Sư đoàn 325 và các đơn vị khác của Quân đoàn đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng của Quân khu 9 liên tục tiến công địch, giải phóng các vùng quan trọng của Quân khu Đông Nam và Đặc khu Kôngpôngxom của Campuchia.
Hoàn thành nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn, ngày 27/02/1979, Quân đoàn được lệnh trở về Tổ quốc. Quá trình phối hợp chiến đấu với Quân khu 9 trên chiến trường Campuchia đã để lại cho cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn nhiều kinh nghiệm chiến đấu với đối tượng tác chiến mới. Thắng lợi to lớn trên chiến trường Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia là sự cổ vũ rất lớn đối với cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn, tăng thêm niềm tin và sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ mới. Thiếu tướng Mai Xuân Tần, nguyên Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân đoàn 2, Trưởng đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia, Phó Trưởng ban Tổng kết công trình “Chiến tranh biên giới Tây Nam và nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia” nhấn mạnh “Đồng chí Lê Đức Anh là một vị Tư lệnh tiền phương, đã thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương, có bản lĩnh, tích cực, kiên quyết và có hiệu quả cao; có phong cách chỉ huy rất hay là đồng chí đã lắng nghe ý kiến của cấp dưới, làm cho công việc có hiệu quả”.
Bước vào công cuộc đổi mới đất nước cũng là từng bước xây dựng chính quy trong quân đội, Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước. Đại tướng Lê Đức Anh được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị và được bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) (02/1987). Triển khai thực hiện chủ trương của Đảng về lĩnh vực quốc phòng, Đại tướng đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương và các cơ quan Bộ Quốc phòng tập trung nghiên cứu, điều chỉnh tổ chức biên chế, thế bố trí chiến lược của quân đội cho phù hợp với quyết tâm tác chiến phòng thủ trong thời kỳ mới; vừa bảo đảm mục tiêu lâu dài, vừa bảo đảm yêu cầu trước mắt, giảm chi phí quốc phòng, phát huy được sức mạnh toàn dân, toàn diện, phòng thủ đất nước. Đó là con đường đổi mới xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, đổi mới công cuộc xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân.
Để nắm vững thế bố trí chiến lược và xây dựng quân đội, Đại tướng tiếp tục đi kiểm tra 6 tỉnh biên giới phía Bắc; nhất là các khu vực đường biên, các trận địa chốt, thị sát trực tiếp công tác tổ chức chiến đấu và sinh hoạt của bộ đội, đối thoại với cán bộ, chiến sĩ ở cơ sở. Bộ trưởng Lê Đức Anh và Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh cùng gặp nhau ở một tư duy là cần phải “giảm quân số thường trực và bố trí lại lực lượng quân đội”. Cả hai vị lãnh đạo đều cảm nhận hình thái bố trí quân đội, nhất là các đơn vị chủ lực cơ động như hiện tại không còn phù hợp; nhưng làm sao giảm được quân số, giảm chi phí quốc phòng, mà vẫn hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là một bài toán vô cùng khó khăn. Không ai lường trước được ý định của nhà cầm quyền phía bên kia biên giới. Đại tướng Văn Tiến Dũng cũng đã góp ý với Đại tướng Lê Đức Anh “trước khi anh ra làm Tổng Tham mưu trưởng, Bộ Tổng Tham mưu còn đề nghị tăng thêm một quân đoàn đứng chân ở đồng bằng Bắc Bộ và Thanh Hóa. Tình hình này mà giảm quân thì khó, mà để vậy cũng thật khó!...”.
Tại Hội nghị “Bộ Chính trị hẹp”, Đại tướng đã báo cáo toàn bộ tình hình biên giới phía Bắc, bằng dẫn chứng sát thực, phân tích đánh giá tình hình, những đề xuất táo bạo và sắc sảo của Đại tướng đã được hội nghị bàn bạc và chấp thuận, trong đó vấn đề giải quyết tình hình biên giới và chiến lược, sách lược của công tác đối ngoại, đó là phá thế bao vây cấm vận và nối lại quan hệ bình thường với Trung Quốc được Bộ Chính trị đặc biệt quan tâm. Đồng thời, Đại tướng đề xuất Bộ Chính trị điều chỉnh chiến lược và giảm quân số quân đội, bước đầu để 5 vạn quân dự bị (từ 9 quân đoàn giảm xuống còn 4 quân đoàn), nhưng sức mạnh chiến đấu không giảm mà càng được tăng cường. Đề xuất này của Đại tướng được Bộ Chính trị nhất trí hoàn toàn.
Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng đã chỉ đạo các cơ quan chức năng điều chỉnh tạm thời thế bố trí chiến đấu ở biên giới phía Bắc; các đơn vị chủ lực cơ động bố trí tuyến thứ hai, đưa nhân dân lên vùng biên giới định cư và sản xuất, đưa dân quân, bộ đội địa phương và bộ đội biên phòng lên tuyến một. Sự điều chỉnh này vừa đáp ứng yêu cầu về nghệ thuật quân sự, vừa là “bước thăm dò” đầu tiên với phía bên kia. Khi lãnh đạo cấp cao Việt Nam và Trung Quốc gặp nhau, việc lập lại quan hệ bình thường giữa hai nước được tiến hành suôn sẻ. Theo đó, Quân đoàn 2 tiếp tục đứng chân ở Hà Bắc (nay là tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh), Quân đoàn 3 từ khu vực phía Bắc trở về đóng quân ở Tây Nguyên, không để địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng này “hở sườn”. Đến tháng 3/1988, Sư đoàn 304 di chuyển từ Hà Bắc và Lạng Sơn sang Vĩnh Phúc, thay thế vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 - Quân đoàn 3 di chuyển vào Tây Nguyên. Với thế bố trí đội hình như trên, Quân đoàn đã mở rộng địa bàn đóng quân, khẳng định hơn vai trò của một quân đoàn chủ lực cơ động, dự bị chiến lược, “án ngữ” ở một hướng chiến lược quan trọng.
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, mà trực tiếp là Đại tướng Lê Đức Anh, Quân đoàn từng bước điều chỉnh, sắp xếp lại lực lượng cho phù hợp với yêu cầu mới. Trường đào tạo hạ sĩ quan của Quân đoàn giải thể và nhiệm vụ đào tạo tiểu đội trưởng, khẩu đội trưởng, nhân viên chuyên môn kỹ thuật được giao cho Sư đoàn 304, 325 đảm nhiệm. Tháng 7/1987, Quân đoàn được giao nhiệm vụ quản lý và chỉ huy Trường bắn Cấm Sơn. Đây là một trường bắn lớn, bảo đảm phục vụ cho các đơn vị trong toàn quân ở phía Bắc tiến hành diễn tập hoặc bắn đạn thật. Theo chủ trương chung, Bộ xây dựng một số sư đoàn bộ binh có trang bị vũ khí, phương tiện hiện đại, khả năng cơ động cao, chiến đấu trên các địa hình thời tiết phức tạp, Sư đoàn 304 tiếp tục được xây dựng thành Sư đoàn bộ binh cơ giới (cùng với Sư đoàn 308 của Quân đoàn 1, Sư đoàn 320 của Quân đoàn 4).
Theo yêu cầu nhiệm vụ, tháng 4/1988, Bộ Quốc phòng điều Sư đoàn 325 lên Vị Xuyên - Hà Tuyên (nay là Hà Giang) thay phiên Sư đoàn 312 - Quân đoàn 1 tổ chức phòng ngự bảo vệ chủ quyền biên giới của Tổ quốc. Ở tuyến giáp với quân địch, Sư đoàn 325 cùng với các đơn vị phối thuộc khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, xây dựng trận địa phòng ngự vững chắc, luyện tập thuần thục các phương án tác chiến. Hoàn thành nhiệm vụ phòng ngự chiến đấu, tháng 11/1988, Sư đoàn 325 bàn giao trận địa cho đơn vị bạn trở về đội hình Quân đoàn. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm chiến đấu của các đơn vị ở Vị Xuyên, Bộ Tổng Tham mưu đã bổ sung những kinh nghiệm của Quân đoàn 2 khi làm nhiệm vụ thay phiên vào nội dung huấn luyện cho bộ đội để sát với thực tế chiến đấu trong bảo vệ Tổ quốc.
Để xây dựng bộ đội chủ lực mạnh, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, yêu cầu phải có các đơn vị vững mạnh toàn diện. Thực hiện chủ trương của Bộ, tháng 12/1988, Quân đoàn được giao nhiệm vụ xây dựng đơn vị điểm vững mạnh toàn diện theo 5 yêu cầu, 5 biện pháp. Quân đoàn xác định kế hoạch và thông qua Bộ Quốc phòng, xây dựng Trung đoàn 95 - Sư đoàn 325 là đơn vị điểm năm 1989. Từ ngày 16/10 đến ngày 05/11/1989, Bộ Quốc phòng mở lớp tập huấn cho Tư lệnh các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng tại Quân đoàn 2. Nội dung trọng tâm của lớp tập huấn là đổi mới công tác huấn luyện sát với tình hình nhiệm vụ mới, Trung đoàn 95 được giao nhiệm vụ diễn tập thực binh phục vụ lớp tập huấn, kết thúc diễn tập Trung đoàn được Bộ Quốc phòng đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ. Năm 1992, Bộ Quốc phòng tiếp tục chọn Sư đoàn 325 để xây dựng đơn vị điểm vững mạnh toàn diện trong 3 năm (1992 - 1994). Đây là lần thứ hai Quân đoàn vinh dự được Bộ chọn là một trong hai đơn vị điểm vững mạnh toàn diện rút kinh nghiệm cho toàn quân. Qua xây dựng, Sư đoàn 325 đã từng bước chuyển biến rõ rệt, Sư đoàn đã đón hàng trăm đoàn đại biểu của các đơn vị, nhà trường, các lớp tập huấn về học tập, rút kinh nghiệm và thường xuyên gửi cán bộ, học viên đi thực tế ở Sư đoàn. Cuối năm 1992, Sư đoàn 325 một lần nữa thực hiện cuộc diễn tập thực nghiệm cho các Tư lệnh quân khu, quân đoàn, quân binh chủng tham quan, được Bộ Quốc phòng và Ban Chỉ đạo lớp học đánh giá cao.
Trong giai đoạn này, thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng mà đứng đầu là Đại tướng Lê Đức Anh, Quân đoàn rút gọn biên chế phù hợp với yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới. Lữ đoàn Tăng - thiết giáp 203 được chuyển thành Trung đoàn Tăng - thiết giáp 203, các Trung đoàn Pháo binh 164 và Trung đoàn Phòng không 673 được chuyển thành Lữ đoàn Pháo binh 164 và Lữ đoàn Phòng không 673. Một số trung đoàn binh chủng nằm trong biên chế của các sư đoàn bộ binh giải thể. Các sư đoàn (304, 325, 306) và các lữ đoàn, trung đoàn trực thuộc khác của Quân đoàn đều được điều chỉnh hoặc rút gọn biên chế theo yêu cầu mới. Việc rút gọn tổ chức, biên chế nhưng không vì thế mà giảm sức mạnh và sức chiến đấu của các đơn vị. Toàn Quân đoàn luôn ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao, sẵn sàng làm nòng cốt để phát triển thành các tổ chức mới, đánh thắng địch trong mọi tình huống.
Nhằm làm giảm gánh nặng chi phí ngân sách cho quốc phòng, giải quyết khủng hoảng kinh tế, góp sức vào công cuộc đổi mới đất nước mà Đảng vừa khởi xướng, Bộ trưởng, Đại tướng Lê Đức Anh đề nghị có chính sách cụ thể để cải thiện đời sống cho bộ đội. Trước mắt là nâng mặt bằng tiền lương của sĩ quan và người hưởng lương trong quân đội lên 1,5 lần; sau đó là, giải quyết nhà ở cho cán bộ. Bộ trưởng đề nghị các giải pháp để giải quyết việc làm cho bộ đội xuất ngũ. Trước đây, quân đội đã có hai lần giảm quân với số lượng lớn, một lần sau khi thắng Pháp và một lần sau khi thắng Mỹ, nhưng cả 2 lần người lính thắng trận trở về lại rơi vào hoàn cảnh “học không hay, cày không biết”, cuộc sống rất khó khăn vất vả. Bởi vậy, lần này giảm quân, đồng chí Lê Đức Anh đề nghị các bộ, ban, ngành bên ngoài quân đội ưu tiên cho bộ đội xuất ngũ đi xuất khẩu lao động. Đề xuất này của đồng chí Lê Đức Anh được các cơ quan nhất trí cao. Lần đầu tiên trong lịch sử quân đội, nhiều đồng chí xuất ngũ được đi lao động ở châu Âu, chủ yếu là ở Đức, Nga, Irắc, Libi..., được tổ chức thành “đoàn, đội” rất nền nếp, chặt chẽ. Ở Quân đoàn 2, chỉ tính riêng Sư đoàn 304, năm 1988 thực hiện mẫu biên chế mới, quân số giảm mạnh từ hơn 14.000 người xuống còn 3.600 người, hơn 8.000 chiến sĩ được xuất ngũ và chuyển đơn vị; 200 cán bộ được nghỉ hưu, phục viên, chuyển ngành, đi học và xuất khẩu lao động tại Cộng hòa dân chủ Đức và Liên Xô.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Bộ trưởng Lê Đức Anh đã giao nhiệm vụ xây dựng quân dự bị động viên cho một số đơn vị. Lúc đầu, Quân đoàn có một trung đoàn được giao nhiệm vụ này, qua đó thành lập các khung trung đoàn xây dựng quân dự bị động viên. Xây dựng khung đơn vị dự bị động viên và thực hành động viên quân dự bị là một nhiệm vụ hết sức mới mẻ. Trong khi tập trung xây dựng các đơn vị có đủ biên chế thành đơn vị vững mạnh toàn diện, đơn vị điểm cho toàn quân, Bộ Tư lệnh Quân đoàn giao cho Trung đoàn 111 - Sư đoàn 306 xây dựng đơn vị dự bị động viên. Đến tháng 8/1986, theo chỉ thị của Bộ Quốc phòng, Sư đoàn 306 được giao nhiệm vụ thành lập “khung thường trực động viên”; đến năm 1987, Quân đoàn cũng giao nguồn động viên cho một số đơn vị của Sư đoàn 304 và các lữ đoàn, trung đoàn trực thuộc. Từ năm 1991 trở đi, Quân đoàn được Bộ chính thức giao nhiệm vụ nghiên cứu thực hiện xây dựng lực lượng dự bị động viên theo phương thức mới: Phương thức “một nhân hai”, nội dung chính “từ một đơn vị đủ quân trong thời bình, chuẩn bị đầy đủ các mặt bảo đảm cần thiết để tách thành hai đơn vị khi có chiến tranh”. Đây là một phương thức không hoàn toàn mới, đã được thực hiện trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, từ một sư đoàn tách ra nhiều sư đoàn (như Sư đoàn 304A, 304B...). Khó khăn lúc này là thực hiện trong hoàn cảnh, điều kiện mới, cán bộ và nhân viên không nhiều như những năm chiến tranh trước đây. Khó nhất là đòi hỏi vừa phải thực hiện mọi nhiệm vụ thường xuyên của đơn vị thường trực đủ quân vừa phải chuẩn bị mọi mặt bảo đảm cho đơn vị thứ hai ra đời khi có lệnh. Năm 1992, Quân đoàn thực hiện phương thức này tới cấp sư đoàn, trong đó có thực hiện diễn tập động viên cấp tiểu đoàn (Tiểu đoàn 5 thuộc Trung đoàn 95 - Sư đoàn 325), kết quả đạt yêu cầu cấp trên đề ra. Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VI, VII của Đảng, sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng mà trực tiếp là Bộ trưởng Lê Đức Anh, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân đoàn đã từng bước tự đổi mới, phát huy nội lực, năng động trong xây dựng Quân đoàn vững mạnh toàn diện. Ngoài các đơn vị đủ quân sẵn sàng chiến đấu, Quân đoàn còn xây dựng các đơn vị vừa huấn luyện chiến sĩ mới dự trữ cho Bộ, vừa tổ chức bổ túc xây dựng động viên quân dự bị. Đây là thời kỳ Quân đoàn đã vượt qua thử thách mới về xây dựng lực lượng đủ mạnh đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu trước mắt, đồng thời tạo cơ sở mở rộng lực lượng theo yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh gắn liền với những chiến công, những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc và sự trưởng thành của quân đội nói chung và Quân đoàn 2 nói riêng. Những cống hiến của Đại tướng đã từng bước góp phần xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn nước ta gặp muôn vàn khó khăn, như cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt nhận định: “... Là một cán bộ tham mưu tầm cỡ, một vị chỉ huy cương nghị, bản lĩnh và dám chịu trách nhiệm, một Bộ trưởng Quốc phòng trong thời bình xây dựng có nhiều đổi mới trong tổ chức và bố trí lực lượng quân đội, lực lượng vũ trang nhân dân, một trong những người lãnh đạo quốc gia tầm cỡ trong thời kỳ đổi mới đất nước”. Đối với Quân đoàn 2, từ phong cách lãnh đạo, chỉ huy chiến đấu ở biên giới Tây Nam và chiến trường Campuchia, sự tin tưởng và những chỉ đạo của Đại tướng đã giúp cho Quân đoàn không ngừng phát triển, trưởng thành, xứng đáng là Quân đoàn chủ lực cơ động chiến lược của Bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, phát huy truyền thống “Thần tốc - Táo bạo - Quyết thắng” của Quân đoàn 2 anh hùng, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn luôn đoàn kết, sáng tạo quyết tâm xây dựng Quân đoàn vững mạnh toàn diện, “mẫu mực tiêu biểu”, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Thiếu tướng PHẠM VĂN HÓA