Đại tướng Lê Đức Anh với lực lượng vũ trang Quân khu 3 (1987 - 1991)
Khi Đại tướng Lê Đức Anh giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cũng là giai đoạn đất nước bước vào thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng. Trên cương vị là người lãnh đạo, chỉ huy cao nhất của quân đội, đồng chí đã đề xuất và chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp nhằm điều chỉnh thế bố trí chiến lược; tăng cường khả năng phòng thủ của đất nước; xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh; nâng cao đời sống cho cán bộ, chiến sĩ.
Trong những năm đầu đổi mới đất nước, lực lượng vũ trang Quân khu 3 luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh. Một trong những dấu ấn nổi bật của Đại tướng là chỉ đạo việc hợp nhất Đặc khu Quảng Ninh và Quân khu 3. Từ tháng 12/1986, trên cương vị Tổng Tham mưu trưởng, Đại tướng đã đi khảo sát các tỉnh biên giới phía Bắc, trong đó có Quảng Ninh (lúc này là Đặc khu Quảng Ninh), làm việc với lãnh đạo địa phương, thăm hỏi các đơn vị lực lượng vũ trang, tiếp xúc với nhân dân; nắm vững thế bố trí phòng thủ trên địa bàn và đời sống của cán bộ, chiến sĩ, đồng bào để đánh giá sát thực, tổng quát về tình hình biên giới và các đơn vị quân đội. Sau đó, đồng chí đã cùng tập thể Đảng ủy Quân sự Trung ương chủ trương hợp nhất Đặc khu Quảng Ninh và Quân khu 3. Theo đó, tháng 8/1987, Đảng ủy Quân sự Trung ương đã ra Nghị quyết số 154/NQ-ĐU về việc hợp nhất Đặc khu Quảng Ninh và Quân khu 3 thành Quân khu 3. Sau khi sáp nhập, Quân khu 3 trở thành một địa bàn rộng lớn, hội tụ đủ cả hai chức năng, tính chất “vừa là tiền tuyến vừa là hậu phương” và “vừa là hậu phương vừa là tiền tuyến”, với 6 tỉnh, thành phố gồm: Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Hưng, Thái Bình, Hà Nam Ninh, Hà Sơn Bình; dân số trên 10 triệu người; là địa bàn có tiềm lực to lớn về kinh tế và quốc phòng, có bờ biển dài hơn 520km, đường biên giới trên bộ dài 118,825km, có gần 3.000 đảo lớn, nhỏ nằm trọn trong Vịnh Bắc Bộ. Quân khu 3 là tuyến phòng thủ chiến lược trọng yếu trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của đất nước, là địa bàn có điều kiện tiến hành chiến tranh nhân dân ở mức độ cao, tác chiến hiệp đồng quân binh chủng lớn.
Việc hợp nhất Đặc khu Quảng Ninh và Quân khu 3 là chủ trương đúng đắn nhằm tạo thế và lực mới cho cả nước nói chung và Quân khu 3 nói riêng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh và các đồng chí lãnh đạo, các cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng, việc hợp nhất và điều chỉnh lực lượng được tiến hành khẩn trương theo hai bước: Trước hết là điều chỉnh cơ quan Quân khu và các đơn vị chiến đấu; tiếp đó là điều chỉnh, hợp nhất các nhà trường và các cơ sở, đơn vị bảo đảm. Đến tháng 12/1987, Bộ Tư lệnh Quân khu 3 đã lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trên địa bàn mới. Cùng với chỉ đạo việc thực hiện hợp nhất, Đại tướng Lê Đức Anh thường xuyên theo dõi và chỉ đạo các cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng hướng dẫn Quân khu tiến hành điều chỉnh, bố trí lực lượng theo quy định: thành lập Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Ninh; kiện toàn Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Hải Phòng; tổ chức lại Sư đoàn 395; rút gọn Sư đoàn 328; kiện toàn Sư đoàn 329; hợp nhất Sư đoàn 432 với Sư đoàn 350, Sư đoàn 323 với Sư đoàn 360; tổ chức lại Sư đoàn 433; kiện toàn các cơ quan Quân khu. Đồng thời, đồng chí chỉ đạo Quân khu chấn chỉnh, tổ chức lại lực lượng làm kinh tế phù hợp với tình hình mới. Trong quá trình tổ chức hợp nhất, Quân khu 3 luôn chú trọng thực hiện tốt công tác tư tưởng, chính sách và cán bộ theo đúng tinh thần chỉ đạo của Đại tướng, giúp cán bộ, chiến sĩ nhận thức đầy đủ về chủ trương hợp nhất và điều chỉnh lực lượng, về tình hình, nhiệm vụ mới. Công tác cán bộ đã chủ động nắm nguồn, điều động, thuyên chuyển, sắp xếp, bổ nhiệm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hợp nhất và điều chỉnh lực lượng. Chỉ trong quý IV/1987, Quân khu 3 đã điều động 1.647 cán bộ trung cấp, sơ cấp; giải quyết xuất ngũ cho 2.687 cán bộ, bảo đảm đúng chính sách, quy định của trên.
Thực hiện sự chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh, lực lượng vũ trang Quân khu 3 triển khai điều chỉnh thế bố trí chiến lược, đồng thời xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc (trọng điểm là địa bàn tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng) phù hợp với thế trận chiến tranh trong thời kỳ mới, tăng cường khả năng và sức mạnh chiến đấu ở các khu vực trọng điểm quốc gia và từng tỉnh, thành phố. Quân khu tiến hành điều chỉnh thế bố trí chiến đấu ở biên giới phía Bắc, điều động một số đơn vị chủ lực về tuyến hai; đưa nhân dân lên sinh sống, sản xuất và đưa dân quân, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng lên tuyến một. Năm 1988, Quân khu 3 tiến hành điều chỉnh vị trí đứng chân một số đơn vị (các Sư đoàn 328, 329, 350, 433; Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Ninh, Trường Quân chính, Trường Hạ sĩ quan, Lữ đoàn 454 và một số tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 408...) theo phương án tác chiến.
Để không bị động, bất ngờ trong mọi tình huống, theo sự chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh, Quân khu 3 đã làm tốt công tác sẵn sàng chiến đấu; đồng thời xây dựng kế hoạch phòng thủ cơ bản, báo cáo Bộ Quốc phòng phê duyệt; hoàn thành kế hoạch chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu và tổ chức tập huấn công tác tham mưu khu vực phòng thủ.
Nhằm nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, xây dựng tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc, tháng 5/1988, Đại tướng Lê Đức Anh cùng thủ trưởng Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo Quân khu 3 tổ chức diễn tập thực nghiệm khu vực phòng thủ thành phố Hải Phòng nhằm rút kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, nhất là vận hành cơ chế cấp ủy lãnh đạo, chính quyền điều hành và cơ quan quân sự làm tham mưu, chỉ huy trưởng quân sự chỉ huy các lực lượng vũ trang thuộc quyền. Tham gia cuộc diễn tập thực nghiệm khu vực phòng thủ thành phố Hải Phòng có đầy đủ các ban, ngành, đoàn thể địa phương với hơn 3.000 quân thường trực, 4.000 quân dự bị, 2.000 dân quân tự vệ và hàng trăm phương tiện. Cuộc diễn tập được tiến hành qua 2 giai đoạn: Giai đoạn 1, diễn tập vận hành cơ chế thông qua các nội dung chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, hiệp đồng quân, binh chủng; giai đoạn 2, thực hành đánh địch đổ bộ đường không, đường biển và xử trí các tình huống. Đây là cuộc diễn tập lớn và là cuộc diễn tập khu vực phòng thủ cấp tỉnh, thành phố thứ hai của cả nước (sau tỉnh Lạng Sơn). Thành công của cuộc diễn tập gắn liền với sự chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo và các cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng cũng như sự quan tâm của Đại tướng Lê Đức Anh. Cuộc diễn tập không chỉ có ý nghĩa thiết thực với các cấp, các ngành, lực lượng vũ trang Quân khu 3, mà còn mang lại những kinh nghiệm quý cho Bộ Quốc phòng và các đơn vị bạn trong toàn quân. Từ kinh nghiệm diễn tập của Hải Phòng, các địa phương trên địa bàn Quân khu 3 tổ chức xây dựng kế hoạch khu vực phòng thủ. Từ tháng 10/1988, Bộ Tư lệnh Quân khu 3 đã chỉ đạo mỗi tỉnh, thành phố tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ từ 1 đến 2 huyện, đồng thời chỉ đạo Sư đoàn 395 và các lữ đoàn 405, 454, 214, 539 tổ chức diễn tập chỉ huy - cơ quan và hiệp đồng quân binh chủng. Chỉ riêng trong hai năm (5/1988 - 5/1990), cả 6 tỉnh, thành phố và 74/82 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn Quân khu đã hoàn thành diễn tập khu vực phòng thủ. Các cuộc diễn tập đã thực sự nâng cao tinh thần cảnh giác, ý thức bảo vệ Tổ quốc, bước đầu hình thành được các kế hoạch khu vực phòng thủ, khẳng định cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự làm tham mưu, chỉ huy trưởng chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang thuộc quyền là phù hợp.
Từ kế hoạch phòng thủ của Quân khu và các địa phương, đã tổ chức xây dựng được các khu vực phòng thủ then chốt, trọng tâm là các công trình chiến đấu, hệ thống kho tàng trên các hướng, các đảo, các điểm tựa biên giới và địa bàn trọng điểm.
Trước tình hình biển, đảo có những diễn biến phức tạp, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo lực lượng vũ trang Quân khu 3 tăng cường phòng thủ ở các vùng biển, đảo của Tổ quốc. Tích cực kiểm tra các tỉnh, thành phố có biển như Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Hà Nam Ninh, các Sư đoàn 395, 329, 242; chỉ đạo triển khai xây dựng các công trình quân sự ven biển; chỉ đạo Sư đoàn hải đảo 242 xây dựng thêm các công sự chiến đấu; bổ sung cán bộ cho tuyến biên giới, hải đảo (từ năm 1989 đến năm 1991, Quân khu đã bổ sung 983 đồng chí; ngoài ra còn bổ sung cho quần đảo Trường Sa 361 đồng chí). Cùng với chỉ đạo Quân khu 3 phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền các địa phương xây dựng, củng cố thế trận trên toàn địa bàn, tập trung vào các khu vực thành phố, thị xã, tuyến ven biển và các trục đường giao thông thủy, bộ, vùng kinh tế trọng yếu, Đại tướng Lê Đức Anh còn quan tâm chỉ đạo lực lượng vũ trang Quân khu thường xuyên phát động quần chúng nhân dân nâng cao cảnh giác; tổ chức các đợt ra quân làm trong sạch địa bàn, duy trì và kiện toàn các phân đội an ninh, quốc phòng.
Trước thực trạng khó khăn của đất nước, để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách quốc phòng, đồng thời tăng cường sức mạnh của lực lượng vũ trang đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Đại tướng Lê Đức Anh quan tâm và chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang tinh, gọn, mạnh. Theo tinh thần đó, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 3 đã triển khai xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, thường trực và dự bị mạnh. Quân khu 3 tiến hành chấn chỉnh tổ chức biên chế, từng bước giảm quân thường trực, coi trọng huấn luyện và quản lý lực lượng dự bị động viên gắn chặt với củng cố, nâng cao chất lượng dân quân tự vệ, tập trung huấn luyện và rèn luyện bộ đội, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Tính chung, từ năm 1986 đến năm 1991, với sự nỗ lực cao của các đơn vị trong lực lượng vũ trang Quân khu và cấp ủy, chính quyền, đoàn thể trên địa bàn, Quân khu 3 đã giảm được 35 đầu mối lớn trong bộ đội thường trực (trong đó có 7 sư đoàn, 1 lữ đoàn, 13 trung đoàn, 4 đoàn thương bệnh binh, 2 bệnh viện...; thu gọn một số đơn vị của Sư đoàn 242, chuyển một số trung đoàn chủ lực Quân khu về trực thuộc các tỉnh, thành phố...), giảm được 36.238 quân thường trực (trong đó có trên 9.000 sĩ quan, 2.700 quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng). Lực lượng dân quân tự vệ đã giảm từ 13,4% dân số năm 1986 xuống còn 2,5% dân số năm 1990. Cùng với đó, Quân khu chỉ đạo các đơn vị tích cực lao động sản xuất, tham gia xây dựng kinh tế, ổn định đời sống bộ đội, xây dựng hậu phương vững mạnh về mọi mặt, không ngừng củng cố đoàn kết quân dân.
Thực hiện sự chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh về cải thiện đời sống bộ đội bằng những chính sách cụ thể, trong đó có việc cấp đất cho cán bộ, chiến sĩ ở thành phố, thị xã và cấp định mức vật liệu xây dựng (sắt, xi măng, than, gạch), doanh cụ, tiền... ở vùng nông thôn, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 3 đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban, ngành liên quan, chỉ đạo các đơn vị rà soát lực lượng bộ đội xuất ngũ, đề nghị ưu tiên cho những đồng chí đã tham gia quân đội được xuất khẩu lao động; xây mới nhiều căn hộ, nhượng bán vật liệu xây dựng như xi măng, sắt, thép, gạch, ngói, luồng, tủ, bàn, ghế; trợ cấp gạo cho các đồng chí có hoàn cảnh khó khăn... Chỉ riêng năm 1988, Quân khu 3 có 1.285 đồng chí xuất ngũ đi lao động ở nước ngoài. Những việc làm trên đã góp phần giải quyết những khó khăn cho đất nước đang trong giai đoạn khủng hoảng và cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang Quân khu 3 cũng như những đồng chí đã xuất ngũ. Kết quả này là sự cố gắng, nỗ lực của cấp ủy, chỉ huy các đơn vị trong lực lượng vũ trang Quân khu; của các cấp, các ngành, đặc biệt là sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của thủ trưởng Bộ Quốc phòng và Đại tướng Lê Đức Anh.
Tháng 6/1991, Đại tướng Lê Đức Anh tiếp tục được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị - Bí thư Trung ương Đảng, sau đó là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đây, tuy không trực tiếp chỉ đạo lực lượng vũ trang Quân khu 3 nhưng Đại tướng vẫn dành nhiều tình cảm cho cán bộ, chiến sĩ Quân khu. Đồng chí đã nhiều lần về thăm, làm việc, động viên cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu và nhân dân trên địa bàn. Quân và dân Quân khu 3 luôn nhớ về Đại tướng với những tình cảm thành kính, thân thương nhất.
Trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc có những yêu cầu mới; có nhiều thuận lợi nhưng cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Quán triệt tư tưởng, quan điểm và học tập tấm gương Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 3 nguyện tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, ra sức học tập nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực mọi mặt. Thực hiện tốt cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đẩy mạnh việc phòng, chống “diễn biến hòa bình”; phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đồng thời, tích cực xây dựng lực lượng vũ trang theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, có cơ cấu hợp lý giữa các thành phần, lực lượng; không ngừng nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; tăng cường xây dựng phòng thủ Quân khu; phát huy vai trò nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Tăng cường các hoạt động đối ngoại quốc phòng cũng như đối ngoại nhân dân. Quan tâm chăm lo đời sống cán bộ, chiến sĩ và chính sách hậu phương quân đội. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với bộ chỉ huy bộ đội biên phòng các tỉnh, thành phố trên địa bàn nắm chắc tình hình biên giới, biển, đảo, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.
Cuộc đời của Đại tướng Lê Đức Anh là một tấm gương sáng, phấn đấu không ngừng nghỉ cho sự nghiệp cách mạng của nước nhà. Những tình cảm, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đại tướng đối với lực lượng vũ trang Quân khu 3 nói chung và trong giai đoạn 1987 - 1991 nói riêng là những tài sản tinh thần quý giá, động viên cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 3 không ngừng phấn đấu vươn lên thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thiếu tướng NGUYỄN QUANG NGỌC