Đại tướng Lê Đức Anh với quá trình xây dựng và phát triển của Binh chủng Tăng thiết giáp
Ở mỗi cương vị, chức trách được Đảng, Nhà nước, quân đội giao phó, Đại tướng làm việc hết sức mình, cống hiến nhiều nhất cho Đảng và nhân dân, đặt lợi ích chung của cách mạng, của quân đội lên trên lợi ích cá nhân. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Đại tướng đã để lại cho thế hệ trẻ quân đội nói chung, bộ đội tăng thiết giáp nói riêng những bài học kinh nghiệm vô giá với nét tiêu biểu là sự kiên trung trong sáng của người đảng viên kiên cường, suốt đời trung thành với lý tưởng cách mạng; là tấm gương sáng ngời về phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”.
Đại tướng luôn quan tâm đến nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội đáp ứng nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, trong đó có xây dựng Binh chủng Tăng thiết giáp, lực lượng đột kích quan trọng của lục quân Quân đội nhân dân Việt Nam. Điều đó được thể hiện nổi bật trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, với vai trò là Phó Tư lệnh chiến dịch kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam, đồng chí đã cùng Bộ Tư lệnh Chiến dịch xây dựng thế trận cho bộ đội tăng thiết giáp và các đơn vị binh chủng hợp thành, hình thành 5 mũi tiến công, bao vây, cô lập lực lượng địch vòng ngoài, nhằm tiêu diệt làm tan rã các sư đoàn chủ lực, không cho chúng kịp rút chạy về Sài Gòn. Riêng cánh quân hướng tây - tây nam do đồng chí trực tiếp chỉ huy, lực lượng tác chiến trên hướng này là Đoàn 232, trong đó có Đoàn thiết giáp 26 miền Đông Nam Bộ (tương đương trung đoàn), được Tư lệnh cánh quân Tây Nam sử dụng phối thuộc cho Trung đoàn bộ binh 205 tiến công tiêu diệt địch ở An Hiệp, Rừng Dầu, Tân Mỹ và tiến công địch giải phóng thị xã Hậu Nghĩa. Lực lượng tăng thiết giáp còn lại trên các hướng cùng binh chủng hợp thành thực hành thọc sâu vào Sài Gòn; vượt sông Vàm Cỏ Đông, cùng bộ binh theo đường 10 đánh địch ở Tây Nam Sài Gòn, tập trung đánh chiếm Trường đua Phú Thọ, Ngã tư Bảy Hiền, Biệt khu thủ đô, Dinh Tổng thống và Tổng nha cảnh sát ngụy, góp phần cùng quân và dân cả nước làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Trong những chiến công của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nói chung và của bộ đội tăng thiết giáp nói riêng luôn có công lao to lớn của Đại tướng.
Trước tình hình biên giới phía Tây Nam nước ta bị xâm phạm, địch gây ra nhiều vụ thảm sát nghiêm trọng, có ý đồ đánh chiếm thị xã Tây Ninh và dọc biên giới Tây Nam nước ta, đáp lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, từ ngày 23/12/1978 đến ngày 17/01/1979 quân ta tập trung lực lượng, cùng với quân đội cách mạng của bạn tiến hành tổng tiến công tiêu diệt lực lượng phản cách mạng, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, truy quét tàn quân địch, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng chính quyền cách mạng, ổn định đời sống nhân dân. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả, dưới sự chỉ huy của đồng chí Lê Đức Anh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Phó Trưởng ban, rồi Trưởng ban lãnh đạo chuyên gia Việt Nam tại Campuchia, đã chỉ đạo các lực lượng nói chung, lực lượng tăng thiết giáp nói riêng thực hiện vừa xây dựng lực lượng, vừa tổ chức tham gia các đợt hoạt động tác chiến truy quét, tiêu diệt địch, bảo vệ vững chắc các mục tiêu được phân công, giữ vững địa bàn trên các vùng chiến lược trọng yếu, tham gia hàng trăm trận, đánh tan các căn cứ phòng thủ của địch, tiêu diệt, tiêu hao hàng chục ngàn tên địch; thu và phá huỷ nhiều vũ khí, trang bị, vật tư kho tàng; góp phần bảo vệ chính quyền nhân dân và xây dựng lực lượng vũ trang nước bạn từng bước vững mạnh, nâng cao chất lượng huấn luyện và bảo đảm sẵn sàng chiến đấu, đối phó với mọi tình huống, đập tan âm mưu phòng thủ lâu dài của địch; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế được giao.
Có thể nói Đại tướng Lê Đức Anh là người chỉ huy tham mưu chiến lược, vị tướng xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Cách sử dụng các lực lượng nói chung, lực lượng tăng thiết giáp nói riêng trong các chiến dịch và hình thức tác chiến chiến lược của Đại tướng đã phát huy được tối đa sức mạnh tổng hợp của các lực lượng tham gia tác chiến, phát huy được hoả lực, vỏ thép và sức cơ động của lực lượng tăng thiết giáp để thực hiện nhiệm vụ thọc sâu chiến dịch, tiến công trong hành tiến, đánh địch phòng ngự. Đại tướng đã vận dụng một cách sáng tạo nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, chiến đấu hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn, giành nhiều thắng lợi to lớn trên khắp các chiến trường, rút ra được nhiều kinh nghiệm làm phương hướng xây dựng, tác chiến của quân đội và Binh chủng Tăng thiết giáp sau này.
Năm 1988, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trong chuyến thị sát tại quần đảo Trường Sa diễn ra ngay sau khi quân đội Trung Quốc nổ súng vào tàu vận tải của Việt Nam tại đảo Gạc Ma rạng sáng ngày 14/3 làm 64 chiến sĩ trên tàu HQ-604 hy sinh, Đại tướng đã có một lời thề, như lời thề chung của mọi người dân đất Việt: “... trước anh linh tổ tiên và các cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắc nhủ với các thế hệ mai sau: “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc chúng ta”. Và sau đó, Bộ Quốc phòng đã quyết định đưa lực lượng tăng thiết giáp ra thực hiện nhiệm vụ tại các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc cho đến hôm nay.
Trong điều kiện mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, với cương vị cao nhất trong quân đội: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng đã quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo, linh hoạt đường lối xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là quân đội cách mạng theo nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh vào xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam với định hướng chỉ đạo là: “... đổi mới xây dựng quân đội nhân dân, đổi mới công cuộc xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ quốc phòng và an ninh, kết hợp chặt chẽ công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. Một trong những vấn đề cơ bản để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân nói chung, lực lượng tăng thiết giáp nói riêng thành lực lượng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại được Đại tướng Lê Đức Anh xác định là: “điều chỉnh tổ chức biên chế, bố trí chiến lược của quân đội cho phù hợp với kế hoạch phòng thủ cơ bản trong thời kỳ mới... bảo đảm mục tiêu đánh lâu dài, giảm chi phí quốc phòng, phát huy sức mạnh toàn dân, toàn diện, tạo nên sức mạnh phòng thủ đất nước và đủ sức mạnh chống lại mọi tình huống chiến tranh2. Kế hoạch điều chỉnh chiến lược và giảm quân số quân đội của Đại tướng đã được Trung ương Đảng đồng ý, đã giảm từ 1,5 triệu quân thường trực xuống còn 45 vạn (từ 9 quân đoàn giảm xuống còn 4 quân đoàn), cũng từ đó gánh nặng ngân sách quốc phòng của đất nước được giải tỏa mà vẫn giữ được sức mạnh của quân đội.
Đại tướng đã đề xuất Bộ Chính trị và là người góp phần thực hiện phá thế bao vây cấm vận của Hoa Kỳ; bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc; gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); cùng Quân ủy Trung ương lãnh đạo quân đội xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần vững mạnh, là đội quân cách mạng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, nhất là trong điều kiện các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ.
Đại tướng đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) tham mưu cho Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 02/NQ-BCT về xác định nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo. Theo đó, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng các khu vực phòng thủ từ tỉnh, thành phố đến cơ sở xã, tạo nên sức mạnh tại chỗ của nền quốc phòng. Cũng chính từ đề xuất của Bộ Quốc phòng, ngày 17/10/1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VI đã ban hành Chỉ thị số 381-CT/TW quyết định lấy ngày 22 tháng 12 - Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam hằng năm cũng là Ngày hội Quốc phòng toàn dân. Ngày 22/12/1989, lần đầu Ngày hội Quốc phòng toàn dân được tổ chức tại tất cả các địa phương trong cả nước. Từ đó đến nay, ngày 22/12 đã trở thành ngày hội lớn của toàn dân tộc với các hoạt động hướng vào chủ đề quốc phòng và quân đội. Ðó thật sự là ngày hội của truyền thống dựng nước và giữ nước, ngày hội tôn vinh và nhân lên hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, một nét độc đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.
Đại tướng luôn quan tâm đến nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội, trong đó có xây dựng Binh chủng Tăng thiết giáp, lực lượng đột kích quan trọng của lục quân Quân đội nhân dân Việt Nam. Thời gian giữ trọng trách cao nhất của quân đội, Đại tướng Lê Đức Anh đánh giá rất cao vị trí, vai trò đột kích quan trọng của lực lượng tăng thiết giáp trong đội hình tác chiến binh chủng hợp thành trong điều kiện mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở đó, Đại tướng quan tâm, định hướng nhiều vấn đề trong công tác xây dựng lực lượng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, quản lý, khai thác, sử dụng trang bị vũ khí của bộ đội tăng thiết giáp. Đại tướng cũng yêu cầu Binh chủng phải làm tốt công tác chính trị tư tưởng; giáo dục, nâng cao giác ngộ về chủ nghĩa xã hội, bồi dưỡng lập trường quan điểm, xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ, nhằm củng cố lý tưởng, niềm tin, tạo sự nhất trí cao với đường lối đổi mới của Đảng. Nhận rõ tình hình đất nước, hiểu rõ nhiệm vụ của quân đội và Binh chủng, cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch; đồng thời, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện dao động, giảm sút ý chí và tinh thần trách nhiệm, tạo sự đoàn kết nhất trí cao trong toàn Binh chủng để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.
Thực hiện mệnh lệnh của Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Binh chủng đã tiến hành kiện toàn biên chế, tổ chức của Binh chủng cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới; trong đó, chuyển giao một số đơn vị thuộc Tổng cục Kỹ thuật về Binh chủng (Trường Kỹ thuật Tăng thiết giáp; Nhà máy sửa chữa Tăng thiết giáp 153; Kho vật tư, khí tài Tăng thiết giáp (KT.580); các Tiểu đoàn sửa chữa cơ động X.1 và X.201). Binh chủng cũng ra Quyết định sáp nhập Kho Y với Kho J.120 thành Kho KT.887; thành lập Cục Kỹ thuật Binh chủng trên cơ sở Phòng Kỹ thuật Binh chủng với Cục Tăng thiết giáp (thuộc Tổng cục Kỹ thuật) để thực hiện chức năng bảo đảm kỹ thuật cho lực lượng tăng thiết giáp toàn quân. Ngoài ra, căn cứ quyết định của Bộ Quốc phòng, các Lữ đoàn tăng thiết giáp thuộc các quân đoàn, Quân khu 1 và Quân khu 3 được chấn chỉnh tổ chức thành biên chế cấp trung đoàn.
Về công tác huấn luyện, đào tạo của bộ đội tăng thiết giáp, Đại tướng quan tâm đến việc đổi mới nội dung, chương trình, thời gian phù hợp với từng đối tượng huấn luyện. Quá trình huấn luyện kết hợp chặt chẽ việc trang bị kiến thức mới với truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ. Tích cực rút kinh nghiệm và áp dụng khoa học, công nghệ vào nghiên cứu, cải tiến mô hình học cụ, ứng dụng công nghệ thông tin vào nâng cao hiệu quả huấn luyện, đào tạo chuyên ngành tăng thiết giáp. Thực hiện chỉ đạo của Đại tướng, trong huấn luyện đào tạo, Binh chủng đã quan tâm và tập trung nghiên cứu, phát triển nghệ thuật sử dụng, nghệ thuật tác chiến của tăng thiết giáp trong điều kiện mới, trong đó tập trung vào nghiên cứu cách đánh địch đổ bộ đường không, đổ bộ đường biển, tiến công đường bộ, địch sử dụng vũ khí công nghệ cao và nghệ thuật sử dụng lực lượng tăng thiết giáp tham gia chống bạo loạn lật đổ vũ trang trong thế trận khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố.
Về bảo đảm trang bị kỹ thuật chuyên ngành tăng thiết giáp, Đại tướng quan tâm, nhắc nhở bộ đội tăng thiết giáp phải quán triệt ý thức giữ tốt, dùng bền, cố gắng giữ vững số đầu xe tăng thiết giáp sử dụng có hiệu quả vào công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu giai đoạn trước mắt cũng như bảo quản, cất giữ để có lượng dự trữ sử dụng vào tác chiến lâu dài, khi đất nước buộc phải chuyển vào tình trạng chiến tranh. Trong điều kiện đất nước ta còn nghèo, tiềm lực kinh tế, quân sự còn hạn chế, bộ đội tăng thiết giáp luôn quán triệt tinh thần cần, kiệm của Đại tướng, ngành kỹ thuật của Binh chủng đã triển khai nhiều biện pháp để vượt qua mọi khó khăn trong công tác bảo đảm kỹ thuật, giữ vững hệ số kỹ thuật nhóm xe sẵn sàng chiến đấu luôn bằng 1 (KT=1), nhóm xe huấn luyện chiến đấu từ 0,85 trở lên (KT>0,85). Bên cạnh việc bảo quản, giữ tốt dùng bền trang bị kỹ thuật hiện có, Binh chủng đã từng bước triển khai công tác nghiên cứu, cải tiến nâng cấp, hiện đại hoá từng phần tiến tới hiện đại hoá đồng bộ xe tăng thiết giáp; kết hợp đồng bộ giữa bảo quản, khai thác sử dụng với sửa chữa, khôi phục tình trạng kỹ thuật của xe tăng thiết giáp. Chủ trương đồng bộ hoá và giữ vững số đầu xe hiện có đã được các đơn vị tăng thiết giáp triển khai tổ chức thực hiện chặt chẽ, góp phần nâng cao chất lượng vũ khí, trang bị, đáp ứng kịp thời nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Đại tướng Lê Đức Anh, lực lượng tăng thiết giáp thể hiện lòng tự hào với những thành tích, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của vị tướng tài cao, đức trọng. Phát huy truyền thống vẻ vang của Binh chủng anh hùng, bộ đội tăng thiết giáp nguyện chủ động, sáng tạo, cố gắng hơn nữa, thống nhất ý chí và hành động, tập trung mọi nỗ lực hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân giao phó, xứng đáng với vai trò, vị trí là lực lượng đột kích quan trọng của lục quân Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Hơn lúc nào hết, tưởng nhớ và biết ơn sự quan tâm dìu dắt của Đại tướng, bộ đội tăng thiết giáp cần phải quán triệt sâu sắc nhiệm vụ xây dựng Binh chủng theo hướng “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”.
Trong xây dựng, phát triển lực lượng và chiến đấu trước đây, bộ đội tăng thiết giáp đã đạt được nhiều thành tích, xây đắp nên truyền thống vinh quang “Đã ra quân là đánh thắng”. Trong giai đoạn cách mạng mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay, mỗi cán bộ, chiến sĩ tăng thiết giáp càng phải thấm nhuần sâu sắc lời căn dặn của Đại tướng Lê Đức Anh, thành hành động cụ thể, thành sức mạnh tổng hợp, khắc phục và vượt qua mọi khó khăn, thách thức, xây dựng lực lượng tăng thiết giáp vững mạnh, mẫu mực, tiêu biểu gắn với xây dựng tổ chức Đảng các cấp trong sạch, vững mạnh, cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống với tinh thần: “Bộ đội tăng thiết giáp Việt Nam, thời kỳ mới, sức đột kích mới, vượt qua thách thức, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ”.
Thiếu tướng ĐỖ ĐÌNH THANH