Quay lại

Đại tướng Lê Đức Anh - Người cộng sản kiên cường, nhà quân sự xuất sắc

Đại tướng Lê Đức Anh - nguyên Chủ tịch nước, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, giờ đã đi xa, nhưng ông là một con người hết lòng vì sự nghiệp cách mạng, một vị chỉ huy tài ba mưu lược được nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ngưỡng mộ. Ông sinh năm 1920 trên quê hương Thừa Thiên - Huế và tham gia cách mạng năm 1937, gia nhập Đảng năm 1938. Gần trọn cuộc đời gắn bó với sự nghiệp cách mạng, với Đảng, với quân đội, Đại tướng Lê Đức Anh đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc với bạn bè và nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ, nhân dân cả nước.

Thư viện Đại tướng Lê Đức Anh, Lê Đức Anh
Chủ tịch nước Lê Đức Anh thăm Công ty Xi-măng Bỉm Sơn (Thanh Hóa), ngày 29-12-1994. Ảnh: CAO PHONG (TTXVN)

Nói đến ông là nói tới một con người có ý chí cao, giàu nghị lực và bản lĩnh. Sinh ra và lớn lên trên quê hương giàu truyền thống đấu tranh cách mạng, ông sớm thấu hiểu nỗi đau nô lệ, nỗi nhục mất nước của nhân dân ta dưới ách thống trị thực dân phong kiến và giác ngộ tham gia cách mạng từ rất sớm, năm 17 tuổi. Từ tháng 8-1945 đến 1948, ông gia nhập quân đội, giữ các chức vụ từ trung đội trưởng đến chính trị viên tiểu đoàn, Chi đội 1 và Trung đoàn 301. Trên cương vị là một cán bộ chỉ huy, ông luôn thể hiện bản lĩnh, sự năng động và linh hoạt của tuổi trẻ, đã cùng với tập thể ban chỉ huy vạch ra phương hướng hoạt động cho đơn vị sát đúng, kịp thời trong bối cảnh tình thế đất nước ta “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong, giặc ngoài. Phía bắc có quân Tưởng chống phá, phía nam có quân Pháp với sự giúp sức của thực dân Anh quyết tâm xâm lược nước ta một lần nữa. Sau Ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, thực dân Pháp tiến quân lên Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não và đè bẹp ý chí kháng chiến của quân và dân ta…

Với tài năng quân sự thiên bẩm của mình, từ tháng 10-1948 đến năm 1950, ông lần lượt được giao đảm trách cương vị Tham mưu trưởng các Khu 7, Khu 8 và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn là những chiến trường chống thực dân Pháp cam go quyết liệt nhất ngay từ những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến. Trên cương vị, chức trách là Tham mưu trưởng, ông chủ động tham mưu và trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch, trận đánh mang lại hiệu suất cao, góp phần căng kéo, phân tán, tiêu hao, tiêu diệt một khối binh lực lớn quân đội viễn chinh Pháp trên chiến trường ba nước Đông Dương. Tài năng quân sự của ông ngày càng sáng tỏ theo thời gian và được thực tế chiến trường kiểm nghiệm. Từ năm 1951 đến 1954, ông được đề bạt giữ cương vị và trọng trách cao hơn Tham mưu phó, rồi quyền Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Chiến trường Nam Bộ những năm 1951 - 1954 dưới sự chỉ huy của ông và tập thể Bộ Tư lệnh đã thật sự trở thành một chiến trường đầy sôi động, chia lửa đắc lực cho chiến trường chính Bắc Bộ với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi lẫy lừng năm châu chấn động địa cầu, góp phần đưa sự nghiệp chống thực dân Pháp của quân và dân ta toàn thắng.

Sau ngày Hiệp định Genève, ông tập kết ra bắc, với kinh nghiệm trận mạc và kiến thức sâu rộng về tổ chức lực lượng vũ trang, từ tháng 5-1955 đến năm 1963, ông được bổ nhiệm giữ chức Cục phó Cục Tác chiến, rồi Cục trưởng Cục Quân lực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ tháng 8-1963 đến đầu năm 1964, ông được bổ nhiệm làm Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trên các cương vị mới này, ông tận tâm, tận lực với công việc mới mẻ và có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang theo hướng chính quy hiện đại những năm miền bắc hòa bình (1954 - 1964). Từ kết quả một quân đội tương đối chính quy, gồm nhiều quân binh chủng, sư đoàn, trung đoàn được trang bị thống nhất hiện đại vào cuối năm 1964 đặt trong bối cảnh năm 1954, đất nước vừa ra khỏi 9 năm trường kỳ chống Pháp, quân đội chỉ đơn thuần là bộ binh, vũ khí trang bị lại thiếu thốn và lạc hậu mới thấy hết một phần công lao đóng góp của các thế hệ cán bộ giai đoạn 1954 - 1964, trong đó có đồng chí Lê Đức Anh làm công tác tổ chức lực lượng, tác chiến ở Bộ Tổng Tham mưu.

Đầu năm 1964 đến năm 1968, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn quyết liệt nhất, là người giàu kinh nghiệm trên chiến trường miền nam, ông được Đảng cử quay lại chiến trường lãnh đạo, chỉ đạo phong trào đấu tranh với bí danh Sáu Nam, giữ chức Tham mưu trưởng, rồi Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Miền Nam. Ở cương vị mới, ông cùng với các đồng chí trong Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền lãnh đạo, chỉ huy quân và dân miền nam xây dựng, củng cố vững chắc niềm tin dám đánh, dám thắng Mỹ; góp phần vào đánh bại các cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966, 1966-1967 và đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 giành thắng lợi bước ngoặt, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền bắc, ngồi vào bàn đàm phán, từng bước rút quân.

Tuy nhiên, sau năm 1968, chiến trường miền nam trở nên khốc liệt hơn trước sự đánh phá ác liệt của Mỹ - Thiệu, lực lượng vũ trang và cơ sở cách mạng ta bị tổn thất lớn, trước yêu cầu khôi phục, củng cố và phát triển phong trào cách mạng Tây Nam Bộ, ông được Đảng điều về làm Tư lệnh Quân khu 9 từ năm 1969 đến năm 1974. Dưới sự chỉ huy của ông và tập thể Bộ Tư lệnh, thực lực cách mạng Tây Nam Bộ từng bước được khôi phục và phát triển, hệ thống căn cứ địa được củng cố; lực lượng vũ trang quân khu phối hợp chặt chẽ với các lực lượng khác kiên cường trụ bám địa bàn, đánh địch chia lửa chiến trường cùng quân và dân cả nước. Một tiêu biểu nổi trội về tài năng, bản lĩnh của ông đã được lịch sử ghi nhận là trên cương vị Tư lệnh Quân khu 9 dám hạ quyết tâm chỉ đạo quân và dân quân khu kiên quyết giáng trả kịp thời các hành động nống, lấn của địch sau Hiệp nghị Paris giành thắng lợi trong bối cảnh chiến trường toàn miền ngưng chiến, củng cố vững chắc cho quyết tâm, phương pháp bạo lực cách mạng của Đảng tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 21 khóa III. Chính bởi thành tích này, ông được phong vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng.

Cuối năm 1974 đến năm 1975, trước yêu cầu của sự nghiệp giải phóng miền nam, với tài năng quân sự của mình, ông được Đảng điều trở lại làm Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam (Đoàn 232) đánh vào Sài Gòn. Miền nam được giải phóng hoàn toàn, Sài Gòn giữ được gần như nguyên vẹn, sự nghiệp chống Mỹ của dân tộc ta giành toàn thắng đã phần nào ghi nhận những công lao của mỗi người Việt Nam yêu nước, trong đó có tên tuổi của ông.

Sau ngày Tổ quốc thống nhất, từ tháng 5-1976 đến năm 1985, trước yêu cầu ổn định, củng cố, phát triển các quân khu Nam Bộ và ứng phó với hoạt động chống phá của các lực lượng phản động Pôn Pốt, ông lại được Đảng lần lượt cử giữ chức Tư lệnh Quân khu 9, rồi Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Chỉ huy trưởng Cơ quan tiền phương Bộ Quốc phòng tại Mặt trận Tây Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh quân tình nguyện, Phó Trưởng ban, rồi Trưởng ban lãnh đạo chuyên gia Việt Nam tại Campuchia. Trên những cương vị mới, ông cùng với tập thể lãnh đạo, chỉ huy ổn định vững chắc tình hình các quân khu 7, 9; tổ chức sử dụng lực lượng hợp lý, chỉ huy kiên quyết giáng trả những hành động gây chiến của bọn phản động Pôn Pốt, tiến lên phối hợp chặt chẽ với các lực lượng của Bộ, của bạn đánh đổ hoàn toàn chế độ độc tài Pôn Pốt bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.

Từ tháng 12-1986 đến năm 1991, ông được cử giữ chức Tổng Tham mưu trưởng, sau đó là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ở cương vị mới này, ông đã có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng - an ninh của quốc gia những năm đầu đất nước bước vào sự nghiệp đổi mới đầy những khó khăn thách thức. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia được bảo đảm, quốc phòng - an ninh được củng cố tương đối vững chắc, thành tựu đổi mới của đất nước đạt được những thành tựu quan trọng đã khẳng định công lao, đóng góp to lớn của các thế hệ lãnh đạo tiền bối giai đoạn này đối với dân tộc trong đó không thể không nhắc và kể tới ông.

Năm 1992, ông được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam bầu vào chức vụ Chủ tịch nước. Ông từng là Ủy viên T.Ư khóa IV đến khóa VIII, Ủy viên Bộ Chính trị từ khóa V đến khóa VIII.

Bởi nỗ lực và những đóng góp của ông trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt về quân sự của dân tộc, đồng chí Lê Đức Anh được phong hàm Đại tá năm 1958, quân hàm Trung tướng năm 1974, hàm Thượng tướng năm 1980, Đại tướng năm 1984 và đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều huân huy chương, phần thưởng cao quý. Trải qua 82 năm, từ buổi đầu tiên tham gia cách mạng đến khi về cõi vĩnh hằng, Đại tướng Lê Đức Anh đã kinh qua nhiều cương vị công tác, nhưng dù ở đâu và trong bất cứ hoàn cảnh nào ông luôn thể hiện đức hy sinh, lòng dũng cảm, trí thông minh; luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc và quân đội lên trên hết; toàn tâm cống hiến cho Đảng, cho dân tộc; giữ trọn danh hiệu cao quý của người Cộng sản, luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Đại tướng Lê Đức Anh mãi mãi xứng đáng là người cộng sản kiên cường, nhà quân sự xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam.
 

TS Nguyễn Văn Quyền