Quay lại

Đại tướng Lê Đức Anh với công tác khoa học quân sự

Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Chủ tịch nước là một vị tướng tài ba, người lãnh đạo Đảng, Nhà nước xuất sắc đã có nhiều đóng góp to lớn đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của quân đội, của Đảng, Nhà nước và dân tộc.

Trong suốt những năm trên cương vị là người chỉ huy cao nhất của quân đội, bằng tư duy của một vị tướng dạn dày kinh nghiệm và sự am hiểu về vai trò, tầm quan trọng của công tác nghiên cứu khoa học đối với sự nghiệp xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với công tác khoa học quân sự.

Đại tướng Lê Đức Anh, Lê Đức Anh

Sau khi được bầu là Ủy viên Bộ Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), đến tháng 02/1987, Đại tướng Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Từ đây, trên cương vị là người chỉ huy cao nhất của quân đội, Đại tướng Lê Đức Anh đã dành hết tâm sức và trí lực lãnh đạo, chỉ huy quân đội thực hiện nhiệm vụ xây dựng
lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội trong tình hình mới và đã có nhiều cống hiến to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại tướng đã có nhiều quyết sách về quốc phòng, an ninh, về giảm số lượng quân thường trực, về kết hợp xây dựng kinh tế với quốc phòng, xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của từng địa phương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân trên từng địa bàn chiến lược của cả nước. Đại tướng luôn đặt ra những yêu cầu đối với quân đội là không được chủ quan thỏa mãn với những gì đã làm được, phải phấn đấu vươn lên để nâng cao chất lượng toàn diện của quân đội, của lực lượng vũ trang trong điều kiện mới. Để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đó, Đại tướng luôn coi trọng và dành sự quan tâm đặc biệt đối với công tác nghiên cứu khoa học quân sự, coi trọng nâng cao tri thức quân sự để góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quán triệt và vận dụng sáng tạo, đúng đắn đường lối, quan điểm của Đảng đối với nhiệm vụ khoa học quân sự, Đại tướng đã cùng với Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) đề xuất và chỉ đạo nhiều chủ trương, biện pháp mang tính đột phá, góp phần tạo ra bước chuyển căn bản trong công tác nghiên cứu khoa học quân sự. Đó là việc đề ra những yêu cầu về việc tăng cường chất lượng, số lượng và tổ chức biên chế của các cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu, công tác quản lý khoa học quân sự trong toàn quân. Theo Đại tướng, để quân đội xây dựng được một nền khoa học quân sự tiên tiến, phục vụ cho đường lối nghệ thuật quân sự của Đảng, phấn đấu vươn lên ngang tầm với trình độ khoa học - công nghệ của khu vực và quốc tế thì vấn đề xây dựng một đội ngũ cán bộ khoa học cân đối, đồng bộ, có trình độ cao có vai trò rất quan trọng. Đội ngũ cán bộ khoa học trong quân đội không những phải đáp ứng những yêu cầu trước mắt và sự phát triển tương lai, mà còn giữ vai trò nòng cốt trong việc phối hợp với các lực lượng trong và ngoài quân đội để giải quyết tốt nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Đại tướng luôn đặt ra yêu cầu phải đào tạo được những nhà khoa học giỏi, những cán bộ đầu ngành làm nòng cốt, đủ sức giải quyết mọi vấn đề do nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt ra.

Cùng với đó, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo toàn quân tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 33/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa VI) về nhiệm vụ quốc phòng, trong đó có nhiệm vụ điều chỉnh lực lượng, rút giảm quân số, từng bước tinh giản biên chế, sắp xếp các tổ chức và đội ngũ cán bộ nói chung, các tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học nói riêng; thực hiện điều chỉnh theo hướng kết hợp trước mắt và lâu dài, tích cực đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ và đội ngũ cán bộ kế cận. Đại tướng nêu rõ: “chú trọng xây dựng công nghiệp quốc phòng tự chủ, có khoa học - kỹ thuật tiên tiến, có lực lượng cán bộ và nhân viên khoa học ngày càng phát triển. Phương hướng là sẽ giảm quân thường trực với số lượng lớn, nhưng lực lượng nghiên cứu khoa học nên tăng chứ không giảm”.

Xuất phát từ yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại, chuẩn bị cho đất nước sẵn sàng chống xâm lược, đầu năm 1987, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo Cục Khoa học quân sự phối hợp với các cơ quan trong và ngoài quân đội nghiên cứu, chuẩn bị nội dung giúp Bộ Chính trị (khóa VI) ra Nghị quyết số 02/BCT xác định nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo. Tinh thần chính của nghị quyết là phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước và từng địa phương bảo vệ vững chắc công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng cường khả năng phòng thủ đất nước, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam chính quy, từng bước hiện đại, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, tham gia xây dựng kinh tế và làm tốt nghĩa vụ quốc tế với cách mạng Lào, Campuchia. Để từng bước nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học quân sự trong toàn quân, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo khẩn trương thành lập Hội đồng Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ xét duyệt các công trình về khoa học quân sự, tổng kết chiến tranh và lịch sử quân sự. Thực hiện chỉ đạo của Đại tướng, ngày 29/12/1987, Bộ Quốc phòng đã ra Quyết định số 1894/QĐ-QP thành lập Hội đồng Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng, do Bộ trưởng Lê Đức Anh làm Chủ tịch Hội đồng. Tiếp đó, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo các cơ quan nghiên cứu thành lập hội đồng khoa học chuyên ngành trực thuộc Hội đồng Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng gồm: Lịch sử quân sự, Nghệ thuật quân sự, Chính trị quân sự, Tổ chức lực lượng vũ trang, Hậu cần quân sự, Kinh tế quân sự và Kỹ thuật quân sự, có nhiệm vụ giúp Hội đồng Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng xem xét, tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến vào các công trình khoa học, hoạt động khoa học thuộc chuyên ngành mình và kiến nghị những vấn đề cần đưa ra Hội đồng Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng để thảo luận, quyết định. Từ đây, công tác khoa học quân sự toàn quân ngày càng đi vào nền nếp, chính quy, góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào xây dựng quân đội và củng cố nền quốc phòng.

Đối với hệ thống tổ chức các cơ quan quản lý và các cơ quan làm công tác nghiên cứu khoa học quân sự. Thực hiện Quyết định số 823/QĐ-QP về việc thành lập Cục Quản lý kỹ thuật trên cơ sở hợp nhất một bộ phận của Bộ Tham mưu và Cục Quản lý khoa học - kỹ thuật (Tổng cục Kỹ thuật) về trực thuộc Bộ Quốc phòng, ngày 31/12/1987, thay mặt Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đã ký Quyết định số 377/QĐ-ĐUQSTW chuyển Đảng bộ Cục Quản lý kỹ thuật trực thuộc Đảng bộ Tổng cục Kỹ thuật về trực thuộc Đảng bộ Bộ Tổng Tham mưu - Cơ quan Bộ Quốc phòng.

Bước sang năm 1988, toàn quân triển khai thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TW của Bộ Chính trị “Về xây dựng nền quốc phòng toàn dân” và Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VI) (tháng 5/1988) “Về công tác đối ngoại trong thời kỳ mới”, làm cho tình hình biên giới dần đi vào ổn định, cơ bản chấm dứt chiến sự, toàn quân điều chỉnh lực lượng cho phù hợp với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, rút dần quân tình nguyện ở Lào, Campuchia về nước. Thực hiện chủ trương đó, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo Cục Khoa học quân sự nghiên cứu, giải quyết chính sách cho một số cán bộ, chiến sĩ và triển khai những biện pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý, nghiên cứu và nghiệm thu các đề tài khoa học quân sự.

Năm 1989, đời sống nhân dân dần đi vào ổn định; tình hình biên giới phía Bắc ổn định hơn, quân tình nguyện ở Lào và Campuchia được rút về nước. Tuy nhiên, chiến lược “diễn biến hòa bình” do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiến hành diễn ra ngày càng thâm độc và xảo quyệt. Từ tình hình trên, Bộ trưởng Lê Đức Anh đã chỉ đạo các cơ quan khoa học triển khai nghiên cứu đề ra các biện pháp có hiệu quả để đánh bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, tránh ảo tưởng mất cảnh giác, đồng thời, tranh thủ mở cửa, hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới.

Đối với công tác khoa học - kỹ thuật quân sự, sau hai năm thực hiện quản lý và bảo đảm kỹ thuật theo 10 chuyên ngành đã bộc lộ một số mặt hạn chế, không phát huy được vai trò của các cấp trong công tác kỹ thuật; đồng thời cần giải quyết mối quan hệ hợp lý giữa ngành và cấp chỉ huy trong chỉ đạo công tác kỹ thuật, ngày 24/4/1989, Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ký Quyết định số 130/QĐ-QP “Quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Tổng cục Kỹ thuật”. Ngoài các nhiệm vụ chỉ đạo công tác quản lý nói chung, Tổng cục Kỹ thuật có nhiệm vụ quản lý và chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học - kỹ thuật quân sự, quản lý các hoạt động sáng kiến, sáng chế toàn quân, hợp tác khoa học - kỹ thuật với các ngành của Nhà nước và nước ngoài, giúp Bộ Quốc phòng chỉ đạo các viện, cơ sở nghiên cứu kỹ thuật trong toàn quân.

Bước sang năm 1990, đất nước tuy còn nhiều khó khăn thách thức trên con đường đổi mới, nhưng đang có những chuyển biến tích cực về kinh tế. Trong khi đó, cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội tại các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu ngày càng trầm trọng dẫn tới tan rã, công cuộc cải tổ ở Liên Xô gặp khó khăn, phức tạp. Những diễn biến đó đã tác động đến tâm tư, tình cảm và lòng tin của cán bộ, chiến sĩ vào sự lãnh đạo của Đảng. Trước tình hình đó, quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VI), Đại tướng Lê Đức Anh đã giao cho các cơ quan khoa học tiến hành nghiên cứu các vấn đề về lý luận và thực tiễn, làm rõ tính chất, nguyên nhân cuộc khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa, khả năng diễn biến và những tác động cũng như âm mưu của chủ nghĩa đế quốc đối với nước ta. Từ đó giúp cán bộ, chiến sĩ tin tưởng, kiên định với con đường mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn, quyết tâm cầm chắc tay súng để bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ. Đại tướng chỉ đạo Cục Khoa học quân sự phối hợp với Cục Tác chiến nghiên cứu hoàn thành tài liệu “Xây dựng tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ” trên cơ sở tài liệu “Tác chiến bảo vệ khu vực” trước đây. Sau khi hoàn thành, tài liệu được Hội đồng Khoa học Bộ Quốc phòng do Đại tướng Lê Đức Anh làm Chủ tịch đã thông qua, làm cơ sở cho toàn quân và các địa phương vận dụng.

Nhằm tăng cường công tác nghiên cứu về chiến lược quân sự trong tình hình mới, làm cơ sở để tham mưu cho Bộ Quốc phòng, Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ xây dựng quân đội, nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, Đại tướng Lê Đức Anh đã chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu, tham mưu cho Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng thành lập Viện Chiến lược quân sự (nay là Viện Chiến lược quốc phòng). Trên cơ sở đó, ngày 10/01/1990, Bộ Quốc phòng đã ký quyết định thành lập Viện Chiến lược quân sự do Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo làm Viện trưởng, có nhiệm vụ nghiên cứu, đề đạt các kiến nghị, tư vấn cho Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng, Bộ Chính trị những vấn đề về chiến lược quân sự. Tiếp đó, dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng Lê Đức Anh, các cơ quan nghiên cứu khoa học trong toàn quân được kiện toàn, được phân công nhiệm vụ cụ thể, được phân cấp ngân sách và tài khoản riêng. Theo đó, Viện Chiến lược quân sự có nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề về chiến lược quân sự. Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng) nghiên cứu về nghệ thuật chiến dịch và nghệ thuật cấp sư đoàn. Học viện Lục quân nghiên cứu về chiến thuật cấp trung đoàn. Trường Sĩ quan Lục quân 1 và 2 nghiên cứu về chiến thuật cấp tiểu đoàn trở xuống. Các học viện, trường sĩ quan thuộc các quân chủng, binh chủng nghiên cứu, biên soạn tài liệu của quân chủng, binh chủng và ngành mình.

Cục Khoa học quân sự được Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ là cơ quan quản lý đầu ngành về khoa học quân sự trong toàn quân, tham mưu giúp Bộ Quốc phòng trong việc kiện toàn hệ thống cơ quan khoa học quân sự toàn quân, đồng thời là cơ quan thường trực của Hội đồng Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng, chăm lo việc kiện toàn hội đồng và giúp chỉ huy các cấp chỉ đạo, tiến hành công tác nghiên cứu khoa học quân sự, thông qua các công trình nghiên cứu theo phân công, phân nhiệm và xây dựng tiềm lực. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác nghiên cứu khoa học quân sự, Đại tướng đặt ra yêu cầu đối với các viện nghiên cứu, các học viện, nhà trường có nhiệm vụ nghiên cứu khoa học là cần nhận thức đúng vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mình; các công trình và đề tài khoa học phải có giá trị thực tiễn và ứng dụng ngay vào công tác giáo dục, đào tạo, huấn luyện bộ đội. Đồng thời, phải nhanh chóng chấn chỉnh tổ chức, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nghiên cứu có trình độ sau đại học và phấn đấu trở thành những nhà nghiên cứu khoa học chuyên sâu.

Ngày 30/3/1991, Bộ Chính trị (khóa VII) ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW Về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới. Để thống nhất thực hiện trong toàn quân, Đại tướng Lê Đức Anh đã giao cho các cơ quan nghiên cứu đề tài cấp Bộ Quốc phòng “Hoạt động khoa học quân sự và quản lý khoa học quân sự đến năm 2000”. Căn cứ vào tình hình thực tế, quán triệt tinh thần Đại hội lần thứ VII của Đảng về kiên định con đường đổi mới, đề tài này đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể về công tác khoa học quân sự và quản lý khoa học quân sự trong quân đội theo hướng tập trung, thống nhất vào một đầu mối. Tiếp đó là nghiên cứu ban hành “Quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội đồng khoa học quân sự”, “Quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội đồng khoa học - kỹ thuật quân sự” các cấp.

Thực hiện chủ trương về công tác đối ngoại của Đảng là Việt Nam muốn là bạn của tất cả các quốc gia, các dân tộc trên thế giới cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập, hữu nghị và phát triển, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, tháng 11/1991, Việt Nam đã ký Hiệp định chính thức về việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, đồng thời xúc tiến việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Nhiệm vụ nặng nề ấy được giao cho Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng. Trong buổi làm việc với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Đại tướng Lê Đức Anh đã khẳng định khoa học không chỉ có vai trò trong sự nghiệp đổi mới đất nước mà còn có vai trò trong thực hiện nhiệm vụ đối ngoại. Do vậy, Đại tướng khẳng định: “Tôi đồng ý và chọn con đường tiếp cận từ khoa học”. Trên cơ sở đó, Đại tướng Lê Đức Anh đã chọn và cử đồng chí Thiếu tướng GS.TS. Nguyễn Huy Phan, Phó Viện trưởng Viện Quân y 108 làm “người mở đầu” sang Mỹ để dự hội thảo trao đổi về khoa học, nhưng thực chất là để thực hiện nhiệm vụ chính trị. Trước khi đồng chí Nguyễn Huy Phan lên đường sang Mỹ, Đại tướng căn dặn: “Sang đó, anh làm tốt việc trao đổi về khoa học với các nhà khoa học Mỹ là đã phục vụ nhân dân, phục vụ chính trị rồi”2. Đây chính là bước đi đầu tiên và quan trọng của ta để tiến tới bình thường hóa quan hệ với Mỹ sau này.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991), Đại tướng Lê Đức Anh tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng. Tháng 9/1992, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá IX, Đại tướng Lê Đức Anh được bầu giữ chức Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặc dù không còn trực tiếp chỉ huy quân đội nhưng suốt trong những năm trên cương vị là Chủ tịch nước, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Đại tướng vẫn luôn dành nhiều thời gian và tâm huyết đối với công tác khoa học nói chung, công tác khoa học quân sự nói riêng.

Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng được tôi luyện, trưởng thành trong khói lửa của chiến tranh, với sự am hiểu về vị trí, vai trò của khoa học quân sự đối với sự nghiệp xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng; trong suốt thời gian trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng luôn quan tâm đặc biệt đến công tác khoa học quân sự. Vì vậy, Đại tướng luôn đặt ra những yêu cầu, coi công tác khoa học quân sự là một nhiệm vụ quan trọng của quân đội, là một nhân tố cơ bản góp phần vào sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta. Những chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh đối với công tác khoa học quân sự trên cương vị là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã góp phần quan trọng vào những kết quả đạt được của quân đội ta trên lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng các sản phẩm khoa học, đồng thời để lại những bài học có giá trị đòi hỏi chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu và vận dụng trong giai đoạn hiện nay.

Trước yêu cầu mới của công tác khoa học quân sự, các cơ quan khoa học quân sự và các nhà khoa học cần tiếp tục tập trung nghiên cứu, bổ sung phát triển hệ thống lý luận về nghệ thuật quân sự Việt Nam, nghệ thuật chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Qua đó, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định chủ trương, chính sách về quân sự - quốc phòng; tạo ra những sản phẩm khoa học công nghệ có tính đột phá; nghiên cứu, thiết kế, chế tạo một số sản phẩm mang tầm cỡ quốc gia và hướng tới xuất khẩu một số trang thiết bị ra thị trường quốc tế. Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện, đồng bộ cơ chế quản lý và cơ chế hoạt động khoa học; gắn chặt giữa nghiên cứu, ứng dụng kết quả nghiên cứu và sản xuất quốc phòng; phấn đấu đưa nhiều kết quả nghiên cứu vào ứng dụng trong thực tiễn, góp phần xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 

Thiếu tướng, PGS.TS. NGÔ VĂN GIAO