Đại tướng Lê Đức Anh với lực lượng công binh trong chiến tranh giải phóng và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
Đồng chí đã có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và sự trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Một trong những đóng góp to lớn của Đại tướng, đó là vấn đề chỉ huy, chỉ đạo công tác nghiên cứu, xây dựng các công trình quốc phòng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua các giai đoạn lịch sử.
Đầu năm 1955, đồng chí Lê Đức Anh được điều động ra Bắc, từ năm 1955-1964, đồng chí lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Phó Cục trưởng Cục Tác chiến, Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Với tầm nhìn sâu rộng, tư duy sắc sảo, bản lĩnh quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đồng chí đã chỉ huy, chỉ đạo các đơn vị, trong đó có lực lượng công binh hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng các công trình quốc phòng được giao.
Đầu năm 1957, để chuẩn bị cho công binh thực hiện nhiệm vụ xây dựng các công trình quốc phòng bảo vệ miền Bắc, Bộ Tổng Tham mưu đã cử một đoàn cán bộ do đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Phạm Hoàng - Tham mưu trưởng Cục Công binh dẫn đầu sang Trung Quốc học tập và thăm quan trong ba tháng. Sau khi Cục Công binh mở lớp tập huấn phổ biến kỹ thuật thi công công trình, tháng 11/1957, lực lượng công binh đã triển khai xây dựng công trình tại công trường B1; đầu năm 1958, xây dựng các công trình phòng thủ Bắc vĩ tuyến 17; tháng 6/1958, xây dựng công trình 103 khu A1. Sau khi Phòng Công trình khảo sát thiết kế, công binh bắt đầu làm thí điểm ba đường hầm ở vùng ven biển, tháng 12/1958, cả ba đường hầm được hoàn thành. Trên cơ sở kết quả đạt được, Bộ Quốc phòng tiếp tục giao cho Cục Công binh triển khai các dự án xây dựng thí điểm công trình phòng thủ trong 3 năm (1958-1960) để tiến tới thực hiện thường xuyên ở các năm sau. Thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, Cục Công binh tiếp tục cử một số cán bộ đi tham quan học tập ở Trung Quốc và Triều Tiên. Ở Cục Phòng thủ bờ biển cũng tổ chức một bộ phận để thi công các công trình, do đồng chí Bùi Ủy phụ trách. Từ đây, công tác xây dựng các công trình quốc phòng được tiến hành thường xuyên, triển khai có nền nếp, đặc biệt là khi xây dựng Sở Chỉ huy Bộ và ở các quân khu miền Bắc.
Trong những năm từ 1961 đến 1964, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ khi đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, dưới sự chỉ huy, chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu, trong đó có vai trò của đồng chí Lê Đức Anh, lực lượng công binh với kinh nghiệm chuyên môn, thực tiễn của mình đã tích cực nghiên cứu áp dụng khoa học - kỹ thuật để chỉ đạo, hướng dẫn các lực lượng triển khai xây dựng, cải tạo các công trình phòng thủ, sở chỉ huy các cấp; các công trình sân bay, bến cảng vĩnh cửu và dã chiến; các hang cất giấu tàu chiến ở vùng ven biển, hải đảo, khu vực giới tuyến quân sự tạm thời. Năm 1962, Cục Công binh thiết kế chế tạo thành công hệ thống cửa phòng tránh ở đường hầm chứa máy bay tại sân bay K9, thi công đường hầm (kho chứa dầu) H1 tại Quảng Ninh. Năm 1963, lực lượng công binh kết hợp với các lực lượng khác triển khai xây dựng các triền tàu, cầu tàu ở Quảng Ninh, Hải Phòng. Năm 1964, thi công xây dựng đường hầm H2 và H6 tại Quảng Ninh. Sau một thời gian khẩn trương, các công trình phòng thủ nhân cốt từ Móng Cái đến Vĩnh Linh bước đầu đã được hình thành. Một số công trình ở các đảo như Hòn Mê, Cồn Cỏ đã được thử thách trong bom đạn, đủ sức đứng vững nơi đầu sóng, ngọn gió, xứng đáng là vị trí tiền tiêu của Tổ quốc.
Từ giữa năm 1965, trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa lực lượng chiến đấu của Mỹ vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam. Giai đoạn này, đồng chí Lê Đức Anh với cương vị là Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân giải phóng miền Nam đã cùng Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo các đơn vị công binh trên chiến trường hướng vào các nhiệm vụ: tham gia đánh địch lấn chiếm vùng giải phóng; chỉ đạo, hướng dẫn nhân dân đánh mìn, phá hoại giao thông, diệt xe cơ giới địch. Chiến đấu trong vùng địch chiếm, các đơn vị vũ trang do thiếu vũ khí, phương tiện, cán bộ chiến sĩ công binh đã tự tạo ra vũ khí mìn từ việc thu nhặt bom đạn của địch để trang bị cho mình và cho du kích, biệt động thành. Đầu mùa mưa năm 1966, Bộ Chỉ huy Miền tổ chức rút kinh nghiệm nhiệm vụ chống càn năm 1965, đồng chí Lê Đức Anh đã biểu dương lực lượng công binh và yêu cầu các lực lượng khác cần học tập cách chế tạo mìn của công binh để chuẩn bị cho nhiệm vụ chống càn mùa khô (1966 - 1967).
Năm 1967, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, ta đánh bại các cuộc hành quân tìm, diệt và bình định nông thôn trong Chiến dịch Gianxơn Xiti của quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn. Đại đội 24 của Công binh Miền Đông Nam Bộ đã thực hiện 14 trận đánh phá giao thông, diệt 18 xe cơ giới địch, bắn nổ 2 máy bay trực thăng và tiêu diệt 59 tên địch. Đầu tháng 7/1967, đồng chí Lê Đức Anh chỉ đạo Cục Tham mưu Miền giao cho Tiểu đoàn Công binh 739 mở tuyến đường 60 đoạn từ Đoàn 86 (Tây Bắc sông Đắc Huýt) đến Đoàn 81 (khu vực sông Mã Đà) và vòng sang sông Đồng Nai. Trên cơ sở đó, lợi dụng xuôi dòng đến Tà Lài - Bến Nôm để chở hàng xuống Đoàn 84 phía Bà Rịa. Kết quả chỉ trong ba tháng, tuyến đường 60 (cả đường chính lẫn đường dự bị) đã được chuẩn bị xong, phục vụ vận chuyển khoảng 1.300 tấn hàng hóa, vũ khí cho các lực lượng chiến đấu trên các địa bàn.
Thất bại trên chiến trường miền Nam, từ năm 1969, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Thời gian này, đồng chí Lê Đức Anh được Trung ương điều chuyển về làm Tư lệnh Quân khu 9. Trên cương vị công tác mới, đồng chí đã dành thời gian chỉ đạo xây dựng, củng cố lực lượng công binh ở các tỉnh: Rạch Giá, Cà Mau, Sóc Trăng, Cần Thơ, Trà Vinh, Vĩnh Long: xây dựng công sự, đánh phá giao thông; gài mìn để phát triển chiến tranh du kích, tạo thế vây ép địch vào nội đô theo ý định của Bộ Chỉ huy Miền. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, là Phó Tư lệnh chiến dịch, trực tiếp chỉ huy Quân khu 9 và cánh quân Tây Nam, đồng chí Lê Đức Anh đã lăn lộn bám sát thực tế chiến trường, chỉ huy cánh quân, trong đó có lực lượng công binh tìm ra các phương án cơ động, bảo đảm đường, bảo đảm vượt sông, xây dựng công trình chiến đấu có hiệu quả, giảm nhiều hy sinh xương máu của chiến sĩ, đồng bào và đã bảo đảm cho cánh quân kịp thời tham gia tác chiến hiệp đồng giành thắng lợi.
Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, bộ đội công binh chuyển sang giai đoạn cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tháng 4/1977, tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary phát động chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, ngày 23/12/1978, quân và dân ta trên toàn tuyến biên giới đã tiến hành mở cuộc phản công - tiến công chiến lược đánh bại chiến tranh xâm lấn của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xary, buộc địch phải rút về bên kia biên giới.
Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, từ năm 1978 đến năm 1981, với trọng trách là Tư lệnh, kiêm Chính ủy Quân khu 7, Chỉ huy trưởng cơ quan tiền phương của Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam, đồng chí Lê Đức Anh là một trong các tướng lĩnh trực tiếp chỉ huy chiến trường. Đồng chí đã trực tiếp thị sát và chỉ đạo các lực lượng thực hiện chủ trương xây dựng thế trận công trình phòng thủ vững chắc, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biên giới thiêng liêng của Tổ quốc.
Trước năm 1977, do điều kiện ta chưa có sự quy hoạch, xây dựng hệ thống công trình tuyến phòng thủ biên giới Tây Nam, việc đánh trả địch bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ nhân dân chủ yếu dựa vào các công trình tại chỗ, chưa có tính liên hoàn. Sau khi đi trinh sát thực địa, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng thủ trưởng Bộ Quốc phòng yêu cầu Bộ Tư lệnh Công binh đề xuất phương án xây dựng công trình ở các khu vực phòng thủ để bảo vệ các tỉnh biên giới. Bộ Tư lệnh Công binh đã đề nghị xây dựng một khu vực phòng thủ để rút kinh nghiệm, sau đó phổ biến nhân rộng ra trên toàn tuyến biên giới. Để kịp thời triển khai mở rộng trên toàn tuyến biên giới, lực lượng công binh đã cùng các đơn vị xây dựng, lắp ghép một số loại công sự gỗ đất, đá, vòm tôn, thanh bê tông lắp ghép. Viện Kỹ thuật Công binh, Viện Thiết kế, Cục Công trình đã thiết kế một số công sự ở địa hình ngập nước. Nơi có địa hình cao như đường đá, bờ kênh, bìa làng... đã tranh thủ trong mùa khô tiến hành đắp lũy và trồng cây, đưa dân ra sản xuất, tạo sẵn địa bàn tác chiến (khu tứ giác Long Xuyên, Châu Đốc, Tịnh Biên, An Giang...). Nơi địa hình thấp đã tiến hành làm công sự hai tầng, khi mực nước xuống thấp sẽ sử dụng công sự tầng dưới để đánh địch. Vào mùa nước cao sẽ sử dụng tầng trên. Những nơi địa hình rất thấp như: Mộc Hóa, Hồng Ngự, mùa nước đã dùng bè, mảng, thuyền dân, bên trên làm công sự bằng vòm tôn, bao cát để cơ động đánh địch. Cùng với việc xây dựng công sự, trên tuyến biên giới Tây Nam, đồng chí Lê Đức Anh và Thủ trưởng Bộ đã chỉ đạo lực lượng công binh cần trực tiếp hướng dẫn các lực lượng và nhân dân xây dựng nhiều loại vật cản khác nhau như: đào hào, đắp luỹ, trồng tre, bố trí hàng rào kết hợp với chông, mìn để ngăn chặn, tiêu diệt địch. Nhờ có hệ thống vật cản, những hoạt động của địch như luồn sâu, quấy rối, lấn đất, phá hoại kinh tế đối với ta đã giảm đi rõ rệt. Một số nơi trước đây nhân dân phải sơ tán, sau khi các công trình phòng thủ được xây dựng, nhân dân đã an tâm trở về chiến đấu, sản xuất. Hệ thống vật cản đã ngăn chặn địch và tạo điều kiện thuận lợi để bộ đội ta tiêu diệt địch.
Sau khi hoàn thành các nhiệm vụ chỉ huy ở chiến trường biên giới Tây Nam và chiến trường Campuchia (1979 - 1986), đồng chí Lê Đức Anh được Trung ương cử giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (tháng 12/1986) và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (tháng 02/1987). Trên các cương vị nhiệm vụ mới, đồng chí đã đề xuất với Trung ương và chỉ huy, chỉ đạo các quân khu, quân đoàn ở biên giới phía Bắc kịp thời điều chỉnh thế bố trí lực lượng để bảo đảm cho tuyến phòng ngự biên giới có chiều sâu. Để bảo đảm cho hệ thống công trình trên tuyến phòng thủ có chiều sâu vững chắc theo yêu cầu của Thủ trưởng Bộ, lực lượng công binh đã tăng cường nghiên cứu, hướng dẫn các lực lượng làm các công sự sẵn sàng đối phó với các âm mưu, thủ đoạn đánh phá của địch, lực lượng công binh đã làm công sự bằng khung thép hình (I, U), lát nóc bằng phên sắt những tấm ghi làm đường băng dã chiến của sân bay và xây tường bằng đá. Đồng thời đã triển khai xây dựng một số đường hầm dài trên dưới 100m, khung hầm bằng các thanh 3C-30; 3C-31... để bố trí cho một số cụm điểm tựa cấp tiểu đoàn và các sở chỉ huy trung, sư đoàn. Để xác định khối lượng lực lượng công binh đã thống nhất lấy cụm điểm tựa tiểu đoàn làm cơ sở để tính toán thi công. Toàn tuyến biên giới cần xây dựng 149 cụm điểm tựa cấp tiểu đoàn (và tương đương), mỗi cụm điểm tựa cần 161 công sự lắp ghép các loại, mỗi công sự trung bình sử dụng 3m3 bê tông, như vậy, mỗi cụm điểm tựa cần khoảng 500m3 bê tông.
Sau sự kiện Gạc Ma ngày 14/3/1988, Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cùng đoàn công tác đã có chuyến đi thăm và làm việc tại quần đảo Trường Sa. Tại đây, Bộ trưởng đã khẳng định: “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc chúng ta”. Ngày 29/3/1989, Đại tướng ký ban hành Mệnh lệnh số 167/ML-QP về đóng giữ, bảo vệ khu vực thềm lục địa, bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa. Đến ngày 26/02/1990, Đại tướng ký Quyết định số 60/QĐ-QP giao cho Bộ Tư lệnh Công binh làm chủ đầu tư xây dựng các trạm dịch vụ kinh tế, khoa học - kỹ thuật trên biển (công trình DK1) và thành lập Ban Quản lý xây dựng công trình DK1 để tham mưu, đề xuất, tổ chức nghiên cứu, thiết kế và quản lý xây dựng các công trình này.
Đây là một nhiệm vụ có ý nghĩa rất quan trọng cả về chính trị, quân sự, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, nhằm khẳng định và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển của Tổ quốc. Tuy nhiên, nghiên cứu, thiết kế thi công công trình DK1 hết sức phức tạp, vị trí xây dựng cách xa đất liền từ 450 km đến 600km; quá trình thi công gặp khó khăn về mọi mặt, nhiều vấn đề kỹ thuật về xây dựng công trình biển cần phải xử lý; thời tiết khí hậu diễn biến bất thường, thiếu các số liệu điều tra... đã làm khó khăn trong quá trình thiết kế, thi công công trình.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và sự chỉ đạo của Bộ trưởng Lê Đức Anh, Bộ Tư lệnh Công binh đã chỉ đạo các lực lượng thiết kế, thi công phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, dũng cảm, dám nghĩ, dám làm, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm và tổng kết đánh giá. Các lực lượng tham gia ngày càng có kinh nghiệm về kỹ thuật thi công công trình biển trên nền san hô và bùn đất yếu. Kết quả, các nhà giàn DK1 đã tổ chức thi công thành công, bảo đảm chất lượng, khẳng định chủ quyền về thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế biển phía Đông Nam của Tổ quốc.
Giai đoạn 1992 - 1997, trên cương vị Chủ tịch nước, với tình cảm gắn bó và trách nhiệm chính trị lớn lao, Đại tướng Lê Đức Anh luôn quan tâm đến sự nghiệp xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng, an ninh vững chắc. Ngày 03/6/1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh số 36/CTN công bố Pháp lệnh Bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự. Pháp lệnh quy định công trình quốc phòng và khu quân sự là tài sản của Nhà nước giao cho lực lượng vũ trang và chính quyền các cấp tổ chức xây dựng, quản lý, sử dụng, bảo vệ để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm 1994 - 1996, Viện Kỹ thuật Công binh nghiên cứu đề tài thiết kế, thi công hai đường hầm PR01, PR02 của Quân chủng Phòng không - Không quân cho máy bay SU27 ẩn nấp, sẵn sàng chiến đấu, Đại tướng Lê Đức Anh trực tiếp đến thăm, kiểm tra đường hầm và đã đánh giá cao kết quả thành công của đề tài.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Đại tướng gắn liền với các chiến trường trong Nam, ngoài Bắc cũng như trên chiến trường Campuchia, trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc; công cuộc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây dựng và đổi mới đất nước. Những chỉ đạo, định hướng của Đại tướng đối với công tác nghiên cứu, xây dựng công trình quốc phòng trong chiến tranh giải phóng cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Trên cơ sở đó, lực lượng công binh đã và đang tiếp tục nghiên cứu phát triển, vận dụng sáng tạo và thực hiện có hiệu quả để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
Thiếu tướng TRẦN TRUNG HÒA