Quay lại

Đại tướng Lê Đức Anh: Vị tướng của những trận đánh lịch sử

Đại tướng Lê Đức Anh là 1 trong 8 người thuộc Bộ tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước cách đây 44 năm.
 

Theo tin từ Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã từ trần vào hồi 20h10, ngày 22/4 tại nhà công vụ (số 5A, phố Hoàng Diệu, Hà Nội).

Đại tướng Lê Đức Anh, một vị tướng gắn liền với những bước ngoặt lịch sử và chiến thắng của dân tộc. 

Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Ảnh Ngọc Thắng/Thanh Niên

Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh. Bộ tư lệnh chiến dịch ngày ấy gồm 8 người, gồm: Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh (lúc đó ông là Trung tướng, Phó Tư lệnh).

Đại tướng Văn Tiến Dũng (Tư lệnh chiến dịch); Chính ủy Phạm Hùng; cùng các Phó Tư lệnh gồm: Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê Trọng Tấn, Trung tướng Đinh Đức Thiện; Phó Chính ủy/Trung tướng Lê Quang Hòa và quyền Tham mưu trưởng/Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền.

Lực lượng trực tiếp tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử gồm 5 quân đoàn, với trên dưới 15 sư đoàn. Các quân đoàn 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232 có đủ các binh chủng hợp thành; cùng các lực lượng bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ và lực lượng nổi dậy của quần chúng ở nông thôn cũng như thành thị.

Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh một trong số ít người đã trải qua các cuộc chiến tranh từ năm 1945 - 1989, có mặt ở những điểm nóng nhất và trở về trong chiến thắng. Ảnh nguồn tư liệu

Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh xác định: phải đánh nhanh, quyết liệt, không cho địch co cụm về Sài Gòn; đồng thời, không để cho quân địch ở Sài Gòn chạy về miền Tây. Các cánh quân phải tổ chức các mũi thọc sâu, mũi đánh vòng ngoài kết hợp giữa chủ lực với bộ đội địa phương và kết hợp giữa bộ đội với quần chúng nhân dân, đột phá liên tục, dồn dập cho đến toàn thắng.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Trung tướng Lê Đức Anh ngoài vai trò Phó Tư lệnh còn được giao đảm trách chỉ huy và lãnh đạo trực tiếp cánh quân tiến công trên hướng Tây - Tây Nam Sài Gòn (đoàn 232), một trong năm cánh quân của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

Đoàn 232 gồm các sư đoàn 3, 5 và 9; bốn trung đoàn độc lập, một trung đoàn đặc công có 3 nhiệm vụ: chia cắt hai lực lượng Sài Gòn và miền Đông với lực lượng ở đồng bằng sông Cửu Long; tấn công Biệt khu Thủ đô và tấn công Tổng nha cảnh sát, sau đó hợp điểm tại Dinh Độc Lập.

Đúng 17 giờ ngày 26/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Các đơn vị hướng Tây - Tây Nam tiến công. Sư đoàn 5 cắt đoạn Bến Lức tới Tân An. Sư đoàn 8 cắt lộ 4 từ Mỹ Tho tới bờ sông Tiền. Sư đoàn 3 đánh chiếm khu vực An Ninh - Lộc Giang, vượt sông Vàm Cỏ. Sư đoàn 9 vượt sông Vàm Cỏ tập kết tại Cầu Bông, Mỹ Thạnh, Đức Hòa.

Ngày 30/4, cánh quân hướng Tây - Tây Nam đã đánh chiếm Biệt khu Thủ đô, Bộ Tư lệnh cảnh sát quốc gia, Tổng nha cảnh sát, cảnh sát đô thành, các quận Tân Bình, Bình Chánh, hợp điểm tại Dinh Độc Lập.

Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, từ nay đất nước thống nhất, non sông liền một dải.

Trong hồi ký của Đại tướng Lê Đức Anh ông viết: “Thắng lợi trọn vẹn của chúng ta có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân to lớn nhất, cơ bản nhất, gốc rễ nhất là tư tưởng “Nhân ái”. Tư tưởng “nhân nghĩa” của thời đại Hồ Chí Minh là bắt nguồn truyền thống chí nhân chí nghĩa của dân tộc, như Nguyễn Trãi từng viết trong “Đại Cáo Bình Ngô”: “Lấy chính nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”.

Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh (phải) và đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ảnh tư liệu

Theo các nhà nghiên cứu sử học, Đại tướng Lê Đức Anh thực sự là một tướng trận. Ông là một trong số ít người đã trải qua các cuộc chiến tranh và xung đột từ năm 1945 - 1989. Ông có mặt ở những điểm nóng nhất và trở về trong chiến thắng: tham gia 9 năm kháng chiến chống Pháp, đi chiến trường miền Nam 11 năm (1964 - 1975), chỉ huy chiến trường Campuchia 7 năm (1979 - 1986), ổn định tình hình biên giới phía Bắc (1986 - 1989).

Ông trực tiếp tham gia những trận đánh, những sự kiện mang tính bước ngoặt của chiến tranh: Mậu Thân 1968, chống lấn chiếm 1973, Phước Long 1974, chiến dịch Hồ Chí Minh, chiến dịch giải phóng Campuchia; chấm dứt xung đột biên giới với Trung Quốc; bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc: Ngày 6/11/1987 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra mệnh lệnh số 1679/ML-QP về việc bảo vệ quần đảo Trường Sa; ngày 29/3/1989 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra mệnh lệnh số 167/ML-QP về đóng giữ, bảo vệ khu vực biển thềm lục địa, bãi đá ngầm (khu DK1).

 

Hoàng Lâm - Sức Khỏe Cộng Đồng