Quay lại

Đại tướng Lê Đức Anh và ký ức tháng Tư lịch sử

Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Đại tướng Lê Đức Anh (1-12-1920 / 1-12-2020), nguyên Chủ tịch nước, những ngày này, tôi lại nhớ về ông, vị lãnh đạo cuối cùng của Chiến dịch Hồ Chí Minh vừa mới đi xa, nhớ câu chuyện ông kể về những ngày tháng Tư năm 1975 lịch sử.

Sau Chiến dịch đường 14-Phước Long, Trung ương Cục thông qua bước 2 kế hoạch mùa khô 1974-1975, trong đó chỉ thị giải phóng cho được đại bộ phận nông thôn đồng bằng, mở thông hành lang từ Tây Ninh xuống các Quân khu 8, 9, chia cắt tuyến đường số 4 nối Sài Gòn với Đồng bằng sông Cửu Long.

Thực hiện chỉ thị trên, một đơn vị chủ lực có quy mô cấp quân đoàn là Đoàn 232 được thành lập. Đầu tháng 4-1975, phát triển thành Binh đoàn cánh Tây Nam, tổng quân số khoảng 42.000 người. Trung tướng Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ làm tư lệnh, Thiếu tướng Lê Văn Tưởng làm chính ủy.

Bộ tư lệnh Miền nhận định hướng Tây-Tây Nam là nơi khó nhất vì sình lầy, nhưng là hướng tiến công rất quan trọng vì nhất định ta phải nhanh chóng chia cắt quân địch trên tuyến đường số 4 để địch không thể co cụm xuống cố thủ ở Tây Đô. Trong tình huống địch co cụm được về đó thì phức tạp, và “trận đánh cuối cùng” của ta sẽ không “thuận buồm xuôi gió”. Ngược lại, nếu chia cắt được đường số 4 thì quân đoàn 4 của địch và quân địch ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ không thể kéo về ứng cứu cho Sài Gòn.

Đại tướng Lê Đức Anh và ký ức tháng Tư lịch sử
Đại tướng Lê Đức Anh. Ảnh: Báo Nhân dân.

Chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh, Đoàn 232 được giao nhiệm vụ cắt đường số 4, chia cắt Sài Gòn và miền Tây Nam Bộ, thọc sâu đánh chiếm bộ tư lệnh biệt khu thủ đô, cầu Nhị Thiên Đường, tổng nha cảnh sát, các quận 5, 6, 7, 8, 10, 11. Ngoài ra, còn đánh chiếm các tỉnh lỵ Long An, Kiến Tường; chốt chặn đường số 4 không cho địch rút về Đồng bằng sông Cửu Long.

Đại tướng Lê Đức Anh lúc sinh thời kể lại: "Khi nhận nhiệm vụ cùng tôi chỉ huy cánh quân hướng Tây-Tây Nam đánh vào Sài Gòn, anh Lê Văn Tưởng rất phấn khởi vì ở “thời điểm lịch sử” lại được cấp trên giao nhiệm vụ đúng với ước nguyện của mình là “trận cuối cùng được trực tiếp về tham gia giải phóng quê hương”. Nhận nhiệm vụ xong, anh về trước chuẩn bị. Tôi ở lại họp Bộ chỉ huy chiến dịch, đến ngày 17-4-1975 thì xuống Long An chính thức “cầm quân” ở hướng này.

Trên hướng Tây-Tây Nam, việc chia cắt địch tại đường số 4 là điểm rất khó khăn. Tôi giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 5 tổ chức một trung đoàn đánh Thủ Thừa, hai trung đoàn đánh thị xã Tân An. Sư đoàn 5 phải làm tốt nhiệm vụ cắt đường số 4, sau đó phát triển vào thành phố, chiếm Phú Lâm. Sư đoàn 8 cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích Khu 8 đánh chiếm Mỹ Tho và đoạn Cái Bè, kiên quyết không cho địch từ Sài Gòn co cụm ở sở chỉ huy vùng 4 chiến thuật tại Cần Thơ. Còn một mũi tiến công nữa cũng rất khó, đó là Cần Giuộc, Nhà Bè, vì vùng này ngập nước, nhiều sình lầy. Lực lượng trên mũi này phải nhờ những xuồng nhỏ của dân để vận động, cả quãng đường dài tiến công là hệ thống đồn bốt giặc dày đặc, đi tới đâu phải gỡ đồn bốt tới đó...

Việc hóc búa nhất đối với hướng Tây-Tây Nam là vấn đề công binh bảo đảm vượt sông cho các đơn vị tiến quân vào nội đô. Đoàn 232 được Bộ chỉ huy chiến dịch tăng cường thêm lực lượng bộ binh, pháo và cao xạ, cả pháo hạng nặng 130mm, có đến một trung đoàn xe tăng và thiết giáp, trong đó một phần ba là xe tăng T54. Tất cả xe, pháo các loại gần 800 chiếc. Thế mà lâu nay Miền chỉ có một phần hai bộ cầu phà nặng. Bộ chỉ huy chiến dịch đã xin Trung ương cho thêm nửa bộ nữa nhưng chưa vào. Tất cả các hướng khác lực lượng công binh cũng thiếu. Bộ chỉ huy chiến dịch dự tính đơn vị cầu phà nào tới nơi sẽ đưa ngay cho Đoàn 232 vì các đơn vị của Đoàn 232 phải dựa vào lực lượng hiện có và huy động phương tiện tại chỗ mà vượt sông Vàm Cỏ Đông.

Đoàn 232 vượt sông Vàm Cỏ Đông trước khi chiến đấu nên phải giữ bí mật, tiến hành vượt sông ban đêm và chiếm lĩnh tuyến xuất phát tấn công cũng vào ban đêm trong một khu vực địch còn kiểm soát. Sông Vàm Cỏ Đông ở những đoạn này cả hai bên đều sình lầy. Cán bộ Đoàn 232 cùng cán bộ các địa phương lân cận vận động nhân dân chặt và bó hàng nghìn bó cây, phân tán cất giấu nhiều nơi. Mọi việc đều thực hiện rất tốt và đặc biệt là địch không hề biết.

Trước ngày 20-4-1975, cánh quân hướng Tây-Tây Nam đã vào vị trí tập kết. Đoàn 232 đã áp sát tuyến sông Vàm Cỏ Đông và Hậu Nghĩa. Sư đoàn 5 và Sư đoàn 8 đã áp sát đường số 4 từ Tân An đến Cai Lậy, áp sát Mỹ Tho. Hai trung đoàn bộ binh đã tập kết ở Cần Đước và Cần Giuộc sát phía nam quận 8 Sài Gòn... Cánh quân hướng Tây-Tây Nam đã cài thế chuẩn bị sẵn sàng tổng công kích. Ngày 25-4, mọi công tác chuẩn bị của ta đã hoàn thành.

Đúng 17 giờ ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Các đơn vị hướng Tây-Tây Nam chúng tôi đồng loạt tiến công. Đến 3 giờ sáng ngày 27-4, Sư đoàn 5 đã cắt được đoạn từ Bến Lức tới Tân An. Sư đoàn 8 cùng quân và dân Tiền Giang thực hiện đánh cắt đường số 4 từ Mỹ Tho đến bờ sông Tiền. Sư đoàn 3 đánh chiếm khu vực An Ninh-Lộc Giang, tổ chức vượt sông Vàm Cỏ, áp sát địch để bảo đảm cho Sư đoàn 9 cùng binh khí kỹ thuật qua sông. Sư đoàn 9 vượt sông Vàm Cỏ Đông vào vị trí tập kết tại Cầu Bông, Mỹ Thạnh, Đức Hòa. Các Trung đoàn 24 và 88 bám sát vào nội đô phía nam Sài Gòn.

Khi xe tăng, thiết giáp của ta vượt qua sông Vàm Cỏ thì trời đổ mưa, đoạn thuộc huyện Đức Huệ sình lầy xe không đi được. Nhân dân vác những bó cây và dỡ nhà mình ra lót đường cho xe tăng và pháo ta vượt qua. Lúc đó, tôi nói một số đồng chí trở lại giúp dân làm lại nhà, dù người dân không hề đòi hỏi. Sau này, anh Nguyễn Minh Châu, Tham mưu trưởng Miền đã chỉ huy bộ đội làm lại hầu hết nhà cho dân.

Sáng ngày 30-4, Sư đoàn 9 tiến thẳng vào nội đô. Trung đoàn 1 sau khi đánh tan một tiểu đoàn dù địch ở ngã ba Bà Quẹo, đánh chiếm phân chi khu Vĩnh Lộc, tiến vào ngã tư Bảy Hiền, đập tan sự kháng cự của địch ở đây và phát triển theo đường Lê Văn Duyệt, đánh chiếm biệt khu thủ đô. Trung đoàn 3 tiến công tiêu diệt sở chỉ huy liên đoàn 8 và tiểu đoàn biệt động quân 88 của địch trên tuyến vành đai Đại Hàn; tiếp đó đánh tan tiểu đoàn bảo an 327 ở nam Vĩnh Lộc, tiến công chốt của tiểu đoàn bảo an 317, diệt chi khu Bà Hom, đánh chiếm trường đua Phú Thọ và phái một bộ phận sang hợp điểm ở Dinh Độc Lập.

Một mũi tiến công do 3 đồng chí Tư Thân, Ba Thạnh và Tư Chiểu chỉ huy đánh vào tổng nha cảnh sát và cảnh sát đô thành. Khoảng 9 giờ sáng, bộ đội đã làm chủ toàn bộ các vị trí và cho một mũi vào Dinh Độc Lập, còn một mũi phát triển ra cảng hải quân, đánh căn cứ tư lệnh hải quân địch. Mũi phát triển vào tới Dinh Độc Lập thì hợp điểm với mũi thọc sâu của Quân đoàn 2. Ở thời khắc lịch sử trưa ngày 30-4, tại Dinh Độc Lập có mặt 3 mũi cùng tiến công vào từ hai hướng: Hướng đông là mũi của Quân đoàn 2, hướng tây-tây nam là một mũi của Sư đoàn 9 và một mũi của đồng chí Tư Thân (Đoàn 232)...".

Không chỉ là vị Tư lệnh của binh đoàn cánh Tây Nam trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, lúc sinh thời, Đại tướng Lê Đức Anh được ghi nhận là nhà quân sự lớn, là vị tướng của nhiều trận đánh lớn, là “vị tướng luôn trở về trong chiến thắng”. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng định: “Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta”. Một điều rất đặc biệt với vị Tư lệnh cánh quân phía Tây Nam, ông là một trong hai người, cùng với Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn, được phong vượt cấp từ đại tá lên trung tướng.

Đại tướng Lê Đức Anh không chỉ là chứng nhân mà còn là một yếu nhân đã tham gia vào các sự kiện quan trọng của cách mạng và đất nước trong hơn 50 năm của nửa cuối thế kỷ 20 và hai thập niên đầu thế kỷ 21; đặc biệt là người góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc, giải phóng miền Nam vào những ngày tháng Tư năm 1975 lịch sử.

 

Đại tá, TS NGUYỄN THÀNH HỮU